Trung Hoc Tran Quy Cap HoiAn
  • HOME
  • HOI NGO 2020
  • TAN NIEN 2024
  • TAN NIEN 2023
  • TAN NIEN 2022
  • TRANG TIN 2022
  • TRANG TIN 2019-2021
  • DAC SAN HN 2017 - Phần 1
  • DAC SAN HN 2017 PHẦN 2
  • TRANG TIN VUI
  • PHAN UU 2023-2024
  • PHÂN ƯU 2024-2025
  • KHOÁ 14 HQ NHA TRANG
  • PHAN UU 2020
  • PHAN UU 2021 -2022
  • TAN NIEN 2019
  • HOI NGO 2017 - KY NIEM 65 Nam Thanh Lap TQC
  • CGS,CHS.TQC - WA
  • CHS.TQC.HA San Jose
  • CO TRAN ( HOI AN XUA)
  • CO TRAN PHAN 2.
  • PHAN UU 2018
  • PHAN UU 2016
  • TRUONG MUC CGS & CHS.TQC.HA
  • TUONG TRO 2016...
  • LIST CGS & CHS. TQC
  • TRANG THO CGS & CHS.TQC.HA
  • HOI NGO 2014 CHS.TQC.HA
  • TUONG TRO
  • CGS,CHS.TQC - CANADA
  • TIN BUON 2015
  • TIN BUON 2013-2014
  • MOT THOI TQC 1952....1975
  • Hình Ảnh CGS.CHS.TQC. sau 1975......đến nay
  • TIENG HAT CHS.TQC
  • DIEN DAN 2014-2018
  • DIEN DAN 2013
  • Tuong Niem TQC
  • ANH SINH HOAT
  • HTML-HTML
  • Dr. PHAM VAN LUU
  • NoiKetLink
  • THI ĐÀN CHS. CANADA - BẮC MỸ
  • CGS,CHS.TQC - Australia
  • TuongNiem CGS,CHS.TQC Da Hy Sinh Vi Ly Tuong
  • GS HUYNH NHAM
  • GS. HUYNH NHAM - NHAC LY
  • CGS.NGUYEN NGOC RAO
  • TRUONG DUY CUONG
  • DO XUAN TRUC
  • DU MY 2014-2015
  • DOAN NGOC NAM III -2015
  • DOAN NGOC NAM II -2014
  • DOAN NGOC NAM
  • DIEU MINH
  • HA PHUNG
  • HOANG LOC
  • HUYNH MONG XUYEN
  • LE DINH KIP
  • LKC - XUONG HOA
  • LE PHI DIEU
  • LE KHOA CU
  • MAC PHI HOANG
  • NGUYEN ANH KHIEM
  • NGUYEN DINH TRI
  • NGUYEN NGOC LANG
  • NNL - CHÍNH LUẬN
  • NNL - THIEN
  • NNL - DUONG THI
  • NNL - DOI CANH
  • NGUYEN QUOC HUNG
  • NGUYEN T HUY
  • NG. THI HUONG
  • PHAM PHU MINH
  • PHAM THANH CHAU
  • PHAM XUAN DUNG
  • PHAM X DUNG - BIEN KHAO
  • PHAN LY LONG (AUS)
  • TIN BUON & PHAN UU 2016
  • PHUNG M TIEN
  • QUOCANH & LIENHOA
  • SUU TAM
  • THAI TU HAP
  • TRAN HUYNH MINH
  • TRAN NGOC HANH - VIDEO
  • TRAN NGOC HANH
  • TRAN THI QUE (AUS)
  • TRAN TOAN (AUS)
  • TRAN TRUNG DAO
  • TRAN VAN LAN CHAU
  • VIEN TRAN
  • VO H THANH
  • VU D PHUNG - BIEN KHAO
  • VUONG MONG LONG
  • VUONG TRUNG DUONG
  • LINK DE XEM
  • Untitled
  • Blog
  • New Page
  • New Page
  • PHAN UU 2021
  • New Page
Picture

Muc Luc
1/
2/
3/

CHUYỆN  CŨ  KỂ  LẠI

Picture
Trần Huỳnh Mính
(CHS/TQC 1955-1960)
(CGS/TQC 1969-1972)
(CHT/TQC 1973-1975)





Ngày xưa, khi tôi còn dạy học, tôi thường tìm tòi trong các sách báo, nếu có chuyện nào hay và có ý nghĩa, thì tôi để dành kể cho học trò nghe sau những giờ Toán, Lý, Hóa khô khan và mệt trí. Nay không có gì để góp vào Ðặc San Kỷ Niệm 60 Năm ngày thành lập trường Trần Quý Cáp, tôi xin kể lại, để Quý vị “lão cựu học sinh” “mua vui cũng được một vài trống canh”.
1.- Một Phát Minh Tột Ðỉnh:
Năm đó, vào cuối thế kỷ 21, loài người đã tiến bộ vượt bực. Mọi tiện nghi đều tối tân: Việc đi lại, không cần dùng xe, máy bay, tàu thủy v.v... mà chỉ cần vào phòng máy, bấm nút, máy sẽ phân tích thành những điện tử rồi chuyển đi theo tốc độ ánh sáng; sau đó, các điện tử sẽ tụ lại thành người và người đó sẽ từ phòng máy nơi đến, bước ra. Ngoài phố, người ta chỉ thấy toàn là tài tử, giai nhân vì ngành thẩm mỹ có thể sửa thành khuôn mặt của các nữ minh tinh quá khứ và hiện tại trên thế giới.
Ðó chỉ là vài thí dụ chứ thật ra có vô số phát minh vì số nhà bác học trên thế giới lúc đó nhiều vô số kể.
Trong một gia đình kia, cha là một bác học, đang dạy tại trường Ðại Học Khoa Học mà học trò của ông có nhiều người đã trở thành bác học, góp nhiều phát minh cho thế giới. Riêng ông trước đây cũng có nhiều phát minh tân kỳ. Nhưng từ hơn một năm nay, ông không có phát minh nào cả!
Các con ông thấy ông thường miệt mài trong phòng kín và không nói gì khi các con ông, nhất là các cô ái nữ hay chê ông là chậm chạp, thua sút giới trẻ v.v...
Một hôm, vợ ông, cũng là một giáo sư khoa học, chịu không nỗi, mới hỏi ông tại sao vậy? Ông mỉm cười rồi nói, tôi đang thí nghiệm một cái máy vượt hẳn các máy hiện đại, có lẽ sắp thành công.
Mấy tuần sau, ông cho mời các nhà bác học quanh vùng đến nhà ông để xem cái máy mà ông vừa phát minh. Công chúng biết chuyện cũng đến xem rất đông. Các con ông thì rất vui và hãnh diện vì cha mình sẽ có một phát minh tột đỉnh!
Khi mọi người tề tựu đông đủ, ông nói: khoa học đã đưa loài người chúng ta gần đến tột đỉnh của tiện nghi và sung sướng. Nhưng theo tôi vẫn chưa phải là tột đỉnh vì chúng ta còn phải ăn uống phiền phức, còn phải đau buồn khi gặp chuyện chẳng lành như khi người thân qua đời hay mất mát đồ quý v.v... Cái máy của tôi sẽ sẽ đạt được điều đó: chúng ta sẽ không cần mất thì giờ chế biến thức ăn; sẽ không đau buồn; cuộc sống luôn luôn vui vẻ dù bên ngoài có chuyện gì chăng nữa v.v...
Rồi ông ra đứng giữa vườn; bốn phía có bốn cái máy do ông phát minh. Ông ra lệnh mở máy: đèn bật sáng, chiếu thẳng vào người ông. Mọi người thấy ông trở nên đỏ, vàng rồi xanh. Ông cao dần, hai tay vươn dài, còn chân thì cũng dài ra và lún sâu xuống đất. Khoảng một giờ sau, người ta thấy ông biến thành cái cây!
Vợ con ông hốt hoảng, kêu khóc, chạy đến ôm ông, nay đã trở thành cây cổ thụ, nhưng ông vẫn vui vẻ, cành lá phất phơ theo làn gió.
Từ đó ông không cần ăn uống vì các chân ông đã biến thành rễ cây, tự lấy chất bổ từ đất; tay ông đã biến thành cành lá, hấp thụ ánh nắng mặt trrời để sinh tồn v.v... Ông không cần những tiện nghi phiền phức của con người; cũng không hề đau buồn vì chuyện thế thái nhân tình! Cái phát minh tột đỉnh của ông đã đem con người trở về thuở ban đầu mà tạo hóa đã ban cho loài người lúc bắt đầu có trái đất.
Trước đây, thi sĩ Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu có lẽ cũng có ý tưởng như nhà bác học nọ nên mới có mấy câu thơ sau đây:
 
      Ngồi buồn mà trách ông xanh
      Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười!
      Kiếp sau xin chớ làm người
      Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
     Giữa trời vách đá cheo leo
     Ai mà chịu rét thì trèo với thông!
 
2.- Chơi trăng
Ngày xưa, có ông vua Tàu sinh được một nàng công chúa rất xinh đẹp. Vua và hoàng hậu rất cưng chiều. Khi còn bé được bảy tuổi, cô thường ra vườn thượng uyển xem hoa. Một hôm, vào ngày rằm, trăng sáng vằng vặc, cô bé bỗng có ý muốn đem trăng xuống chơi với mình. Cô nói ý muốn ấy với vua cha và hoàng hậu. Nhà vua rất chiều con vì công chúa là đứa con gái duy nhất của vua và hoàng hậu.
Vua bèn triệu tập các quan và hỏi ai có thể đem trăng về cho công chúa chơi? Một vị võ tướng nói:
   
- Dễ thôi! Trăng thường lặn vào vào dãy núi phía tây. Tôi sẽ đem một đội kỵ binh, chạy về dãy núi đó, chờ trăng lặn, sẽ bắt lấy và đem về cho công chúa.
Chiều hôm sau, vua và hoàng hậu cùng công chúa và triều thần, chờ đón đoàn quân mang trăng về. Nhưng khi hoàng hôn xuống, công chúa vẫn thấy trăng mọc ở phía đông và lên dần trên bầu trời! Còn vị tướng quân thì thất thểu trở về chịu tội với nhà vua!
Công chúa nũng nịu với vua và hoàng hậu:
  - Con xin có một cái trăng mà hoàng thượng và mẫu hậu không cho.
Nói xong, cô bỏ vào phòng nằm khóc.
Vua lại hỏi ý kiến triều thần. Một vị quan khác nói:
   
- Bây giờ nên dùng thật nhiều trống lớn, đem lên trường thành, chờ trăng lên cao, cùng đánh trống thật to. Trăng sẽ lung lay và rớt xuống.
Ông quan nói tiếp:
   
- Ngày xưa đã có câu:
     
“Trống trường thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây”
Hôm sau vua cho thực hiện lời vị quan nọ. Công chúa lên thành chờ trăng rụng. Nhưng trống đánh vang trời mà trăng vẫn nhởn nhơ trên không trung. Vua và hoàng hậu thất vọng, còn công chúa thì khóc sướt mướt!
Vua lại triệu tập triều thần. Một quan thi sĩ nói:
   
- Tôi có kế này, chắc sẽ thành công.
Vua hỏi kế gì?
Ông quan thi sĩ nói: 
   
- Nhà vua hãy truyền tất cả thi sĩ trong kinh đô đến vườn thượng uyển, chờ trăng lên thì làm thơ ca ngợi trăng, rồi ngâm to để mời trăng xuống chơi. Khi trăng xuống, ta sẽ cho phục binh bắt lấy cho công chúa.
Tối hôm ấy, vua lại cho thực hiện theo lời ông quan thi sĩ nọ, nhưng rồi trăng chẳng thèm xuống chơi.
Lần này công chúa vô cùng thất vọng. Cô bé bỏ ăn, nằm liệt trong phòng. Vua và hoàng hậu vô cùng thương xót nhưng chẳng biết làm sao để dỗ dành công chúa. Vua treo bảng cầu hiền và hứa thưởng thật hậu cho ai có thể đem trăng về cho công chúa.
Trong kinh thành có một tiệm kim hoàn, ông chủ tiệm có một cậu con trai mười tuổi, rất khôi ngô. Một hôm, cậu bé bảo cha vào triều xin vua cho cậu bé đem trăng về cho công chúa. Ông chủ tiệm la cậu bé là không được đùa với cái chết vì ông nghĩ cậu bé nói đùa với vua là mang tội khi quân, sẽ bị chém đầu! Nhưng cậu bé nói với cha là bảo đảm làm được để cứu công chúa. Ông chủ tiệm không biết làm sao, đành dẫn cậu bé vào triều.
Vua và hoàng hậu thấy cậu còn bé quá, không tin tưởng, nhưng vẫn cho cậu bé vào gặp công chúa. Công chúa hỏi trăng đâu? Cậu bé liền mở bọc lấy ra một vật hình tròn bằng vàng óng ánh, có sợi dây đeo rất đẹp. Công chua hớn hở cầm lấy, rồi đeo vào cổ. Công chúa nói:
   
- Các quan đều thua cậu bé nầy.
Rồi công chúa bảo đem cơm đến cho công chúa ăn. Cô bé cười nói, nhảy nhót rất vui vẻ. Vua và hoàng hậu rất mừng. Nhưng khi hoàng hôn xuống, nhà vua lại suy nghĩ và bắt đầu lo lắng vì ông biết đó là trăng giả và như thế khi trời tối, trăng vẫn sẽ mọc và như vậy, không biết công chúa sẽ thất vọng đến đâu!
Trời vừa tắt nắng, công chúa đòi ra vườn thượng uyển chơi. Vua và hoàng hậu cùng triều thần vô cùng lo sợ. Công chúa ngồi nhìn về phương đông. Khi trăng lên, mọi người thấy công chúa vẫn bình thường, không thất vọng kêu khóc như mọi khi. Lúc ấy vua và hoàng hậu mới hỏi công chúa:
  
 - Thằng bé đã đem trăng về cho con rồi, sao nay nó vẫn còn trên bầu trời?
Công chua thản nhiên đáp:
   
- Thằng bé đem trăng về cho con chơi thì ông trời lại đẻ ra cái khác chớ sao.
Ở đời, khi gặp khó khăn, nhiều khi không cần tìm ở đâu xa và phức tạp mà chỉ cần đơn giản và dễ làm vẫn có thể giải quyết được!
3.- Cô Giáo Dạy Triết
Năm ấy tại một trường trung học đệ nhị cấp thuộc vùng Cao Nguyên, có mở lớp 12. Trường bèn xin Bộ Quốc Gia giáo Dục bổ dụng một giáo sư tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm ban Triết hoặc có bằng Cử Nhân Triết học về dạy.
Ðầu niên khóa một nữ giáo sư khá đẹp mới đậu bằng Cử Nhân Triết được bổ về. Ông HiệuTrưởng, Giáo sư và cả học sinh đều rất vui mừng vì có người dạy, vừa có thêm một bông hoa biết nói, tô điểm thêm tươi mát cho ngôi trường tỉnh lẻ nầy.
Sau mấy ngày quen nhau, nhiều giáo sư độc thân tìm cách làm thân, tặng hoa, tặng quà, khi có dịp. Các sĩ quan bên Tiểu Khu và Trung Ðoàn đóng quân gần đó, cũng mon men tán tỉnh. Cô rất vui nhưng nhã nhặn từ chối. Cô nói với các nữ giáo sư cùng trường:
  
- Mấy thằng Ðại Học Sư Phạm thì đã có vợ, còn các giáo sư đệ nhất cấp thì yếu quá! Còn các sĩ quan thì phải từ Thiếu Tá trở lên và phải có bằng Ðại học thì mới đạt “tiêu chuẩn”.
Dần dà tin đồn cô giáo kiêu căng, hợm mình loan truyền cả thành phố. Các chàng trai trẻ không dám làm quen nữa. Cô giáo trở nên cô đơn và buồn bã.
Nghỉ hè năm đó, cô về thăm bà ngoại ở miền Hậu Giang. Bà đã già, có một cái quán tre, bán vài đồ tạp hóa tại một thị trấn nhỏ. Cô giáo thường ra ngồi bán với bà ngoại cho vui. Nhiều người hỏi cô ở đâu về và làm nghề gì? Cô nói ở Sài Gòn về và làm thợ may trong chợ.
Tại thị trấn đó, nhiều thanh niên biết tin, thường lân la đến mua đồ và tán tỉnh. Cô cười vui vẻ và đối đáp rất nhã nhặn, làm nhiều chàng hy vọng. Trong số đó có một anh Trung Sĩ, Trưởng một đồn nhỏ của thị trấn. Ngày nào anh cũng đến mua đồ, lâu dần hai người trở nên thân nhau. Những lúc rảnh rỗi, anh thường mời cô đi chơi đó đây trong vùng. Khi thì ra ngoài đầm xem nông dân làm ruộng, khi thì ra sông xem ngư phủ đánh cá v.v...
Cô ở chơi tại đó mấy tháng hè. Hết hè cô trở lại trường với nét mặt vui tươi, yêu đời chứ không trầm tư, buồn bã như lúc trước. Mấy cô giáo sư hỏi có gì mà vui tươi vậy? Cô nói, đã làm đám hỏi và tết nầy sẽ làm đám cưới. Mấy cô giáo sư ấy hỏi dồn: chồng bạn là ai? Bác sĩ hay kỹ sư? Cô thản nhiên trả lời: là một Trung Sĩ Ðịa Phương Quân.
Tin đồn cô giáo dạy triết lấy chồng Trung Sĩ loan truyền trong trường và ra cả thành phố. Nhiều người rất thắc mắc, không hiểu tại sao như vậy! Mấy cậu giáo sư độc thân rất muốn hỏi cô nhưng không dám, mới nhờ ông Hiệu Trưởng già. Một hôm, sau giờ họp hội đồng giáo sư, ông dặn cô ở lại để ông hỏi chút việc. Ông nói:
   
- Tôi biết có nhiều giáo sư trong trường và các sĩ quan bên Trung Ðoàn rất thích cô, nhưng cô đều từ chối. Không hiểu sao cô lại nhận lời một anh Trung Sĩ?
Cô nói:
  
- Trước đây, tôi cứ tưởng mình có Cử Nhân và dạy đến lớp 12 là cao lắm; mấy ông giáo sư và sĩ quan còn độc thân mà ông nói tới đó, chỉ có bằng tú tài, như vậychỉ đáng là học trò của tôi thôi, do đó tôi không chọn vì muốn cao hơn. Nhưng qua ba tháng hè tại Hậu Giang, tôi quen với anh Trung Sĩ ấy. Trong những dịp đi chơi với nhau, tôi hỏi cái gì, anh cũng biết. Ngoài ra anh rất xốc vác, giải quyết những việc khó khăn rất dễ dàng và nhanh chóng. Lúc ấy tôi mới nhận thấy rằng, anh ấy hơn tôi rất nhiều mặt, còn tôi chỉ hơn anh cái triết học xa vời, không thực tế thôi. Vì vậy tôi chọn anh ấy.
4.- Thử tài (Chuyện thật)
Năm ấy, vua Việt Nam cử ông Mạc Ðĩnh Chi làm Trưởng Ðoàn, đi sứ sang Tàu. Ðến Tàu, gặp lúc công chúa vừa mới mất. Triều đình làm đám tang cho công chúa, có vua và các đại thần tham dự.
Khi cử hành lễ tang, vị quan Trưởng Ban Tổ Chức mới nhờ ông Mạc Ðỉnh Chi đọc bài văn tế. Ông Mạc Ðĩnh Chi quỳ trước bàn thờ công chúa, mở bài văn tế mà vị quan nọ vừa đưa cho ông. Khi ông mở tờ giấy thì chỉ thấy có một chữ Nhất (-). Vua Tàu và các quan chăm chú nhìn ông để xem ông phải làm gì với bài văn tế chỉ có một chữ Nhất (-) ấy, mục đích để thử tài ông và có thể làm nhục sứ thần Việt Nam nếu ông không xoay xở được.
Ông Mạc Ðĩnh Chi ung dung đứng dậy, đi vài bước rồi đọc:
     
Thanh thiên Nhất đóa vân
Hồng lô Nhất điểm tuyết
Thượng uyển Nhất chi hoa
Giao trì Nhất bóng nguyệt.
Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!
 
Dịch nôm:
     
Trời xanh Một đám mây
Lò hồng Một điểm tuyết
Vườn uyển Một cành hoa
Ðầm giao Một bòng nguyệt
Ôi! mây tan, tuyết rã, hoa rụng, trăng mờ!
Ý nói: Công chúa cái gì cũng Nhất, nhưng than ôi, nay không còn nữa!
Ngoại truyện: (có thể không thật)
Các quan Tàu rất khâm phục tài của ông Mạc Ðĩnh Chi. Nhiều vị biết xem tướng, thấy ông rất xấu, không có tướng mạo gì biểu lộ các tài như vậy nên rất thắc mắc. Sau đó, các vị quan đó mới rình xem lúc ông đi đại tiện thì mới vỡ lẽ: ông có ẩn tướng, đó là ông đi ra cục phân vuông!
                                                            California 20/2/2012
                                                      TRẦN HUỲNH MÍNH