Kính thưa Quý Thầy Cô,Quý Cựu Học Sinh TQC, Quý Đồng Huơng Hội An, Quảng Đà.
Niềm nhớ Quê không rời trên bước đường viễn xứ mãi mãi là tâm tư của người dân xứ Quảng trong cuộc sống tha hương. Đó cũng là chất keo nối kết giữa các CGS, CHS/TQC, đồng hương Hội an, đồng hương Quảng Đà mọi nơi trên toàn thế giới. Đặc biệt, Miền Nam Cali, với thủ đô tỵ nạn của người Việt tại Hoa Kỳ, có thể nói là nơi thể hiện và duy trì sự nối kết nầy một cách tích cực và tốt đẹp. Trong tinh thần đó và đồng thời để thiết lập một diễn đàn riêng cho Hội CHSTHTQC/HA Nam California, nên dù với kinh nghiệm còn non kém, tôi đã cố gắng thực hiện trang WEB này.
Cám ơn và chào mừng Quý Thầy Cô, Cựu HS Trần Quý Cáp cùng các thân hữu đã viếng thăm trang nhà, tham gia Diễn Đàn, cùng viết về những đặc trưng của Trường Trần Quý Cáp, về Hội An, Xứ Quảng trên mọi lãnh vưc.
"Thay Lời Tựa"
Niềm nhớ Quê không rời trên bước đường viễn xứ mãi mãi là tâm tư của người dân xứ Quảng trong cuộc sống tha hương. Đó cũng là chất keo nối kết giữa các CGS, CHS/TQC, đồng hương Hội an, đồng hương Quảng Đà mọi nơi trên toàn thế giới. Đặc biệt, Miền Nam Cali, với thủ đô tỵ nạn của người Việt tại Hoa Kỳ, có thể nói là nơi thể hiện và duy trì sự nối kết nầy một cách tích cực và tốt đẹp. Trong tinh thần đó và đồng thời để thiết lập một diễn đàn riêng cho Hội CHSTHTQC/HA Nam California, nên dù với kinh nghiệm còn non kém, tôi đã cố gắng thực hiện trang WEB này.
Cám ơn và chào mừng Quý Thầy Cô, Cựu HS Trần Quý Cáp cùng các thân hữu đã viếng thăm trang nhà, tham gia Diễn Đàn, cùng viết về những đặc trưng của Trường Trần Quý Cáp, về Hội An, Xứ Quảng trên mọi lãnh vưc.
"Thay Lời Tựa"
Diễn Đàn 2013
41. Tại sao người Việt chúng ta phải dùng lịch Tàu
Gần đây nghe nhiều người trong cũng như ngoài nước thắc mắc và bàn tán “Vì sao dân Việt nam lại ăn Tết theo lịch Tàu? Ngoài ra còn dùng lịch Tàu để khai trương, cưới hỏi, cúng giỗ, xây nhà ..v.v. Vậy có phải dân Việt Nam tụi bây là gốc Tàu không?” Nghe mà thấy “nhột” và “bực”. “Nhột” bởi vì ngẫm lại thấy họ nói đúng, mình sử dụng lịch Tàu, nên các ngày lễ đều y chang như Tàu như tết cổ truyền, tết Trung Thu, tết Thanh minh, ..v.v. Và hệ quả tiếp theo là các phong tục, tập quán, văn hóa cũng bắt chước Tàu y chang như coi ngày, coi tuổi, cúng khai trương, coi xuất hành, múa lân, hát bội, lì xì, viết thư pháp, thậm chí nhiều người nghiện phim Tàu, phim Hồng Kong. “Bực” bởi vì lịch sử dân tộc cho thấy Tàu luôn là kẻ thù của chúng ta, đã xâm chiếm và đô hộ Việt nam ta cả ngàn năm, và hiện nay lúc nào cũng lăm le chiếm đất biển của ta (và các nước khác) nếu có cơ hội; vậy mà Việt nam vẫn còn dùng lịch của kẻ thù dân tộc. “Bực” bởi vì dương lịch quá ưu việt, tiện dụng, và chính xác so với âm lịch, và được nhiều nước trên thế giới sử dụng, vậy mà ta không theo, đi xài theo lịch Tàu. Tìm kiếm trên Google thì thấy rằng chỉ còn vài nước theo lịch Tàu như Mông Cổ, Hàn Quốc, và Việt Nam. Nhiều người phản biện rằng, dân Việt ta theo âm lịch (lunar calendar), chứ đâu phải lịch Tàu (Chinese calendar). Thật ra, không phải vậy, chúng ta theo lịch Tàu chứ không phải âm lịch thuần túy! LịchTàu không hoàn toàn là âm lịch, mà là âm-dương-lịch, vì dựa trên sự kết hợp của mặt trăng và mặt trời. Chu kỳ mặt trăng là khoảng 29,5 ngày. Để "đuổi kịp" với lịch mặt trời (Dương lịch), cứ vài năm một lần, người Trung Quốc xưa lại bổ sung thêm một tháng. Điều này cũng giống như việc bổ sung thêm một ngày vào năm nhuận. Đó là vì sao Tết lại rơi vào các ngày khác nhau qua các năm. Phần lớn các nước đều xài dương lịch và ăn Tết theo dương lịch, hoặc ngày Tết cổ truyền riêng của họ. Thậm chí các nước Đông Nam Á xung quanh ta cũng có Tết cổ truyền riêng chứ không theo Tàu: § Tết Cambodia (gọi là Tết Choi ChơnămThmay, diễn ra ngày 13-16 tháng 4 dương lịch). § Tết Lào (gọi là Tết Bungumay diễn ra ngày 13-16 tháng 4 dương lịch). § Tết Thái Lan (gọi là Tết Songkran, diễn ra ngày 13-16 tháng 4 dương lịch). § Tết Nhật Bản (đã chuyển từ Tết âm lịch sang Tết dương lịch từ năm 1873) Thật ra lý do chính là do Việt nam ta bị Tàu đô hộ và đồng hóa cả ngàn năm, nên cũng khó tránh khỏi những phụ thuộc nầy. Tuy nhiên nước ta đã giành được độc lập khỏi Tàu lâu rồi (hơn cả ngàn năm nay), nên không có lý do gì ta lại phải dùng lịch Tàu, và bắt chước những tập quán của kẻ thù dân tộc nữa. Điều nầy có thể khó thực hiện khi mà lớp thế hệ cũ vẫn còn, và bản thân chúng ta còn bảo thủ. Tuy nhiên nếu chúng ta ‘không đi thì sẽ không bao giờ tới’; vì thế nên chăng, chúng ta nên bắt đầu chuyển sang dùng dương lịch cho văn minh và từ bỏ được những tập quán hủ lậu của Tàu, đồng thời cũng khẳng định sự độc lập và khác biệt giữa Việt nam với Tàu. Tôi thấy điều nầy dễ thực hiện cho gia đình Việt ở nước ngoài, nơi mà chỉ dùng hoàn toàn dương lịch. Còn đối với người dân trong nước, nếu quan tâm và đồng lòng thay đổi, tôi nghĩ chúng ta sẽ thay đổi được. Riêng gia đình tôi nhất định sẽ chuyển sang dương lịch từ năm nay 2014. Tôi có “mất gốc” không? Vâng, có thể, nhưng những cái “gốc Tàu” nầy, có mất tôi cũng chẳng thiết tha gì! Tôi trân trọng nguồn gốc Việt, nhưng nhất quyết sẽ đoạn tuyệt và chấp nhận mất “gốc Tàu”.
Bảo TrầnMD, ngày 22/01/2014
Gần đây nghe nhiều người trong cũng như ngoài nước thắc mắc và bàn tán “Vì sao dân Việt nam lại ăn Tết theo lịch Tàu? Ngoài ra còn dùng lịch Tàu để khai trương, cưới hỏi, cúng giỗ, xây nhà ..v.v. Vậy có phải dân Việt Nam tụi bây là gốc Tàu không?” Nghe mà thấy “nhột” và “bực”. “Nhột” bởi vì ngẫm lại thấy họ nói đúng, mình sử dụng lịch Tàu, nên các ngày lễ đều y chang như Tàu như tết cổ truyền, tết Trung Thu, tết Thanh minh, ..v.v. Và hệ quả tiếp theo là các phong tục, tập quán, văn hóa cũng bắt chước Tàu y chang như coi ngày, coi tuổi, cúng khai trương, coi xuất hành, múa lân, hát bội, lì xì, viết thư pháp, thậm chí nhiều người nghiện phim Tàu, phim Hồng Kong. “Bực” bởi vì lịch sử dân tộc cho thấy Tàu luôn là kẻ thù của chúng ta, đã xâm chiếm và đô hộ Việt nam ta cả ngàn năm, và hiện nay lúc nào cũng lăm le chiếm đất biển của ta (và các nước khác) nếu có cơ hội; vậy mà Việt nam vẫn còn dùng lịch của kẻ thù dân tộc. “Bực” bởi vì dương lịch quá ưu việt, tiện dụng, và chính xác so với âm lịch, và được nhiều nước trên thế giới sử dụng, vậy mà ta không theo, đi xài theo lịch Tàu. Tìm kiếm trên Google thì thấy rằng chỉ còn vài nước theo lịch Tàu như Mông Cổ, Hàn Quốc, và Việt Nam. Nhiều người phản biện rằng, dân Việt ta theo âm lịch (lunar calendar), chứ đâu phải lịch Tàu (Chinese calendar). Thật ra, không phải vậy, chúng ta theo lịch Tàu chứ không phải âm lịch thuần túy! LịchTàu không hoàn toàn là âm lịch, mà là âm-dương-lịch, vì dựa trên sự kết hợp của mặt trăng và mặt trời. Chu kỳ mặt trăng là khoảng 29,5 ngày. Để "đuổi kịp" với lịch mặt trời (Dương lịch), cứ vài năm một lần, người Trung Quốc xưa lại bổ sung thêm một tháng. Điều này cũng giống như việc bổ sung thêm một ngày vào năm nhuận. Đó là vì sao Tết lại rơi vào các ngày khác nhau qua các năm. Phần lớn các nước đều xài dương lịch và ăn Tết theo dương lịch, hoặc ngày Tết cổ truyền riêng của họ. Thậm chí các nước Đông Nam Á xung quanh ta cũng có Tết cổ truyền riêng chứ không theo Tàu: § Tết Cambodia (gọi là Tết Choi ChơnămThmay, diễn ra ngày 13-16 tháng 4 dương lịch). § Tết Lào (gọi là Tết Bungumay diễn ra ngày 13-16 tháng 4 dương lịch). § Tết Thái Lan (gọi là Tết Songkran, diễn ra ngày 13-16 tháng 4 dương lịch). § Tết Nhật Bản (đã chuyển từ Tết âm lịch sang Tết dương lịch từ năm 1873) Thật ra lý do chính là do Việt nam ta bị Tàu đô hộ và đồng hóa cả ngàn năm, nên cũng khó tránh khỏi những phụ thuộc nầy. Tuy nhiên nước ta đã giành được độc lập khỏi Tàu lâu rồi (hơn cả ngàn năm nay), nên không có lý do gì ta lại phải dùng lịch Tàu, và bắt chước những tập quán của kẻ thù dân tộc nữa. Điều nầy có thể khó thực hiện khi mà lớp thế hệ cũ vẫn còn, và bản thân chúng ta còn bảo thủ. Tuy nhiên nếu chúng ta ‘không đi thì sẽ không bao giờ tới’; vì thế nên chăng, chúng ta nên bắt đầu chuyển sang dùng dương lịch cho văn minh và từ bỏ được những tập quán hủ lậu của Tàu, đồng thời cũng khẳng định sự độc lập và khác biệt giữa Việt nam với Tàu. Tôi thấy điều nầy dễ thực hiện cho gia đình Việt ở nước ngoài, nơi mà chỉ dùng hoàn toàn dương lịch. Còn đối với người dân trong nước, nếu quan tâm và đồng lòng thay đổi, tôi nghĩ chúng ta sẽ thay đổi được. Riêng gia đình tôi nhất định sẽ chuyển sang dương lịch từ năm nay 2014. Tôi có “mất gốc” không? Vâng, có thể, nhưng những cái “gốc Tàu” nầy, có mất tôi cũng chẳng thiết tha gì! Tôi trân trọng nguồn gốc Việt, nhưng nhất quyết sẽ đoạn tuyệt và chấp nhận mất “gốc Tàu”.
Bảo TrầnMD, ngày 22/01/2014
40 Nelson Mandela và bi kịch của Việt Nam
Saturday, December 07, 2013 2:16:03 PM
Saturday, December 07, 2013 2:16:03 PM
Song Chi/Người Việt
Nelson Mandela, cựu tổng thống da màu đầu tiên của Nam Phi, biểu tượng của phong trào đấu tranh chống phân biệt chủng tộc đã qua đời ngày 5 tháng 12, 2013 ở tuổi 95. Biết là thừa khi viết thêm những lời ca ngợi về con người vĩ đại, được yêu mến, kính trọng, ngưỡng mộ không chỉ bởi người dân Nam Phi, mà khắp nơi trên thế giới này. Nelson Mandela vĩ đại không chỉ vì sự hy sinh của ông cho lý tưởng về một xã hội hòa bình-tự do-dân chủ-bình đẳng, hy sinh cho đất nước, dân tộc, theo đúng tinh thần của một trong những câu ông từng nói: “Real leaders must be ready to sacrifice all for the freedom of their people.” (“Những nhà lãnh đạo thực sự phải sẵn sàng hy sinh tất cả cho tự do của dân tộc họ”).
Lãnh tụ Nelson Mandela đã không chọn cách trả thù những người từng cầm tù mình. (Hình: Getty Images) Nelson Mandela vĩ đại không chỉ vì tầm hiểu biết, trí tuệ, tư duy chiến lược của một chính trị gia lỗi lạc hay nhân cách đạo đức của ông, mà còn vì tư tưởng nhân ái, sự khoan dung của ông đối với những kẻ đã bắt giam và đày đọa ông suốt 27 năm. Sau khi ra khỏi tù, làm tổng thống, có quyền lực trong tay, ông đã không dùng quyền lực để trả thù, để tiếp tục thực hiện một chế độ phân biệt đối xử trở lại đối với những người da trắng ở Nam Phi, như họ đã từng áp dụng trên đất nước ông suốt bao nhiêu năm. Ông đã chọn con đường tha thứ và hòa giải. Một trong những câu nói nổi tiếng khác của Nelson Mandela là: “As I walked out the door toward the gate that would lead to my freedom, I knew if I didn't leave my bitterness and hatred behind, I'd still be in prison.” (“Khi tôi bước ra khỏi cánh cửa về phía dẫn đến tự do, tôi biết rằng nếu không để lại cay đắng và hận thù phía sau, tôi vẫn sẽ còn ở trong tù”). Những con người thật sự vĩ đại trên thế giới, như Nelson Mandela, Dalai Lama, Martin Luther King Junior, Mahatma Gandhi... đều là những người có tinh thần khoan dung, đều chọn một con đường đấu tranh ít tốn hao xương máu nhất cho nhân dân họ. Bởi vì họ đều đặt lợi ích của đất nước và hạnh phúc của người dân lên trên tất cả. Chiều sâu của tri thức, tầm hiểu biết cộng với tinh thần tôn giáo hoặc sự chiêm nghiệm về triết học trong mỗi con người ấy đã khiến họ lựa chọn đường đi, lựa chọn cách hành xử như vậy. Dường như người ta cũng đang phần nào nhìn thấy điều đó trong nữ chính trị gia, lãnh tụ phe đối lập của Myanmar, Aung San Suu Kyi, và kể cả trong tổng thống đương nhiệm Thein Sein khi họ đã chọn con đường ngồi lại với nhau, đối thoại, cùng hợp tác vì tương lai đất nước. Và bà Aung San Suu Kyi đã từng nhiều lần nói đến sự tha thứ, hòa giải, không trả thù. Tương tự, cả hai đều là những trí thức, có tư tưởng và có tinh thần Phật giáo soi sáng. Nhìn lại bi kịch của đất nước, của dân tộc Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho tới hiện tại chính là từ sự du nhập triết học Mác Lênin, chủ nghĩa cộng sản, và sự thắng thế dẫn đến cầm quyền tuyệt đối của đảng cộng sản. Ngay từ đầu, những người cộng sản đã chọn con đường bạo lực cách mạng để lật đổ chính quyền, triệt hạ tất cả các đảng phái đối lập. Từ tư tưởng cho đến mục tiêu chiến đấu suốt bao nhiêu năm của họ là phải dành chiến thắng, bất kể cái giá máu xương quá đắt phải trả. Còn trong xã hội, sự phân chia giai cấp, tư tưởng đấu tranh giai cấp đã gây ra biết bao nhiêu bi kịch từ Nhân Văn Giai Phẩm, Cải Cách Ruộng Ðất... ở miền Bắc cho tới cải tạo tư sản, tư thương... ở miền Nam sau này. Sau khi giành được chiến thắng, những người cộng sản đã cư xử cực kỳ tàn ác với những người ở phe thua cuộc và cả đồng bào miền Nam. Hàng trăm ngàn dân quân cán chính VNCH bị lùa đi học tập cải tạo, thực chất là đi tù năm, mười năm và hơn nữa, trong đó rất nhiều người đã mãi mãi nằm lại nơi những trại giam khác nhau, hàng triệu gia đình bị mất đi người chồng, người cha là nơi nương tựa. Những người dân không phải đi học tập cải tạo thì tiếp tục khốn khổ với sự phân biệt đối xử, chủ nghĩa lý lịch... Ðảng cộng sản tiếp tục đem nguyên mô hình xây dựng XHCN ở ngoài Bắc vào áp dụng trong Nam, làm sụp đổ cả nền kinh tế, xáo trộn cả xã hội với hàng loạt những đợt cải tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp, mô hình hợp tác xã, chính sách lùa dân đi kinh tế mới... Dẫn đến việc hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, làm nên những cuộc vượt biển kinh hoàng với thảm cảnh của những thuyền nhân (Boat people) rúng động lương tâm cả thế giới... Sau bao nhiêu năm hoang tàn, điêu linh vì chiến tranh, xã hội lại tiếp tục bị tàn phá bởi những chính sách sai lầm, sự ngu dốt, lòng thù hận và chia rẽ. Cho đến bây giờ, gần 40 năm sau chiến tranh, nhà nước cộng sản Việt Nam đã nhanh chóng quên đi quá khứ, bắt tay với Mỹ, và còn nhanh hơn nữa, bắt tay với Trung Cộng. Trong khi đó thì họ vẫn không thể hòa giải hòa hợp với những người anh em của phe thua cuộc và với lịch sử, vẫn không hề có bất cứ một hành động nào để chứng tỏ sự hối lỗi, hối tiếc trước những sai lầm trong quá khứ hay hiện tại. Những người tù chính trị, dù thuộc lực lượng dân quân VNCH còn sót lại như ông Nguyễn Văn Trại (đã chết), Trương Văn Sương (đã chết), Bùi Ðăng Thủy (đã chết), Nguyễn Hữu Cầu đang phải tiếp tục ở tù cho đến nay là 37 năm... Hay những người hoạt động dân chủ, bất đồng chính kiến thuộc các thế hệ sau này như blogger Ðiếu Cày, blogger Công Lý và Sự Thật, Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, Thạc sĩ tin học Nguyễn Tiến Trung, Kỹ sư Trần Huỳnh Duy Thức, nhà hoạt động Ðỗ Thị Minh Hạnh, thầy giáo Ðinh Ðăng Ðịnh, Linh mục Nguyễn Văn Lý, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo Mai Thị Dung... tiếp tục là những đối tượng bị đối xử khắc nghiệt nhất, đày đọa phi nhân nhất trong tù. Không những thế, nhà nước cộng sản luôn luôn đối xử với nhân dân một cách thù địch, đầy nghi kỵ. Sau gần 40 năm, chưa bao giờ trên đất nước này mâu thuẫn xã hội giữa người nghèo, người giàu, giữa người dân và các cấp chính quyền lại sâu sắc đến thế. Bi kịch, bất công diễn ra khắp nơi. Từ thảm cảnh của những người nông dân mất đất vác đơn đi khiếu kiện ròng rã bao năm, có cả xô xát bạo lực, cả cái chết như vụ Ðoàn Văn Vươn hay Ðặng Ngọc Viết. Những cuộc biểu tình, đình công của lớp lớp công nhân bị bóc lột sức lao động đến tận cùng với đồng lương rẻ mạt. Những cái chết oan tức tưởi do sự lộng hành của đám công an côn đồ. Những vụ án oan sai thấu trời đất gây ra bởi pháp luật mù lòa v.v... Thế nhưng, tất cả nhũng lời kêu than của các tầng lớp nhân dân hay những lời góp ý, kiến nghị... của bao nhiêu nhân sĩ trí thức đã bị nhà nước này thẳng tay vứt vào sọt rác. Hiến Pháp 2013 là một bằng chứng mới nhất cho thấy rõ đảng và nhà nước cộng sản tiếp tục mù lòa, vô cảm trước những biến chuyển của thời cuộc, nhu cầu nhất thiết phải thay đổi để sống còn của đất nước và nguyện vọng của nhân dân. Ðảng Cộng sản Việt Nam đã chọn con đường cố thủ quyền lực, cương quyết không thay đổi, thậm chí đối lập với nhân dân bởi vì qua bao thế hệ cho đến tận bây giờ, trong số những người nắm quyền cao nhất vẫn là những kẻ thiếu chiều sâu kiến thức, không có tầm nhìn viễn kiến, tư duy chiến lược, cũng không có tinh thần tôn giáo hay triết học để soi sáng, ngoài... triết học Mác Lênin! Quan trọng không kém, họ chưa bao giờ biết đặt quyền lợi của tổ quốc, dân tộc lên trên quyền lợi của đảng, của phe nhóm và bản thân. Trước đây, đã từng có những giai đoạn đảng cộng sản suy trì được quyền lực nhờ vào sự ngây thơ và niềm tin của số đông người dân do bị tuyên truyền một chiều kết hợp với bạo lực. Nay niềm tin của đa số người dân đã mất đi, đảng chỉ còn lại bạo lực thuần túy. Và thay vì có một lối thoát tốt đẹp trong hòa bình, hòa hợp, hòa giải với nhân dân, thì với một chế độ tàn bạo xây dựng trên bạo lực, thù hận và sự nghi kỵ như vậy, cũng khó mà hy vọng một kết thúc êm ả, hay một đối xử khác, từ nhân dân, một khi sức chịu đựng của người dân đã hết.
Nelson Mandela, cựu tổng thống da màu đầu tiên của Nam Phi, biểu tượng của phong trào đấu tranh chống phân biệt chủng tộc đã qua đời ngày 5 tháng 12, 2013 ở tuổi 95. Biết là thừa khi viết thêm những lời ca ngợi về con người vĩ đại, được yêu mến, kính trọng, ngưỡng mộ không chỉ bởi người dân Nam Phi, mà khắp nơi trên thế giới này. Nelson Mandela vĩ đại không chỉ vì sự hy sinh của ông cho lý tưởng về một xã hội hòa bình-tự do-dân chủ-bình đẳng, hy sinh cho đất nước, dân tộc, theo đúng tinh thần của một trong những câu ông từng nói: “Real leaders must be ready to sacrifice all for the freedom of their people.” (“Những nhà lãnh đạo thực sự phải sẵn sàng hy sinh tất cả cho tự do của dân tộc họ”).
Lãnh tụ Nelson Mandela đã không chọn cách trả thù những người từng cầm tù mình. (Hình: Getty Images) Nelson Mandela vĩ đại không chỉ vì tầm hiểu biết, trí tuệ, tư duy chiến lược của một chính trị gia lỗi lạc hay nhân cách đạo đức của ông, mà còn vì tư tưởng nhân ái, sự khoan dung của ông đối với những kẻ đã bắt giam và đày đọa ông suốt 27 năm. Sau khi ra khỏi tù, làm tổng thống, có quyền lực trong tay, ông đã không dùng quyền lực để trả thù, để tiếp tục thực hiện một chế độ phân biệt đối xử trở lại đối với những người da trắng ở Nam Phi, như họ đã từng áp dụng trên đất nước ông suốt bao nhiêu năm. Ông đã chọn con đường tha thứ và hòa giải. Một trong những câu nói nổi tiếng khác của Nelson Mandela là: “As I walked out the door toward the gate that would lead to my freedom, I knew if I didn't leave my bitterness and hatred behind, I'd still be in prison.” (“Khi tôi bước ra khỏi cánh cửa về phía dẫn đến tự do, tôi biết rằng nếu không để lại cay đắng và hận thù phía sau, tôi vẫn sẽ còn ở trong tù”). Những con người thật sự vĩ đại trên thế giới, như Nelson Mandela, Dalai Lama, Martin Luther King Junior, Mahatma Gandhi... đều là những người có tinh thần khoan dung, đều chọn một con đường đấu tranh ít tốn hao xương máu nhất cho nhân dân họ. Bởi vì họ đều đặt lợi ích của đất nước và hạnh phúc của người dân lên trên tất cả. Chiều sâu của tri thức, tầm hiểu biết cộng với tinh thần tôn giáo hoặc sự chiêm nghiệm về triết học trong mỗi con người ấy đã khiến họ lựa chọn đường đi, lựa chọn cách hành xử như vậy. Dường như người ta cũng đang phần nào nhìn thấy điều đó trong nữ chính trị gia, lãnh tụ phe đối lập của Myanmar, Aung San Suu Kyi, và kể cả trong tổng thống đương nhiệm Thein Sein khi họ đã chọn con đường ngồi lại với nhau, đối thoại, cùng hợp tác vì tương lai đất nước. Và bà Aung San Suu Kyi đã từng nhiều lần nói đến sự tha thứ, hòa giải, không trả thù. Tương tự, cả hai đều là những trí thức, có tư tưởng và có tinh thần Phật giáo soi sáng. Nhìn lại bi kịch của đất nước, của dân tộc Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho tới hiện tại chính là từ sự du nhập triết học Mác Lênin, chủ nghĩa cộng sản, và sự thắng thế dẫn đến cầm quyền tuyệt đối của đảng cộng sản. Ngay từ đầu, những người cộng sản đã chọn con đường bạo lực cách mạng để lật đổ chính quyền, triệt hạ tất cả các đảng phái đối lập. Từ tư tưởng cho đến mục tiêu chiến đấu suốt bao nhiêu năm của họ là phải dành chiến thắng, bất kể cái giá máu xương quá đắt phải trả. Còn trong xã hội, sự phân chia giai cấp, tư tưởng đấu tranh giai cấp đã gây ra biết bao nhiêu bi kịch từ Nhân Văn Giai Phẩm, Cải Cách Ruộng Ðất... ở miền Bắc cho tới cải tạo tư sản, tư thương... ở miền Nam sau này. Sau khi giành được chiến thắng, những người cộng sản đã cư xử cực kỳ tàn ác với những người ở phe thua cuộc và cả đồng bào miền Nam. Hàng trăm ngàn dân quân cán chính VNCH bị lùa đi học tập cải tạo, thực chất là đi tù năm, mười năm và hơn nữa, trong đó rất nhiều người đã mãi mãi nằm lại nơi những trại giam khác nhau, hàng triệu gia đình bị mất đi người chồng, người cha là nơi nương tựa. Những người dân không phải đi học tập cải tạo thì tiếp tục khốn khổ với sự phân biệt đối xử, chủ nghĩa lý lịch... Ðảng cộng sản tiếp tục đem nguyên mô hình xây dựng XHCN ở ngoài Bắc vào áp dụng trong Nam, làm sụp đổ cả nền kinh tế, xáo trộn cả xã hội với hàng loạt những đợt cải tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp, mô hình hợp tác xã, chính sách lùa dân đi kinh tế mới... Dẫn đến việc hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, làm nên những cuộc vượt biển kinh hoàng với thảm cảnh của những thuyền nhân (Boat people) rúng động lương tâm cả thế giới... Sau bao nhiêu năm hoang tàn, điêu linh vì chiến tranh, xã hội lại tiếp tục bị tàn phá bởi những chính sách sai lầm, sự ngu dốt, lòng thù hận và chia rẽ. Cho đến bây giờ, gần 40 năm sau chiến tranh, nhà nước cộng sản Việt Nam đã nhanh chóng quên đi quá khứ, bắt tay với Mỹ, và còn nhanh hơn nữa, bắt tay với Trung Cộng. Trong khi đó thì họ vẫn không thể hòa giải hòa hợp với những người anh em của phe thua cuộc và với lịch sử, vẫn không hề có bất cứ một hành động nào để chứng tỏ sự hối lỗi, hối tiếc trước những sai lầm trong quá khứ hay hiện tại. Những người tù chính trị, dù thuộc lực lượng dân quân VNCH còn sót lại như ông Nguyễn Văn Trại (đã chết), Trương Văn Sương (đã chết), Bùi Ðăng Thủy (đã chết), Nguyễn Hữu Cầu đang phải tiếp tục ở tù cho đến nay là 37 năm... Hay những người hoạt động dân chủ, bất đồng chính kiến thuộc các thế hệ sau này như blogger Ðiếu Cày, blogger Công Lý và Sự Thật, Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, Thạc sĩ tin học Nguyễn Tiến Trung, Kỹ sư Trần Huỳnh Duy Thức, nhà hoạt động Ðỗ Thị Minh Hạnh, thầy giáo Ðinh Ðăng Ðịnh, Linh mục Nguyễn Văn Lý, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo Mai Thị Dung... tiếp tục là những đối tượng bị đối xử khắc nghiệt nhất, đày đọa phi nhân nhất trong tù. Không những thế, nhà nước cộng sản luôn luôn đối xử với nhân dân một cách thù địch, đầy nghi kỵ. Sau gần 40 năm, chưa bao giờ trên đất nước này mâu thuẫn xã hội giữa người nghèo, người giàu, giữa người dân và các cấp chính quyền lại sâu sắc đến thế. Bi kịch, bất công diễn ra khắp nơi. Từ thảm cảnh của những người nông dân mất đất vác đơn đi khiếu kiện ròng rã bao năm, có cả xô xát bạo lực, cả cái chết như vụ Ðoàn Văn Vươn hay Ðặng Ngọc Viết. Những cuộc biểu tình, đình công của lớp lớp công nhân bị bóc lột sức lao động đến tận cùng với đồng lương rẻ mạt. Những cái chết oan tức tưởi do sự lộng hành của đám công an côn đồ. Những vụ án oan sai thấu trời đất gây ra bởi pháp luật mù lòa v.v... Thế nhưng, tất cả nhũng lời kêu than của các tầng lớp nhân dân hay những lời góp ý, kiến nghị... của bao nhiêu nhân sĩ trí thức đã bị nhà nước này thẳng tay vứt vào sọt rác. Hiến Pháp 2013 là một bằng chứng mới nhất cho thấy rõ đảng và nhà nước cộng sản tiếp tục mù lòa, vô cảm trước những biến chuyển của thời cuộc, nhu cầu nhất thiết phải thay đổi để sống còn của đất nước và nguyện vọng của nhân dân. Ðảng Cộng sản Việt Nam đã chọn con đường cố thủ quyền lực, cương quyết không thay đổi, thậm chí đối lập với nhân dân bởi vì qua bao thế hệ cho đến tận bây giờ, trong số những người nắm quyền cao nhất vẫn là những kẻ thiếu chiều sâu kiến thức, không có tầm nhìn viễn kiến, tư duy chiến lược, cũng không có tinh thần tôn giáo hay triết học để soi sáng, ngoài... triết học Mác Lênin! Quan trọng không kém, họ chưa bao giờ biết đặt quyền lợi của tổ quốc, dân tộc lên trên quyền lợi của đảng, của phe nhóm và bản thân. Trước đây, đã từng có những giai đoạn đảng cộng sản suy trì được quyền lực nhờ vào sự ngây thơ và niềm tin của số đông người dân do bị tuyên truyền một chiều kết hợp với bạo lực. Nay niềm tin của đa số người dân đã mất đi, đảng chỉ còn lại bạo lực thuần túy. Và thay vì có một lối thoát tốt đẹp trong hòa bình, hòa hợp, hòa giải với nhân dân, thì với một chế độ tàn bạo xây dựng trên bạo lực, thù hận và sự nghi kỵ như vậy, cũng khó mà hy vọng một kết thúc êm ả, hay một đối xử khác, từ nhân dân, một khi sức chịu đựng của người dân đã hết.
39. 50 NĂM NGẬM NGÙI
50 năm về sau
Các Anh và tôi không còn nữa.
Cõi phù sinh tro tàn tắt lửa
Bóng tinh cầu ngơ ngác trời đêm.
Mộ phương nào còn có tiếng ru êm
Đọng trên từng ngọn cỏ ?
Lời của Mẹ đong đưa vờn theo gió
Vọng về đâu hai tiếng Nhục Vinh ?
Bước chân em, dù chung thủy – đoạn tình –
Khô ngấn lệ trên thẻ bài hoen rỉ.
50 năm ! trường chinh không toại chí
Ngọn dáo ngang tàng chưa thỏa cung mây.
Ngày hôm nay còn lại những gì đây
Trao hậu thế bao tấm lòng Trung Nghĩa.
Hàng mộ bia đất xưa thành hoang địa
Màn sương khói ngậm ngùi.
Cỏ điêu tàn màu Thương Tiếc khôn nguôi
Chiều rơi lạnh thêm mờ trang sử lạnh.
Huy chương ngời sao lấp lánh
Màu chiến thắng vinh quang.
Triển lãm giờ đây nhớ phút huy hoàng
Kèn xung trận dâng đời lên Tổ Quốc.
Hiên ngang giữa lòng Dân Tộc
Ngẩng cao đầu nối gót Cha Anh.
Nhưng đau thương đứt đoạn bước quân hành
Chung một nước lại thành dân biệt xứ.
Chốn lưu đày nơi rừng sâu núi dữ
Nuốt thay cơm bao cay đắng nhục hình.
Mang về đây từng dấu vết điêu linh
Trên thân tù cạn máu.
Lon “Guigoz”, nâng niu dường châu báu
Luộc thời gian từng lớp khói đen mờ.
Miếng nhôm mỏng mài thêm sáng nguồn mơ
Thành trâm-lược, quà yêu về tóc cũ.
Khúc tre khô bao mộng đời ấp ủ
“Điếu cày” chôn tâm sự thuở trầm luân.
Áo tù xưa hằn sâu vết gian truân
Màu xanh thẫm bạc phơ thành tang trắng.
Thân bức tử dãi dầu mưa nắng
Hận nghìn năm xuống ngựa buông cương.
Tượng đá đen thương nấm mộ ven đường
Cây súng gãy, giày “saut” bên nón sắt.
Cùng trăng sao vằng vặc
Dù sông cạn núi mòn
50 năm về sau nữa vẫn còn
Trao gửi lại tấm lòng son của Lính.
Cho mai hậu giữa cồn dâu suy thịnh
Để người sau còn nhớ đến hôm nay.
Một trang sử lưu đày
Vết chàm sâu nét mực.
Tội Ác hòa chung Bạo Lực
Dày xéo cả non sông.
Thời gian vẫn xuôi dòng
50 năm hay đến nghìn năm nữa
Hận lòng sôi núi lửa
Vẫn còn nguyên hực đỏ chẳng hề phai.
Xin trao về cho Thế Hệ Tương Lai
Để hiểu rằng : – Chúng tôi đổ máu
Suốt một đời chiến đấu
Vì Lẽ Sống : – CON NGƯỜI !. Võ Đại Tôn
Cali, 28.3.2004.
50 năm về sau
Các Anh và tôi không còn nữa.
Cõi phù sinh tro tàn tắt lửa
Bóng tinh cầu ngơ ngác trời đêm.
Mộ phương nào còn có tiếng ru êm
Đọng trên từng ngọn cỏ ?
Lời của Mẹ đong đưa vờn theo gió
Vọng về đâu hai tiếng Nhục Vinh ?
Bước chân em, dù chung thủy – đoạn tình –
Khô ngấn lệ trên thẻ bài hoen rỉ.
50 năm ! trường chinh không toại chí
Ngọn dáo ngang tàng chưa thỏa cung mây.
Ngày hôm nay còn lại những gì đây
Trao hậu thế bao tấm lòng Trung Nghĩa.
Hàng mộ bia đất xưa thành hoang địa
Màn sương khói ngậm ngùi.
Cỏ điêu tàn màu Thương Tiếc khôn nguôi
Chiều rơi lạnh thêm mờ trang sử lạnh.
Huy chương ngời sao lấp lánh
Màu chiến thắng vinh quang.
Triển lãm giờ đây nhớ phút huy hoàng
Kèn xung trận dâng đời lên Tổ Quốc.
Hiên ngang giữa lòng Dân Tộc
Ngẩng cao đầu nối gót Cha Anh.
Nhưng đau thương đứt đoạn bước quân hành
Chung một nước lại thành dân biệt xứ.
Chốn lưu đày nơi rừng sâu núi dữ
Nuốt thay cơm bao cay đắng nhục hình.
Mang về đây từng dấu vết điêu linh
Trên thân tù cạn máu.
Lon “Guigoz”, nâng niu dường châu báu
Luộc thời gian từng lớp khói đen mờ.
Miếng nhôm mỏng mài thêm sáng nguồn mơ
Thành trâm-lược, quà yêu về tóc cũ.
Khúc tre khô bao mộng đời ấp ủ
“Điếu cày” chôn tâm sự thuở trầm luân.
Áo tù xưa hằn sâu vết gian truân
Màu xanh thẫm bạc phơ thành tang trắng.
Thân bức tử dãi dầu mưa nắng
Hận nghìn năm xuống ngựa buông cương.
Tượng đá đen thương nấm mộ ven đường
Cây súng gãy, giày “saut” bên nón sắt.
Cùng trăng sao vằng vặc
Dù sông cạn núi mòn
50 năm về sau nữa vẫn còn
Trao gửi lại tấm lòng son của Lính.
Cho mai hậu giữa cồn dâu suy thịnh
Để người sau còn nhớ đến hôm nay.
Một trang sử lưu đày
Vết chàm sâu nét mực.
Tội Ác hòa chung Bạo Lực
Dày xéo cả non sông.
Thời gian vẫn xuôi dòng
50 năm hay đến nghìn năm nữa
Hận lòng sôi núi lửa
Vẫn còn nguyên hực đỏ chẳng hề phai.
Xin trao về cho Thế Hệ Tương Lai
Để hiểu rằng : – Chúng tôi đổ máu
Suốt một đời chiến đấu
Vì Lẽ Sống : – CON NGƯỜI !. Võ Đại Tôn
Cali, 28.3.2004.
38. PHILIPPINE, NIỀM ĐAU CHIA XẺ
Trần Quốc Anh
Tôi chưa một lần đặt chân lên Philippine
Chưa có duyên nợ nào với đất nước, con người nơi ấy
Vậy mà lòng quặn đau khi nhìn thấy
Cảnh hoang tàn, đổ nát đêm qua
Từ Ormoc, Tocloban đến những hải đảo thật xa
Vạn người chết, triệu người không nhà cửa
Philippine, năm xưa tôi vẫn nhớ,
Người mở rộng vòng tay đón tiếp đồng bào tôi
Những con người đói khát tả tơi
Bao ngày tháng lênh đênh trên biển cả
Lòng nhân ái của Người vượt trên tất cả
Đất nước còn nghèo mà oằn vai gánh chúng tôi
Có hay không, trên cao đó, ông trời?
Sao cứ gieo tai ương
cho đất nước, con người giàu nhân ái đó
Đất nước tôi với Người có chung chí cả
Ngăn kẻ thù cướp lấy biển đảo ta
Nên người ngã đau, tôi thấy xót xa
người gian khó, lòng tôi nhức nhối
Hãy vươn lên và tiến tới
Khó khăn nầy rồi sẽ qua đi
Cố gắng lên, vượt mọi khó nguy
Bên các anh, có chúng tôi, có loài người nhân ái
California, Nov.2013
Trần Quốc Anh
Tôi chưa một lần đặt chân lên Philippine
Chưa có duyên nợ nào với đất nước, con người nơi ấy
Vậy mà lòng quặn đau khi nhìn thấy
Cảnh hoang tàn, đổ nát đêm qua
Từ Ormoc, Tocloban đến những hải đảo thật xa
Vạn người chết, triệu người không nhà cửa
Philippine, năm xưa tôi vẫn nhớ,
Người mở rộng vòng tay đón tiếp đồng bào tôi
Những con người đói khát tả tơi
Bao ngày tháng lênh đênh trên biển cả
Lòng nhân ái của Người vượt trên tất cả
Đất nước còn nghèo mà oằn vai gánh chúng tôi
Có hay không, trên cao đó, ông trời?
Sao cứ gieo tai ương
cho đất nước, con người giàu nhân ái đó
Đất nước tôi với Người có chung chí cả
Ngăn kẻ thù cướp lấy biển đảo ta
Nên người ngã đau, tôi thấy xót xa
người gian khó, lòng tôi nhức nhối
Hãy vươn lên và tiến tới
Khó khăn nầy rồi sẽ qua đi
Cố gắng lên, vượt mọi khó nguy
Bên các anh, có chúng tôi, có loài người nhân ái
California, Nov.2013
37. Vài Suy Nghĩ Về Ông Giáp
Huỳnh Thục Vy
Vị tướng được những người cộng sản xem là “khai quốc công thần” cuối cùng đã trở thành người thiên cổ vào ngày 4 tháng 10 vừa qua. Vậy là, biểu tượng sống về công lao “giành độc lập” và lý tưởng “cách mạng”, tượng đài hữu danh vô thực về một thời “hào hùng” của những người cộng sản đã trở về với cát bụi.
Ông ta đã thực sự rời bỏ cuộc chơi, đã từ giã cõi nhân sinh điên đảo này. Không ai biết ông sẽ đi về đâu nhưng ông đã để lại di sản đầy đau đớn và nhiễu nhương, để lại cho tất cả chúng ta một Việt Nam với tiếng ai oán khắp nơi. Thôi thì cũng cầu chúc ông ra đi trong thanh thản, dù ông đã lặng thinh một cách vô cảm trước biết bao người đã ra đi một cách bi thương khác.
Là người đã có công khai sinh ra một Việt Nam cộng sản, thiết nghĩ không cần bàn đến chuyện ông có lý tưởng hay không lý tưởng và sự cần thiết hay không của những cuộc chiến tranh vô nghĩa mà ông đã đóng vai trò lãnh đạo quân sự tối cao, ông phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về sự im lặng của mình trước những trang lịch sử bất công, gian trá và đau thương mà người Việt Nam đã trải qua.
Không ít người ca ngợi ông là một trí thức lớn, là nhà văn hoá. Tôi không muốn bàn những chuyện ấy nữa vì đã có nhiều tài liệu lịch sử có sẵn cho việc tìm hiểu, nghiên cứu về ông Giáp. Chỉ xin hỏi: Ông đã làm gì khi luật sư Nguyễn Mạnh Tường kêu gọi dân chủ pháp trị để rồi sau đó bị thất sủng? Nếu là một trí thức lớn thực sự, lẽ ra ông phải biết dân chủ pháp trị cần cho một quốc gia như thế nào trước cả cụ Tường bởi thực tế cho thấy chủ nghĩa cộng sản đã tàn phá quốc gia như thế nào? Nếu không nhận ra khiếm khuyết của một chế độ độc tài cộng sản, ông có xứng đáng với danh xưng một đại trí thức? Và cứ cho là ông không biết gì về độc tài- dân chủ nhưng khi luật sư Tường lên tiếng về xã hội dân chủ, ông không có động tĩnh gì, đó có phải là biểu hiện của một nhân cách lớn?
Lại nữa, ông đã ở đâu, đã làm gì khi những Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Hữu Loan bị đấu tố, bị đọa đày? Ông có chút tủi nhục, cảm thương hay phẫn nộ nào không khi hàng triệu người miền Nam bỏ nước ra đi trong tức tưởi khi Việt Nam Cộng Hoà bị cưỡng chiếm để rồi hàng trăm nghìn người trong số họ đã vùi thân ngoài biển cả? Ông nghĩ gì khi tướng Trần Độ đã dũng cảm lên tiếng rồi bị đàn áp? Ông đã làm gì khi cụ Hoàng Minh Chính đã tỏ thái độ đối kháng để rồi bị bỏ tù? Ông đã đứng bên lề bao biến cố đau thương của đất nước. Đó có phải là vị trí xứng đáng của một trí thức hay không?
Dù họ là ai, một người vừa mới qua đời nên được cầu nguyện cho sự ra đi bình an. Tôi đã rất phân vân khi viết những dòng này. Có nên viết những lời cay đắng cho một người chết không? Có nên kể tội họ khi họ đã mãi mãi không còn khả năng biện bạch? Nhưng quả tình, tôi không viết những dòng này nhắm vào tướng Giáp, tôi viết cho những người còn sống, cho những người còn bị ám thị bởi cái ảo ảnh hào quang mà những người cộng sản đã tạo ra. Đa số thanh niên Việt Nam hiện nay sống trong sự lừa gạt đó mà không biết, và cũng không có ý chí vượt thoát ra.
Ông Giáp, vị “đại tướng quân” trong mắt nhiều thanh niên Việt Nam, là người góp công to lớn để tạo dựng và bảo vệ chế độ độc tài tàn bạo này. Ông đã sống quá xa cái tuổi “cổ lai hy” và ra đi trong tình thương yêu của gia tộc, trong sự ngưỡng vọng của nhiều người. Nhưng ông có biết đâu, một người có công gây dựng nên một tập đoàn tội ác như ông lại ra đi thanh thản và vinh quang, trong khi chính những nạn nhân vô tội của chế độ thì lại hứng chịu thảm trạng bi đát của gia đình để rồi phải ra đi trong uất ức, tủi nhục.
Đó chính là một Đặng Ngọc Viết hiền lành, siêng năng bị chính quyền cướp đất, phẫn uất cùng cực đến mức phải ra tay giết chết một quan chức tỉnh Thái Bình rồi tự sát bằng một viên đạn vào tim. Đó là một Thomas Nguyễn Tự Thành-một thuyền nhân bị cưỡng bách hồi hương về Việt Nam từ Thái Lan, bị sách nhiễu và phong toả kinh tế liên tục bởi chính quyền cộng sản đến nỗi uất ức quá phải tự vẫn bằng cách thắt cổ vào ngày 3 tháng 10, trước ngày ông Giáp chết một ngày. Tại sao ông lại được vinh danh khi chính ông là một phần nguyên nhân của những cái chết đau đớn ấy?
Tất nhiên, ông Giáp không còn là lãnh đạo đất nước từ lâu, các chính sách, hành động của chính quyền này ông không tham gia. Nhưng chính cái quá khứ “oai hùng” và cái hiện tại vô trách nhiệm của ông tạo nên tính chính đáng cho chế độ tàn ác này. Chế độ này vẫn lấy ông ra làm cái bệ đỡ để biện minh cho những hành động bán nước hại dân của họ. Ông là cái phao cứu sinh khi những người lãnh đạo cộng sản đối diện với sự căm phẫn của người dân vì sự tham quyền cố vị của họ. Vậy mà, không hiểu vì tuổi già làm tiêu hao ý chí, vì sự sợ hãi làm xói mòn lương tâm, hay vì danh lợi của con cháu làm tiêu tan tinh thần trách nhiệm mà cho đến những năm cuối đời ông Giáp vẫn lặng thinh trước hiện tình đất nước vật vã dưới chế độ độc tài, vẫn để cho nhà cầm quyền tiếp tục lợi dụng ông cho chế độ bất nhân của họ. (Chỉ có một lần ông lên tiếng yếu ớt cho vấn đề Boxite Tây nguyên)
Giá như ông lên tiếng cổ vũ cho Nhân quyền Tự do thì tiếng nói của ông đã tác động mạnh mẽ đến lương tâm tuổi trẻ và có thể xoay chuyển ý thức của biết bao người dân đang bị ám thị. Một ông Giáp đại tướng quân chắc chắn có khả năng thức tỉnh quần chúng, làm rúng động đảng cộng sản hơn hẳn một Lê Công Định, Phạm Hồng Sơn, Huỳnh Ngọc Tuấn, Phạm Thanh Nghiên hay Phương Uyên chứ? Thế nhưng, ông đã chọn cách sống trong sự co rút và chết trong cờ xí, kèn trống của chế độ cộng sản, hơn là cách sống trong sự phản tỉnh và chết như một chiến sĩ dân chủ. Đáng lẽ tuổi già phải là giới hạn cuối cùng của sự sợ hãi nhưng ông đã để nó đi cùng ông sang tận thế giới bên kia.
Có người nói: chúng ta không ở vị trí của ông nên không thể hiểu hết những gì ông phải đối mặt. Đúng. Chúng ta không hiểu hoàn cảnh và vị trí của ông. Nhưng chúng ta có thể hiểu được hoàn cảnh của những bạn sinh viên vì biểu tình yêu nước mà bị nhà trường đuổi học và mất cả tương lai không? Chúng ta có từng đặt mình vào vị trí Phương Uyên, cô bé sinh viên phải chịu biết bao nhiêu sợ hãi, tổn thương tinh thần khi bị bắt và giam giữ chỉ vì cô bé biểu thị lòng yêu nước? Hay như hoàn cảnh gia đình tôi, ba tôi ở tù khi chị em chúng tôi còn thơ dại và mồ côi mẹ; mười mấy năm trời gia đình tôi sống trong cảnh bần hàn, thất học và sự khủng bố của chính quyền. Hoàn cảnh của ông Giáp có ngặt nghèo hơn hoàn cảnh của những người kể trên hay không? Hay để dễ hình dung hơn, tình huống của ông có khó khăn hơn tình huống của tướng Trần Độ, của cụ Hoàng Minh Chính hay không? Tôi cho rằng, vấn đề là ở lương tâm và bản lĩnh!
Ông đã ra đi để lại tất cả, một chế độ độc tài dai dẳng, những mảnh đời oan khuất, những cuộc đàn áp tiếp diễn, những cái chết oan khiên... Nhưng những dòng này không phải để kể tội ông. Quả thật, thế giới này tồn tại trong trạng thái tương đối của mọi giá trị. Nhưng vẫn có cách để phân biệt những trí tuệ và nhân cách lớn CHÂN THẬT với sự tô vẽ KHÔNG THẬT. Cầu cho ông ra đi được bình an và xin gởi tới ông sự cảm thương cho một kiếp người đa đoan trong thế giới vô minh này nhưng sự tôn kính thì tôi xin giữ lại cho những con người sống với lương tâm, trách nhiệm và ý chí và chết với nỗ lực lên tiếng cho sự thật. Việt Nam còn rất nhiều người để chúng ta thành tâm ca ngợi và kính ngưỡng, nhưng đó không phải là ông.
HTV - Sài Gòn ngày 6 tháng 10 năm 2013
Là người đã có công khai sinh ra một Việt Nam cộng sản, thiết nghĩ không cần bàn đến chuyện ông có lý tưởng hay không lý tưởng và sự cần thiết hay không của những cuộc chiến tranh vô nghĩa mà ông đã đóng vai trò lãnh đạo quân sự tối cao, ông phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về sự im lặng của mình trước những trang lịch sử bất công, gian trá và đau thương mà người Việt Nam đã trải qua.
Không ít người ca ngợi ông là một trí thức lớn, là nhà văn hoá. Tôi không muốn bàn những chuyện ấy nữa vì đã có nhiều tài liệu lịch sử có sẵn cho việc tìm hiểu, nghiên cứu về ông Giáp. Chỉ xin hỏi: Ông đã làm gì khi luật sư Nguyễn Mạnh Tường kêu gọi dân chủ pháp trị để rồi sau đó bị thất sủng? Nếu là một trí thức lớn thực sự, lẽ ra ông phải biết dân chủ pháp trị cần cho một quốc gia như thế nào trước cả cụ Tường bởi thực tế cho thấy chủ nghĩa cộng sản đã tàn phá quốc gia như thế nào? Nếu không nhận ra khiếm khuyết của một chế độ độc tài cộng sản, ông có xứng đáng với danh xưng một đại trí thức? Và cứ cho là ông không biết gì về độc tài- dân chủ nhưng khi luật sư Tường lên tiếng về xã hội dân chủ, ông không có động tĩnh gì, đó có phải là biểu hiện của một nhân cách lớn?
Lại nữa, ông đã ở đâu, đã làm gì khi những Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Hữu Loan bị đấu tố, bị đọa đày? Ông có chút tủi nhục, cảm thương hay phẫn nộ nào không khi hàng triệu người miền Nam bỏ nước ra đi trong tức tưởi khi Việt Nam Cộng Hoà bị cưỡng chiếm để rồi hàng trăm nghìn người trong số họ đã vùi thân ngoài biển cả? Ông nghĩ gì khi tướng Trần Độ đã dũng cảm lên tiếng rồi bị đàn áp? Ông đã làm gì khi cụ Hoàng Minh Chính đã tỏ thái độ đối kháng để rồi bị bỏ tù? Ông đã đứng bên lề bao biến cố đau thương của đất nước. Đó có phải là vị trí xứng đáng của một trí thức hay không?
Dù họ là ai, một người vừa mới qua đời nên được cầu nguyện cho sự ra đi bình an. Tôi đã rất phân vân khi viết những dòng này. Có nên viết những lời cay đắng cho một người chết không? Có nên kể tội họ khi họ đã mãi mãi không còn khả năng biện bạch? Nhưng quả tình, tôi không viết những dòng này nhắm vào tướng Giáp, tôi viết cho những người còn sống, cho những người còn bị ám thị bởi cái ảo ảnh hào quang mà những người cộng sản đã tạo ra. Đa số thanh niên Việt Nam hiện nay sống trong sự lừa gạt đó mà không biết, và cũng không có ý chí vượt thoát ra.
Ông Giáp, vị “đại tướng quân” trong mắt nhiều thanh niên Việt Nam, là người góp công to lớn để tạo dựng và bảo vệ chế độ độc tài tàn bạo này. Ông đã sống quá xa cái tuổi “cổ lai hy” và ra đi trong tình thương yêu của gia tộc, trong sự ngưỡng vọng của nhiều người. Nhưng ông có biết đâu, một người có công gây dựng nên một tập đoàn tội ác như ông lại ra đi thanh thản và vinh quang, trong khi chính những nạn nhân vô tội của chế độ thì lại hứng chịu thảm trạng bi đát của gia đình để rồi phải ra đi trong uất ức, tủi nhục.
Đó chính là một Đặng Ngọc Viết hiền lành, siêng năng bị chính quyền cướp đất, phẫn uất cùng cực đến mức phải ra tay giết chết một quan chức tỉnh Thái Bình rồi tự sát bằng một viên đạn vào tim. Đó là một Thomas Nguyễn Tự Thành-một thuyền nhân bị cưỡng bách hồi hương về Việt Nam từ Thái Lan, bị sách nhiễu và phong toả kinh tế liên tục bởi chính quyền cộng sản đến nỗi uất ức quá phải tự vẫn bằng cách thắt cổ vào ngày 3 tháng 10, trước ngày ông Giáp chết một ngày. Tại sao ông lại được vinh danh khi chính ông là một phần nguyên nhân của những cái chết đau đớn ấy?
Tất nhiên, ông Giáp không còn là lãnh đạo đất nước từ lâu, các chính sách, hành động của chính quyền này ông không tham gia. Nhưng chính cái quá khứ “oai hùng” và cái hiện tại vô trách nhiệm của ông tạo nên tính chính đáng cho chế độ tàn ác này. Chế độ này vẫn lấy ông ra làm cái bệ đỡ để biện minh cho những hành động bán nước hại dân của họ. Ông là cái phao cứu sinh khi những người lãnh đạo cộng sản đối diện với sự căm phẫn của người dân vì sự tham quyền cố vị của họ. Vậy mà, không hiểu vì tuổi già làm tiêu hao ý chí, vì sự sợ hãi làm xói mòn lương tâm, hay vì danh lợi của con cháu làm tiêu tan tinh thần trách nhiệm mà cho đến những năm cuối đời ông Giáp vẫn lặng thinh trước hiện tình đất nước vật vã dưới chế độ độc tài, vẫn để cho nhà cầm quyền tiếp tục lợi dụng ông cho chế độ bất nhân của họ. (Chỉ có một lần ông lên tiếng yếu ớt cho vấn đề Boxite Tây nguyên)
Giá như ông lên tiếng cổ vũ cho Nhân quyền Tự do thì tiếng nói của ông đã tác động mạnh mẽ đến lương tâm tuổi trẻ và có thể xoay chuyển ý thức của biết bao người dân đang bị ám thị. Một ông Giáp đại tướng quân chắc chắn có khả năng thức tỉnh quần chúng, làm rúng động đảng cộng sản hơn hẳn một Lê Công Định, Phạm Hồng Sơn, Huỳnh Ngọc Tuấn, Phạm Thanh Nghiên hay Phương Uyên chứ? Thế nhưng, ông đã chọn cách sống trong sự co rút và chết trong cờ xí, kèn trống của chế độ cộng sản, hơn là cách sống trong sự phản tỉnh và chết như một chiến sĩ dân chủ. Đáng lẽ tuổi già phải là giới hạn cuối cùng của sự sợ hãi nhưng ông đã để nó đi cùng ông sang tận thế giới bên kia.
Có người nói: chúng ta không ở vị trí của ông nên không thể hiểu hết những gì ông phải đối mặt. Đúng. Chúng ta không hiểu hoàn cảnh và vị trí của ông. Nhưng chúng ta có thể hiểu được hoàn cảnh của những bạn sinh viên vì biểu tình yêu nước mà bị nhà trường đuổi học và mất cả tương lai không? Chúng ta có từng đặt mình vào vị trí Phương Uyên, cô bé sinh viên phải chịu biết bao nhiêu sợ hãi, tổn thương tinh thần khi bị bắt và giam giữ chỉ vì cô bé biểu thị lòng yêu nước? Hay như hoàn cảnh gia đình tôi, ba tôi ở tù khi chị em chúng tôi còn thơ dại và mồ côi mẹ; mười mấy năm trời gia đình tôi sống trong cảnh bần hàn, thất học và sự khủng bố của chính quyền. Hoàn cảnh của ông Giáp có ngặt nghèo hơn hoàn cảnh của những người kể trên hay không? Hay để dễ hình dung hơn, tình huống của ông có khó khăn hơn tình huống của tướng Trần Độ, của cụ Hoàng Minh Chính hay không? Tôi cho rằng, vấn đề là ở lương tâm và bản lĩnh!
Ông đã ra đi để lại tất cả, một chế độ độc tài dai dẳng, những mảnh đời oan khuất, những cuộc đàn áp tiếp diễn, những cái chết oan khiên... Nhưng những dòng này không phải để kể tội ông. Quả thật, thế giới này tồn tại trong trạng thái tương đối của mọi giá trị. Nhưng vẫn có cách để phân biệt những trí tuệ và nhân cách lớn CHÂN THẬT với sự tô vẽ KHÔNG THẬT. Cầu cho ông ra đi được bình an và xin gởi tới ông sự cảm thương cho một kiếp người đa đoan trong thế giới vô minh này nhưng sự tôn kính thì tôi xin giữ lại cho những con người sống với lương tâm, trách nhiệm và ý chí và chết với nỗ lực lên tiếng cho sự thật. Việt Nam còn rất nhiều người để chúng ta thành tâm ca ngợi và kính ngưỡng, nhưng đó không phải là ông.
HTV - Sài Gòn ngày 6 tháng 10 năm 2013
36.Viết cho ngày Quân Lực 19-6
Hàng năm, chúng ta làm lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 tháng 6. Ngày Quân Lực năm nay đánh dấu 38 năm kể từ biến cố bi thảm 30 tháng 4, 1975, ngày miền Nam thân yêu của chúng ta rơi vào tay cộng sản. Ba mươi bẩy năm trôi qua trong đau hận không nguôi của tâm trạng…
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua
(thơ Thanh Nam)30 tháng 4, ngày chúng ta không ai quên được. Ngày mà nhiều người mệnh danh là ngày Quốc Hận, ngày Ly Hương, ngày tang của dân tộc… Nhưng dù cho gọi là ngày gì đi nữa, 30 tháng 4, 1975 chính là cái mốc thời gian đánh dấu một khúc quanh đau thương của lịch sử. Ðánh dấu đoạn đời lưu lạc chia lìa của mỗi chúng ta. Ðánh dấu nền Tự Do Dân Chủ của miền Nam bị âm mưu bức tử. Mốc thời gian quan trọng: Sài Gòn 30 tháng 4 năm 1975Ngày 30 tháng 4 do đó mang một ý nghĩa rất lớn lao. Nhất là đối với những người tị nạn chúng ta – những ai không coi nước Mỹ này là chốn thiên đường, không coi ngày 30 tháng 4, 1975 là cái “cơ may” thực hiện được giấc mộng lớn trong đời là được đặt chân lên đất Mỹ, hưởng thụ những tiện nghi vật chất của nước Mỹ – thì ngày đó càng mang ý nghĩa ngậm ngùi đau đớn hơn, như nhà thơ Thanh Nam đã buông lời thống thiết:Một năm người có mười hai tháng
Ta trọn năm dài một Tháng Tư…Tháng 4 là tháng đau buồn. Ngày 30 tháng 4 là ngày tủi hận, tang thương, đen tối của chung người Việt Quốc Gia. Ngày ta muốn quên không được. Ngày ta phải khắc cốt ghi tâm. Phải nhớ. Phải lấy làm dấu mốc để đếm đời ta từ buổi đó bao năm trôi nổi? Ngày này là ngày tang tóc u buồn vận hạn của toàn khối dân tộc. Ngày người phải xa người, gia đình đang sống bình yên bỗng lâm cảnh sẩy đàn tan nghé… Những người lính VNCH sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. RFA filesSau 30 tháng 4, những người cựu chiến binh VNCH lại có ngày Quân Lực 19 tháng 6 để buồn rầu hoài niệm và suy tư, tiếc nhớ một thời đã góp phần tích cực trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam, tiếc nhớ một đời đã đem tuổi thanh xuân hiến dâng cho lý tưởng quốc gia, dân tộc. Thế hệ chúng ta đã đi những bước truân chuyên trên con đường quá khổ và quá nhọc nhằn mong đem lại thanh bình, hạnh phúc cho dân Việt nhưng vì vận số hẩm hiu đất nước, chúng ta cặm cụi đi hoài vẫn không tới đích và cuối cùng, đem thân phiêu bạt…Bình luận gia quá cố Phạm Kim Vinh cho rằng, “Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến kéo dài, đẫm máu và tàn khốc nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại.” Nó bi thảm, bởi thế giới có ý muốn phủ nhận chính nghĩa cuộc chiến đấu để tự vệ của nhân dân Nam Việt Nam. Nó hài hước, bởi sau khi cộng sản đánh chiếm miền Nam, cái đám nhân loại khiếp nhược đó đã cúi đầu trước bạo lực, phụ họa với cộng sản, bôi nhọ VNCH, quốc gia đã từng được họ tuyên dương là “Tiền Ðồn Chống Cộng” của thế giới tự do.Dư luận đó đã nhục mạ Quân Lực VNCH hèn nhát không chịu chiến đấu, VNCH hoàn toàn lệ thuộc nơi người Mỹ nên miền Nam mới sụp đổ dễ dàng và nhanh chóng như vậy. Ðây là thứ dư luận ngu xuẩn, thiếu lương tri, vô trách nhiệm và đầy ác ý. Họ đã nhắm mắt, cố tình không chịu tìm hiểu tường tận sự hy sinh cùng khả năng chiến đấu tuyệt vời của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, không chịu hiểu một điều giản dị, rằng, “Nếu quân lực VNCH nhát hèn, không chịu chiến đấu, thì ai, sức mạnh nào, binh lực nào, phép mầu nào đã giữ được miền Nam trong bao nhiêu năm đất nước sôi bỏng bởi chiến tranh tàn khốc, từ 1954 tới 1975? Trong suốt hơn hai mươi năm dài đó, nếu không có sự chiến đấu dũng cảm, khắc khổ và kiên trì của người lính VNCH, chắc chắn miền Nam Việt Nam đã bị cộng sản thôn tính từ lâu rồi, ngay từ cái gọi là “tổng công kích, tổng khởi nghĩa” Tết Mậu Thân 1968, hay từ những trận đánh khốc liệt làm rúng động thế giới vào mùa hè binh biến 1972. Nếu không có sự chiến đấu đầy dũng cảm, hữu hiệu và kiên trì của người lính VNCH, làm sao quân đội Mỹ có thể rút ra khỏi cái gọi là “vũng lầy Việt Nam” một cách dễ dàng và an toàn như vậy? An Lộc – 1972Trong lịch sử Việt Nam cũng như trong lịch sử nhân loại cũng đã có những cuộc nội chiến. Nhưng không có cuộc tương tàn nào kéo dài quá lâu, liên tục và đẫm máu, cường độ tàn phá khốc liệt cùng sự tổn thất về nhân mạng cho cả hai miền lên đến con số kinh khủng như chiến tranh Việt Nam. Kể cả trong hai kỳ thế chiến, chưa một thời đại nào trong lịch sử, người dân Việt nam ở cả hai miền Nam Bắc phải nhận chịu những nỗi đau thương bất hạnh như trong cuộc chiến vừa qua.Chúng ta, những người lính VNCH đã từng trực tiếp lăn mình vào binh lửa, những người lính đã thực sự cầm súng và chiến đấu, đều có thể khẳng định rằng, quân lực chúng ta không hề thua vì kém tinh thần chiến đấu. Sự sụp đổ về quân sự là do những quyết định sai lầm và suy yếu về chính trị. Nếu gọi là “thua,” chúng ta đã thua trận từ những nguyên nhân sâu ẩn khác. Chúng ta đã bị cái đám nhân loại hèn nhát và ngu xuẩn đó bất công trút đổ lên đầu chúng ta trách nhiệm. Những nguyên nhân khởi từ sau hai cuộc thế chiến, toàn thế giới run rẩy phục hồi, bắt tay xây dựng lại những công trình bị tàn phá. Thế giới từ ngày đó, mệt mỏi và sợ hãi chiến tranh, sợ bị nhiễm vi trùng cộng sản, đã trở nên ươn hèn, ích kỷ, ve vuốt cộng sản, đối xử bất công, nhòm ngó, dè bỉu, chê trách, quy kết tất cả mọi lỗi lầm về phía chúng ta, trút đổ tất cả gánh nặng lên đôi vai người lính VNCH, bắt chúng ta phải trách nhiệm ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản.Trong khi đó, nước Việt Nam bất hạnh đã nẩy sinh ra gã họ Hồ, một thứ “nhân tài chết tiệt” của dân tộc, cuồng tín và tàn độc, tham vọng và mưu mô, bất lương và hiếu sát, vong bản và phi nhân, vô luân và vọng ngoại, tận tụy tôn thờ chủ nghĩa của gã Mác, gã Lê, xô đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc tương tàn thảm khốc.Từ cái thời điểm phải ghi nhớ và đáng nguyền rủa đó, nhân dân Việt Nam ở cả hai miền đã phải còng lưng chịu đựng, không ngóc đầu lên được để thấy ánh mặt trời, để đi và đứng song hàng, hưởng cơn gió lành thịnh vượng cùng mọi dân tộc tự do trên thế giới. Dân tộc Việt Nam là nạn nhân thảm khổ trong cuộc chiến tranh phá-hoại-tận-tình-và-tuyệt-kỹ của bọn người ngu dốt. “Chính vì sự cương-quyết-ngu-dốt và ngu-dốt-kiên-trì mà chúng đã bán đứng đất nước, bán đứng cả linh hồn đất nước,” như cách nói của nhà văn Doãn Quốc Sĩ.Nhà văn Phan Nhật Nam cũng đã kêu lên tiếng kêu ai oán, “Chiến tranh nào cũng đem lại những đổ vỡ, tan hoang, gieo mầm độc ác và gây nên bao sự hủy diệt. Nhưng đây là cuộc chiến thê thảm, tồi tệ và tủi hổ nhất của dân tộc Việt Nam.” Trong cuộc chiến vô nghĩa, dai dẳng và tàn bạo tột độ này, người lính VNCH đã gánh chịu trọn vẹn cái phần nặng nề, bất công, thua thiệt và đau đớn nhất. Cuộc tương tranh rõ ràng không đồng cân đồng sức và bị bội phản trắng trợn nhưng người lính Việt Nam vẫn thản nhiên chấp nhận. Những đời trai trẻ quên bỏ hạnh phúc, tình yêu, tương lai, sự nghiệp cùng những thú vui riêng để bước vào chốn cùng hung cực hiểm, đầy rẫy gian lao khổ nhọc và bị vô ơn, bạc đãi nhưng họ vẫn lầm lì chịu đựng và dũng cảm xông pha trận mạc, trực diện kẻ thù, đổ mồ hôi, xương máu, lao thẳng vào lửa đạn, phóng mình vào nỗi chết cho dải đất miền Nam được tồn tại và người dân miền Nam được sống còn.Lính và vợ con lính. Vợ con lính và những người lính VNCH là hiện thân của những hy sinh quá sức lớn lao. Lòng quả cảm và những hy sinh kỳ vĩ đó chứng minh được bằng những chiến thắng cụ thể, nhiệm mầu, vượt cao, vượt xa và ở trên tất cả mọi suy nghĩ tầm thường của những con người không có chiều dài lịch sử bốn ngàn năm để hiểu thế nào là tình yêu thương đất nước cùng mối tự hào dân tộc.Như Mậu Thân ở Huế. Một đại đội Hắc Báo quân số 270 người, còn lại vỏn vẹn 19 người sau nhiều ngày giao tranh, đã anh dũng chiếm lại Kỳ Ðài, đưa lá cờ vàng ngạo nghễ tung bay trên đỉnh ngọn. Như An Lộc, với 52 ngày tử thủ, thịt da đất nước từng phân vuông quằn quại nẩy tung dưới cơn mưa pháo, ngày và đêm. Không một nơi nào trên thế giới nhận chịu một cuộc tấn công ác liệt, kinh hoàng như An Lộc. Chỉ trong đêm 11 rạng 12 tháng 5, 1972, từ 3 giờ đến 6 giờ sáng, An Lộc co quắp run rẩy hứng chịu liên tục 8 ngàn trái pháo và hỏa tiến của quân cộng sản… Thế mà An Lộc vẫn đứng vững, vẫn tồn tại. Cái quận lỵ nhỏ bé đó đã dược ghi danh trong quân sử Việt Nam và trong chiến sử thế giới.Vào những giờ phút hấp hối của miền Nam, trận chiến cuối cùng ở Xuân Lộc cũng là một kỳ tích để nhân loại ngưỡng phục. Sư Ðoàn 18 Bộ Binh, một sư đoàn được coi là không mấy xuất sắc của quân lực, đã anh dũng giữ vững tuyến phòng ngự, chặn đứng được sự tấn công ào ạt của 5 sư đoàn cộng sản với xe tăng và đại pháo 130 ly hùng hậu. Nhưng biển người của Văn Tiến Dũng đã phải đứng khựng lại, phải bỏ rơi Xuân Lộc, đi đường khác vòng về Saigon, để lại hơn hai ngàn xác chết. Jean Lacouture, một nhà báo Pháp có lương tâm đã nhỏ rơi nước mắt khi tường thuật trận Xuân Lộc và thảng thốt kêu lên, “Cái quân lực đó quả thật là gan dạ và anh hùng. Họ chiến đấu vô cùng ngoạn mục và tôi thật lòng kính phục…” Xuân Lộc – 1975Nhiều ký giả Tây phương cũng hết lời ca ngợi những cuộc chiến đấu đơn lẻ, tạo nên thiên anh hùng ca bi tráng trong ngày cuối cùng của Tháng Tư Ðen. Như cuộc chống cự của Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tầu. Của những đơn vị Nhảy Dù ở khu Lăng Cha Cả. Của anh em Biệt Kích 81 ở Bộ Tổng Tham Mưu. Của các chiến sĩ Biệt Ðộng Quân ở dốc Cầu Xa Lộ. Của những sinh viên sĩ quan Võ Bị Ðà Lạt trong quân phục đại lễ nơi một góc phố thủ đô… rất nhiều sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ QLVNCH và Cảnh sát Quốc gia đã tự sát tập thể vì tuyệt vọng và phẫn nộ trước cuộc đầu hàng nhục nhã của Dương Văn Minh. Chưa kể đến sự tuẫn tiết của các tướng Nguyễn Khoa Nam, tướng Lê Văn Hưng, tướng Phạm Văn Phú, tướng Trần Văn Hai, tướng Lê Nguyên Vỹ và những sĩ quan chỉ huy các đơn vị tác chiến khác…Ba mươi tám năm đã trôi qua. Người ta nói hoài đến con số 58 ngàn lính Mỹ chết và mất tích trên chiến trường Việt Nam. Việt cộng đưa ra con số tổn thất nhân mạng là một triệu 400 ngàn bộ đội của chúng. Phía Việt Nam Cộng Hòa, không ai truy cứu để đưa ra một con số chính xác, bao nhiêu binh sĩ của chúng ta tử trận, bao nhiêu đồng bào, cán bộ chính quyền của chúng ta bị sát hại trong cuộc chiến? Chúng ta bị thế giới cố tình bỏ quên. Bị cộng sản đê tiện trả thù, đầy đọa người sống trong trại tù cải tạo và quật mồ người chết để thỏa mãn cái tâm địa man rợ của loài lang sói.Nhân kỷ niệm Ngày Quân Lực, chúng ta, những người lính chiến VNCH cũ, hãy cùng nhau chiêm nghiệm, không phải để “tự cho mình là những người mất nước tìm cách phục quốc, hay để tự nhận là những người thất trận tìm cách trả thù, phục hận..” Và càng không thể là “những người Quốc gia đã được “điều kiện hóa” để xem chống cộng là cứu cánh…” như một số người trong chính hàng ngũ chúng ta – đau đớn thay – đã hòa nhịp với kẻ địch, công khai sỉ nhục quân đội.Chúng ta hãy dõng dạc nói thẳng cho những con người đó, thù cũng như bạn, biết rằng lý tưởng và cứu cánh của người lính chúng ta không phải là thù và oán. Lý tưởng Quốc gia Dân tộc là một tình cảm tự nhiên, thiêng liêng cao cả trong trong trái tim con người, không thể đem “điều kiện hóa” như thí nghiệm vào loài chó của Palov, như thủ đoạn tẩy não phi nhân của cộng sản. Lý tưởng và cứu cánh đó bao giờ cũng là chu toàn ước vọng đem lại đời sống thanh bình an lạc, đem lại tự do dân chủ, no ấm và hạnh phúc cho toàn dân. Kẻ nào xâm phạm đến phúc lợi và ước vọng đó của dân tộc, chúng ta có bổn phận ngăn chặn, dù đó là cộng sản hay bất cứ một thế lực nào khác.Chúng ta, những người lính VNCH sống còn sau cuộc chiến và thoát khỏi bàn tay đê tiện của kẻ thù, xin hãy nghĩ nhớ đến anh em đồng đội, hồi niệm và tri ơn những người đã nằm xuống cho chúng ta được sống. Hãy cùng nhau đốt lên một ngọn lửa, soi sáng một niềm tin, giữ vững tinh thần và ý chí, làm sáng danh quân lực, làm rõ ràng Chính nghĩa Quốc gia và hãy vẽ lại chân dung đích thực của người lính VNCH, những người con yêu của đất nước, dù đã đi vào miền vĩnh cửu nhưng hình ảnh cùng những chiến công vẫn hằng hằng sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam ta.Chúng ta hãy cùng nhau chiêu niệm quê hương, chiêu niệm hồn tiên liệt và khí thiêng sông núi, cầu mong sớm có một ngày vinh hiển trở về nhìn lại quê cha đất tổ, như trong lời Hịch Bình Ngô:“…Giang sơn từ nay mở hội
Xã tắc từ nay vững bền
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Kiền khôn bỉ rồi lại thái
Nền vạn thế xây nên chăn chắn
Thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu
Ðó là nhờ trời đất tổ tiên khôn thiêng che chở
Và giúp đỡ cho chúng ta vậy…”
Đào Vũ Anh Hùng
Hàng năm, chúng ta làm lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 tháng 6. Ngày Quân Lực năm nay đánh dấu 38 năm kể từ biến cố bi thảm 30 tháng 4, 1975, ngày miền Nam thân yêu của chúng ta rơi vào tay cộng sản. Ba mươi bẩy năm trôi qua trong đau hận không nguôi của tâm trạng…
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua
(thơ Thanh Nam)30 tháng 4, ngày chúng ta không ai quên được. Ngày mà nhiều người mệnh danh là ngày Quốc Hận, ngày Ly Hương, ngày tang của dân tộc… Nhưng dù cho gọi là ngày gì đi nữa, 30 tháng 4, 1975 chính là cái mốc thời gian đánh dấu một khúc quanh đau thương của lịch sử. Ðánh dấu đoạn đời lưu lạc chia lìa của mỗi chúng ta. Ðánh dấu nền Tự Do Dân Chủ của miền Nam bị âm mưu bức tử. Mốc thời gian quan trọng: Sài Gòn 30 tháng 4 năm 1975Ngày 30 tháng 4 do đó mang một ý nghĩa rất lớn lao. Nhất là đối với những người tị nạn chúng ta – những ai không coi nước Mỹ này là chốn thiên đường, không coi ngày 30 tháng 4, 1975 là cái “cơ may” thực hiện được giấc mộng lớn trong đời là được đặt chân lên đất Mỹ, hưởng thụ những tiện nghi vật chất của nước Mỹ – thì ngày đó càng mang ý nghĩa ngậm ngùi đau đớn hơn, như nhà thơ Thanh Nam đã buông lời thống thiết:Một năm người có mười hai tháng
Ta trọn năm dài một Tháng Tư…Tháng 4 là tháng đau buồn. Ngày 30 tháng 4 là ngày tủi hận, tang thương, đen tối của chung người Việt Quốc Gia. Ngày ta muốn quên không được. Ngày ta phải khắc cốt ghi tâm. Phải nhớ. Phải lấy làm dấu mốc để đếm đời ta từ buổi đó bao năm trôi nổi? Ngày này là ngày tang tóc u buồn vận hạn của toàn khối dân tộc. Ngày người phải xa người, gia đình đang sống bình yên bỗng lâm cảnh sẩy đàn tan nghé… Những người lính VNCH sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. RFA filesSau 30 tháng 4, những người cựu chiến binh VNCH lại có ngày Quân Lực 19 tháng 6 để buồn rầu hoài niệm và suy tư, tiếc nhớ một thời đã góp phần tích cực trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam, tiếc nhớ một đời đã đem tuổi thanh xuân hiến dâng cho lý tưởng quốc gia, dân tộc. Thế hệ chúng ta đã đi những bước truân chuyên trên con đường quá khổ và quá nhọc nhằn mong đem lại thanh bình, hạnh phúc cho dân Việt nhưng vì vận số hẩm hiu đất nước, chúng ta cặm cụi đi hoài vẫn không tới đích và cuối cùng, đem thân phiêu bạt…Bình luận gia quá cố Phạm Kim Vinh cho rằng, “Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến kéo dài, đẫm máu và tàn khốc nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại.” Nó bi thảm, bởi thế giới có ý muốn phủ nhận chính nghĩa cuộc chiến đấu để tự vệ của nhân dân Nam Việt Nam. Nó hài hước, bởi sau khi cộng sản đánh chiếm miền Nam, cái đám nhân loại khiếp nhược đó đã cúi đầu trước bạo lực, phụ họa với cộng sản, bôi nhọ VNCH, quốc gia đã từng được họ tuyên dương là “Tiền Ðồn Chống Cộng” của thế giới tự do.Dư luận đó đã nhục mạ Quân Lực VNCH hèn nhát không chịu chiến đấu, VNCH hoàn toàn lệ thuộc nơi người Mỹ nên miền Nam mới sụp đổ dễ dàng và nhanh chóng như vậy. Ðây là thứ dư luận ngu xuẩn, thiếu lương tri, vô trách nhiệm và đầy ác ý. Họ đã nhắm mắt, cố tình không chịu tìm hiểu tường tận sự hy sinh cùng khả năng chiến đấu tuyệt vời của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, không chịu hiểu một điều giản dị, rằng, “Nếu quân lực VNCH nhát hèn, không chịu chiến đấu, thì ai, sức mạnh nào, binh lực nào, phép mầu nào đã giữ được miền Nam trong bao nhiêu năm đất nước sôi bỏng bởi chiến tranh tàn khốc, từ 1954 tới 1975? Trong suốt hơn hai mươi năm dài đó, nếu không có sự chiến đấu dũng cảm, khắc khổ và kiên trì của người lính VNCH, chắc chắn miền Nam Việt Nam đã bị cộng sản thôn tính từ lâu rồi, ngay từ cái gọi là “tổng công kích, tổng khởi nghĩa” Tết Mậu Thân 1968, hay từ những trận đánh khốc liệt làm rúng động thế giới vào mùa hè binh biến 1972. Nếu không có sự chiến đấu đầy dũng cảm, hữu hiệu và kiên trì của người lính VNCH, làm sao quân đội Mỹ có thể rút ra khỏi cái gọi là “vũng lầy Việt Nam” một cách dễ dàng và an toàn như vậy? An Lộc – 1972Trong lịch sử Việt Nam cũng như trong lịch sử nhân loại cũng đã có những cuộc nội chiến. Nhưng không có cuộc tương tàn nào kéo dài quá lâu, liên tục và đẫm máu, cường độ tàn phá khốc liệt cùng sự tổn thất về nhân mạng cho cả hai miền lên đến con số kinh khủng như chiến tranh Việt Nam. Kể cả trong hai kỳ thế chiến, chưa một thời đại nào trong lịch sử, người dân Việt nam ở cả hai miền Nam Bắc phải nhận chịu những nỗi đau thương bất hạnh như trong cuộc chiến vừa qua.Chúng ta, những người lính VNCH đã từng trực tiếp lăn mình vào binh lửa, những người lính đã thực sự cầm súng và chiến đấu, đều có thể khẳng định rằng, quân lực chúng ta không hề thua vì kém tinh thần chiến đấu. Sự sụp đổ về quân sự là do những quyết định sai lầm và suy yếu về chính trị. Nếu gọi là “thua,” chúng ta đã thua trận từ những nguyên nhân sâu ẩn khác. Chúng ta đã bị cái đám nhân loại hèn nhát và ngu xuẩn đó bất công trút đổ lên đầu chúng ta trách nhiệm. Những nguyên nhân khởi từ sau hai cuộc thế chiến, toàn thế giới run rẩy phục hồi, bắt tay xây dựng lại những công trình bị tàn phá. Thế giới từ ngày đó, mệt mỏi và sợ hãi chiến tranh, sợ bị nhiễm vi trùng cộng sản, đã trở nên ươn hèn, ích kỷ, ve vuốt cộng sản, đối xử bất công, nhòm ngó, dè bỉu, chê trách, quy kết tất cả mọi lỗi lầm về phía chúng ta, trút đổ tất cả gánh nặng lên đôi vai người lính VNCH, bắt chúng ta phải trách nhiệm ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản.Trong khi đó, nước Việt Nam bất hạnh đã nẩy sinh ra gã họ Hồ, một thứ “nhân tài chết tiệt” của dân tộc, cuồng tín và tàn độc, tham vọng và mưu mô, bất lương và hiếu sát, vong bản và phi nhân, vô luân và vọng ngoại, tận tụy tôn thờ chủ nghĩa của gã Mác, gã Lê, xô đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc tương tàn thảm khốc.Từ cái thời điểm phải ghi nhớ và đáng nguyền rủa đó, nhân dân Việt Nam ở cả hai miền đã phải còng lưng chịu đựng, không ngóc đầu lên được để thấy ánh mặt trời, để đi và đứng song hàng, hưởng cơn gió lành thịnh vượng cùng mọi dân tộc tự do trên thế giới. Dân tộc Việt Nam là nạn nhân thảm khổ trong cuộc chiến tranh phá-hoại-tận-tình-và-tuyệt-kỹ của bọn người ngu dốt. “Chính vì sự cương-quyết-ngu-dốt và ngu-dốt-kiên-trì mà chúng đã bán đứng đất nước, bán đứng cả linh hồn đất nước,” như cách nói của nhà văn Doãn Quốc Sĩ.Nhà văn Phan Nhật Nam cũng đã kêu lên tiếng kêu ai oán, “Chiến tranh nào cũng đem lại những đổ vỡ, tan hoang, gieo mầm độc ác và gây nên bao sự hủy diệt. Nhưng đây là cuộc chiến thê thảm, tồi tệ và tủi hổ nhất của dân tộc Việt Nam.” Trong cuộc chiến vô nghĩa, dai dẳng và tàn bạo tột độ này, người lính VNCH đã gánh chịu trọn vẹn cái phần nặng nề, bất công, thua thiệt và đau đớn nhất. Cuộc tương tranh rõ ràng không đồng cân đồng sức và bị bội phản trắng trợn nhưng người lính Việt Nam vẫn thản nhiên chấp nhận. Những đời trai trẻ quên bỏ hạnh phúc, tình yêu, tương lai, sự nghiệp cùng những thú vui riêng để bước vào chốn cùng hung cực hiểm, đầy rẫy gian lao khổ nhọc và bị vô ơn, bạc đãi nhưng họ vẫn lầm lì chịu đựng và dũng cảm xông pha trận mạc, trực diện kẻ thù, đổ mồ hôi, xương máu, lao thẳng vào lửa đạn, phóng mình vào nỗi chết cho dải đất miền Nam được tồn tại và người dân miền Nam được sống còn.Lính và vợ con lính. Vợ con lính và những người lính VNCH là hiện thân của những hy sinh quá sức lớn lao. Lòng quả cảm và những hy sinh kỳ vĩ đó chứng minh được bằng những chiến thắng cụ thể, nhiệm mầu, vượt cao, vượt xa và ở trên tất cả mọi suy nghĩ tầm thường của những con người không có chiều dài lịch sử bốn ngàn năm để hiểu thế nào là tình yêu thương đất nước cùng mối tự hào dân tộc.Như Mậu Thân ở Huế. Một đại đội Hắc Báo quân số 270 người, còn lại vỏn vẹn 19 người sau nhiều ngày giao tranh, đã anh dũng chiếm lại Kỳ Ðài, đưa lá cờ vàng ngạo nghễ tung bay trên đỉnh ngọn. Như An Lộc, với 52 ngày tử thủ, thịt da đất nước từng phân vuông quằn quại nẩy tung dưới cơn mưa pháo, ngày và đêm. Không một nơi nào trên thế giới nhận chịu một cuộc tấn công ác liệt, kinh hoàng như An Lộc. Chỉ trong đêm 11 rạng 12 tháng 5, 1972, từ 3 giờ đến 6 giờ sáng, An Lộc co quắp run rẩy hứng chịu liên tục 8 ngàn trái pháo và hỏa tiến của quân cộng sản… Thế mà An Lộc vẫn đứng vững, vẫn tồn tại. Cái quận lỵ nhỏ bé đó đã dược ghi danh trong quân sử Việt Nam và trong chiến sử thế giới.Vào những giờ phút hấp hối của miền Nam, trận chiến cuối cùng ở Xuân Lộc cũng là một kỳ tích để nhân loại ngưỡng phục. Sư Ðoàn 18 Bộ Binh, một sư đoàn được coi là không mấy xuất sắc của quân lực, đã anh dũng giữ vững tuyến phòng ngự, chặn đứng được sự tấn công ào ạt của 5 sư đoàn cộng sản với xe tăng và đại pháo 130 ly hùng hậu. Nhưng biển người của Văn Tiến Dũng đã phải đứng khựng lại, phải bỏ rơi Xuân Lộc, đi đường khác vòng về Saigon, để lại hơn hai ngàn xác chết. Jean Lacouture, một nhà báo Pháp có lương tâm đã nhỏ rơi nước mắt khi tường thuật trận Xuân Lộc và thảng thốt kêu lên, “Cái quân lực đó quả thật là gan dạ và anh hùng. Họ chiến đấu vô cùng ngoạn mục và tôi thật lòng kính phục…” Xuân Lộc – 1975Nhiều ký giả Tây phương cũng hết lời ca ngợi những cuộc chiến đấu đơn lẻ, tạo nên thiên anh hùng ca bi tráng trong ngày cuối cùng của Tháng Tư Ðen. Như cuộc chống cự của Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tầu. Của những đơn vị Nhảy Dù ở khu Lăng Cha Cả. Của anh em Biệt Kích 81 ở Bộ Tổng Tham Mưu. Của các chiến sĩ Biệt Ðộng Quân ở dốc Cầu Xa Lộ. Của những sinh viên sĩ quan Võ Bị Ðà Lạt trong quân phục đại lễ nơi một góc phố thủ đô… rất nhiều sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ QLVNCH và Cảnh sát Quốc gia đã tự sát tập thể vì tuyệt vọng và phẫn nộ trước cuộc đầu hàng nhục nhã của Dương Văn Minh. Chưa kể đến sự tuẫn tiết của các tướng Nguyễn Khoa Nam, tướng Lê Văn Hưng, tướng Phạm Văn Phú, tướng Trần Văn Hai, tướng Lê Nguyên Vỹ và những sĩ quan chỉ huy các đơn vị tác chiến khác…Ba mươi tám năm đã trôi qua. Người ta nói hoài đến con số 58 ngàn lính Mỹ chết và mất tích trên chiến trường Việt Nam. Việt cộng đưa ra con số tổn thất nhân mạng là một triệu 400 ngàn bộ đội của chúng. Phía Việt Nam Cộng Hòa, không ai truy cứu để đưa ra một con số chính xác, bao nhiêu binh sĩ của chúng ta tử trận, bao nhiêu đồng bào, cán bộ chính quyền của chúng ta bị sát hại trong cuộc chiến? Chúng ta bị thế giới cố tình bỏ quên. Bị cộng sản đê tiện trả thù, đầy đọa người sống trong trại tù cải tạo và quật mồ người chết để thỏa mãn cái tâm địa man rợ của loài lang sói.Nhân kỷ niệm Ngày Quân Lực, chúng ta, những người lính chiến VNCH cũ, hãy cùng nhau chiêm nghiệm, không phải để “tự cho mình là những người mất nước tìm cách phục quốc, hay để tự nhận là những người thất trận tìm cách trả thù, phục hận..” Và càng không thể là “những người Quốc gia đã được “điều kiện hóa” để xem chống cộng là cứu cánh…” như một số người trong chính hàng ngũ chúng ta – đau đớn thay – đã hòa nhịp với kẻ địch, công khai sỉ nhục quân đội.Chúng ta hãy dõng dạc nói thẳng cho những con người đó, thù cũng như bạn, biết rằng lý tưởng và cứu cánh của người lính chúng ta không phải là thù và oán. Lý tưởng Quốc gia Dân tộc là một tình cảm tự nhiên, thiêng liêng cao cả trong trong trái tim con người, không thể đem “điều kiện hóa” như thí nghiệm vào loài chó của Palov, như thủ đoạn tẩy não phi nhân của cộng sản. Lý tưởng và cứu cánh đó bao giờ cũng là chu toàn ước vọng đem lại đời sống thanh bình an lạc, đem lại tự do dân chủ, no ấm và hạnh phúc cho toàn dân. Kẻ nào xâm phạm đến phúc lợi và ước vọng đó của dân tộc, chúng ta có bổn phận ngăn chặn, dù đó là cộng sản hay bất cứ một thế lực nào khác.Chúng ta, những người lính VNCH sống còn sau cuộc chiến và thoát khỏi bàn tay đê tiện của kẻ thù, xin hãy nghĩ nhớ đến anh em đồng đội, hồi niệm và tri ơn những người đã nằm xuống cho chúng ta được sống. Hãy cùng nhau đốt lên một ngọn lửa, soi sáng một niềm tin, giữ vững tinh thần và ý chí, làm sáng danh quân lực, làm rõ ràng Chính nghĩa Quốc gia và hãy vẽ lại chân dung đích thực của người lính VNCH, những người con yêu của đất nước, dù đã đi vào miền vĩnh cửu nhưng hình ảnh cùng những chiến công vẫn hằng hằng sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam ta.Chúng ta hãy cùng nhau chiêu niệm quê hương, chiêu niệm hồn tiên liệt và khí thiêng sông núi, cầu mong sớm có một ngày vinh hiển trở về nhìn lại quê cha đất tổ, như trong lời Hịch Bình Ngô:“…Giang sơn từ nay mở hội
Xã tắc từ nay vững bền
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Kiền khôn bỉ rồi lại thái
Nền vạn thế xây nên chăn chắn
Thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu
Ðó là nhờ trời đất tổ tiên khôn thiêng che chở
Và giúp đỡ cho chúng ta vậy…”
Đào Vũ Anh Hùng
35. Tạ Ơn- Đinh Tấn Lực
Đinh Tấn Lực
tạ ơn tuổi trẻ Việt Nam đã dựng lại niềm tin cho cả nước
tạ ơn Phương Uyên với những lời khí phách làm rúng động lòng người
tạ ơn hai bà mẹ đã rứt ruột hiến dâng cho tương lai đất nước
những người con cầm đuốc lương tâm
tạ ơn các anh chị từ nhiều miền xa xôi đã tụ về Long An hôm nay
tạ ơn các anh chị ở nhiều nơi ngoài VN
đã xuống đường biểu tình ủng hộ cùng ngày 16/8/2013
tạ ơn các anh chị suốt buổi dán mắt vào màn hình FB
để được đập cùng nhịp tim
với những người đứng quanh một tòa án tỉnh lẻ
tạ ơn các anh chị đã vui mừng lau nước mắt
ngay khi nghe kết quả kháng án
không thể quên
tạ ơn các anh chị đã từ bấy lâu nay
âm thầm dồn sức vận động
dư luận và các đòn bẫy chính giới nước ngoài
gây áp lực nhân quyền/công lý
tạ ơn các anh chị người nước ngoài đã nghỉ việc để nhập đoàn biểu tình
lên tiếng đòi công lý cho các bạn Uyên-Kha-Uy
tạ ơn các cơ quan nhân quyền và truyền thông quốc tế
đã gửi kháng nghị/khuyến thư về VN
tạ ơn Net, tạ ơn những nút bấm Like/Share của FB
tạ ơn các anh chị đã nghĩ từ trước đây
về sự hỗ trợ cho gia đình các em trong lúc khó khăn
tạ ơn các anh chị đã nghĩ về những ngày sắp tới
và sắp xếp hành trang lên đường/nhập cuộc đấu tranh
gần là cho Đinh Nguyên Kha và hàng trăm tù nhân lương tâm
còn đang cổ gông chân cùm trong ngục
xa là đẩy mạnh sinh hoạt xã hội dân sự
để độc tài không còn chỗ đứng
và cũng không còn chỗ quay lại
xa nữa là cho một Việt Nam mai này
có đủ điều kiện cất cánh với láng giềng
tạ ơn các em đã kéo màn đêm cho đại khối thầm lặng ở đây
nhìn ánh bình minh sau nhiều thập kỷ ngóng trông
tạ ơn các em đã lấy tù đày mà tặng không nghị lực
cho biết bao người sẵn sàng dấn bước
tạ ơn các em đã lấy mạng sống để khởi đầu
cho một chuỗi Chiến Thắng không tiếng nổ
tạ ơn Hồn Thiêng Sông Núi
đã nắm tay các em tay giở trang sử mới.
Blogger Đinh Tấn Lực
16-08-2013 – Chợt nghĩ tới trọn 68 năm đại hội Tân Trào kết tủa vào một ngày Long An.
Nguồn: Tác giả gửi
tạ ơn tuổi trẻ Việt Nam đã dựng lại niềm tin cho cả nước
tạ ơn Phương Uyên với những lời khí phách làm rúng động lòng người
tạ ơn hai bà mẹ đã rứt ruột hiến dâng cho tương lai đất nước
những người con cầm đuốc lương tâm
tạ ơn các anh chị từ nhiều miền xa xôi đã tụ về Long An hôm nay
tạ ơn các anh chị ở nhiều nơi ngoài VN
đã xuống đường biểu tình ủng hộ cùng ngày 16/8/2013
tạ ơn các anh chị suốt buổi dán mắt vào màn hình FB
để được đập cùng nhịp tim
với những người đứng quanh một tòa án tỉnh lẻ
tạ ơn các anh chị đã vui mừng lau nước mắt
ngay khi nghe kết quả kháng án
không thể quên
tạ ơn các anh chị đã từ bấy lâu nay
âm thầm dồn sức vận động
dư luận và các đòn bẫy chính giới nước ngoài
gây áp lực nhân quyền/công lý
tạ ơn các anh chị người nước ngoài đã nghỉ việc để nhập đoàn biểu tình
lên tiếng đòi công lý cho các bạn Uyên-Kha-Uy
tạ ơn các cơ quan nhân quyền và truyền thông quốc tế
đã gửi kháng nghị/khuyến thư về VN
tạ ơn Net, tạ ơn những nút bấm Like/Share của FB
tạ ơn các anh chị đã nghĩ từ trước đây
về sự hỗ trợ cho gia đình các em trong lúc khó khăn
tạ ơn các anh chị đã nghĩ về những ngày sắp tới
và sắp xếp hành trang lên đường/nhập cuộc đấu tranh
gần là cho Đinh Nguyên Kha và hàng trăm tù nhân lương tâm
còn đang cổ gông chân cùm trong ngục
xa là đẩy mạnh sinh hoạt xã hội dân sự
để độc tài không còn chỗ đứng
và cũng không còn chỗ quay lại
xa nữa là cho một Việt Nam mai này
có đủ điều kiện cất cánh với láng giềng
tạ ơn các em đã kéo màn đêm cho đại khối thầm lặng ở đây
nhìn ánh bình minh sau nhiều thập kỷ ngóng trông
tạ ơn các em đã lấy tù đày mà tặng không nghị lực
cho biết bao người sẵn sàng dấn bước
tạ ơn các em đã lấy mạng sống để khởi đầu
cho một chuỗi Chiến Thắng không tiếng nổ
tạ ơn Hồn Thiêng Sông Núi
đã nắm tay các em tay giở trang sử mới.
Blogger Đinh Tấn Lực
16-08-2013 – Chợt nghĩ tới trọn 68 năm đại hội Tân Trào kết tủa vào một ngày Long An.
Nguồn: Tác giả gửi
34. Áp lực nào phải thả Phương Uyên FROM Le TO 4 recipients Show Details
Áp lực nào buộc CSVN phải thả Phương Uyên? Trần Trung Đạo (Danlambao) - Qua nay, bên cạnh niềm vui trong lòng mọi người yêu mến Phương Uyên, việc CSVN thả cô bé 21 tuổi này cũng đã tạo nhiều tranh luận giống như khi em bị chế độ CSVN giáng xuống cuộc đời non trẻ một bản án nặng nề hồi giữa tháng Năm.
Có quan điểm cho rằng Phương Uyên chỉ là một “món hàng” trả giá giữa Mỹ và CSVN về Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership); có lý luận cho rằng Phương Uyên là dấu hiệu cho thấy phe thân tây phương đang mạnh trong nội bộ lãnh đạo CSVN; có phân tích cho rằng giới lãnh đạo CSVN nhận ra họ đã phạm sai lầm chính trị khi giáng xuống đời một cô gái chỉ ngoài 20 tuổi bản án 6 năm tù lần trước nên nay phải sửa sai.
Các lý luận đó không những chứng tỏ sự thiếu tự tin, tinh thần lệ thuộc vào ngoại bang mà còn phạm phải sai lầm căn bản là không xác định được vai trò chủ động của các thành phần dân tộc trong con đường tranh đấu cho tự do dân chủ tại Việt Nam.
Áp lực chính buộc nhà cầm quyền CSVN thả Phương Uyên phát xuất từ cuộc đấu tranh bền bỉ, đa dạng, tích cực và nhiệt tình của mọi tầng lớp nhân dân, mọi thế hệ Việt Nam trong nước và ngoài nước.
Chính những bạn trẻ trong nước thức đêm viết từng tờ biểu ngữ, in từng tờ truyền đơn, vẽ hình Phương Uyên và Nguyên Kha trên từng chiếc áo đã góp phần làm thay đổi “bản án sáu năm tù giam” thành “bản án ba năm tù treo” của Phương Uyên.
Chính các bạn trẻ ngoài nước tổ chức những đêm không ngủ, gởi hàng ngàn lá thư lên các tổ chức nhân quyền quốc tế, tổng thống và quốc hội Mỹ, các lãnh đạo châu Âu, các cơ quan nhân quyền thuộc Liên Hiệp Quốc đã giúp cho Phương Uyên được ngồi ăn bữa cơm bên mẹ chiều nay.
Chính đồng bào các giới khắp nơi tại hải ngoại tích cực tham gia những cuộc biểu tình liên tục trước Tòa Bạch Ốc, điện Capitol, trước các tòa đại sứ CSVN đã giúp cho Phương Uyên tìm lại được nụ cười hồn nhiên trong vòng tay của gia đình, bạn bè và bà con thân thuộc.
Các thành phần dân tộc Việt Nam trong suốt nhiều năm và qua nhiều hình thức đã làm nên những đợt sóng đập liên tục vào bức tường chuyên chính độc tài cũng như làm tiếng chuông vang vọng vào lương tri nhân loại. Ở hải ngoại, bao lớp người dầm mưa, đội nắng, đạp tuyết mà đi trong các cuộc biểu tình chống CS độc tài, đòi hỏi nhân quyền cho đồng bào Việt Nam ngay cả trong những ngày tháng vô cùng khó khăn chân ướt chân ráo mới đến định cư sau 1975. Các cộng đồng người Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung, Rumania, Bulgaria, Albany định cư tại các nước tây phương sau khi quốc gia của họ bị CS cai trị sau thế chiến thứ hai, và cả cộng đồng người Cu Ba tại Mỹ sau 1959 đã không làm được như thế.
Nếu không có hàng loạt các hình thức đấu tranh được phát động ồ ạt và nhịp nhàng từ các thành phần dân tộc, chẳng một nguyên thủ quốc gia dân chủ nào, một cơ quan nhân quyền quốc tế nào biết đến Phương Uyên ngoài những bản tin nhân quyền thường lệ, và số phận của em cũng giống như số phận hàng ngàn người Việt Nam khác đang bị tù đày hay đã chết đi trong quên lãng khắp ba miền đất nước suốt ba mươi bảy năm qua.
Trách nhiệm nặng nề, đôi vai nặng gánh, cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại không thể làm hết những điều cần phải làm, cứu được hết những đồng bào cần phải cứu nhưng cuộc đấu tranh chưa bao giờ dừng lại.
Phân tích để thấy chính sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc là nền tảng, là nguồn lực của cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ của dân tộc Việt Nam.
Quan hệ và tranh chấp quốc tế bao giờ cũng tồn tại không chỉ giữa các quốc gia thù địch, đối nghịch về quyền lợi mà ngay trong các nước đồng minh. Các dân tộc nhỏ luôn phải bị chi phối và ảnh hưởng. Điều đó không thể nào tránh khỏi. Tuy nhiên, các bài học Phần Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Do Thái cho thấy yếu tố quyết định cuối cùng cho số phận của một dân tộc vẫn luôn nằm trong tay của chính dân tộc đó. Và cũng phân tích để thấy không chỉ Phương Uyên mà còn rất nhiều người như Đinh Nguyên Kha, Việt Khang, Nguyễn Văn Hải, Đỗ Thị Minh Hạnh, Trần Huỳnh Duy Thức v.v... cần phải được tiếp tục đấu tranh.
Cuộc vận động tự do dân chủ cho cả dân tộc là con đường đầy gai góc, gian nan nhưng là con đường chính nghĩa và chính nghĩa sẽ tất thắng.
Có quan điểm cho rằng Phương Uyên chỉ là một “món hàng” trả giá giữa Mỹ và CSVN về Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership); có lý luận cho rằng Phương Uyên là dấu hiệu cho thấy phe thân tây phương đang mạnh trong nội bộ lãnh đạo CSVN; có phân tích cho rằng giới lãnh đạo CSVN nhận ra họ đã phạm sai lầm chính trị khi giáng xuống đời một cô gái chỉ ngoài 20 tuổi bản án 6 năm tù lần trước nên nay phải sửa sai.
Các lý luận đó không những chứng tỏ sự thiếu tự tin, tinh thần lệ thuộc vào ngoại bang mà còn phạm phải sai lầm căn bản là không xác định được vai trò chủ động của các thành phần dân tộc trong con đường tranh đấu cho tự do dân chủ tại Việt Nam.
Áp lực chính buộc nhà cầm quyền CSVN thả Phương Uyên phát xuất từ cuộc đấu tranh bền bỉ, đa dạng, tích cực và nhiệt tình của mọi tầng lớp nhân dân, mọi thế hệ Việt Nam trong nước và ngoài nước.
Chính những bạn trẻ trong nước thức đêm viết từng tờ biểu ngữ, in từng tờ truyền đơn, vẽ hình Phương Uyên và Nguyên Kha trên từng chiếc áo đã góp phần làm thay đổi “bản án sáu năm tù giam” thành “bản án ba năm tù treo” của Phương Uyên.
Chính các bạn trẻ ngoài nước tổ chức những đêm không ngủ, gởi hàng ngàn lá thư lên các tổ chức nhân quyền quốc tế, tổng thống và quốc hội Mỹ, các lãnh đạo châu Âu, các cơ quan nhân quyền thuộc Liên Hiệp Quốc đã giúp cho Phương Uyên được ngồi ăn bữa cơm bên mẹ chiều nay.
Chính đồng bào các giới khắp nơi tại hải ngoại tích cực tham gia những cuộc biểu tình liên tục trước Tòa Bạch Ốc, điện Capitol, trước các tòa đại sứ CSVN đã giúp cho Phương Uyên tìm lại được nụ cười hồn nhiên trong vòng tay của gia đình, bạn bè và bà con thân thuộc.
Các thành phần dân tộc Việt Nam trong suốt nhiều năm và qua nhiều hình thức đã làm nên những đợt sóng đập liên tục vào bức tường chuyên chính độc tài cũng như làm tiếng chuông vang vọng vào lương tri nhân loại. Ở hải ngoại, bao lớp người dầm mưa, đội nắng, đạp tuyết mà đi trong các cuộc biểu tình chống CS độc tài, đòi hỏi nhân quyền cho đồng bào Việt Nam ngay cả trong những ngày tháng vô cùng khó khăn chân ướt chân ráo mới đến định cư sau 1975. Các cộng đồng người Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung, Rumania, Bulgaria, Albany định cư tại các nước tây phương sau khi quốc gia của họ bị CS cai trị sau thế chiến thứ hai, và cả cộng đồng người Cu Ba tại Mỹ sau 1959 đã không làm được như thế.
Nếu không có hàng loạt các hình thức đấu tranh được phát động ồ ạt và nhịp nhàng từ các thành phần dân tộc, chẳng một nguyên thủ quốc gia dân chủ nào, một cơ quan nhân quyền quốc tế nào biết đến Phương Uyên ngoài những bản tin nhân quyền thường lệ, và số phận của em cũng giống như số phận hàng ngàn người Việt Nam khác đang bị tù đày hay đã chết đi trong quên lãng khắp ba miền đất nước suốt ba mươi bảy năm qua.
Trách nhiệm nặng nề, đôi vai nặng gánh, cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại không thể làm hết những điều cần phải làm, cứu được hết những đồng bào cần phải cứu nhưng cuộc đấu tranh chưa bao giờ dừng lại.
Phân tích để thấy chính sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc là nền tảng, là nguồn lực của cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ của dân tộc Việt Nam.
Quan hệ và tranh chấp quốc tế bao giờ cũng tồn tại không chỉ giữa các quốc gia thù địch, đối nghịch về quyền lợi mà ngay trong các nước đồng minh. Các dân tộc nhỏ luôn phải bị chi phối và ảnh hưởng. Điều đó không thể nào tránh khỏi. Tuy nhiên, các bài học Phần Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Do Thái cho thấy yếu tố quyết định cuối cùng cho số phận của một dân tộc vẫn luôn nằm trong tay của chính dân tộc đó. Và cũng phân tích để thấy không chỉ Phương Uyên mà còn rất nhiều người như Đinh Nguyên Kha, Việt Khang, Nguyễn Văn Hải, Đỗ Thị Minh Hạnh, Trần Huỳnh Duy Thức v.v... cần phải được tiếp tục đấu tranh.
Cuộc vận động tự do dân chủ cho cả dân tộc là con đường đầy gai góc, gian nan nhưng là con đường chính nghĩa và chính nghĩa sẽ tất thắng.
TRIỆU LƯƠNG DÂN:Chính những bạn trẻ trong nước thức đêm viết từng tờ biểu ngữ, in từng tờ truyền đơn, vẽ hình Phương Uyên và Nguyên Kha trên từng chiếc áo đã góp phần làm thay đổi “bản án sáu năm tù giam” thành “bản án ba năm tù treo” của Phương Uyên. ĐÚNG như CHƯA ĐỦ
VÌ HÌNH NHƯ số lượng ấy CHƯA TỚI 1 /10,000 hay 1 /100,000 trên số 80 % dân số 90,000,000 (trừ đi 4,000,000 âm binh quỷ đỏ!! )
86,000,000 nhân với 1 /10,000 đã có 8,600 bạn trẻ xuống đường biểu tình BẤT BẠO ĐỘNG
Có 8,600 bạn trẻ xuống đường biểu tình BẤT BẠO ĐỘNG
Có 4,300 bạn trẻ xuống đường biểu tình BẤT BẠO ĐỘNG tại HỒ GƯƠM Hà Nội !!
Có 4,300 bạn trẻ xuống đường biểu tình BẤT BẠO ĐỘNG tại CHỢ BẾN THÀNH Sài Gòn !!
SẼ GÂY BIẾT BAO TIẾNG VANG trong cả NƯỚC và trên THẾ GIỚI !!!!
Chính đồng bào các giới khắp nơi tại hải ngoại tích cực tham gia những cuộc biểu tình liên tục trước Tòa Bạch Ốc, điện Capitol, trước các tòa đại sứ CSVN đã giúp cho Phương Uyên tìm lại được nụ cười hồn nhiên trong vòng tay của gia đình, bạn bè và bà con thân thuộc.
ĐÚNG như CHƯA ĐỦ
VÌ HÌNH NHƯ số lượng ấy CHƯA TỚI 1 /1,000 hay 1 /10,000 trên số 4,000,000 việt kiều hải ngoại
CHỈ CẦN 1 /1,000 việt kiều hải ngoại về QUÊ ĂN TẾT (500,000 việt kiều !! với
1 /1,000 việt kiều XẾP HÀNG biểu tình BẤT BẠO ĐỘNG thì đã có 500 việt kiều !!
250 việt kiều tại HỒ GƯƠM Hà Nội !!
250 việt kiều tại CHỢ BẾN THÀNH Sài Gòn !
SẼ GÂY BIẾT BAO TIẾNG VANG trong cả NƯỚC và trên THẾ GIỚI !!!!!!!!
Chính các bạn trẻ ngoài nước tổ chức những đêm không ngủ, gởi hàng ngàn lá thư lên các tổ chức nhân quyền quốc tế, tổng thống và quốc hội Mỹ, các lãnh đạo châu Âu, các cơ quan nhân quyền thuộc Liên Hiệp Quốc đã giúp cho Phương Uyên được ngồi ăn bữa cơm bên mẹ chiều nay.
DÙ SAO CŨNG xin cảm ơn QUÝ VỊ tha thiết vì CÔNG LÝ vì TƯƠNG LAI Đất Nước và vì Phương Uyên
Cuộc vận động tự do dân chủ cho cả dân tộc là con đường đầy gai góc, gian nan nhưng là con đường chính nghĩa và chính nghĩa sẽ tất thắng.
Tôi rất thông cảm tinh thần lạc quan vừa phải của tác giả Trần Trung Đạo
Nhưng hãy nhìn những DÂN TỘC như AI CẬP văn minh 7.000 NĂM rực rỡ so bì gì nổi NGÔ CẨU mà bọn Hồi giáo mới hơn 1700 NĂM gấp gần 100 LẦN bọn MAO-HỒ hãy nhìn DÂN TỘC AI CẬP, rồi những DÂN TỘC KHÁC
như DÂN TỘC LYBIA văn cổ tùng xẻo thằng KADAFI
như DÂN TỘC TUNISIA tống cổ thằng độc tài
như DÂN TỘC Miến Điện gần sát nách
1- Đáng mừng: THÌ ÍT
2- Đáng lo : THÌ NHIỀU .. .. đành rằng buông đao xuống thành PHẬT nhung lo nhất là bọn cháu bác đang dân chủ cơ hội !.. với tiền bạc chúng hốt của Dân đớp hít từ vay nợ Ngân hàng quốc tế .. ..chúng ta mưu tính !!!!!!
NẾU CỨ hình thức MÀ KHÔNG hiện thực những PHONG TRÀO NHỎ
như đòi thả TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM,
lập CÔNG ĐOÀN TỰ DO đấu tranh cho CÔNG NHÂN bị bọn đầu từ ngoại quốc đặc biệt GỐC HÁN như ĐÀI LOAN, TÀU, SINGAPORE, ....
tranh đấu chống ô nhiễm MOI SINH như BÔ XÍT TÂY NGUYÊN ....
thì cho dù lập 1.000 CÁI ĐẢNG dân củ xã hôi xả thối THÌ CŨNG GIỐNG như cái ĐẢNG VỊT CỘNG do THẰNG BÁC Trần DâM Tiên HCMeo đã làm ra thôi !!!!
Hãy làm những việc BÌNH THƯỜNG CƠ BẢN như Nhà Dân chủ trẻ Nguyễn Phương Uyên
Coi chừng phá xích cũ không khéo tự mang xiềng mới !
**************************************
« Tôi nghĩ hành động của mình nhỏ bé thôi... tôi mừng và tự hào vì đã cống hiến cho đất nước, khơi dậy lòng yêu nước của các bạn trẻ, để họ không còn vô cảm nữa. »
Nhà Dân chủ trẻ Nguyễn Phương Uyên
Phá xích cũ không khéo tự mang xiềng mới ? ? ?
Vì nếp nhăn trong não sọ khá lâu rồi !
Phải cần đổi cách suy tưởng ngày tháng cũ
Không khéo chỉ nhiệt tình lại đập phá thôi ! ! !
Như hàng triệu nhiệt huyết Mùa Thu năm ấy
Trao nhầm cho tên Phù thủy tim đen mỏ đỏ cò mồi .. ..
Nay chợt tỉnh khao khát Tự do Dân chủ như du mục
Ảo giác thấy nước long lanh ốc đảo cuối chân trời
Từ thái cực này lao đầu thịt vào tường cực thép khác !
Không khéo phá xích cũ rồi lại tự mang xiềng mới thật hời
Đừng cảm tính Đảng Dân Chủ Xã Hội toàn là người yêu nước !
Lại toàn trí ngủ iêu nƯỚC vịt kìu iêu nƯỚC chết toi thôi
Lại ăn trùm kết án đảng đối lập là quân phản động phản quốc
Vì chắc lũ bây không học tập nghị quyết đại hội đảng tớ rồi !
Đảng chính nghĩa vì Dân cho Dân bằng chương trình lập pháp
Cần tự lột xác tự tẩy não mình nhập vào cuộc chơi
Hàng ngày hàng đêm suy nghĩ theo lối Tự do - Dân chủ
Đòi thả Tù nhân Lương tâm bằng Tôn giáo dâng vào đời
Bảo vệ môi sinh lập công đoàn bằng xã hội dân sự
Cống hiến cho Tổ Quốc như hàng chục triệu giọt nước hóa trùng khơi
Phá nhân nguyên tử còn dễ hơn phá vỡ định kiến (1)
Quá trình tự tu dưỡng mình không thể buông lơi ! ! !
TRIỆU LƯƠNG DÂN
(1) Phá vỡ hạt nhân nguyên tử còn dễ hơn phá vỡ định kiến của một dân tộc
Nhà bác học Albert EINSTEIN
Làm đổ chế độ PHẢN DÂN BÁN NƯỚC với tốc độ NHƯ THẾ NÀY với vận tốc THONG THẢ như thế ấy THÌ ĐẾN 1.000.000 NĂM nữa VIỆT NAM mới được cái chiến thắng 1 phần 1000 ấy của DÂN TỘC Miến Điện
Tôi vẫn còn giữ QUỐC TỊCH VIỆT gần 40 năm lưu vong cảm thấy DÂN VIỆT vào THỜI ĐỒ ĐỂU HCM không đáng xách bô cho các DÂN TỘC Miến Điện AI CẬP .....Thật nhục cho TỔ TIẾN TA từng đánh bại 3 lần MÔNG CỔ !!!!
VÌ HÌNH NHƯ số lượng ấy CHƯA TỚI 1 /10,000 hay 1 /100,000 trên số 80 % dân số 90,000,000 (trừ đi 4,000,000 âm binh quỷ đỏ!! )
86,000,000 nhân với 1 /10,000 đã có 8,600 bạn trẻ xuống đường biểu tình BẤT BẠO ĐỘNG
Có 8,600 bạn trẻ xuống đường biểu tình BẤT BẠO ĐỘNG
Có 4,300 bạn trẻ xuống đường biểu tình BẤT BẠO ĐỘNG tại HỒ GƯƠM Hà Nội !!
Có 4,300 bạn trẻ xuống đường biểu tình BẤT BẠO ĐỘNG tại CHỢ BẾN THÀNH Sài Gòn !!
SẼ GÂY BIẾT BAO TIẾNG VANG trong cả NƯỚC và trên THẾ GIỚI !!!!
Chính đồng bào các giới khắp nơi tại hải ngoại tích cực tham gia những cuộc biểu tình liên tục trước Tòa Bạch Ốc, điện Capitol, trước các tòa đại sứ CSVN đã giúp cho Phương Uyên tìm lại được nụ cười hồn nhiên trong vòng tay của gia đình, bạn bè và bà con thân thuộc.
ĐÚNG như CHƯA ĐỦ
VÌ HÌNH NHƯ số lượng ấy CHƯA TỚI 1 /1,000 hay 1 /10,000 trên số 4,000,000 việt kiều hải ngoại
CHỈ CẦN 1 /1,000 việt kiều hải ngoại về QUÊ ĂN TẾT (500,000 việt kiều !! với
1 /1,000 việt kiều XẾP HÀNG biểu tình BẤT BẠO ĐỘNG thì đã có 500 việt kiều !!
250 việt kiều tại HỒ GƯƠM Hà Nội !!
250 việt kiều tại CHỢ BẾN THÀNH Sài Gòn !
SẼ GÂY BIẾT BAO TIẾNG VANG trong cả NƯỚC và trên THẾ GIỚI !!!!!!!!
Chính các bạn trẻ ngoài nước tổ chức những đêm không ngủ, gởi hàng ngàn lá thư lên các tổ chức nhân quyền quốc tế, tổng thống và quốc hội Mỹ, các lãnh đạo châu Âu, các cơ quan nhân quyền thuộc Liên Hiệp Quốc đã giúp cho Phương Uyên được ngồi ăn bữa cơm bên mẹ chiều nay.
DÙ SAO CŨNG xin cảm ơn QUÝ VỊ tha thiết vì CÔNG LÝ vì TƯƠNG LAI Đất Nước và vì Phương Uyên
Cuộc vận động tự do dân chủ cho cả dân tộc là con đường đầy gai góc, gian nan nhưng là con đường chính nghĩa và chính nghĩa sẽ tất thắng.
Tôi rất thông cảm tinh thần lạc quan vừa phải của tác giả Trần Trung Đạo
Nhưng hãy nhìn những DÂN TỘC như AI CẬP văn minh 7.000 NĂM rực rỡ so bì gì nổi NGÔ CẨU mà bọn Hồi giáo mới hơn 1700 NĂM gấp gần 100 LẦN bọn MAO-HỒ hãy nhìn DÂN TỘC AI CẬP, rồi những DÂN TỘC KHÁC
như DÂN TỘC LYBIA văn cổ tùng xẻo thằng KADAFI
như DÂN TỘC TUNISIA tống cổ thằng độc tài
như DÂN TỘC Miến Điện gần sát nách
1- Đáng mừng: THÌ ÍT
2- Đáng lo : THÌ NHIỀU .. .. đành rằng buông đao xuống thành PHẬT nhung lo nhất là bọn cháu bác đang dân chủ cơ hội !.. với tiền bạc chúng hốt của Dân đớp hít từ vay nợ Ngân hàng quốc tế .. ..chúng ta mưu tính !!!!!!
NẾU CỨ hình thức MÀ KHÔNG hiện thực những PHONG TRÀO NHỎ
như đòi thả TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM,
lập CÔNG ĐOÀN TỰ DO đấu tranh cho CÔNG NHÂN bị bọn đầu từ ngoại quốc đặc biệt GỐC HÁN như ĐÀI LOAN, TÀU, SINGAPORE, ....
tranh đấu chống ô nhiễm MOI SINH như BÔ XÍT TÂY NGUYÊN ....
thì cho dù lập 1.000 CÁI ĐẢNG dân củ xã hôi xả thối THÌ CŨNG GIỐNG như cái ĐẢNG VỊT CỘNG do THẰNG BÁC Trần DâM Tiên HCMeo đã làm ra thôi !!!!
Hãy làm những việc BÌNH THƯỜNG CƠ BẢN như Nhà Dân chủ trẻ Nguyễn Phương Uyên
Coi chừng phá xích cũ không khéo tự mang xiềng mới !
**************************************
« Tôi nghĩ hành động của mình nhỏ bé thôi... tôi mừng và tự hào vì đã cống hiến cho đất nước, khơi dậy lòng yêu nước của các bạn trẻ, để họ không còn vô cảm nữa. »
Nhà Dân chủ trẻ Nguyễn Phương Uyên
Phá xích cũ không khéo tự mang xiềng mới ? ? ?
Vì nếp nhăn trong não sọ khá lâu rồi !
Phải cần đổi cách suy tưởng ngày tháng cũ
Không khéo chỉ nhiệt tình lại đập phá thôi ! ! !
Như hàng triệu nhiệt huyết Mùa Thu năm ấy
Trao nhầm cho tên Phù thủy tim đen mỏ đỏ cò mồi .. ..
Nay chợt tỉnh khao khát Tự do Dân chủ như du mục
Ảo giác thấy nước long lanh ốc đảo cuối chân trời
Từ thái cực này lao đầu thịt vào tường cực thép khác !
Không khéo phá xích cũ rồi lại tự mang xiềng mới thật hời
Đừng cảm tính Đảng Dân Chủ Xã Hội toàn là người yêu nước !
Lại toàn trí ngủ iêu nƯỚC vịt kìu iêu nƯỚC chết toi thôi
Lại ăn trùm kết án đảng đối lập là quân phản động phản quốc
Vì chắc lũ bây không học tập nghị quyết đại hội đảng tớ rồi !
Đảng chính nghĩa vì Dân cho Dân bằng chương trình lập pháp
Cần tự lột xác tự tẩy não mình nhập vào cuộc chơi
Hàng ngày hàng đêm suy nghĩ theo lối Tự do - Dân chủ
Đòi thả Tù nhân Lương tâm bằng Tôn giáo dâng vào đời
Bảo vệ môi sinh lập công đoàn bằng xã hội dân sự
Cống hiến cho Tổ Quốc như hàng chục triệu giọt nước hóa trùng khơi
Phá nhân nguyên tử còn dễ hơn phá vỡ định kiến (1)
Quá trình tự tu dưỡng mình không thể buông lơi ! ! !
TRIỆU LƯƠNG DÂN
(1) Phá vỡ hạt nhân nguyên tử còn dễ hơn phá vỡ định kiến của một dân tộc
Nhà bác học Albert EINSTEIN
Làm đổ chế độ PHẢN DÂN BÁN NƯỚC với tốc độ NHƯ THẾ NÀY với vận tốc THONG THẢ như thế ấy THÌ ĐẾN 1.000.000 NĂM nữa VIỆT NAM mới được cái chiến thắng 1 phần 1000 ấy của DÂN TỘC Miến Điện
Tôi vẫn còn giữ QUỐC TỊCH VIỆT gần 40 năm lưu vong cảm thấy DÂN VIỆT vào THỜI ĐỒ ĐỂU HCM không đáng xách bô cho các DÂN TỘC Miến Điện AI CẬP .....Thật nhục cho TỔ TIẾN TA từng đánh bại 3 lần MÔNG CỔ !!!!
33. Phương Uyên: Tôi yêu Tổ quốc, nhưng xin đừng đánh đồng với Đảng
Posted by basamnews on August 17th, 2013
RFI tiếng Việt
Thụy My thực hiện
Vừa được trả tự do tại tòa phúc thẩm ở Long An chiều nay 16/08 (giờ Việt Nam), trong vòng tay vui mừng khôn tả của người thân, bạn bè và những người ủng hộ, đến tối sinh viên Nguyễn Phương Uyên đã có mặt ở Saigon tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, nơi diễn ra một buổi liên hoan nho nhỏ để chào đón Uyên.
Trong không khí đầy xúc động này, Nguyễn Phương Uyên đã vui lòng dành thì giờ trả lời RFI Việt ngữ.
RFI: Thân chào Phương Uyên và xin chúc mừng bạn! Uyên có nghĩ mình sẽ được trả tự do hôm nay không?
Nguyễn Phương Uyên: Dạ không, tại vì rất là khó khăn, rất là khắt khe. Bởi vậy mà em không nghĩ là giờ này em được tiếp xúc với mọi người như thế này. Cảm giác rất là khó tả, vì bị giam đã mười tháng hai ngày, em mới được tiếp xúc với một bầu không khí khác với trại giam, một bầu không khí của sự tự do!
RFI: Trong phiên tòa phúc thẩm hôm nay Uyên đã nói những gì?
Dạ, tại phiên tòa phúc thẩm có ba vấn đề chính em đã đặt ra. Thứ nhất là về thẩm quyền: cơ quan của Long An không có thẩm quyền đối với vụ án của em.
Thứ hai là nói về cái hành động của em. Em cho là không phạm vào điều 88 là chống Nhà nước. Em vẫn yêu Tổ quốc của mình đấy thôi. Em chỉ có xúc phạm đến Đảng. Vì Đảng chỉ là một tổ chức nên không cào bằng được. Không vì cái sự quá tôn sùng một đảng phái mà mọi người, nhất là Hội đồng xét xử cũng như Viện kiểm sát cào bằng Đảng với Nhà nước Việt Nam.
Thứ ba là em nói ngắn gọn về sự khác nhau giữa phiên tòa sơ thẩm và giấy của tòa sơ thẩm gởi xuống cho em – có rất nhiều sự khác biệt. Mà em cho rằng đó là một bản án có trước, không công minh và không có sự công bằng. Đã có một sự sắp xếp trước, làm cho em cảm thấy thất vọng thêm về những gì đang diễn ra.
Tuy nhiên phiên tòa phúc thẩm lần này đã cho em một đốm lửa hy vọng, cùng với sự tin yêu vào mọi người. Cảm ơn mọi người rất là nhiều! Bây giờ em được như thế này là nhờ một phần rất là to lớn của mọi người, ở trong nước cũng như trên thế giới, đã đứng về phía em, cho em cơ hội nói lên quan điểm của mình tại một đất nước ở chế độ cộng sản.
RFI: Vì sao Uyên tự bào chữa mà không nhờ luật sư?
Tại phiên tòa sơ thẩm, mặc dù hai luật sư đã nói rất là nhiều, nhưng mà em thấy quyền hạn của luật sư rất là ít ỏi, thậm chí không có! Cho nên em sẽ tự bào chữa, bởi vì nếu quyền hạn không có thì không nên nhờ. Nếu tự nói thì sẽ tạo được nhiều cơ hội để em đối đáp với Viện kiểm sát cũng như Hội đồng xét xử. Sẽ có nhiều cơ hội để được nói hơn, em muốn nói lên tất cả những suy nghĩ của mình.
Điều thứ hai khiến em không muốn nhờ bào chữa của luật sư, là trong thời gian tạm giam mười tháng và hai ngày của em, em đã có một tí gọi là vững tâm. Vững tâm vào quan điểm mà mình cần nói. Bởi vậy em nghĩ là mình không có tội thì mình phải tự bào chữa cho chính mình. Cho nên em từ chối nhờ hai luật sư, là bác Lương và bác Sơn bào chữa.
RFI: Làm sao Uyên có thể giữ vững tinh thần được như vậy? Uyên còn trẻ, và chắc chắn là ở trong tù thì không thể như ở ngoài…
Dạ vâng, người ta bảo gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, ở đâu thì lại giống ở đấy thôi. Đôi khi lòng mình vẫn bị lung lay, sợ liên lụy đến những người bạn, đến cả gia đình. Nhưng em suy nghĩ, kinh Phật đã dạy em một câu: Cuộc sống chỉ là giả và tạm, sống trăm năm rồi cuối cùng cũng trở về với cát bụi.
Bởi vậy em không thể nào “bán danh chỉ có ba đồng”. Không thể nào làm trái lương tâm của mình được. Em không thể từ bỏ quan điểm, lập trường của riêng em. Đó là động lực thúc đẩy để em đứng trước tòa, tự bào chữa cho mình, cũng như giữ vững quan điểm và lập trường của mình.
RFI: Uyên vừa dẫn kinh Phật nhưng Uyên lại đang ở trong nhà thờ. Có lẽ đây là dịp để mọi người đoàn kết lại?
Vâng. Em chỉ có thể nói một lời: Cảm ơn tất cả mọi người trong nước cũng như trên thế giới! “We are one”- chúng ta là một, ở đâu cũng vậy, phải có công lý. Công lý và công bằng sẽ phải trở lại! Em hy vọng là trở lại càng sớm càng tốt.
RFI: Vẫn khó thể hiểu được là ở trong trại giam mười tháng rồi mà tinh thần Uyên lại được như vậy…
Đó là một việc không thể nào đoán biết được, em cũng không nghĩ là mình như thế. Ở cái tuổi hai mươi mốt, hai mươi hai này, em không nghĩ là mình như vậy. Nhưng mà em đã rất cố gắng, và nhờ mọi người rất là nhiều, những lúc đi thăm nuôi cùng gia đình em đã cho em động lực rất là lớn.
RFI: Thời gian gần đây Uyên có bị áp lực gì không?
Dạ, áp lực cũng rất là lớn. Mỗi khi gần ra tòa, áp lực đối với em là tại tòa. Phiên tòa có được công khai và minh bạch đúng thực chất hay không, hay là một phiên tòa dựng ra một cách hình thức?
Em mong muốn có những phiên tòa công khai và minh bạch, ở đó em nói lên được những quan điểm của mình, có nhiều người nghe, có nhiều người chứng kiến. Chứ không phải là phiên tòa chỉ mở ra để rồi bản án có sẵn đưa cho mình, thì em không muốn. Vì tòa là phải rõ ràng, công khai, đó là tính khoa học, pháp lý của pháp luật. Đó là sự công bằng. Em mong muốn có sự công bằng ở những phiên tòa.
RFI: Và có lẽ Uyên vẫn tiếp tục phản đối những thái độ hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông?
Dạ vâng, tất nhiên là như thế. Vì trước những thái độ tiêu cực thì phải có những ý kiến để dừng lại. Còn những gì về sau này, thì ngày mai rồi lại đến, “tomorrow will come”. Bởi vậy hãy để xem ngày mai mọi việc diễn biến như thế nào.
RFI: Chắc là bây giờ còn quá sớm để hỏi, nhưng dự định sắp tới của Uyên là gì?
Đó là một bí mật, rất là bất ngờ. Mọi người sẽ chờ xem. Em không thể nói cụ thể được là nó như thế nào, nhưng hy vọng là sẽ không làm mọi người thất vọng.
RFI: Uyên sẽ quay trở lại trường học hay không?
Dạ, học, học nữa, học mãi, con đường học vấn của em không bao giờ dừng lại đâu ạ.
RFI: Cảm ơn Phương Uyên nhiều lắm, và một lần nữa xin chúc mừng Uyên được tự do!
Cảm ơn chị và mọi người đã đứng về phía em rất là nhiều, em được trả lại tự do của mình là nhờ mọi người. Cảm ơn mọi người rất nhiều! Đó là sức mạnh để em vượt qua tất cả, là động lực của em!
RFI tiếng Việt
Thụy My thực hiện
Vừa được trả tự do tại tòa phúc thẩm ở Long An chiều nay 16/08 (giờ Việt Nam), trong vòng tay vui mừng khôn tả của người thân, bạn bè và những người ủng hộ, đến tối sinh viên Nguyễn Phương Uyên đã có mặt ở Saigon tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, nơi diễn ra một buổi liên hoan nho nhỏ để chào đón Uyên.
Trong không khí đầy xúc động này, Nguyễn Phương Uyên đã vui lòng dành thì giờ trả lời RFI Việt ngữ.
RFI: Thân chào Phương Uyên và xin chúc mừng bạn! Uyên có nghĩ mình sẽ được trả tự do hôm nay không?
Nguyễn Phương Uyên: Dạ không, tại vì rất là khó khăn, rất là khắt khe. Bởi vậy mà em không nghĩ là giờ này em được tiếp xúc với mọi người như thế này. Cảm giác rất là khó tả, vì bị giam đã mười tháng hai ngày, em mới được tiếp xúc với một bầu không khí khác với trại giam, một bầu không khí của sự tự do!
RFI: Trong phiên tòa phúc thẩm hôm nay Uyên đã nói những gì?
Dạ, tại phiên tòa phúc thẩm có ba vấn đề chính em đã đặt ra. Thứ nhất là về thẩm quyền: cơ quan của Long An không có thẩm quyền đối với vụ án của em.
Thứ hai là nói về cái hành động của em. Em cho là không phạm vào điều 88 là chống Nhà nước. Em vẫn yêu Tổ quốc của mình đấy thôi. Em chỉ có xúc phạm đến Đảng. Vì Đảng chỉ là một tổ chức nên không cào bằng được. Không vì cái sự quá tôn sùng một đảng phái mà mọi người, nhất là Hội đồng xét xử cũng như Viện kiểm sát cào bằng Đảng với Nhà nước Việt Nam.
Thứ ba là em nói ngắn gọn về sự khác nhau giữa phiên tòa sơ thẩm và giấy của tòa sơ thẩm gởi xuống cho em – có rất nhiều sự khác biệt. Mà em cho rằng đó là một bản án có trước, không công minh và không có sự công bằng. Đã có một sự sắp xếp trước, làm cho em cảm thấy thất vọng thêm về những gì đang diễn ra.
Tuy nhiên phiên tòa phúc thẩm lần này đã cho em một đốm lửa hy vọng, cùng với sự tin yêu vào mọi người. Cảm ơn mọi người rất là nhiều! Bây giờ em được như thế này là nhờ một phần rất là to lớn của mọi người, ở trong nước cũng như trên thế giới, đã đứng về phía em, cho em cơ hội nói lên quan điểm của mình tại một đất nước ở chế độ cộng sản.
RFI: Vì sao Uyên tự bào chữa mà không nhờ luật sư?
Tại phiên tòa sơ thẩm, mặc dù hai luật sư đã nói rất là nhiều, nhưng mà em thấy quyền hạn của luật sư rất là ít ỏi, thậm chí không có! Cho nên em sẽ tự bào chữa, bởi vì nếu quyền hạn không có thì không nên nhờ. Nếu tự nói thì sẽ tạo được nhiều cơ hội để em đối đáp với Viện kiểm sát cũng như Hội đồng xét xử. Sẽ có nhiều cơ hội để được nói hơn, em muốn nói lên tất cả những suy nghĩ của mình.
Điều thứ hai khiến em không muốn nhờ bào chữa của luật sư, là trong thời gian tạm giam mười tháng và hai ngày của em, em đã có một tí gọi là vững tâm. Vững tâm vào quan điểm mà mình cần nói. Bởi vậy em nghĩ là mình không có tội thì mình phải tự bào chữa cho chính mình. Cho nên em từ chối nhờ hai luật sư, là bác Lương và bác Sơn bào chữa.
RFI: Làm sao Uyên có thể giữ vững tinh thần được như vậy? Uyên còn trẻ, và chắc chắn là ở trong tù thì không thể như ở ngoài…
Dạ vâng, người ta bảo gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, ở đâu thì lại giống ở đấy thôi. Đôi khi lòng mình vẫn bị lung lay, sợ liên lụy đến những người bạn, đến cả gia đình. Nhưng em suy nghĩ, kinh Phật đã dạy em một câu: Cuộc sống chỉ là giả và tạm, sống trăm năm rồi cuối cùng cũng trở về với cát bụi.
Bởi vậy em không thể nào “bán danh chỉ có ba đồng”. Không thể nào làm trái lương tâm của mình được. Em không thể từ bỏ quan điểm, lập trường của riêng em. Đó là động lực thúc đẩy để em đứng trước tòa, tự bào chữa cho mình, cũng như giữ vững quan điểm và lập trường của mình.
RFI: Uyên vừa dẫn kinh Phật nhưng Uyên lại đang ở trong nhà thờ. Có lẽ đây là dịp để mọi người đoàn kết lại?
Vâng. Em chỉ có thể nói một lời: Cảm ơn tất cả mọi người trong nước cũng như trên thế giới! “We are one”- chúng ta là một, ở đâu cũng vậy, phải có công lý. Công lý và công bằng sẽ phải trở lại! Em hy vọng là trở lại càng sớm càng tốt.
RFI: Vẫn khó thể hiểu được là ở trong trại giam mười tháng rồi mà tinh thần Uyên lại được như vậy…
Đó là một việc không thể nào đoán biết được, em cũng không nghĩ là mình như thế. Ở cái tuổi hai mươi mốt, hai mươi hai này, em không nghĩ là mình như vậy. Nhưng mà em đã rất cố gắng, và nhờ mọi người rất là nhiều, những lúc đi thăm nuôi cùng gia đình em đã cho em động lực rất là lớn.
RFI: Thời gian gần đây Uyên có bị áp lực gì không?
Dạ, áp lực cũng rất là lớn. Mỗi khi gần ra tòa, áp lực đối với em là tại tòa. Phiên tòa có được công khai và minh bạch đúng thực chất hay không, hay là một phiên tòa dựng ra một cách hình thức?
Em mong muốn có những phiên tòa công khai và minh bạch, ở đó em nói lên được những quan điểm của mình, có nhiều người nghe, có nhiều người chứng kiến. Chứ không phải là phiên tòa chỉ mở ra để rồi bản án có sẵn đưa cho mình, thì em không muốn. Vì tòa là phải rõ ràng, công khai, đó là tính khoa học, pháp lý của pháp luật. Đó là sự công bằng. Em mong muốn có sự công bằng ở những phiên tòa.
RFI: Và có lẽ Uyên vẫn tiếp tục phản đối những thái độ hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông?
Dạ vâng, tất nhiên là như thế. Vì trước những thái độ tiêu cực thì phải có những ý kiến để dừng lại. Còn những gì về sau này, thì ngày mai rồi lại đến, “tomorrow will come”. Bởi vậy hãy để xem ngày mai mọi việc diễn biến như thế nào.
RFI: Chắc là bây giờ còn quá sớm để hỏi, nhưng dự định sắp tới của Uyên là gì?
Đó là một bí mật, rất là bất ngờ. Mọi người sẽ chờ xem. Em không thể nói cụ thể được là nó như thế nào, nhưng hy vọng là sẽ không làm mọi người thất vọng.
RFI: Uyên sẽ quay trở lại trường học hay không?
Dạ, học, học nữa, học mãi, con đường học vấn của em không bao giờ dừng lại đâu ạ.
RFI: Cảm ơn Phương Uyên nhiều lắm, và một lần nữa xin chúc mừng Uyên được tự do!
Cảm ơn chị và mọi người đã đứng về phía em rất là nhiều, em được trả lại tự do của mình là nhờ mọi người. Cảm ơn mọi người rất nhiều! Đó là sức mạnh để em vượt qua tất cả, là động lực của em!
32. Phở Sài Gòn Hôm Nay
Sau năm biến cố 1975, từ thời bao cấp ăn bo bo bột mì đến thời mở cửa hội nhập gà rán Kentucky, pizza, biết bao nhiêu số phận người Việt đã ninh nhừ vị đời, nhưng điểm lại, trong mấy món ăn ngon mà người Sài Gòn chọn chưa bao giờ Phở xuống hàng thứ hai.
Một ông làm báo lão làng nói: “Hãy đến tiệm của khu người Bắc di cư để thưởng thức phở Sài Gòn. Theo tôi chỉ có phở Sài Gòn là ngon nhất.” Nếu trước năm 1975 mà khẳng định như thế thì không có gì lạ, bởi món phở chính là một trong những biểu tượng sáng nhất của hành trình văn hoá di cư Bắc-Nam. Nhưng từ biến cố 1975, nhiều người bình dân miền Nam đã dùng cách tính của bài cào để phân biệt người Bắc chín nút, người Bắc hai nút thì mọi thứ đã vật đổi sao dời huống gì là món phở. Nếu ai đó vẫn khẳng định món phở ngon nhất vẫn thuộc về tác quyền của người Bắc di cư thì hẳn họ đã nhận thức rõ ràng rằng: Xuyên qua bối cảnh lịch sử và văn hoá đương đại biến động, phở Sài Gòn không giữ cốt cách theo lối khiến cho lão làng già cỗi hoặc lạc hậu khẩu vị. Phở Sài Gòn là số một, bởi vì phở Sài Gòn luôn trẻ, luôn rộng lòng chịu sống, chịu chơi trong tinh thần cạnh tranh với mọi “công quốc” phở khác ngay trên chính Sài Gòn. 'Công quốc phở'
Nếu nói các khu người Bắc di cư ở Sài Gòn là một cường quốc phở thì cũng không có gì quá đáng. Người ta cũng biết một những công quốc phở nhỏ hơn nhưng cũng có bề dầy lịch sử đáng nể là phở Chợ Lớn với mùi vị hủ tíu bò tái, hủ tíu bò viên. Từ năm 1975, người Bắc nhập cư mang vào những “công quốc” nhỏ hơn như phở Bắc Hải, Gia Truyền, Phở Lý Quốc Sư… vị trí địa lý của những công quốc phở này đương nhiên là ở các khu có đông cán bộ và người lao động Bắc nhập cư như quận 1, quận 3, quận 7. Một dạo người ta còn thấy nổi lên “công quốc” phở Nhật Bổn trên đường Đồng Khởi ( Tự Do cũ), tô phở ở đây tuy bình thường nhưng có ham muốn đưa “đại dương” vào phở gồm có cả tôm, mực, nghêu, sò.
Nhưng nếu tính trào lưu lập quốc mới thì phải tính các “công quốc” phở có mùi vị Việt kiều như phở 24, phở 2000 và gần đây gây tò mò và thương cảm là “công quốc” phở cựu phu nhân Kỳ Râu. Như phong trào thơ mới theo chân những thi sĩ xứ Bắc Hà di cư, tìm thấy đất mới để gieo giống và đã mở ra một thời kỳ hậu thơ mới ở Sài Gòn, phở cũng giống như thế. Có thể mượn tạm ngôn ngữ Thiền để nói rộng hơn. Phở và văn hoá Phở là một hành giả du cư làm nên một cuộc lữ hành suốt chiều dài đất nước và đã trao y bát chân truyền cho xứ Sài Gòn- Gia Định. Nói về cốt cách phở Sài Gòn tức là về phẩm chất nồi nước dùng - nước lèo nguyên gốc tinh hoa phở Trần Tiến Dũng Bạn tôi, một nhà báo trẻ, cô sinh ra ở miền Bắc, học ở Đà Lạt nhưng làm việc ở Sài Gòn, tôi hỏi cô: “Ở Sài Gòn tiệm phở nào ngon?”
Một ông làm báo lão làng nói: “Hãy đến tiệm của khu người Bắc di cư để thưởng thức phở Sài Gòn. Theo tôi chỉ có phở Sài Gòn là ngon nhất.” Nếu trước năm 1975 mà khẳng định như thế thì không có gì lạ, bởi món phở chính là một trong những biểu tượng sáng nhất của hành trình văn hoá di cư Bắc-Nam. Nhưng từ biến cố 1975, nhiều người bình dân miền Nam đã dùng cách tính của bài cào để phân biệt người Bắc chín nút, người Bắc hai nút thì mọi thứ đã vật đổi sao dời huống gì là món phở. Nếu ai đó vẫn khẳng định món phở ngon nhất vẫn thuộc về tác quyền của người Bắc di cư thì hẳn họ đã nhận thức rõ ràng rằng: Xuyên qua bối cảnh lịch sử và văn hoá đương đại biến động, phở Sài Gòn không giữ cốt cách theo lối khiến cho lão làng già cỗi hoặc lạc hậu khẩu vị. Phở Sài Gòn là số một, bởi vì phở Sài Gòn luôn trẻ, luôn rộng lòng chịu sống, chịu chơi trong tinh thần cạnh tranh với mọi “công quốc” phở khác ngay trên chính Sài Gòn. 'Công quốc phở'
Nếu nói các khu người Bắc di cư ở Sài Gòn là một cường quốc phở thì cũng không có gì quá đáng. Người ta cũng biết một những công quốc phở nhỏ hơn nhưng cũng có bề dầy lịch sử đáng nể là phở Chợ Lớn với mùi vị hủ tíu bò tái, hủ tíu bò viên. Từ năm 1975, người Bắc nhập cư mang vào những “công quốc” nhỏ hơn như phở Bắc Hải, Gia Truyền, Phở Lý Quốc Sư… vị trí địa lý của những công quốc phở này đương nhiên là ở các khu có đông cán bộ và người lao động Bắc nhập cư như quận 1, quận 3, quận 7. Một dạo người ta còn thấy nổi lên “công quốc” phở Nhật Bổn trên đường Đồng Khởi ( Tự Do cũ), tô phở ở đây tuy bình thường nhưng có ham muốn đưa “đại dương” vào phở gồm có cả tôm, mực, nghêu, sò.
Nhưng nếu tính trào lưu lập quốc mới thì phải tính các “công quốc” phở có mùi vị Việt kiều như phở 24, phở 2000 và gần đây gây tò mò và thương cảm là “công quốc” phở cựu phu nhân Kỳ Râu. Như phong trào thơ mới theo chân những thi sĩ xứ Bắc Hà di cư, tìm thấy đất mới để gieo giống và đã mở ra một thời kỳ hậu thơ mới ở Sài Gòn, phở cũng giống như thế. Có thể mượn tạm ngôn ngữ Thiền để nói rộng hơn. Phở và văn hoá Phở là một hành giả du cư làm nên một cuộc lữ hành suốt chiều dài đất nước và đã trao y bát chân truyền cho xứ Sài Gòn- Gia Định. Nói về cốt cách phở Sài Gòn tức là về phẩm chất nồi nước dùng - nước lèo nguyên gốc tinh hoa phở Trần Tiến Dũng Bạn tôi, một nhà báo trẻ, cô sinh ra ở miền Bắc, học ở Đà Lạt nhưng làm việc ở Sài Gòn, tôi hỏi cô: “Ở Sài Gòn tiệm phở nào ngon?”
Cô nhìn tôi như thể tôi là người sống ở xứ lạ hoắc nào đó, rồi trả lời: “Phở Sài Gòn ngon chứ phở nào.” Tôi bật cười trước cái cách cô xác định rằng trong thế giới phở của thành phố này chỉ phở đúng kiểu Sài Gòn mới là ngon. Một thời gian dài trước và sau biến cố 1975, những tiệm phở nổi tiếng nằm kề nhau trên đường Pasteur là biểu tượng của phở Sài Gòn. Vẻ ngoài, hình ảnh đậm đà trên bàn phở của một tiệm phở Sài Gòn luôn là những dĩa rau thơm các loại và tương xay đen và đỏ.
Nhưng khi ăn thì giá đậu xanh trụng chín hoặc giá sống lại là kiểu cách phở Sài Gòn. Đến tận ngày nay, còn vài chủ tiệm phở có gốc bắc di cư ở Sài Gòn vẫn cố “phòng thủ” không chấp nhận bán phở với giá đậu xanh và tương đen, nhưng hầu hết đều phải chìu khách bằng dĩa rau thơm, tương đỏ. Chúng tôi tin rằng bạn có thể ăn một tô phở Sài Gòn thật ngon khi đến tiệm Phú Hương trên đường Bạch Đằng Gần chợ Bà Chiểu, nước lèo ở đây trong và miếng thịt chín thơm mềm kiều như nhà văn Vũ Bằng đã tả.
Nhưng khi ăn thì giá đậu xanh trụng chín hoặc giá sống lại là kiểu cách phở Sài Gòn. Đến tận ngày nay, còn vài chủ tiệm phở có gốc bắc di cư ở Sài Gòn vẫn cố “phòng thủ” không chấp nhận bán phở với giá đậu xanh và tương đen, nhưng hầu hết đều phải chìu khách bằng dĩa rau thơm, tương đỏ. Chúng tôi tin rằng bạn có thể ăn một tô phở Sài Gòn thật ngon khi đến tiệm Phú Hương trên đường Bạch Đằng Gần chợ Bà Chiểu, nước lèo ở đây trong và miếng thịt chín thơm mềm kiều như nhà văn Vũ Bằng đã tả.
Với kiểu cách không có giá sống, bạn có thể đến phở Tàu Bay, tuy ngày nay vị nước dùng của hiệu phở này có sút giảm chút chút, nhưng vị ngọt thanh vẫn không lẫn lộn. Nếu bạn cần mùi vị gần với phở Bắc gốc thì có thể ghé qua phở Dậu còn tên khác là phở khu phố văn hoá, trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Công Lý cũ) phở không giá, không rau thơm, chỉ có thêm một chén hành tây xắt mỏng nhưng vị thịt và bánh phở thì khó chê. Thật khó mà kể hết, tả đủ về phở ngon gốc Bắc nhưng phát tinh hoa ở Sài Gòn.
Ngày nay cũng nên nếm qua vài kiểu phở mới chế hoặc mới du nhập, nhiều người nói rằng ăn phở mà vào tiệm ăn rực rỡ sang trọng thì khó có phở ngon. Nhưng việc một tô phở trông vệ sinh và sang cả như phở 2000, phở 24 hoặc phở ở các khách sạn cao cấp không vì có không khí giàu có mà mất mùi, lai mùi. Phở Sài Gòn lúc nào cũng đậm đà và những khi nhìn ông Tây, bà Đầm, Cô Nhật, cô cậu Việt kiều húp phở ngon lành là lúc người ta mong muốn được chỉ thêm cho họ một tiệm phở Sài Gòn ngon hơn.
Nếu hỏi tại sao là ngon hơn chứ không là ngon nhất, với phở là vậy. Phở và cái ngon cái đẹp của phở luôn đổi tiệm đổi chủ, bởi chủ nhân đích thực của phở chính là khẩu vị của thực khách sành điệu và tinh tế. Một người bạn tôi nói: “Có khi phở Sài Gòn ngon bây giờ chỉ tìm thấy ở các tiệm phở bên Cali.”
Nếu đúng như vậy thì phải nói thêm là ở bất kỳ đâu trong thế giới hôm nay và tương lai, nơi nào có cộng đồng kiều bào là nơi đó có phở ngon. Bởi ăn một tô phở ngon ở Sài Gòn là được đáp ứng đủ cảm giác, còn ăn một tô phở ngon với người xa xứ lưu vong luôn thiếu hương vị quê nhà và chính cái thiếu ấy lại tạo cảm xúc đầy nhất. Cốt cách phở Sài Gòn Nói về cốt cách phở Sài Gòn tức là về phẩm chất nồi nước dùng - nước lèo nguyên gốc tinh hoa phở.
Tôi có người cha vợ dượng gốc người Bắc di cư từ Nam Định, ông sống ở Sài Gòn với nghề phát hành báo nhưng hàng xóm cứ gọi ông là nhà báo. Báo Sài Gòn thời đó là báo tư nên sập tiệm là chuyện cơm bữa, có một giai đoạn trong đời ông lâm cảnh thất nghiệp, ông dùng tất cả khẩu vị sành điệu của một người mà chuyện ăn, chuyện chơi ở mức tinh tế để dồn hết vào nghề nấu phở. Ông dạy tôi: “Này nhé, Mọi thứ xương của con bò đều vứt, trong cả con bò chỉ riêng xương ống chân của nó mới ninh được nước dùng đúng phở. Người Bắc không ăn phở với giá với rau thơm nhưng vì sao một bát phở ngon như có cả đồng cỏ với suối trong và trời xanh. Ngon đến thế là nhờ xương ống chân của con bò cả đấy.”
Mà thật vậy, nồi nước lèo của ông rất trong, đến bọt sôi cũng trong veo, cả nồi nước lèo với những hạt mở tuỷ bò trong suốt cứ như là hơi sương mai trên đồng cỏ lúc nắng một ngày mới vừa chớm lên. Ông bảo: “Húp thứ nước dùng mở tuỷ bò này thì mồm môi cứ như ngậm sương ấy, ngọt mà trong đến thế mới đúng gọi là ngọt phở. Một bát phở mà có thứ nước lèo không ninh bằng xương ống, lại để nguyên những thứ thịt nhầy bám theo xương thì môi miệng vừa dính vừa hôi mùi mỡ, cứ như người hèn thích mở mồm nói chuyện sang.”
Ngày nay, còn rất ít tiệm phở có nồi nước dùng với cốt cách cổ điển. Thời đại khác, kinh nghiệm và bí quyết nấu phở cũng tinh hơn, có thế mới thoả mãn mồm miệng đa dạng của người đương đại. Đặc điểm tối ưu của món phở là không mùi vị nồi nước dùng nào giống nhau. Thật sự chỉ có phở Sài Gòn mới có đủ sự đa dạng của mùi vị phở, mới đủ phong phú để đánh bại mọi tham vọng ngớ ngẩn muốn thâu mọi “công quốc” phở vào một công thức nấu phở, “thống nhất” trong thể chế độc quyền, độc tài phở.
Bài thể hiện quan điểm và văn phong riêng của tác giả Trần Tiến Dũng, hiện sống tại Sài Gòn.
Mà thật vậy, nồi nước lèo của ông rất trong, đến bọt sôi cũng trong veo, cả nồi nước lèo với những hạt mở tuỷ bò trong suốt cứ như là hơi sương mai trên đồng cỏ lúc nắng một ngày mới vừa chớm lên. Ông bảo: “Húp thứ nước dùng mở tuỷ bò này thì mồm môi cứ như ngậm sương ấy, ngọt mà trong đến thế mới đúng gọi là ngọt phở. Một bát phở mà có thứ nước lèo không ninh bằng xương ống, lại để nguyên những thứ thịt nhầy bám theo xương thì môi miệng vừa dính vừa hôi mùi mỡ, cứ như người hèn thích mở mồm nói chuyện sang.”
Ngày nay, còn rất ít tiệm phở có nồi nước dùng với cốt cách cổ điển. Thời đại khác, kinh nghiệm và bí quyết nấu phở cũng tinh hơn, có thế mới thoả mãn mồm miệng đa dạng của người đương đại. Đặc điểm tối ưu của món phở là không mùi vị nồi nước dùng nào giống nhau. Thật sự chỉ có phở Sài Gòn mới có đủ sự đa dạng của mùi vị phở, mới đủ phong phú để đánh bại mọi tham vọng ngớ ngẩn muốn thâu mọi “công quốc” phở vào một công thức nấu phở, “thống nhất” trong thể chế độc quyền, độc tài phở.
Bài thể hiện quan điểm và văn phong riêng của tác giả Trần Tiến Dũng, hiện sống tại Sài Gòn.
31. Trăng mười bốn Hoi An
Trăng 14 Hội An
Nguyễn Thị Hậu
Hội ngộ rồi chia ly, cuộc đời vẫn thế…
Mỗi ngày mặt trời mọc rồi lặn, dù ở nơi nào thì bình mình rồi cũng trôi đến hòang hôn. Ngày đang đến cũng là đang qua…
Nhưng có những ngày, vào thời khắc bóng tối ngập ngừng bao phủ không gian, phía chân trời lại hiện lên một vầng sáng nhẹ nhàng, trong trẻo, mềm như lụa, dịu như nhung. Mùng Một lưỡi trai, mùng hai lá lúa… vầng sáng dần đầy đặn, để rồi sẽ viên mãn vào ngày Mười sáu thật trăng.
Người ta thường ca ngợi vẻ rực rỡ của đêm rằm 15, vẻ hòan hảo của trăng 16. Thời gian trôi qua, khi đã nhìn thấy, đã trải nghiệm không ít những buồn vui trong cuộc sống, ngỏanh lại, dường như chỉ vầng trăng 14 e ấp dịu dàng là còn mãi trong ký ức ta.
***
Lần đầu tiên tôi đến Hội An cách đây gần ba mươi năm. Khi ấy Hội An còn là một thị xã nhỏ, nằm nép mình trên con đường đến thành phố Đà Nẵng, lặng lẽ bên sông Hòai, hầu như chưa mấy người biết đến… Khi ấy phố cổ nhà xưa vẫn còn nguyên nét cũ kỹ và không có nhiều cửa hàng cửa hiệu như bây giờ. Chưa tròn một buổi đã đi hết những con đường nhỏ hầu như yên tĩnh suốt ngày. Hội An lúc ấy còn như một thiếu nữ tuổi 14 dậy thì, đang ngơ ngác và lạ lẫm với chính mình, tuy có nét vụng về nhưng đã không dấu được một vẻ đẹp đằm thắm dịu dàng. Từ đó Hội An luôn trở lại trong ký ức tôi, mặc dù nhiều năm sau tôi vẫn chưa có dịp quay lại nơi này…
Bây giờ Hội An đã là một địa danh quen thuộc và nổi tiếng. Cô thiếu nữ rụt rè ngày nào nay đã trở thành một cô gái đẹp, vẻ đẹp hòai cổ nhưng tràn đầy sức sống. Dường như cô đang tái hiện vẻ đẹp thế hệ những người bà, người mẹ từng làm nên sức sống và sự phồn thịnh của Hội An nhiều trăm năm về trước.
Nhiều người khi đến với Hội An đều có chung một cảm nhận: văn hóa và con người Hội An có gì đó độc đáo, riêng biệt mà sao vẫn thấy gần gũi, quen thuộc. Phải chăng đó là lối sống bình dị mà thân thiện của cư dân nơi đây? Phải chăng là những ngôi chùa, dãy nhà xưa với vẻ đẹp cổ kính và tĩnh lặng của mái ngói phủ rêu xanh mướt và nét chạm trổ tinh vi đã tồn tại từ hơn ba trăm vòng quay xuân hạ thu đông, tuy có thể tìm thấy ở bất cứ đâu nhưng khi tập hợp thành một quần thể trong một không gian lặng lẽ như ở đây đã làm cho Hội An trở nên khác biệt? Từng là Đại Chiêm hải khẩu rồi Fai Fo/ Hội An, cư dân Hội An không chỉ là những thương gia sống trong phố cổ buôn bán trong các cửa hiệu, nhà hàng mà còn là những người nông dân ở các làng lân cận, mỗi ngày đưa rau xanh, bánh trái, hoa tươi… vào thị xã, là những người thợ thủ công mang đến những sản phẩm nhỏ bé được làm ra bằng tài nghệ của chính mình, góp phần trang điểm cho phố cổ sinh động hẳn lên.
Thời gian qua đi nhưng người phố Hội vẫn giữ được sự mộc mạc giản dị trong tính cách, vẫn lưu truyền những sản phẩm thủ công đơn sơ mà độc đáo từ bao đời. Đọan sông Thu Bồn qua Hội An vẫn còn đó lễ hội đua ghe như nhắc lại một thủa thương cảng sầm uất trên con đường tơ lụa nổi tiếng ở biển Đông. Truyền thống văn hóa của người Hội An hấp dẫn những ai chưa đến và đã níu giữ tình cảm của nhiều du khách dù chỉ một lần đến với Hội An.
Lần này tôi trở lại Hội An đúng vào một đêm trăng 14. Vào lúc hòang hôn, khác với mọi ngày phố cổ bỗng nhộn nhịp hơn. Đêm nay, đêm lễ hội của phố cổ, những gì tinh túy nhất của Hội An sẽ được “khoe” với du khách.
“Lễ hội đêm rằm” là sự sáng tạo của người dân phố cổ trong việc phục hồi không gian và tái hiện hoạt động của cư dân xưa. Khi những ngọn đèn lồng được thắp sáng, phố cổ hiện lên dáng dấp một cảng thị sầm uất với những cửa hàng tấp nập, người dạo chơi nhìn ngắm ngòai cư dân bản địa còn có nhiều người nước ngòai đến đây. Có thể đó là thương nhân ở lại vài tháng chờ mùa gió thuận để đòan thương thuyền tiếp tục ngược lên phương Bắc hay xuôi về phương Nam. Cũng có thể là người thủy thủ chỉ ghé vào cảng Hội An trong chốc lát trên hành trình dọc biển Viễn Đông. Trong đêm hội du khách bỗng thành những người khách ngọai quốc thủa xa xưa, họ không chỉ là người chứng kiến lễ hội mà thực sự, họ còn là một thành phần quan trọng tạo nên lễ hội.
Nếu đèn lồng như ánh mắt dịu dàng, đằm thắm của đêm phố cổ thì hoa đăng sông Hoài thật sự là một lễ hội của ánh sáng. Với người Hội An, thả hoa đăng thật sự là một thú chơi nghệ thuật, là món quà tặng du khách khi đến tham quan phố cổ vào những ngày lễ hội. Ngày thường, những người thợ thủ công cắt, gấp, dán giấy thành nhiều đóa hoa đa sắc để sẽ thắp sáng chúng trong lễ hội. Hoa đăng được chuyển lên thuyền, đợi lúc nước ròng thả xuống dòng sông. Theo dòng nước, hoa đăng lúc kết thành từng chùm, từng vạt, lúc nối thành bè, khi tách rời, xé lẻ từng chiếc tạo thành dòng sông rực sáng dọc theo dãy phố. Vài thảm hoa đăng sau khi diễu hành trên sông thì dìu nhau vào gần bờ, hắt lên thứ ánh sáng dìu dịu đủ thấy rõ những gương mặt thích thú, hân hoan của du khách đang say sưa ngắm nhìn. Ngồi trên những bậc thềm của phố cổ hay trong những quán xá bên kia sông Hoài, du khách đều hướng về dòng sông lung linh hoa đăng, mắt ngắm nhìn mà tai thưởng thức những làn điệu dân ca xứ Quảng văng vẳng đâu đây. Trong đêm Hoa đăng cư dân nơi đây và du khách muôn phương cùng gửi gắm những ước nguyện vào những ngọn hoa đăng thả trôi trên sông nước, cầu mong một cuộc sống luôn no ấm, bình yên và hạnh phúc. Muôn ngàn ánh sáng lung linh trên mặt nước càng về khuya càng bàng bạc ánh trăng, tựa như những con người từ thế giới linh thiêng đang hiện về chứng thực lòng thành của người còn sống. Nếu đã đến Hội An mà chưa một lần thả hoa đăng thì bạn đã bỏ qua một dịp được chiêm nghiệm cảm giác sự giao hòa trời đất và con người trong phút chốc bỗng trở thành hiện hữu…
Trong ánh đèn lồng huyền ảo phố cổ bất ngờ hiện lên một vẻ lãng mạn lạ lùng. Xưa kia người Việt quen dùng đĩa đèn dầu lạc, người Nhật Bản và Trung Hoa đã đưa tới Hội An thói quen sử dụng đèn lồng. Sáng kiến khôi phục việc thắp đèn lồng thay cho ánh sáng đèn điện từ mùa thu năm 1998 đã mang lại hiệu quả không ngờ và giờ đây đã trở thành một tập quán đẹp của Hội An. Vào mỗi đêm 14 âm lịch, thị xã yên bình này như được quay trở về hơn 300 năm trước. Những dãy phố cổ nằm trong giới hạn của bốn con đường Trần Phú, Nguyễn Thái Học, Lê Lợi, Bạch Ðằng đồng loạt tắt đèn. Các gia đình tự nguyện ngừng sử dụng các thiết bị như TV, đèn đường, đèn neon... để không gian phố cổ chỉ còn lung linh những ngọn đèn lồng nhiều hình dáng. Ánh sáng ngọn điện nhỏ được khuyếch tán và dịu hẳn đi nhờ những chiếc đèn lồng bằng lụa nhiều màu sắc, nhiều hoa văn… gây men say lâng lâng cho mỗi người đi trên phố cổ mà như đang sống trong một thế giới huyền ảo. Sự nhộn nhịp của đêm hội, sự huyền ảo của hoa đăng đèn lồng không làm nhạt đi nét cổ xưa của những ngôi nhà cổ hằng trăm năm tuổi. Lối kiến trúc độc đáo của những ngôi nhà cổgiống như tính cách của người Hội An xưa: cởi mở thân thiện mà không xô bồ, không ồn ào. Ở Hội An, nhịp sống và thời gian đương đại như dừng lại khi chạm vào từng ngôi nhà cổ. Thời gian đã in dấu lên nhữngmái ngói cổ kính, những mảng tường rêu phong. Và người Hội An hôm nay vẫn đang kể lại những câu chuyện lịch sử bằng những việc làm, nếp sống và sinh hoạt hằng ngày.
***
Di sản văn hóa văn nghệ dân gian Hội An có trữ lượng khá lớn, phong phú và đa dạng về lọai hình, về nguồn gốc, nội dung phản ánh chân thực truyền thống lịch sử - văn hóa địa phương. Cùng với những di sản văn hóa vật thể như nhà cổ, đình, chùa, hội quán, đền miếu… di sản văn hóa phi vật thể là chứng tích bề dày truyền thống của cư dân Hội An trong quá trình thích nghi với môi trường và hòa hợp một cách nhuần nhuyễn văn hóa giữa các tộc người Việt – Chăm – Hoa. Viết thư pháp, chơi cờ tướng… không chỉ nhằm thỏa mãn sở thích cá nhân mà còn là sinh họat văn hóa mang tính cộng đồng, thể hiện tinh thần hướng thiện, hướng đến những giá trị tinh thần tốt đẹp, trở thành những mỹ tục của cư dân phố Hội.
Là sáng tạo của cộng đồng cư dân, được lưu truyền, bổ sung liên tục từ đời này sang đời khác bằng nhiều hình thức, các hình thái văn nghệ dân gian trở thành kho tàng lưu giữ các tác phẩm dân gian, phong tục tập quán, kinh nghiệm sản xuất, nề nếp sinh họat, ứng xử trong cộng đồng. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, đến nay môi trường văn hóa – xã hội sản sinh ra những hình thái văn nghệ dân gian ở Hội An đã có nhiều biến đổi, nhưng di sản văn hóa dân gian được người Hội An bảo tồn, lưu giữ, phát huy giá trị trong cuộc sống hiện đại và giới thiệu với bạn bè quốc tế. Thiếu phần hồn, phần tinh túy này, Di sản thế giới Hội An chỉ còn những di tích vật chất khô cứng, đơn điệu và mất đi nhiều sức hấp dẫn.
Từ điển Việt – Bồ - La của Alexandre De Rhod in năm 1651 ghi rõ: HÒAI PHÔ (hòai phố): “Một ngôi làng nhỏ ở Cochichine, nơi có người Nhật đến sinh sống, còn gọi là Faifo”. Trước đó, năm 1553, trong tác phẩm Ô châu cận lục do Dương Văn An nhuận sắc đã tên ghi hai xã Cẩm Phô và Hòai Phô. Tra chữ Hán thì chữ HÒAI trong Hòai phố có nghĩa là SÔNG, khác với chữ hòai là nhớ, chữ PHÔ là phô trương, phô diễn, khác với chữ PHỐ là chợ.
Dù ý nghĩa nguyên thủy của địa danh “Phố Hòai” không hẳn là hòai nhớ. Nhưng ai đã một lần đến với Hội An Hòai Phố thì không thể quên được dãy phố xưa mái ngói rêu phong, ngôi chùa cổ mong manh hương khói, cây cầu cong như chiếc lược ngà gài trên mái tóc mượt mà của dòng sông Hòai, không thể quên những con người hồn hậu tài hoa đã giữ cho hồn phố cổ còn vẹn nguyên.
Thời gian trôi qua, những lớp cư dân mới rồi sẽ tiếp tục sinh sống nơi đây. Mong sao họ sẽ mãi gìn giữ từng con đường nhỏ bình yên, từng ngôi nhà mắt cửa thân thiết mời chào, gìn giữ từng phong tục, từng trò chơi, từng lời ca điệu múa… Gìn giữ những đêm trăng 14 lung linh ấm áp những ngọn hoa đăng những ánh đèn lồng, gìn giữ mãi nét tinh tế, chân thành của người Hội An.
Hội ngộ rồi chia ly, cuộc đời vẫn thế…
Để rồi sẽ có ngày tái ngộ Hội An.
Nguyễn Thị Hậu Ngày đăng: 13.04.2009 [ Trở lạ
Nguyễn Thị Hậu
Hội ngộ rồi chia ly, cuộc đời vẫn thế…
Mỗi ngày mặt trời mọc rồi lặn, dù ở nơi nào thì bình mình rồi cũng trôi đến hòang hôn. Ngày đang đến cũng là đang qua…
Nhưng có những ngày, vào thời khắc bóng tối ngập ngừng bao phủ không gian, phía chân trời lại hiện lên một vầng sáng nhẹ nhàng, trong trẻo, mềm như lụa, dịu như nhung. Mùng Một lưỡi trai, mùng hai lá lúa… vầng sáng dần đầy đặn, để rồi sẽ viên mãn vào ngày Mười sáu thật trăng.
Người ta thường ca ngợi vẻ rực rỡ của đêm rằm 15, vẻ hòan hảo của trăng 16. Thời gian trôi qua, khi đã nhìn thấy, đã trải nghiệm không ít những buồn vui trong cuộc sống, ngỏanh lại, dường như chỉ vầng trăng 14 e ấp dịu dàng là còn mãi trong ký ức ta.
***
Lần đầu tiên tôi đến Hội An cách đây gần ba mươi năm. Khi ấy Hội An còn là một thị xã nhỏ, nằm nép mình trên con đường đến thành phố Đà Nẵng, lặng lẽ bên sông Hòai, hầu như chưa mấy người biết đến… Khi ấy phố cổ nhà xưa vẫn còn nguyên nét cũ kỹ và không có nhiều cửa hàng cửa hiệu như bây giờ. Chưa tròn một buổi đã đi hết những con đường nhỏ hầu như yên tĩnh suốt ngày. Hội An lúc ấy còn như một thiếu nữ tuổi 14 dậy thì, đang ngơ ngác và lạ lẫm với chính mình, tuy có nét vụng về nhưng đã không dấu được một vẻ đẹp đằm thắm dịu dàng. Từ đó Hội An luôn trở lại trong ký ức tôi, mặc dù nhiều năm sau tôi vẫn chưa có dịp quay lại nơi này…
Bây giờ Hội An đã là một địa danh quen thuộc và nổi tiếng. Cô thiếu nữ rụt rè ngày nào nay đã trở thành một cô gái đẹp, vẻ đẹp hòai cổ nhưng tràn đầy sức sống. Dường như cô đang tái hiện vẻ đẹp thế hệ những người bà, người mẹ từng làm nên sức sống và sự phồn thịnh của Hội An nhiều trăm năm về trước.
Nhiều người khi đến với Hội An đều có chung một cảm nhận: văn hóa và con người Hội An có gì đó độc đáo, riêng biệt mà sao vẫn thấy gần gũi, quen thuộc. Phải chăng đó là lối sống bình dị mà thân thiện của cư dân nơi đây? Phải chăng là những ngôi chùa, dãy nhà xưa với vẻ đẹp cổ kính và tĩnh lặng của mái ngói phủ rêu xanh mướt và nét chạm trổ tinh vi đã tồn tại từ hơn ba trăm vòng quay xuân hạ thu đông, tuy có thể tìm thấy ở bất cứ đâu nhưng khi tập hợp thành một quần thể trong một không gian lặng lẽ như ở đây đã làm cho Hội An trở nên khác biệt? Từng là Đại Chiêm hải khẩu rồi Fai Fo/ Hội An, cư dân Hội An không chỉ là những thương gia sống trong phố cổ buôn bán trong các cửa hiệu, nhà hàng mà còn là những người nông dân ở các làng lân cận, mỗi ngày đưa rau xanh, bánh trái, hoa tươi… vào thị xã, là những người thợ thủ công mang đến những sản phẩm nhỏ bé được làm ra bằng tài nghệ của chính mình, góp phần trang điểm cho phố cổ sinh động hẳn lên.
Thời gian qua đi nhưng người phố Hội vẫn giữ được sự mộc mạc giản dị trong tính cách, vẫn lưu truyền những sản phẩm thủ công đơn sơ mà độc đáo từ bao đời. Đọan sông Thu Bồn qua Hội An vẫn còn đó lễ hội đua ghe như nhắc lại một thủa thương cảng sầm uất trên con đường tơ lụa nổi tiếng ở biển Đông. Truyền thống văn hóa của người Hội An hấp dẫn những ai chưa đến và đã níu giữ tình cảm của nhiều du khách dù chỉ một lần đến với Hội An.
Lần này tôi trở lại Hội An đúng vào một đêm trăng 14. Vào lúc hòang hôn, khác với mọi ngày phố cổ bỗng nhộn nhịp hơn. Đêm nay, đêm lễ hội của phố cổ, những gì tinh túy nhất của Hội An sẽ được “khoe” với du khách.
“Lễ hội đêm rằm” là sự sáng tạo của người dân phố cổ trong việc phục hồi không gian và tái hiện hoạt động của cư dân xưa. Khi những ngọn đèn lồng được thắp sáng, phố cổ hiện lên dáng dấp một cảng thị sầm uất với những cửa hàng tấp nập, người dạo chơi nhìn ngắm ngòai cư dân bản địa còn có nhiều người nước ngòai đến đây. Có thể đó là thương nhân ở lại vài tháng chờ mùa gió thuận để đòan thương thuyền tiếp tục ngược lên phương Bắc hay xuôi về phương Nam. Cũng có thể là người thủy thủ chỉ ghé vào cảng Hội An trong chốc lát trên hành trình dọc biển Viễn Đông. Trong đêm hội du khách bỗng thành những người khách ngọai quốc thủa xa xưa, họ không chỉ là người chứng kiến lễ hội mà thực sự, họ còn là một thành phần quan trọng tạo nên lễ hội.
Nếu đèn lồng như ánh mắt dịu dàng, đằm thắm của đêm phố cổ thì hoa đăng sông Hoài thật sự là một lễ hội của ánh sáng. Với người Hội An, thả hoa đăng thật sự là một thú chơi nghệ thuật, là món quà tặng du khách khi đến tham quan phố cổ vào những ngày lễ hội. Ngày thường, những người thợ thủ công cắt, gấp, dán giấy thành nhiều đóa hoa đa sắc để sẽ thắp sáng chúng trong lễ hội. Hoa đăng được chuyển lên thuyền, đợi lúc nước ròng thả xuống dòng sông. Theo dòng nước, hoa đăng lúc kết thành từng chùm, từng vạt, lúc nối thành bè, khi tách rời, xé lẻ từng chiếc tạo thành dòng sông rực sáng dọc theo dãy phố. Vài thảm hoa đăng sau khi diễu hành trên sông thì dìu nhau vào gần bờ, hắt lên thứ ánh sáng dìu dịu đủ thấy rõ những gương mặt thích thú, hân hoan của du khách đang say sưa ngắm nhìn. Ngồi trên những bậc thềm của phố cổ hay trong những quán xá bên kia sông Hoài, du khách đều hướng về dòng sông lung linh hoa đăng, mắt ngắm nhìn mà tai thưởng thức những làn điệu dân ca xứ Quảng văng vẳng đâu đây. Trong đêm Hoa đăng cư dân nơi đây và du khách muôn phương cùng gửi gắm những ước nguyện vào những ngọn hoa đăng thả trôi trên sông nước, cầu mong một cuộc sống luôn no ấm, bình yên và hạnh phúc. Muôn ngàn ánh sáng lung linh trên mặt nước càng về khuya càng bàng bạc ánh trăng, tựa như những con người từ thế giới linh thiêng đang hiện về chứng thực lòng thành của người còn sống. Nếu đã đến Hội An mà chưa một lần thả hoa đăng thì bạn đã bỏ qua một dịp được chiêm nghiệm cảm giác sự giao hòa trời đất và con người trong phút chốc bỗng trở thành hiện hữu…
Trong ánh đèn lồng huyền ảo phố cổ bất ngờ hiện lên một vẻ lãng mạn lạ lùng. Xưa kia người Việt quen dùng đĩa đèn dầu lạc, người Nhật Bản và Trung Hoa đã đưa tới Hội An thói quen sử dụng đèn lồng. Sáng kiến khôi phục việc thắp đèn lồng thay cho ánh sáng đèn điện từ mùa thu năm 1998 đã mang lại hiệu quả không ngờ và giờ đây đã trở thành một tập quán đẹp của Hội An. Vào mỗi đêm 14 âm lịch, thị xã yên bình này như được quay trở về hơn 300 năm trước. Những dãy phố cổ nằm trong giới hạn của bốn con đường Trần Phú, Nguyễn Thái Học, Lê Lợi, Bạch Ðằng đồng loạt tắt đèn. Các gia đình tự nguyện ngừng sử dụng các thiết bị như TV, đèn đường, đèn neon... để không gian phố cổ chỉ còn lung linh những ngọn đèn lồng nhiều hình dáng. Ánh sáng ngọn điện nhỏ được khuyếch tán và dịu hẳn đi nhờ những chiếc đèn lồng bằng lụa nhiều màu sắc, nhiều hoa văn… gây men say lâng lâng cho mỗi người đi trên phố cổ mà như đang sống trong một thế giới huyền ảo. Sự nhộn nhịp của đêm hội, sự huyền ảo của hoa đăng đèn lồng không làm nhạt đi nét cổ xưa của những ngôi nhà cổ hằng trăm năm tuổi. Lối kiến trúc độc đáo của những ngôi nhà cổgiống như tính cách của người Hội An xưa: cởi mở thân thiện mà không xô bồ, không ồn ào. Ở Hội An, nhịp sống và thời gian đương đại như dừng lại khi chạm vào từng ngôi nhà cổ. Thời gian đã in dấu lên nhữngmái ngói cổ kính, những mảng tường rêu phong. Và người Hội An hôm nay vẫn đang kể lại những câu chuyện lịch sử bằng những việc làm, nếp sống và sinh hoạt hằng ngày.
***
Di sản văn hóa văn nghệ dân gian Hội An có trữ lượng khá lớn, phong phú và đa dạng về lọai hình, về nguồn gốc, nội dung phản ánh chân thực truyền thống lịch sử - văn hóa địa phương. Cùng với những di sản văn hóa vật thể như nhà cổ, đình, chùa, hội quán, đền miếu… di sản văn hóa phi vật thể là chứng tích bề dày truyền thống của cư dân Hội An trong quá trình thích nghi với môi trường và hòa hợp một cách nhuần nhuyễn văn hóa giữa các tộc người Việt – Chăm – Hoa. Viết thư pháp, chơi cờ tướng… không chỉ nhằm thỏa mãn sở thích cá nhân mà còn là sinh họat văn hóa mang tính cộng đồng, thể hiện tinh thần hướng thiện, hướng đến những giá trị tinh thần tốt đẹp, trở thành những mỹ tục của cư dân phố Hội.
Là sáng tạo của cộng đồng cư dân, được lưu truyền, bổ sung liên tục từ đời này sang đời khác bằng nhiều hình thức, các hình thái văn nghệ dân gian trở thành kho tàng lưu giữ các tác phẩm dân gian, phong tục tập quán, kinh nghiệm sản xuất, nề nếp sinh họat, ứng xử trong cộng đồng. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, đến nay môi trường văn hóa – xã hội sản sinh ra những hình thái văn nghệ dân gian ở Hội An đã có nhiều biến đổi, nhưng di sản văn hóa dân gian được người Hội An bảo tồn, lưu giữ, phát huy giá trị trong cuộc sống hiện đại và giới thiệu với bạn bè quốc tế. Thiếu phần hồn, phần tinh túy này, Di sản thế giới Hội An chỉ còn những di tích vật chất khô cứng, đơn điệu và mất đi nhiều sức hấp dẫn.
Từ điển Việt – Bồ - La của Alexandre De Rhod in năm 1651 ghi rõ: HÒAI PHÔ (hòai phố): “Một ngôi làng nhỏ ở Cochichine, nơi có người Nhật đến sinh sống, còn gọi là Faifo”. Trước đó, năm 1553, trong tác phẩm Ô châu cận lục do Dương Văn An nhuận sắc đã tên ghi hai xã Cẩm Phô và Hòai Phô. Tra chữ Hán thì chữ HÒAI trong Hòai phố có nghĩa là SÔNG, khác với chữ hòai là nhớ, chữ PHÔ là phô trương, phô diễn, khác với chữ PHỐ là chợ.
Dù ý nghĩa nguyên thủy của địa danh “Phố Hòai” không hẳn là hòai nhớ. Nhưng ai đã một lần đến với Hội An Hòai Phố thì không thể quên được dãy phố xưa mái ngói rêu phong, ngôi chùa cổ mong manh hương khói, cây cầu cong như chiếc lược ngà gài trên mái tóc mượt mà của dòng sông Hòai, không thể quên những con người hồn hậu tài hoa đã giữ cho hồn phố cổ còn vẹn nguyên.
Thời gian trôi qua, những lớp cư dân mới rồi sẽ tiếp tục sinh sống nơi đây. Mong sao họ sẽ mãi gìn giữ từng con đường nhỏ bình yên, từng ngôi nhà mắt cửa thân thiết mời chào, gìn giữ từng phong tục, từng trò chơi, từng lời ca điệu múa… Gìn giữ những đêm trăng 14 lung linh ấm áp những ngọn hoa đăng những ánh đèn lồng, gìn giữ mãi nét tinh tế, chân thành của người Hội An.
Hội ngộ rồi chia ly, cuộc đời vẫn thế…
Để rồi sẽ có ngày tái ngộ Hội An.
Nguyễn Thị Hậu Ngày đăng: 13.04.2009 [ Trở lạ
30. Nhớ về một thành phố.
Khi tôi qua những thị thành ẩn tích
lòng nghe dậy nỗi rạt rào phố xưa
xưa chăng những chuyến đò đưa
tinh khôi tình ấy như vừa hôm qua
Kể từ bỏ phố đi xa
đến đâu cũng thấy xót xa nỗi niềm
nghe run lẩy bẩy trong tim
mê em mê cả nổi chìm xuống lên
Hè đêm vàng vọt ánh đèn
về em nhớ lắm những ngày đón đưa
vòng tay còn thiếu chưa vừa
nên ôm không trọn bao điều ngổn ngang
Phố à ơi giấc miên man
một thời tấm bé một thời yêu em
đời theo con nước lênh đênh
bao giờ về được với miền nguyên khai
nhờ em nghiêng tóc xuống vai
mình che dấu hết muộn phiền nghe em./.
Vyễn__Jul 2013.
Mến tặng những ai có một lần đi qua Chùa Cầu.
Khi tôi qua những thị thành ẩn tích
lòng nghe dậy nỗi rạt rào phố xưa
xưa chăng những chuyến đò đưa
tinh khôi tình ấy như vừa hôm qua
Kể từ bỏ phố đi xa
đến đâu cũng thấy xót xa nỗi niềm
nghe run lẩy bẩy trong tim
mê em mê cả nổi chìm xuống lên
Hè đêm vàng vọt ánh đèn
về em nhớ lắm những ngày đón đưa
vòng tay còn thiếu chưa vừa
nên ôm không trọn bao điều ngổn ngang
Phố à ơi giấc miên man
một thời tấm bé một thời yêu em
đời theo con nước lênh đênh
bao giờ về được với miền nguyên khai
nhờ em nghiêng tóc xuống vai
mình che dấu hết muộn phiền nghe em./.
Vyễn__Jul 2013.
Mến tặng những ai có một lần đi qua Chùa Cầu.
29. Chí sĩ TRẦN QUÝ CÁP
với bản án “ mạc tu hữu”.
Kính thưa Quý Thầy , Cô,
Thưa các Đàn Anh,
Cùng các Bạn Cựu HS/TQC thân mến.
Tôi tên KIỀU CÔNG CỰ, CHS/TQC , niên khóa 1956 – 1963.
Quê tôi ở Thị trấn Ái Nghĩa thuộc quận Đại Lộc nên tôi có 7 năm ở trọ, ăn cơm tháng, tại Thị xã Hội An, để đi học Trường TQC, từ lớp Đệ thất 1 đến Đệ nhất B1. Đã qua hai vị Hiệu Trưởng là Ông Tăng Dục và Ông Hoàng Trung. Tôi còn nhớ nhiều Thầy, Cô giáo và vẫn còn một số bạn bè cùng lớp với tôi ở đây như T.V.Căn, hiện là Hội trưởng, M.P.Hoàng, V.T Trung, N.T Hoè, Huynh Việt Quế,..
Đó là chuyện lâu rồi. Bây giờ đã có nhiều thay đổi. Nếu có ai về thăm, có ai ghé lại. Chẳng còn tìm được những hình ảnh của ngày xưa. Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Ngã cũ lâu đài bóng tịch dương.. Và chúng ta ngày hôm nay có đến đây cũng để tìm lại những kỷ niệm, những khuôn mặt cũ của hơn nửa thế kỷ đã đi qua.
Hồi đó, những ngày nghỉ lễ, Tết, chúng tôi thường đạp xe về quê. Khi đến Vĩnh Điện, quẹo trái về hướng tây, khoảng 3 cây số, chúng tôi đều thấy một cái Tháp chàm, to lớn, đồ sộ, gọi là Tháp Bàng An. Rồi nhìn qua bên phải, một con đường đất đỏ, rộng độ 3m, chạy theo những đám mạ non, đến tận những lũy tre ở xa xa, chúng tôi thường bảo nhau : Đó là nơi sinh của Cụ TQC mà Trường mình được hân hạnh mang tên đó. Tâm trạng của chúng tôi rất vui, và có rất nhiều hảnh diện. Nhưng sau này tìm hiểu thêm về thân thế và sự nghiệp của cụ , nhất là cái chết tức tưởi của Cụ qua bản án mạc tu hữu, chúng tôi càng cảm thấy xót xa và phẩn nộ.. Chúng ta thử tìm hiểu những nguyên nhân và lý do nào đã đưa đến cái chết hết sức thảm khốc và dã man của Cụ.
;
với bản án “ mạc tu hữu”.
Kính thưa Quý Thầy , Cô,
Thưa các Đàn Anh,
Cùng các Bạn Cựu HS/TQC thân mến.
Tôi tên KIỀU CÔNG CỰ, CHS/TQC , niên khóa 1956 – 1963.
Quê tôi ở Thị trấn Ái Nghĩa thuộc quận Đại Lộc nên tôi có 7 năm ở trọ, ăn cơm tháng, tại Thị xã Hội An, để đi học Trường TQC, từ lớp Đệ thất 1 đến Đệ nhất B1. Đã qua hai vị Hiệu Trưởng là Ông Tăng Dục và Ông Hoàng Trung. Tôi còn nhớ nhiều Thầy, Cô giáo và vẫn còn một số bạn bè cùng lớp với tôi ở đây như T.V.Căn, hiện là Hội trưởng, M.P.Hoàng, V.T Trung, N.T Hoè, Huynh Việt Quế,..
Đó là chuyện lâu rồi. Bây giờ đã có nhiều thay đổi. Nếu có ai về thăm, có ai ghé lại. Chẳng còn tìm được những hình ảnh của ngày xưa. Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Ngã cũ lâu đài bóng tịch dương.. Và chúng ta ngày hôm nay có đến đây cũng để tìm lại những kỷ niệm, những khuôn mặt cũ của hơn nửa thế kỷ đã đi qua.
Hồi đó, những ngày nghỉ lễ, Tết, chúng tôi thường đạp xe về quê. Khi đến Vĩnh Điện, quẹo trái về hướng tây, khoảng 3 cây số, chúng tôi đều thấy một cái Tháp chàm, to lớn, đồ sộ, gọi là Tháp Bàng An. Rồi nhìn qua bên phải, một con đường đất đỏ, rộng độ 3m, chạy theo những đám mạ non, đến tận những lũy tre ở xa xa, chúng tôi thường bảo nhau : Đó là nơi sinh của Cụ TQC mà Trường mình được hân hạnh mang tên đó. Tâm trạng của chúng tôi rất vui, và có rất nhiều hảnh diện. Nhưng sau này tìm hiểu thêm về thân thế và sự nghiệp của cụ , nhất là cái chết tức tưởi của Cụ qua bản án mạc tu hữu, chúng tôi càng cảm thấy xót xa và phẩn nộ.. Chúng ta thử tìm hiểu những nguyên nhân và lý do nào đã đưa đến cái chết hết sức thảm khốc và dã man của Cụ.
;
Cụ sinh năm 1870 và chết năm 1908, ở cái tuổi còn quá trẻ , đầy đủ nhiệt huyết và chấp nhận dấn thân. Anh Đ.X.Trúc đã trình bày cho chúng ta một cách khá đầy đủ về phần tiểu sử của Cụ. Tôi chỉ xin ghi thêm một đôi điều : Cụ sinh dưới thời vua Tự Đức ( 1848 – 1883 ) và trãi qua 8 đời vua nhà Nguyễn ( Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân ). Trung bình mỗi vị vua trị vì chưa được 5 năm. Trong thời gian ngắn ngủi đó họ đã làm gì cho dân cho nước. Đất nước đã thống nhất từ thời vua Gia Long, nhưng cũng từ đó có lệ nhận sự phong vương nhà Thanh, bên Tàu. Mỗi vị vua mới lên đều phải ra Hà nội để nhận sự “ bổ nhiệm” từ sứ thần nhà Thanh, trừ một trường hợp vua Tự Đức vì thể chất ốm yếu không thể đi xa được nên phải mời sứ giã vào tận kinh thành Huế để thi hành nghi thức phong Vương.Đến đời vua Tự Đức thì người Pháp bắt đầu xâm lược nước ta. Để yên vị ở ngôi các vua phải nhường hết phần đất này đến phần đất khác qua nhiều Hiệp ước nhượng quyền, nhượng đất, người Pháp đã tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm, thậm chí chia nước ra làm 3 kỳ theo 3 thể chế cai trị khác nhau. Các vua gần như bất lực chỉ biết xuôi theo, nếu có một hành động nào chống lại như vua Hàm Nghi, vua Duy Tân thì bị bắt và đày đi biệt xứ. Còn người dân thì sao. “ Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây” , người Tàu thì gian ác còn dân Tây thì bốc lột, dân ta thật trăm bề khốn khổ.
Cụ TQC, một người vốn sinh ra trong một gia đình nhà nông, hiểu được nỗi cơ cực của người dân, chịu ảnh hưởng rất nhiều về tinh thần yêu nước của những sĩ phu lúc bấy giờ, đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa Cần Vương dưới thời vua Hàm Nghi, do các thủ lĩnh như Nguyễn Duy Hiệu, Trần Văn Dư, Phan Bá Phiến… ngay tại quê hương Quảng Nam, như là một sự thức tĩnh, đồng thời sớm tiếp nhận làn gió mới của cách mạng thế giới thông qua sách báo của các nhà tư tưởng tiến bộ trong thế kỷ nên chỉ một thời gian ngắn sau khi đỗ đạt, Cụ Trần Quý Cáp đã cùng các Cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và nhiều bạn bè tâm giao quyết định khởi xướng và xây dựng một phong trào cách mạng mới - phong trào Duy Tân.Ởđây tôi muốn nói một phong trào CM thật sự, chứ không phải cuộc CM giã hình, lừa dối và sắt máu như bọn VC.
Mục đích chính của phong trào này là “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, hô hào mở mang trường học, phát triển công thương, cải tiến sản xuất nông nghiệp, chống các lề thói phong kiến cổ hủ, cải cách văn hóa - xã hội… qua đó khơi dậy lòng yêu nước, đấu tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của thực dân xâm lược.
Với uy tín và tài năng của các Cụ Trần Quý Cáp, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, phong trào Duy Tân đã thực sự trở thành phong trào cách mạng, được nhân dân khắp nơi ủng hộ và nhanh chóng lan rộng khắp miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận.
Năm 1906, nhận thấy vai trò rất lớn của Trần Quý Cáp trong dân cũng như trong giới sĩ phu yêu nước, để dễ bề kiểm soát ông, thực dân Pháp cùng vua quan triều Nguyễn đã bổ nhiệm ông làm chức Giáo thọ tại Thăng Bình - Quảng Nam.
Không muốn làm quan nhưng trước sự động viên của mẹ già và của bè bạn thân thiết nên Trần Quý Cáp đã nhậm chức. Tuy nhiên, ngược lại với ý đồ của kẻ thù, khi đã giữ chức Giáo thọ tại Thăng Bình, Cụ Trần Quý Cáp càng có điều kiện giao du, truyền bá rộng rãi hơn tư tưởng của phong trào Duy Tân. Đến đâu ông cũng diễn thuyết không biết mệt và đề ra các chương trình cải cách văn hóa, mở mang phát triển kinh tế.
Đến đầu năm 1908, chỉ mấy năm phong trào Duy Tân ra đời, ở miền Trung hàng trăm trường học đã được xây dựng, phổ biến quốc ngữ, giảng dạy các môn khoa học, lịch sử, vệ sinh… và mỗi trường đã trở thành trung tâm bài trừ các hủ tục, giáo dục lòng yêu thương đất nước… Đặc biệt, ở Quảng Nam và một số tỉnh khác, nhờ ảnh hưởng của phong trào Duy Tân, người dân đã bắt đầu nổi dậy biểu tình giảm xâu, bớt thuế. Trước tình hình trên, để cách ly Trần Quý Cáp với các những nhà hoạt động khác cũng như hạn chế tầm hoạt động của ông, kẻ thù liền chuyển ông về làm Giáo thọ tại huyện Tân Định, tức huyện Ninh Hòa ngày nay.
Tháng 5-1908, tại Quảng Nam, một cuộc biểu tình giảm xâu, bớt thuế, bắt nguồn từ huyệnĐại Lộc, sau đó, lan ra các huyện và dân chúng có lúc tham gia lên tới hàng chục ngàn người, đã kéo về vây tòa công sứ Pháp tại Hội An. Quá đỗi lo sợ, thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã thẳng tay đàn áp cuộc biểu tình. Các Cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và nhiều nhà lãnh đạo khác của phong trào Duy Tân bị bắt giam. Riêng Cụ Trần Quý Cáp, lấy cớ ông có thư từ ủng hộ, xúi giục cuộc biểu tình ở quê nhà nên chính tên Khâm sứ Lévecque đã ra lịnh cho tên Án sát Nguyễn Văn Mại cùng với Bố chánh Phạm Ngọc Quát đã bắt Cụ đem về giam tại Diên Khánh, sau đó không cần xét xử, đưa ông ra xửtrảm yêu ( chém ngang lưng ) bên cầu Phước Thạnh, bờ sông Cạn (phía Đông thành cổ Diên Khánh) vào ngày 15-8-1908 tức ngày 17-5 Mậu Thân.Cái lối chém ngang lưng là một lối giết người dã man nhất. Còn bản án Mạc Tư Hữuđã nói lên một sự hèn hạ, nhục nhã của một dân tộc tự cho mình là ánh sáng văn minh cho nhân loại như nước Pháp
Nhìn lại bản án ngày xưa, cách đây hơn 100 năm để thấy lại phiên tòa Long An ngày 16/5/2013 xét xử hai Sinh Viên Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên về cái tội phản đối bọn tàu khựa xâm lược, chiếm đất, chiếm đảo của ta. Một bản án bị áp đặt, không có tính cách chính đáng, dựa vào những điều luật phi lý để bắt giam Nguyễn Phương Uyên ( 6 năm ) và Đinh Nguyên Kha ( 8 năm ). Đây cũng là loại án mạc tư hữu mà chính quyền CSVN đã kết án quá nhiều người trẻ trong nước như Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, Lê Thị Công Nhân, Cù Huy Hà Vũ..Trong khi đó bọn cầm quyền VC thì hèn hạ, khiếp nhược và độc ác.
“ Thuận thiên tất tồn, nghịch thiên tất diệt” bọn Tàu cộng và VC tiếp tục lộng hành, đàn áp người dân vô tội, và con đường tận diệt đang chờ bọn chúng ở phía trước như đế quốc CS đã bị sụp đổ từ năm 1991.
Chúng ta hãy chờ xem.
Xin chào Quý vị,
KCC
28/5/2013
Cụ TQC, một người vốn sinh ra trong một gia đình nhà nông, hiểu được nỗi cơ cực của người dân, chịu ảnh hưởng rất nhiều về tinh thần yêu nước của những sĩ phu lúc bấy giờ, đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa Cần Vương dưới thời vua Hàm Nghi, do các thủ lĩnh như Nguyễn Duy Hiệu, Trần Văn Dư, Phan Bá Phiến… ngay tại quê hương Quảng Nam, như là một sự thức tĩnh, đồng thời sớm tiếp nhận làn gió mới của cách mạng thế giới thông qua sách báo của các nhà tư tưởng tiến bộ trong thế kỷ nên chỉ một thời gian ngắn sau khi đỗ đạt, Cụ Trần Quý Cáp đã cùng các Cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và nhiều bạn bè tâm giao quyết định khởi xướng và xây dựng một phong trào cách mạng mới - phong trào Duy Tân.Ởđây tôi muốn nói một phong trào CM thật sự, chứ không phải cuộc CM giã hình, lừa dối và sắt máu như bọn VC.
Mục đích chính của phong trào này là “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, hô hào mở mang trường học, phát triển công thương, cải tiến sản xuất nông nghiệp, chống các lề thói phong kiến cổ hủ, cải cách văn hóa - xã hội… qua đó khơi dậy lòng yêu nước, đấu tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của thực dân xâm lược.
Với uy tín và tài năng của các Cụ Trần Quý Cáp, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, phong trào Duy Tân đã thực sự trở thành phong trào cách mạng, được nhân dân khắp nơi ủng hộ và nhanh chóng lan rộng khắp miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận.
Năm 1906, nhận thấy vai trò rất lớn của Trần Quý Cáp trong dân cũng như trong giới sĩ phu yêu nước, để dễ bề kiểm soát ông, thực dân Pháp cùng vua quan triều Nguyễn đã bổ nhiệm ông làm chức Giáo thọ tại Thăng Bình - Quảng Nam.
Không muốn làm quan nhưng trước sự động viên của mẹ già và của bè bạn thân thiết nên Trần Quý Cáp đã nhậm chức. Tuy nhiên, ngược lại với ý đồ của kẻ thù, khi đã giữ chức Giáo thọ tại Thăng Bình, Cụ Trần Quý Cáp càng có điều kiện giao du, truyền bá rộng rãi hơn tư tưởng của phong trào Duy Tân. Đến đâu ông cũng diễn thuyết không biết mệt và đề ra các chương trình cải cách văn hóa, mở mang phát triển kinh tế.
Đến đầu năm 1908, chỉ mấy năm phong trào Duy Tân ra đời, ở miền Trung hàng trăm trường học đã được xây dựng, phổ biến quốc ngữ, giảng dạy các môn khoa học, lịch sử, vệ sinh… và mỗi trường đã trở thành trung tâm bài trừ các hủ tục, giáo dục lòng yêu thương đất nước… Đặc biệt, ở Quảng Nam và một số tỉnh khác, nhờ ảnh hưởng của phong trào Duy Tân, người dân đã bắt đầu nổi dậy biểu tình giảm xâu, bớt thuế. Trước tình hình trên, để cách ly Trần Quý Cáp với các những nhà hoạt động khác cũng như hạn chế tầm hoạt động của ông, kẻ thù liền chuyển ông về làm Giáo thọ tại huyện Tân Định, tức huyện Ninh Hòa ngày nay.
Tháng 5-1908, tại Quảng Nam, một cuộc biểu tình giảm xâu, bớt thuế, bắt nguồn từ huyệnĐại Lộc, sau đó, lan ra các huyện và dân chúng có lúc tham gia lên tới hàng chục ngàn người, đã kéo về vây tòa công sứ Pháp tại Hội An. Quá đỗi lo sợ, thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã thẳng tay đàn áp cuộc biểu tình. Các Cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và nhiều nhà lãnh đạo khác của phong trào Duy Tân bị bắt giam. Riêng Cụ Trần Quý Cáp, lấy cớ ông có thư từ ủng hộ, xúi giục cuộc biểu tình ở quê nhà nên chính tên Khâm sứ Lévecque đã ra lịnh cho tên Án sát Nguyễn Văn Mại cùng với Bố chánh Phạm Ngọc Quát đã bắt Cụ đem về giam tại Diên Khánh, sau đó không cần xét xử, đưa ông ra xửtrảm yêu ( chém ngang lưng ) bên cầu Phước Thạnh, bờ sông Cạn (phía Đông thành cổ Diên Khánh) vào ngày 15-8-1908 tức ngày 17-5 Mậu Thân.Cái lối chém ngang lưng là một lối giết người dã man nhất. Còn bản án Mạc Tư Hữuđã nói lên một sự hèn hạ, nhục nhã của một dân tộc tự cho mình là ánh sáng văn minh cho nhân loại như nước Pháp
Nhìn lại bản án ngày xưa, cách đây hơn 100 năm để thấy lại phiên tòa Long An ngày 16/5/2013 xét xử hai Sinh Viên Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên về cái tội phản đối bọn tàu khựa xâm lược, chiếm đất, chiếm đảo của ta. Một bản án bị áp đặt, không có tính cách chính đáng, dựa vào những điều luật phi lý để bắt giam Nguyễn Phương Uyên ( 6 năm ) và Đinh Nguyên Kha ( 8 năm ). Đây cũng là loại án mạc tư hữu mà chính quyền CSVN đã kết án quá nhiều người trẻ trong nước như Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, Lê Thị Công Nhân, Cù Huy Hà Vũ..Trong khi đó bọn cầm quyền VC thì hèn hạ, khiếp nhược và độc ác.
“ Thuận thiên tất tồn, nghịch thiên tất diệt” bọn Tàu cộng và VC tiếp tục lộng hành, đàn áp người dân vô tội, và con đường tận diệt đang chờ bọn chúng ở phía trước như đế quốc CS đã bị sụp đổ từ năm 1991.
Chúng ta hãy chờ xem.
Xin chào Quý vị,
KCC
28/5/2013
28. Co Vang Trong Ban An Nguyen Kha Phuonh Uyen
Trần Trung Đạo (Danlambao)
“Khi còn nhỏ, tôi chỉ nhìn thấy lá cờ vàng từ góc độ của một sân trường trung học. Khi lớn lên, học hỏi thêm, tôi nhìn lá cờ vàng từ góc độ của chế độ mà tôi đã sống, từ miền Nam tự do mà tôi đã ra đi, từ đất nước mà tôi yêu quý. Và hôm nay, tôi nhìn lá cờ vàng từ trái tim trong sáng của Phương Uyên, một em bé gái Việt Nam vừa mới lớn và đang đập theo nhịp đập của tương lai dân tộc. Chính nghĩa dân tộc rồi sẽ thắng. Cuối cùng, chỉ có người Việt Nam mới ôm ấp và đeo đuổi giấc mơ tự do dân chủ cho chính mình và tương lai của con cháu mình. Không ai xót thương và cứu vớt dân tộc Việt Nam ngoài chính dân tộc Việt Nam. Nếu tất cả chúng ta cùng biết đau một nỗi đau chung và cùng biết đeo đuổi một giấc mơ Việt Nam như Nguyên Kha, Phương Uyên đang theo đuổi, tôi tin cuộc vận động tự do dân chủ và phục hồi chủ quyền đất nước sẽ sớm thành công. Điểm hẹn huy hoàng của lịch sử có thể chỉ còn năm phút nữa nhưng nếu không ai đứng dậy và bước đi, năm phút sẽ qua nhanh và mục tiêu không bao giờ đạt đến. Hãy đứng lên và cùng đi với Nguyên Kha, Phương Uyên và tuổi trẻ Việt Nam.”
*
Một em du sinh kể tôi nghe câu chuyện em hỏi mua một lá cờ vàng ba sọc đỏ tại một tiệm Việt Nam trong những ngày mới đặt chân đến Mỹ để theo học đại học.
Trong một lần đi mua sắm tại một tiệm tạp hóa do người Việt làm chủ tại Washington DC, thấy gần quầy tính tiền có để một số cờ Mỹ, Việt loại để bàn, em ngỏ ý muốn mua một lá. “Thưa bác, cờ này để trưng bày hay để bán, nếu bán cháu muốn mua một lá.” Em du sinh hỏi. Bác chủ tiệm nhìn em từ đầu đến chân. Qua giọng nói, cách ăn mặc, bác chủ tiệm, vốn cũng là người gốc Bắc, biết rõ chẳng những em vừa mới Việt Nam mà còn thuộc tỉnh nào ở miền Bắc nữa. “Cậu mua để làm gì?” Bác hỏi lại với giọng nghi ngờ. “Thưa bác, đấy là việc của cháu. Cháu chỉ muốn biết cờ này có bán không thôi ạ.” Em trả lời. Bác chủ tiệm vốn đã không thiện cảm lại càng khó chịu với cách trả lời hụt hẫng của em. Trong suy nghĩ của bác xuất hiện nhiều phỏng đoán nhưng không có một phỏng đoán nào tốt. Bác nghĩ đến việc “thằng Cộng con” này có thể mua để đốt, để xé bỏ, để ném xuống sông Potomac cho khuất mắt. Bác đưa tay kéo hàng cờ nhỏ cắm trên tấm bảng gỗ nhỏ lại gần tưởng như em sẽ giật chạy. “Cậu biết cờ này là cờ gì không?” Bác chủ tiệm gằn giọng như một công tố viên đang trưng bằng chứng lịch sử trước bị can. “Thưa không ạ, cháu chỉ biết đây là cờ vàng.” Em du sinh kiên nhẫn đáp tuy trong bụng than thầm “Mua một lá cờ sao khó thế”. “Đây là cờ quốc gia!” Bác chủ tiệm nhấn mạnh từng chữ. Và rồi không chờ em đáp, bác giảng cho em du sinh nghe một bài về ý nghĩa lá cờ vàng. “Không bán, cậu ra khỏi chỗ này đi.” Bác giận dữ kết luận. Em lặng lẽ ra về.
“Khi còn nhỏ, tôi chỉ nhìn thấy lá cờ vàng từ góc độ của một sân trường trung học. Khi lớn lên, học hỏi thêm, tôi nhìn lá cờ vàng từ góc độ của chế độ mà tôi đã sống, từ miền Nam tự do mà tôi đã ra đi, từ đất nước mà tôi yêu quý. Và hôm nay, tôi nhìn lá cờ vàng từ trái tim trong sáng của Phương Uyên, một em bé gái Việt Nam vừa mới lớn và đang đập theo nhịp đập của tương lai dân tộc. Chính nghĩa dân tộc rồi sẽ thắng. Cuối cùng, chỉ có người Việt Nam mới ôm ấp và đeo đuổi giấc mơ tự do dân chủ cho chính mình và tương lai của con cháu mình. Không ai xót thương và cứu vớt dân tộc Việt Nam ngoài chính dân tộc Việt Nam. Nếu tất cả chúng ta cùng biết đau một nỗi đau chung và cùng biết đeo đuổi một giấc mơ Việt Nam như Nguyên Kha, Phương Uyên đang theo đuổi, tôi tin cuộc vận động tự do dân chủ và phục hồi chủ quyền đất nước sẽ sớm thành công. Điểm hẹn huy hoàng của lịch sử có thể chỉ còn năm phút nữa nhưng nếu không ai đứng dậy và bước đi, năm phút sẽ qua nhanh và mục tiêu không bao giờ đạt đến. Hãy đứng lên và cùng đi với Nguyên Kha, Phương Uyên và tuổi trẻ Việt Nam.”
*
Một em du sinh kể tôi nghe câu chuyện em hỏi mua một lá cờ vàng ba sọc đỏ tại một tiệm Việt Nam trong những ngày mới đặt chân đến Mỹ để theo học đại học.
Trong một lần đi mua sắm tại một tiệm tạp hóa do người Việt làm chủ tại Washington DC, thấy gần quầy tính tiền có để một số cờ Mỹ, Việt loại để bàn, em ngỏ ý muốn mua một lá. “Thưa bác, cờ này để trưng bày hay để bán, nếu bán cháu muốn mua một lá.” Em du sinh hỏi. Bác chủ tiệm nhìn em từ đầu đến chân. Qua giọng nói, cách ăn mặc, bác chủ tiệm, vốn cũng là người gốc Bắc, biết rõ chẳng những em vừa mới Việt Nam mà còn thuộc tỉnh nào ở miền Bắc nữa. “Cậu mua để làm gì?” Bác hỏi lại với giọng nghi ngờ. “Thưa bác, đấy là việc của cháu. Cháu chỉ muốn biết cờ này có bán không thôi ạ.” Em trả lời. Bác chủ tiệm vốn đã không thiện cảm lại càng khó chịu với cách trả lời hụt hẫng của em. Trong suy nghĩ của bác xuất hiện nhiều phỏng đoán nhưng không có một phỏng đoán nào tốt. Bác nghĩ đến việc “thằng Cộng con” này có thể mua để đốt, để xé bỏ, để ném xuống sông Potomac cho khuất mắt. Bác đưa tay kéo hàng cờ nhỏ cắm trên tấm bảng gỗ nhỏ lại gần tưởng như em sẽ giật chạy. “Cậu biết cờ này là cờ gì không?” Bác chủ tiệm gằn giọng như một công tố viên đang trưng bằng chứng lịch sử trước bị can. “Thưa không ạ, cháu chỉ biết đây là cờ vàng.” Em du sinh kiên nhẫn đáp tuy trong bụng than thầm “Mua một lá cờ sao khó thế”. “Đây là cờ quốc gia!” Bác chủ tiệm nhấn mạnh từng chữ. Và rồi không chờ em đáp, bác giảng cho em du sinh nghe một bài về ý nghĩa lá cờ vàng. “Không bán, cậu ra khỏi chỗ này đi.” Bác giận dữ kết luận. Em lặng lẽ ra về.
Mấy năm sau, câu chuyện đã trở thành chuyện vui trong những ngày đầu di du học, em thú thiệt với tôi khi bác chủ tiệm hỏi em cũng không biết mua để làm gì. Em không thể đem cờ về Việt Nam, không thể trưng bày cờ trong phòng khách, trong lớp học nhưng em hỏi mua vì thật sự muốn biết thêm về lá cờ vàng ba sọc đỏ. Đó là một phần của lịch sử Việt Nam. Không phải riêng em du sinh, dần dần càng nhiều người Việt thuộc thế hệ em muốn biết về lá cờ vàng. Sau khi hệ thống CS Đông Âu sụp đổ, lãnh đạo các nước CS Á Châu không còn cách nào khác nên phải “tự diễn biến hòa bình” để tồn tại. Cánh cửa thông tin hé mở, ánh sáng khoa học qua những khe hở rọi vào và em là một trong những con chim nhỏ may mắn nhìn được bầu trời từ kẻ hở đó.
Tuy chưa có cơ hội nắm bắt hết ý nghĩa lịch sử, các em có đủ nhận thức để tự đặt vấn đề, rằng nếu cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của tất cả mọi xấu xa, tội ác như các em được dạy thì những gì các em đang thừa hưởng hôm nay, từ những bản tình ca các em hát mỗi ngày cho đến những bài thơ đậm đà tình dân tộc, những bài văn ca ngợi tình người, tình cha mẹ, gia đình, làng xóm, và ngay cả trong cách cách ăn, cách mặc, cách nói năng lễ độ, lối sống tự do thoải mái do ai để lại?
Dĩ nhiên không phải đến từ chính sách trồng người đang làm thui chột khả năng sáng tạo của các em, không phải từ nền giáo dục ngu dân dưới mái trường xã hội chủ nghĩa đang biến các em thành những con người vô cảm. Và nếu không phải từ hôm nay, có thể là sản phẩm để lại từ một chế độ đang bị đảng CS nguyền rủa mỗi ngày. Tìm hiểu về lá cờ vàng, do đó, đang là một trào lưu mới trong thế hệ trẻ Việt Nam.
Mới đầy, cờ vàng ba sọc đỏ lần nữa là trung tâm của vụ án Nguyên Kha và Phương Uyên. Một quan điểm cho rằng, sở dĩ đảng CS giáng xuống đời hai em những bản án nặng nề chỉ vì Phương Uyên in lá cờ vàng làm truyền đơn và đem dán tại vài địa điểm. Theo lời mẹ của Phương Uyên kể lại nội dung phiên tòa, Phương Uyên không từ chối có in lá cờ vàng ba sọc đỏ nhưng chỉ vì em muốn tìm hiểu về lịch sử.
Lời phát biểu của em Nguyễn Thiện Thành khi trả lời phỏng vấn của đài Á Châu Tự Do sau đây lần nữa xác định lời khai của Phương Uyên trước tòa: “Khi học lịch sử chúng tôi hiểu được màu cờ vàng là màu truyền thống của dân tộc VN trong xuyên suốt mấy ngàn năm lịch sử và lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ có từ thời vua Thành Thái 1890 một triều đại Kháng Pháp, và vua Thành Thái bị lưu đày. Chúng tôi sử dụng lá cờ gần nhất trong lịch sử VN để nói lên tinh thần dân tộc bất khuất.”
Nhưng tại sao các em lại phải đi tìm một lá cờ, trong trường hợp này là cờ vàng ba sọc đỏ, để nói lên tinh thần bất khuất chống ngoại xâm?
Bởi vì lá cờ đỏ sao vàng không “nói lên tinh thần dân tộc bất khuất”. Tổ quốc là không gian, thời gian, nguồn cội và là căn nhà chung của một giống dân có cùng một lịch sử, văn hóa, truyền thống, lãnh thổ, vùng trời, vùng biển. Ngay trong Đại Tự Điển do Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo soạn thảo và nhà Xuất bản Văn hóa Thông Tin ấn hành năm 1998 cũng định nghĩa tổ quốc là “Đất nước, gắn liền với bao thế hệ ông cha, tổ tiên của mình: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổ quốc Việt Nam của chúng ta.” Đảng CS, về đối nội, nhẫn tâm bỏ tù từ cụ già đến em bé vị thành niên nhưng đối ngoại chỉ biết cúi đầu trước Trung Quốc ngang ngược. Đọc những lời phản đối Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam của các phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao CSVN từ Lê Dũng trước kia đến Lương Thanh Nghị ngày nay gần như chỉ có một nội dung ngoại giao sáo rỗng tuy khác nhau ngày tháng. Lãnh đạo đảng biết rằng việc chỉ trích nặng lời chỉ càng thêm tổn hại cho mối quan hệ về sau giữa hai đảng chứ chẳng làm Trung Quốc nhả ra một thước đất nào. Trung Quốc biết điều đó rất rõ nên cũng rất ít quan tâm đến những lời phản đối lấy lệ của phía Việt Nam.
Bởi vì lá cờ đỏ sao vàng chỉ đại diện cho đảng CS độc tài. Dù người vẽ cờ là Lê Quang Sô, Nguyễn Hữu Tiến, Hồ Tri Hạ hay nhập từ Trung Quốc, Liên Xô, lá cờ đỏ sao vàng vẫn là lá cờ CS và đã được đại hội Xứ Ủy Nam Kỳ thông qua tại Tân Hương vào tháng Bảy 1940. Chỉ cần đọc lại lịch sử thế giới trong phần tư thế kỷ qua thôi, từ 15 nước thuộc Liên Bang Xô Viết cho đến 8 nước Cộng Sản Đông Âu, 3 nước Cộng Sản vùng Baltics (Latvia, Lithuania, Estonia), Cộng Sản Phi châu (Ethiopia), Cộng Sản Á Châu (Kampuchea), có quốc gia thay đổi ít như Ba Lan hay quốc gia thay đổi hoàn toàn như Nga, nhưng không có một nước nào tiếp tục sử dụng lá cờ của chế độ Cộng Sản làm cờ đại diện cho quốc gia thời kỳ sau Cộng Sản. Trong quan điểm đó, thương hiệu nền đỏ sao vàng của đảng CSVN chỉ gắn liền với sự cai trị của đảng CS không thể gọi là cờ tổ quốc và càng không nên dùng để biểu dương lòng yêu nước của mình. Lý luận cho rằng chỉ cờ búa liềm mới là cờ đảng CS còn cờ đỏ sao vàng là cờ tổ quốc chẳng khác gì bảo Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, Quốc hội CSVN, nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là những cơ quan hoàn toàn độc lập chứ không phải là một tổ chức trực thuộc trung ương đảng CSVN và đều do các ủy viên Bộ Chính Trị trực tiếp lãnh đạo.
Bởi vì lá cờ vàng ba sọc đỏ đang bị che dấu, bị trù dập là lá cờ mà các em cần phải biết nhiều hơn. Có thể các em chưa biết nhiều về lá cờ vàng ba sọc đỏ nhưng một điều các em biết cái gì đảng nguyền rủa, đảng sợ hãi cái đó phải tốt, phải đúng. Các em có thể bắt đầu do tính tò mò, do chán ngán với thực tế phũ phàng đang có, dần dần có nhận thức rõ và sâu sắc hơn về các vấn đề lịch sử. Thì ra, lá cờ vàng, không phải chỉ có một nguồn gốc lịch sử lâu dài nhưng còn từ máu xương, từ mồ hôi nước mắt, từ hơi thở của những người đã gìn giữ và bảo vệ vùng trời, vùng biển tự do của đất nước. Một tài sản dù đồ sộ bao nhiêu cũng không có giá trị lớn về mặt tinh thần nếu tài sản đó không được đánh đổi bằng mồ hôi ước mắt của những người đã tạo ra nó. Lá cờ vàng đã đắp lên bao nhiêu ngôi mộ, bao nhiêu quan tài, bao nhiêu khuôn mặt tuổi thanh niên đã chết vì lý tưởng tự do của dân tộc trong cuộc chiến tự vệ đầy gian khổ để bảo vệ từng thước đất, từng hải lý của tổ quốc thân yêu. Không giống như những năm bị khóa chặt trong bốn bức tường đen sau 1975, thế hệ trẻ ngày nay, nếu chịu khó học hỏi, đọc nhiều nguồn tư liệu khác nhau, các em sẽ biết ngay lá cờ vàng ba sọc đỏ không đơn giản là cờ của “Bù nhìn Bảo Đại”, “chế độ Ngô Đình Diệm” hay “chế độ Nguyễn Vãn Thiệu”, biểu tượng cho “tội ác ngập đầu của Mỹ Ngụy”, phản ảnh một “xã hội miền nam thối tha đồi trụy” như em đã được dạy trong trường, học tập trong sinh hoạt chi đoàn. Các chế độ chính trị, dù tốt hay xấu, hưng thịnh hay suy vong cũng đến và đi nhưng màu cờ vàng đại diện cho cả quốc gia như dòng nước vẫn tiếp tục trôi trên con sông lịch sử.
Tuy chưa có cơ hội nắm bắt hết ý nghĩa lịch sử, các em có đủ nhận thức để tự đặt vấn đề, rằng nếu cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của tất cả mọi xấu xa, tội ác như các em được dạy thì những gì các em đang thừa hưởng hôm nay, từ những bản tình ca các em hát mỗi ngày cho đến những bài thơ đậm đà tình dân tộc, những bài văn ca ngợi tình người, tình cha mẹ, gia đình, làng xóm, và ngay cả trong cách cách ăn, cách mặc, cách nói năng lễ độ, lối sống tự do thoải mái do ai để lại?
Dĩ nhiên không phải đến từ chính sách trồng người đang làm thui chột khả năng sáng tạo của các em, không phải từ nền giáo dục ngu dân dưới mái trường xã hội chủ nghĩa đang biến các em thành những con người vô cảm. Và nếu không phải từ hôm nay, có thể là sản phẩm để lại từ một chế độ đang bị đảng CS nguyền rủa mỗi ngày. Tìm hiểu về lá cờ vàng, do đó, đang là một trào lưu mới trong thế hệ trẻ Việt Nam.
Mới đầy, cờ vàng ba sọc đỏ lần nữa là trung tâm của vụ án Nguyên Kha và Phương Uyên. Một quan điểm cho rằng, sở dĩ đảng CS giáng xuống đời hai em những bản án nặng nề chỉ vì Phương Uyên in lá cờ vàng làm truyền đơn và đem dán tại vài địa điểm. Theo lời mẹ của Phương Uyên kể lại nội dung phiên tòa, Phương Uyên không từ chối có in lá cờ vàng ba sọc đỏ nhưng chỉ vì em muốn tìm hiểu về lịch sử.
Lời phát biểu của em Nguyễn Thiện Thành khi trả lời phỏng vấn của đài Á Châu Tự Do sau đây lần nữa xác định lời khai của Phương Uyên trước tòa: “Khi học lịch sử chúng tôi hiểu được màu cờ vàng là màu truyền thống của dân tộc VN trong xuyên suốt mấy ngàn năm lịch sử và lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ có từ thời vua Thành Thái 1890 một triều đại Kháng Pháp, và vua Thành Thái bị lưu đày. Chúng tôi sử dụng lá cờ gần nhất trong lịch sử VN để nói lên tinh thần dân tộc bất khuất.”
Nhưng tại sao các em lại phải đi tìm một lá cờ, trong trường hợp này là cờ vàng ba sọc đỏ, để nói lên tinh thần bất khuất chống ngoại xâm?
Bởi vì lá cờ đỏ sao vàng không “nói lên tinh thần dân tộc bất khuất”. Tổ quốc là không gian, thời gian, nguồn cội và là căn nhà chung của một giống dân có cùng một lịch sử, văn hóa, truyền thống, lãnh thổ, vùng trời, vùng biển. Ngay trong Đại Tự Điển do Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo soạn thảo và nhà Xuất bản Văn hóa Thông Tin ấn hành năm 1998 cũng định nghĩa tổ quốc là “Đất nước, gắn liền với bao thế hệ ông cha, tổ tiên của mình: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổ quốc Việt Nam của chúng ta.” Đảng CS, về đối nội, nhẫn tâm bỏ tù từ cụ già đến em bé vị thành niên nhưng đối ngoại chỉ biết cúi đầu trước Trung Quốc ngang ngược. Đọc những lời phản đối Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam của các phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao CSVN từ Lê Dũng trước kia đến Lương Thanh Nghị ngày nay gần như chỉ có một nội dung ngoại giao sáo rỗng tuy khác nhau ngày tháng. Lãnh đạo đảng biết rằng việc chỉ trích nặng lời chỉ càng thêm tổn hại cho mối quan hệ về sau giữa hai đảng chứ chẳng làm Trung Quốc nhả ra một thước đất nào. Trung Quốc biết điều đó rất rõ nên cũng rất ít quan tâm đến những lời phản đối lấy lệ của phía Việt Nam.
Bởi vì lá cờ đỏ sao vàng chỉ đại diện cho đảng CS độc tài. Dù người vẽ cờ là Lê Quang Sô, Nguyễn Hữu Tiến, Hồ Tri Hạ hay nhập từ Trung Quốc, Liên Xô, lá cờ đỏ sao vàng vẫn là lá cờ CS và đã được đại hội Xứ Ủy Nam Kỳ thông qua tại Tân Hương vào tháng Bảy 1940. Chỉ cần đọc lại lịch sử thế giới trong phần tư thế kỷ qua thôi, từ 15 nước thuộc Liên Bang Xô Viết cho đến 8 nước Cộng Sản Đông Âu, 3 nước Cộng Sản vùng Baltics (Latvia, Lithuania, Estonia), Cộng Sản Phi châu (Ethiopia), Cộng Sản Á Châu (Kampuchea), có quốc gia thay đổi ít như Ba Lan hay quốc gia thay đổi hoàn toàn như Nga, nhưng không có một nước nào tiếp tục sử dụng lá cờ của chế độ Cộng Sản làm cờ đại diện cho quốc gia thời kỳ sau Cộng Sản. Trong quan điểm đó, thương hiệu nền đỏ sao vàng của đảng CSVN chỉ gắn liền với sự cai trị của đảng CS không thể gọi là cờ tổ quốc và càng không nên dùng để biểu dương lòng yêu nước của mình. Lý luận cho rằng chỉ cờ búa liềm mới là cờ đảng CS còn cờ đỏ sao vàng là cờ tổ quốc chẳng khác gì bảo Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, Quốc hội CSVN, nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là những cơ quan hoàn toàn độc lập chứ không phải là một tổ chức trực thuộc trung ương đảng CSVN và đều do các ủy viên Bộ Chính Trị trực tiếp lãnh đạo.
Bởi vì lá cờ vàng ba sọc đỏ đang bị che dấu, bị trù dập là lá cờ mà các em cần phải biết nhiều hơn. Có thể các em chưa biết nhiều về lá cờ vàng ba sọc đỏ nhưng một điều các em biết cái gì đảng nguyền rủa, đảng sợ hãi cái đó phải tốt, phải đúng. Các em có thể bắt đầu do tính tò mò, do chán ngán với thực tế phũ phàng đang có, dần dần có nhận thức rõ và sâu sắc hơn về các vấn đề lịch sử. Thì ra, lá cờ vàng, không phải chỉ có một nguồn gốc lịch sử lâu dài nhưng còn từ máu xương, từ mồ hôi nước mắt, từ hơi thở của những người đã gìn giữ và bảo vệ vùng trời, vùng biển tự do của đất nước. Một tài sản dù đồ sộ bao nhiêu cũng không có giá trị lớn về mặt tinh thần nếu tài sản đó không được đánh đổi bằng mồ hôi ước mắt của những người đã tạo ra nó. Lá cờ vàng đã đắp lên bao nhiêu ngôi mộ, bao nhiêu quan tài, bao nhiêu khuôn mặt tuổi thanh niên đã chết vì lý tưởng tự do của dân tộc trong cuộc chiến tự vệ đầy gian khổ để bảo vệ từng thước đất, từng hải lý của tổ quốc thân yêu. Không giống như những năm bị khóa chặt trong bốn bức tường đen sau 1975, thế hệ trẻ ngày nay, nếu chịu khó học hỏi, đọc nhiều nguồn tư liệu khác nhau, các em sẽ biết ngay lá cờ vàng ba sọc đỏ không đơn giản là cờ của “Bù nhìn Bảo Đại”, “chế độ Ngô Đình Diệm” hay “chế độ Nguyễn Vãn Thiệu”, biểu tượng cho “tội ác ngập đầu của Mỹ Ngụy”, phản ảnh một “xã hội miền nam thối tha đồi trụy” như em đã được dạy trong trường, học tập trong sinh hoạt chi đoàn. Các chế độ chính trị, dù tốt hay xấu, hưng thịnh hay suy vong cũng đến và đi nhưng màu cờ vàng đại diện cho cả quốc gia như dòng nước vẫn tiếp tục trôi trên con sông lịch sử.
Bởi vì lá cờ vàng ba sọc đỏ không chỉ là cờ của chế độ VNCH và phục hồi giá trị lá cờ không có nghĩa là phục hồi chế độ VNCH, tái lập hiệp định Paris, chia đôi đất nước như trước 1975. Không. Dân tộc Việt Nam không hề đặt bút ký thỏa ước Patenotre, hiệp định Geneve hay hiệp định Paris. Tất cả chỉ là sự áp đặt của thực dân và đế quốc đã diễn ra dưới nhiều hình thức trong những thời điểm khó khăn của vận mệnh đất nước. Trong suốt hai thế kỷ qua, dân tộc Việt Nam liên tục là nạn nhân đáng thương, bị xâm lược bởi các ý thức hệ ngoại lai vong bản. Không một người Việt Nam yêu nước nào muốn thấy quê hương chìm đắm và tiếp tục chìm đắm trong lạc hậu, độc tài triền miên như thế này. Một người Việt Nam nào thiết tha với tiền đồ đất nước cũng muốn thấy quê hương được thật sự tự do, thống nhất từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau ôm ấp Hoàng Sa, Trường Sa trong bao la tình biển mẹ. Nhân dân Việt Nam chỉ chống lại việc thống nhất đất nước bằng xe tăng và đại pháo của Nga, Tàu và đặt cả nước dưới ách cai trị độc tài chuyên chính của đảng CSVN mà thôi.
Bởi vì lá cờ đỏ sao vàng là cờ phi nghĩa. Các nhà lãnh đạo Cộng Sản không thể chứng minh cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam là cuộc chiến tranh chính nghĩa. Hãy đọc con số thống kê: Ba triệu người chết trong chiến tranh. Ba trăm ngàn người còn ghi nhận là mất tích sau chiến tranh. Một xứ sở 38 năm sau chiến tranh vẫn còn bị xếp vào một trong những nước chậm tiến. Một chế độ độc tài đảng trị bị loài người khinh rẻ. Một nền kinh tế khoa học kỹ thuật đi sau nhân loại hàng thế kỷ. Nhãn hiệu độc lập, tự do, hạnh phúc sau bao năm đánh bóng cũng chỉ hiện nguyên hình là những con cá gỗ. Tất cả những hậu quả đó là cái giá dân tộc Việt Nam phải trả cho cuộc chiến tranh được gọi là “giải phóng dân tộc” của lãnh đạo đảng CSVN. Đó không phải là chính nghĩa, không phải là giải phóng nhưng là tội ác diệt chủng. Ngạn ngữ Tây phương có câu “Ai giải thích được lịch sử người đó thắng”. Những cường hào ác bá đang sống trong các biệt thự nguy nga ở Hà Nội, Sài Gòn ngày nay không phải là những người làm nên lịch sử nhưng chỉ là những kẻ, trước đây, đã ăn cắp lịch sử, giải thích lịch sử, bóp méo lịch sử cho phù hợp với tham vọng Cộng sản hóa Việt Nam, và ngày nay, để tiếp tục sống huy hoàng trên những thống khổ triền miên của dân tộc Việt Nam.
Bởi vì lá cờ vàng ba sọc đỏ là cờ chống Trung Quốc bành trướng một cách dứt khoát. Khi Phương Uyên dõng dạc tuyên bố trước tòa án CS “Tôi dùng máu viết khẩu hiệu ‘Tàu khựa cút khỏi Biển Đông’ và ‘Đảng cộng sản chết đi’, khẩu hiệu bị cho là ‘phỉ báng đảng cộng sản Việt Nam’, là vì tôi thể hiện lòng yêu nước khi tôi căm phẫn Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam đến tột cùng sự phẫn uất” cho thấy suy nghĩ của em chẳng những vượt cao hơn những người cùng thế hệ mà còn can đảm và rõ ràng hơn những bậc cha chú còn cam tâm nhận ơn mưa móc của đảng. “Tàu khựa cút” và “Đảng Cộng Sản chết” là hai điều kiện tiên quyết để phục hồi chủ quyền đất nước về đối nội cũng như đối ngoại. Lịch sử Việt Nam cho thấy, muốn thắng kẻ thù xâm lược dân tộc phải biết đoàn kết và phát huy nội lực. Ngày nào đảng CS còn cai trị đất nước bằng nhà tù, trấn áp và cúi đầu trước Tàu Khựa thì đừng mong gì đoàn kết và phát huy nội lực, đừng mong đòi lại được Hoàng Sa và phần lớn Trường Sa. Nguyên Kha biết điều đó. Phương Uyên biết điều đó. Nhân dân Việt Nam có nhận thức đúng về hướng đi của đất nước biết điều đó. Nếu không phải do chính bà Nguyễn Thị Nhung, mẹ của Phương Uyên và những người chính mắt tham dự phiên tòa thuật lại, thật không ai có thể tin một cô bé mong manh như giọt sương buổi sáng 21 tuổi đó đã điềm tỉnh đón nhận bản án dành cho em. Em trở thành huyền thoại ngay trong khi còn sống và ở tuổi hai mươi. Em dâng hiến tuổi thanh xuân của mình để dựng mùa xuân cho dân tộc Việt Nam.
Thế hệ tuổi hai mươi hôm nay sinh ra nhiều năm sau khi chiến tranh chấm dứt nên có nhiều điều các em chưa hiểu hết. Từ sau ngày 30 tháng Tư 1975, lá cờ vàng không còn bay trên bầu trời miền Nam nhưng đã để lại cho nhân dân Việt Nam, trong đó có các em, những tài sản vật chất và tinh thần vô cùng phong phú, và nếu lấy các giá trị và thành quả đó ra, Việt Nam hôm nay chỉ là một địa ngục Bắc Hàn.
Thật vậy, chỉ bàn sơ về âm nhạc, một lãnh vực gần gũi nhất với thế hệ trẻ. Gác qua một bên quan điểm và lối sống cá nhân của một số người viết nhạc, hãy tưởng tượng âm nhạc Việt Nam không có Phạm Duy, Lê Thương, Dương Thiệu Tước, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Trầm Tử Thiêng, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương, Nguyễn Văn Đông, Hoàng Trọng, Cung Tiến, Phạm Đình Chương, Nguyễn Ánh 9, Hoàng Thi Thơ, Trần Thiện Thanh, Lam Phương, Trúc Phương, Anh Bằng, Lê Dinh, Minh Kỳ, Lê Hựu Hà, Nhật Ngân v.v. rồi nền âm nhạc Việt Nam với những Bài ca năm tấn của Nguyễn Văn Tý, Trai anh hùng, gái đảm đang của Đỗ Nhuận, Hò kiến thiết của Nguyễn Xuân Khoát v.v. sẽ nghèo nàn và lạc hậu biết bao nhiêu. Các nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, Đỗ Nhuận, Nguyễn Xuân Khoát đều là những tài năng âm nhạc, những nhạc sĩ tiên phong của nền âm nhạc Việt Nam nhưng không giống Văn Cao và Đoàn Chuẩn im lặng, họ chấp nhận làm những con ve để trỗi lên một điệu nhạc tuyên truyền rẻ tiền, buồn tẻ suốt 21 năm trong mùa hè Cộng Sản nóng bức và dài lê thê ở miền Bắc.
Sự hiện hữu và sức thu hút của cờ vàng là một thực tế không thể chối cãi. Những phản ứng tức tối của nhà cầm quyền CSVN trước việc các thành phố lớn nhỏ ở Mỹ nối tiếp nhau công nhận lá cờ vàng cho thấy sự sợ hãi của họ trước một sự thật lịch sử mà họ không còn có thể che đậy, dấu diếm, lừa gạt được ai hay giải thích cách nào khác. Hành động điên cuồng, man rợ, vô nhân của đảng CS khi kết án một cô gái chỉ 21 tuổi phải giam hãm sáu năm tới của đời con gái trong vòng lao lý và ba năm quản thúc chỉ vì em in và dán lá cờ vàng, một lần nữa, chỉ tự tố cáo sự sợ hãi của đảng CS đối với lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Khi còn nhỏ, tôi chỉ nhìn thấy lá cờ vàng từ góc độ của một sân trường trung học. Khi lớn lên, học hỏi thêm, tôi nhìn lá cờ vàng từ góc độ của chế độ mà tôi đã sống, từ miền Nam tự do mà tôi đã ra đi, từ đất nước mà tôi yêu quý. Và hôm nay, tôi nhìn lá cờ vàng từ trái tim trong sáng của Phương Uyên, một em bé gái Việt Nam vừa mới lớn và đang đập theo nhịp đập của tương lai dân tộc. Chính nghĩa dân tộc rồi sẽ thắng. Cuối cùng, chỉ có người Việt Nam mới ôm ấp và đeo đuổi giấc mơ tự do dân chủ cho chính mình và tương lai của con cháu mình. Không ai xót thương và cứu vớt dân tộc Việt Nam ngoài chính dân tộc Việt Nam. Nếu tất cả chúng ta cùng biết đau một nỗi đau chung và cùng biết đeo đuổi một giấc mơ Việt Nam như Nguyên Kha, Phương Uyên đang theo đuổi, tôi tin cuộc vận động tự do dân chủ và phục hồi chủ quyền đất nước sẽ sớm thành công. Điểm hẹn huy hoàng của lịch sử có thể chỉ còn năm phút nữa nhưng nếu không ai đứng dậy và bước đi, năm phút sẽ qua nhanh và mục tiêu không bao giờ đạt đến. Hãy đứng lên và cùng đi với Nguyên Kha, Phương Uyên và tuổi trẻ Việt Nam.
Bởi vì lá cờ đỏ sao vàng là cờ phi nghĩa. Các nhà lãnh đạo Cộng Sản không thể chứng minh cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam là cuộc chiến tranh chính nghĩa. Hãy đọc con số thống kê: Ba triệu người chết trong chiến tranh. Ba trăm ngàn người còn ghi nhận là mất tích sau chiến tranh. Một xứ sở 38 năm sau chiến tranh vẫn còn bị xếp vào một trong những nước chậm tiến. Một chế độ độc tài đảng trị bị loài người khinh rẻ. Một nền kinh tế khoa học kỹ thuật đi sau nhân loại hàng thế kỷ. Nhãn hiệu độc lập, tự do, hạnh phúc sau bao năm đánh bóng cũng chỉ hiện nguyên hình là những con cá gỗ. Tất cả những hậu quả đó là cái giá dân tộc Việt Nam phải trả cho cuộc chiến tranh được gọi là “giải phóng dân tộc” của lãnh đạo đảng CSVN. Đó không phải là chính nghĩa, không phải là giải phóng nhưng là tội ác diệt chủng. Ngạn ngữ Tây phương có câu “Ai giải thích được lịch sử người đó thắng”. Những cường hào ác bá đang sống trong các biệt thự nguy nga ở Hà Nội, Sài Gòn ngày nay không phải là những người làm nên lịch sử nhưng chỉ là những kẻ, trước đây, đã ăn cắp lịch sử, giải thích lịch sử, bóp méo lịch sử cho phù hợp với tham vọng Cộng sản hóa Việt Nam, và ngày nay, để tiếp tục sống huy hoàng trên những thống khổ triền miên của dân tộc Việt Nam.
Bởi vì lá cờ vàng ba sọc đỏ là cờ chống Trung Quốc bành trướng một cách dứt khoát. Khi Phương Uyên dõng dạc tuyên bố trước tòa án CS “Tôi dùng máu viết khẩu hiệu ‘Tàu khựa cút khỏi Biển Đông’ và ‘Đảng cộng sản chết đi’, khẩu hiệu bị cho là ‘phỉ báng đảng cộng sản Việt Nam’, là vì tôi thể hiện lòng yêu nước khi tôi căm phẫn Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam đến tột cùng sự phẫn uất” cho thấy suy nghĩ của em chẳng những vượt cao hơn những người cùng thế hệ mà còn can đảm và rõ ràng hơn những bậc cha chú còn cam tâm nhận ơn mưa móc của đảng. “Tàu khựa cút” và “Đảng Cộng Sản chết” là hai điều kiện tiên quyết để phục hồi chủ quyền đất nước về đối nội cũng như đối ngoại. Lịch sử Việt Nam cho thấy, muốn thắng kẻ thù xâm lược dân tộc phải biết đoàn kết và phát huy nội lực. Ngày nào đảng CS còn cai trị đất nước bằng nhà tù, trấn áp và cúi đầu trước Tàu Khựa thì đừng mong gì đoàn kết và phát huy nội lực, đừng mong đòi lại được Hoàng Sa và phần lớn Trường Sa. Nguyên Kha biết điều đó. Phương Uyên biết điều đó. Nhân dân Việt Nam có nhận thức đúng về hướng đi của đất nước biết điều đó. Nếu không phải do chính bà Nguyễn Thị Nhung, mẹ của Phương Uyên và những người chính mắt tham dự phiên tòa thuật lại, thật không ai có thể tin một cô bé mong manh như giọt sương buổi sáng 21 tuổi đó đã điềm tỉnh đón nhận bản án dành cho em. Em trở thành huyền thoại ngay trong khi còn sống và ở tuổi hai mươi. Em dâng hiến tuổi thanh xuân của mình để dựng mùa xuân cho dân tộc Việt Nam.
Thế hệ tuổi hai mươi hôm nay sinh ra nhiều năm sau khi chiến tranh chấm dứt nên có nhiều điều các em chưa hiểu hết. Từ sau ngày 30 tháng Tư 1975, lá cờ vàng không còn bay trên bầu trời miền Nam nhưng đã để lại cho nhân dân Việt Nam, trong đó có các em, những tài sản vật chất và tinh thần vô cùng phong phú, và nếu lấy các giá trị và thành quả đó ra, Việt Nam hôm nay chỉ là một địa ngục Bắc Hàn.
Thật vậy, chỉ bàn sơ về âm nhạc, một lãnh vực gần gũi nhất với thế hệ trẻ. Gác qua một bên quan điểm và lối sống cá nhân của một số người viết nhạc, hãy tưởng tượng âm nhạc Việt Nam không có Phạm Duy, Lê Thương, Dương Thiệu Tước, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Trầm Tử Thiêng, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương, Nguyễn Văn Đông, Hoàng Trọng, Cung Tiến, Phạm Đình Chương, Nguyễn Ánh 9, Hoàng Thi Thơ, Trần Thiện Thanh, Lam Phương, Trúc Phương, Anh Bằng, Lê Dinh, Minh Kỳ, Lê Hựu Hà, Nhật Ngân v.v. rồi nền âm nhạc Việt Nam với những Bài ca năm tấn của Nguyễn Văn Tý, Trai anh hùng, gái đảm đang của Đỗ Nhuận, Hò kiến thiết của Nguyễn Xuân Khoát v.v. sẽ nghèo nàn và lạc hậu biết bao nhiêu. Các nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, Đỗ Nhuận, Nguyễn Xuân Khoát đều là những tài năng âm nhạc, những nhạc sĩ tiên phong của nền âm nhạc Việt Nam nhưng không giống Văn Cao và Đoàn Chuẩn im lặng, họ chấp nhận làm những con ve để trỗi lên một điệu nhạc tuyên truyền rẻ tiền, buồn tẻ suốt 21 năm trong mùa hè Cộng Sản nóng bức và dài lê thê ở miền Bắc.
Sự hiện hữu và sức thu hút của cờ vàng là một thực tế không thể chối cãi. Những phản ứng tức tối của nhà cầm quyền CSVN trước việc các thành phố lớn nhỏ ở Mỹ nối tiếp nhau công nhận lá cờ vàng cho thấy sự sợ hãi của họ trước một sự thật lịch sử mà họ không còn có thể che đậy, dấu diếm, lừa gạt được ai hay giải thích cách nào khác. Hành động điên cuồng, man rợ, vô nhân của đảng CS khi kết án một cô gái chỉ 21 tuổi phải giam hãm sáu năm tới của đời con gái trong vòng lao lý và ba năm quản thúc chỉ vì em in và dán lá cờ vàng, một lần nữa, chỉ tự tố cáo sự sợ hãi của đảng CS đối với lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Khi còn nhỏ, tôi chỉ nhìn thấy lá cờ vàng từ góc độ của một sân trường trung học. Khi lớn lên, học hỏi thêm, tôi nhìn lá cờ vàng từ góc độ của chế độ mà tôi đã sống, từ miền Nam tự do mà tôi đã ra đi, từ đất nước mà tôi yêu quý. Và hôm nay, tôi nhìn lá cờ vàng từ trái tim trong sáng của Phương Uyên, một em bé gái Việt Nam vừa mới lớn và đang đập theo nhịp đập của tương lai dân tộc. Chính nghĩa dân tộc rồi sẽ thắng. Cuối cùng, chỉ có người Việt Nam mới ôm ấp và đeo đuổi giấc mơ tự do dân chủ cho chính mình và tương lai của con cháu mình. Không ai xót thương và cứu vớt dân tộc Việt Nam ngoài chính dân tộc Việt Nam. Nếu tất cả chúng ta cùng biết đau một nỗi đau chung và cùng biết đeo đuổi một giấc mơ Việt Nam như Nguyên Kha, Phương Uyên đang theo đuổi, tôi tin cuộc vận động tự do dân chủ và phục hồi chủ quyền đất nước sẽ sớm thành công. Điểm hẹn huy hoàng của lịch sử có thể chỉ còn năm phút nữa nhưng nếu không ai đứng dậy và bước đi, năm phút sẽ qua nhanh và mục tiêu không bao giờ đạt đến. Hãy đứng lên và cùng đi với Nguyên Kha, Phương Uyên và tuổi trẻ Việt Nam.
27. BÀI THƠ YÊU NƯỚC
CỦA NGUYỄN PHƯƠNG UYÊN
Ơi đồng bào Việt Quốc !!!
Đất nước không chiến tranh
Cớ chi đau thắt ruột
Sự tự hào ngộ nhận
Một chế độ bi hài sau chiến tranh
Bọn cường quyền gian manh cơ hội
Đào bới bóc lột dân lành
Núp dưới bóng cờ máu, bác đảng
Âm thầm bán từng mãnh đất quê hương
Tổ quốc thân yêu ơi!
Đồng bào thân yêu ơi!
Ôi, ta thương quá đi thôi!
Vết sẹo hằn sâu vào trái tim, trải dài theo năm tháng
Xuyên qua chiến tranh có những đống mồ hùng vĩ
Người phơi thây ngã xuống mắt trừng trừng nhìn nhau
“Hậu thế ơi hãy giữ gìn non sông”
Ôi đất nước giờ tả tơi từng mãnh trao cho giặc!
Sự hy sinh bất công!
Xứ sở linh thiêng có còn không?
Phật khóc, Thánh rơi lệ!
Công lý lưu lạc để đức tin chìm vào đáy biển
Tràn ngập hôn mê
Ơi thanh niên Việt Quốc!
Chúng ta là ai?
Hãy đứng lên trước vận mệnh tổ quốc
Giặc đang tràn tới ngõ
Hãy đứng lên đi
Đứng lên niềm tự hào để sử sách lưu danh
Đứng lên đi cho tự do tỏa sáng
Đứng lên đi giành lại nước của dân lành
Hỡi tất cả những ai là đồng bào Việt Quốc
Hãy chung tay gìn giữ cội nguồn cho con cháu mai sau.
NGUYỄN PHƯƠNG UYÊN
CỦA NGUYỄN PHƯƠNG UYÊN
Ơi đồng bào Việt Quốc !!!
Đất nước không chiến tranh
Cớ chi đau thắt ruột
Sự tự hào ngộ nhận
Một chế độ bi hài sau chiến tranh
Bọn cường quyền gian manh cơ hội
Đào bới bóc lột dân lành
Núp dưới bóng cờ máu, bác đảng
Âm thầm bán từng mãnh đất quê hương
Tổ quốc thân yêu ơi!
Đồng bào thân yêu ơi!
Ôi, ta thương quá đi thôi!
Vết sẹo hằn sâu vào trái tim, trải dài theo năm tháng
Xuyên qua chiến tranh có những đống mồ hùng vĩ
Người phơi thây ngã xuống mắt trừng trừng nhìn nhau
“Hậu thế ơi hãy giữ gìn non sông”
Ôi đất nước giờ tả tơi từng mãnh trao cho giặc!
Sự hy sinh bất công!
Xứ sở linh thiêng có còn không?
Phật khóc, Thánh rơi lệ!
Công lý lưu lạc để đức tin chìm vào đáy biển
Tràn ngập hôn mê
Ơi thanh niên Việt Quốc!
Chúng ta là ai?
Hãy đứng lên trước vận mệnh tổ quốc
Giặc đang tràn tới ngõ
Hãy đứng lên đi
Đứng lên niềm tự hào để sử sách lưu danh
Đứng lên đi cho tự do tỏa sáng
Đứng lên đi giành lại nước của dân lành
Hỡi tất cả những ai là đồng bào Việt Quốc
Hãy chung tay gìn giữ cội nguồn cho con cháu mai sau.
NGUYỄN PHƯƠNG UYÊN
26. Đoạt giải slow-food nhờ "bửu bối" nước mắm
TTCT - Anh Nguyễn Chữ, một Việt kiều sống ở Torino, Ý hơn bốn thập niên, đã qua mặt các ứng viên Ý để đoạt giải nhất trong một cuộc thi ẩm thực ở xứ sở của phong trào slow-food. Bí quyết của anh là... nước mắm! Anh đã dành cho TTCT một cuộc trao đổi thú vị. Anh Nguyễn Chữ - Ảnh nhân vật cung cấp Anh Chữ biểu diễn nấu ăn trong cuộc thi * Chúc mừng anh với giải thưởng đặc biệt này. Nhưng trước hết, anh hãy tự giới thiệu với độc giả của TTCT. -
Tôi là một Việt kiều, quê quán ở Quảng Nam, học Trường Trần Quý Cáp, Hội An rồi Kỹ thuật Đà Nẵng. Cuối năm 1972, tôi đang học năm 2 Trường Quốc gia kỹ sư công nghệ ở Trung tâm Bách khoa Phú Thọ (Sài Gòn) thì được học bổng sang Ý. Tôi tốt nghiệp ngành kỹ sư điện tử tại Trường đại học Bách khoa công nghệ Torino. Hiện nay tôi đang giữ chức vụ trưởng khâu phần mềm chi nhánh Ý của Tập đoàn ITW Corp. Test and Measurement. Slow-food trở lại... ngày xưa * Nghe nói anh là “tín đồ” của slow-food và việc đoạt giải thưởng ẩm thực này đã phần nào khẳng định điều đó. Nhưng sao anh lại chí thú với slow-food đến vậy? - Tôi vô cùng thích thú khi được hỏi về đề tài này vì đây là một trong những hoạt động văn hóa tiên tiến của Ý cần được phổ biến, học hỏi. “Dĩ nông vi bổn” gần như là một khẩu hiệu ngầm của phong trào này. Slow-food phát sinh từ Torino (miền Bắc Ý, “lãnh địa” của Tập đoàn công nghiệp xe hơi Fiat), hiện nay đã trở thành một tổ chức văn hóa ẩm thực phi lợi nhuận, có mặt ở 150 quốc gia trên thế giới. Những năm gần đây, song song với ý thức về bảo vệ môi trường và phát triển năng lượng tái tạo, ở các nước phương Tây xu hướng slow-food (vừa ăn vừa thưởng thức) đang lan nhanh. T rào lưu này được xem như một phản ứng, đối trọng với fast-food (vừa ăn vừa chạy) xuất hiện mấy thập niên trước với sự ra đời của các cửa hàng thức ăn nhanh như McDonald, KFC, Burger King... Cùng với fast-food là các công nghệ chế biến thực phẩm siêu tốc, đốt cháy tất cả các quá trình lên men, chín muồi tự nhiên của thực phẩm, dẫn tới những hệ lụy cho sức khỏe. Không chỉ do hàm lượng hóa chất hay dầu mỡ cao hơn mức độ cơ thể có thể tiếp nhận, cung cách “vừa ăn vừa chạy” đã tạo ra những phong cách ẩm thực biến tướng, trong đó người ta “chạy” nhiều hơn “ăn” nên rồi cũng đánh mất đi việc thưởng thức ẩm thực, vốn là cái thứ nhất trong “tứ khoái” của cha ông. Cho đến nay, ở Tây Âu đã có hàng loạt tổ chức mua bán thực phẩm, các cơ sở nông nghiệp và chăn nuôi hoạt động theo tư duy slow-food: hoàn toàn không dùng các “mưu chước” nguy hiểm để kích thích tăng trưởng hay biến đổi thời vụ, không dùng hóa chất độc hại để tăng tốc các quá trình chế biến thực phẩm. Nói chung là tìm cách trở lại các công thức cấy trồng chăn nuôi và chế biến thực phẩm dựa theo các quy luật thiên nhiên và đồng thời tôn trọng môi trường. * Vì sao một trào lưu ăn uống khoan thai để thưởng thức như thế lại bắt nguồn từ lãnh địa của công nghiệp ôtô? - Không phải tình cờ mà phong trào slow-food sinh ra từ Cuneo, một tỉnh thuộc vùng Piemonte mà Torino là thủ phủ. Đây là một trong những cái nôi của ẩm thực Ý, quê hương số một của rượu vang Ý, như Spumante Asti (vang sủi bọt Ý) hay Barolo... Đây còn là quê hương của loài nấm tartufo nổi tiếng trong thế giới ẩm thực, giá thường trên 1.000 euro/kg. Trong bản tuyên ngôn đầu tiên năm 1987, trong 13 nhân vật tên tuổi ký tên ngoài Carlo Petrini còn có Dario Fo - giải Nobel văn chương. Dưới ảnh hưởng trực tiếp của slow-food ở Torino đã mọc lên rất nhiều dự án làm mới cả nền văn hóa đã cao cấp của ẩm thực Ý, ví dụ như sự ra đời của Hãng kem GROM, do hai thanh niên dưới 30 tuổi chủ trương cách đây gần mươi năm, đã “cách mạng” cung cách làm kem Ý, một ngành (thủ) công nghiệp tưởng đã hoàn hảo. Cũng trong quỹ đạo của slow-food là tuyến siêu thị Eataly (ghép từ chữ “ăn” trong tiếng Anh là “eat” và “Italy”). Tôn chỉ thương mại của Eataly là “kiếm lời nhờ chất lượng” và một khẩu hiệu (xã hội) khác được treo trong các cửa hàng Eataly là “cơ hội cho mọi người”. Thật vậy, nếu người nào không đủ điều kiện mua những thức ăn sang cả thì trong đó vẫn có những món hàng bình dân bảo đảm chất lượng như cá thu con bảo đảm tươi giá 12 euro/kg (trong khi giá cá thu lát lớn là 50 euro/kg), cá sòng con giá 8 euro/kg... Họ còn làm thẻ giảm giá cho người hưu trí và mới đây trong mùa rau thì là, họ đã bán miễn phí cho người hưu trí. Anh Nguyễn Chữ bắt tay cảm ơn ban giám khảo, sau khi được vinh danh người thắng giải nhất trong tiếng reo hò phấn chấn của các cổ động viên - Ảnh nhân vật cung cấp
TTCT - Anh Nguyễn Chữ, một Việt kiều sống ở Torino, Ý hơn bốn thập niên, đã qua mặt các ứng viên Ý để đoạt giải nhất trong một cuộc thi ẩm thực ở xứ sở của phong trào slow-food. Bí quyết của anh là... nước mắm! Anh đã dành cho TTCT một cuộc trao đổi thú vị. Anh Nguyễn Chữ - Ảnh nhân vật cung cấp Anh Chữ biểu diễn nấu ăn trong cuộc thi * Chúc mừng anh với giải thưởng đặc biệt này. Nhưng trước hết, anh hãy tự giới thiệu với độc giả của TTCT. -
Tôi là một Việt kiều, quê quán ở Quảng Nam, học Trường Trần Quý Cáp, Hội An rồi Kỹ thuật Đà Nẵng. Cuối năm 1972, tôi đang học năm 2 Trường Quốc gia kỹ sư công nghệ ở Trung tâm Bách khoa Phú Thọ (Sài Gòn) thì được học bổng sang Ý. Tôi tốt nghiệp ngành kỹ sư điện tử tại Trường đại học Bách khoa công nghệ Torino. Hiện nay tôi đang giữ chức vụ trưởng khâu phần mềm chi nhánh Ý của Tập đoàn ITW Corp. Test and Measurement. Slow-food trở lại... ngày xưa * Nghe nói anh là “tín đồ” của slow-food và việc đoạt giải thưởng ẩm thực này đã phần nào khẳng định điều đó. Nhưng sao anh lại chí thú với slow-food đến vậy? - Tôi vô cùng thích thú khi được hỏi về đề tài này vì đây là một trong những hoạt động văn hóa tiên tiến của Ý cần được phổ biến, học hỏi. “Dĩ nông vi bổn” gần như là một khẩu hiệu ngầm của phong trào này. Slow-food phát sinh từ Torino (miền Bắc Ý, “lãnh địa” của Tập đoàn công nghiệp xe hơi Fiat), hiện nay đã trở thành một tổ chức văn hóa ẩm thực phi lợi nhuận, có mặt ở 150 quốc gia trên thế giới. Những năm gần đây, song song với ý thức về bảo vệ môi trường và phát triển năng lượng tái tạo, ở các nước phương Tây xu hướng slow-food (vừa ăn vừa thưởng thức) đang lan nhanh. T rào lưu này được xem như một phản ứng, đối trọng với fast-food (vừa ăn vừa chạy) xuất hiện mấy thập niên trước với sự ra đời của các cửa hàng thức ăn nhanh như McDonald, KFC, Burger King... Cùng với fast-food là các công nghệ chế biến thực phẩm siêu tốc, đốt cháy tất cả các quá trình lên men, chín muồi tự nhiên của thực phẩm, dẫn tới những hệ lụy cho sức khỏe. Không chỉ do hàm lượng hóa chất hay dầu mỡ cao hơn mức độ cơ thể có thể tiếp nhận, cung cách “vừa ăn vừa chạy” đã tạo ra những phong cách ẩm thực biến tướng, trong đó người ta “chạy” nhiều hơn “ăn” nên rồi cũng đánh mất đi việc thưởng thức ẩm thực, vốn là cái thứ nhất trong “tứ khoái” của cha ông. Cho đến nay, ở Tây Âu đã có hàng loạt tổ chức mua bán thực phẩm, các cơ sở nông nghiệp và chăn nuôi hoạt động theo tư duy slow-food: hoàn toàn không dùng các “mưu chước” nguy hiểm để kích thích tăng trưởng hay biến đổi thời vụ, không dùng hóa chất độc hại để tăng tốc các quá trình chế biến thực phẩm. Nói chung là tìm cách trở lại các công thức cấy trồng chăn nuôi và chế biến thực phẩm dựa theo các quy luật thiên nhiên và đồng thời tôn trọng môi trường. * Vì sao một trào lưu ăn uống khoan thai để thưởng thức như thế lại bắt nguồn từ lãnh địa của công nghiệp ôtô? - Không phải tình cờ mà phong trào slow-food sinh ra từ Cuneo, một tỉnh thuộc vùng Piemonte mà Torino là thủ phủ. Đây là một trong những cái nôi của ẩm thực Ý, quê hương số một của rượu vang Ý, như Spumante Asti (vang sủi bọt Ý) hay Barolo... Đây còn là quê hương của loài nấm tartufo nổi tiếng trong thế giới ẩm thực, giá thường trên 1.000 euro/kg. Trong bản tuyên ngôn đầu tiên năm 1987, trong 13 nhân vật tên tuổi ký tên ngoài Carlo Petrini còn có Dario Fo - giải Nobel văn chương. Dưới ảnh hưởng trực tiếp của slow-food ở Torino đã mọc lên rất nhiều dự án làm mới cả nền văn hóa đã cao cấp của ẩm thực Ý, ví dụ như sự ra đời của Hãng kem GROM, do hai thanh niên dưới 30 tuổi chủ trương cách đây gần mươi năm, đã “cách mạng” cung cách làm kem Ý, một ngành (thủ) công nghiệp tưởng đã hoàn hảo. Cũng trong quỹ đạo của slow-food là tuyến siêu thị Eataly (ghép từ chữ “ăn” trong tiếng Anh là “eat” và “Italy”). Tôn chỉ thương mại của Eataly là “kiếm lời nhờ chất lượng” và một khẩu hiệu (xã hội) khác được treo trong các cửa hàng Eataly là “cơ hội cho mọi người”. Thật vậy, nếu người nào không đủ điều kiện mua những thức ăn sang cả thì trong đó vẫn có những món hàng bình dân bảo đảm chất lượng như cá thu con bảo đảm tươi giá 12 euro/kg (trong khi giá cá thu lát lớn là 50 euro/kg), cá sòng con giá 8 euro/kg... Họ còn làm thẻ giảm giá cho người hưu trí và mới đây trong mùa rau thì là, họ đã bán miễn phí cho người hưu trí. Anh Nguyễn Chữ bắt tay cảm ơn ban giám khảo, sau khi được vinh danh người thắng giải nhất trong tiếng reo hò phấn chấn của các cổ động viên - Ảnh nhân vật cung cấp
Nước mắm hội nhập ẩm thực Ý * Với một người mà nghề “kiếm cơm” là tin học, không thể không thắc mắc nguyên nhân nào anh lại đi thi ẩm thực? - Tôi vốn rất thích nấu ăn và nhất là tôi rất tò mò tìm hiểu về văn hóa ẩm thực. Nấu ăn đối với tôi không phải chỉ làm sao cho ngon miệng mà còn phải biết nấu đúng bài bản, tránh dùng những “thủ thuật” như nêm nếm những thứ gia vị kiểu “plug and play” (gia vị chế biến sẵn) mà dùng các gia vị, nguyên vật liệu một cách thiên - tự - nhiên không chế biến nhiều, từa tựa như cách ăn “nước mắm sống” quê mùa xứ Quảng. Tôi vốn là một “tín đồ” slow-food, đi chợ thì đến các khu bán thực phẩm sạch của các cửa hàng slow-food, ăn uống thì theo triết lý kiểu mùa nào thức nấy “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá” (thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm). Và tôi cũng thường xuyên tham gia các hoạt động văn hóa ẩm thực của các tổ chức slow-food. Cách đây vài tháng, khi biết “Torino by gnam” tổ chức cuộc thi ẩm thực hằng năm mang tên “Play with food” (tạm dịch: Biến tấu cùng thực phẩm) và đây là lần thứ 4 cuộc thi này được tổ chức, cô con gái của tôi khích tôi dự thi. Phần thì “điếc không sợ súng”, phần chiều lòng con gái, tôi ghi danh. Đây là lần đầu tôi dự một cuộc thi ẩm thực và không ngờ... được trúng giải nhất! * Từ đâu ra công thức của “ức vịt tiềm cam với nước mắm” đem lại cho anh giải nhất? Anh có thể giới thiệu sơ qua “đặc sản” này? - Mọi người đều biết “ức vịt tiềm cam” (Magret de canard à l'orange) là một đặc sản của Pháp... nhưng gốc Ý: thời Phục hưng chính bà hoàng Caterina De’ Medici du nhập món này từ Firenze vào Pháp ăn để đỡ nhớ quê nhà khi theo chồng làm hoàng hậu bên kia dãy núi Alps. Khi chọn món này để dự thi tôi cũng biết mình đang “vào hang hùm”: nếu nấu món Việt thì mình còn có thể hi vọng “múa rìu” qua mắt thiên hạ... nhưng nấu món Ý, trước ban giám khảo Ý thì coi như là không thể nào phù phép được. Tôi bèn “tương kế tựu kế”, dùng món Ý để giám khảo Ý không bỡ ngỡ, rồi trong khi đang áp chảo mình bất ngờ cho nước mắm “nổi lửa” (flambé) lên ức vịt... Thế là món ăn vừa quen miệng lại trở thành lạ miệng, tuy lạ miệng nhưng lại là món đặc sản quen miệng... Thế là đánh trúng được cái tinh thần sáng tạo của tư duy slow-food. Ở đây tôi cũng muốn nói đôi câu về nước mắm: khi còn nhỏ, ở quê nhà tôi hay nghe ông bà kể chuyện thời tây là mấy ông tây bà đầm hễ nghe mùi nước mắm là... chạy, khiến tôi cứ tưởng nước mắm thì chỉ có mỗi dân Việt là kham nổi. Nhưng sau này, khi đi “tha phương cầu thực”, tôi mới ngộ ra rằng tây đầm cũng khoái nước mắm không thua chi người Việt ta, với điều kiện là mình phải biết hướng dẫn họ cách thức nêm nếm, cách thức pha chế, cách dùng, lúc dùng đúng bài bản... và chưa bao giờ tôi thấy tây đầm từ chối nước mắm cả. Thậm chí tôi còn đọc được tư liệu nói là ngay từ thời đế quốc La Mã, lính viễn chinh của Roma khi đi đánh trận xa dài ngày đều có mang theo một thứ nước chấm được gọi là “garum” giàu chất đạm lấy từ cá đối ướp với muối để lâu ngày cho ra nước chấm... y hệt như quá trình làm nước mắm của ta. Từ đó tôi bắt đầu nảy sinh ý tưởng pha chế hài hòa nước mắm vào các đặc sản của Ý... Và xem ra thì ý tưởng này đã đạt thành công. * Thừa thắng xông lên, anh có kế hoạch gì trong tương lai không? - Nấu ăn với tôi hiện thời chỉ là để tiêu khiển, để thỏa mãn tính tò mò ẩm thực, để khám phá những hương vị mới. Còn lại vẫn phải đi kiếm cơm bằng nghề tin học. Tuy nhiên sau khi thắng giải nhất vừa rồi thì sắp tới đây tôi sẽ được mời tham dự một buổi biểu diễn ẩm thực hai ngày về gạo ở thành phố Vercelli (Bắc Ý). Lần này tôi cũng sẽ thủ trong túi chai nước mắm làm bửu bối! (Cười) * Cảm ơn anh và chúc anh tiếp tục đi xa hơn với... nước mắm!
Vòng chung kết cuộc thi của những người nấu ăn nghiệp dư này do tổ chức slow-food “Torino by gnam” (*) tổ chức vào ngày 20-3. Ban giám khảo gồm những chuyên gia ẩm thực cùng với các giảng sư của các trường đào tạo đầu bếp chuyên nghiệp. Cuộc thi diễn ra ngay trong nhà bếp của Câu lạc bộ ẩm thực Spazio Qubì, mỗi thí sinh có được 30 phút trình diễn hoàn tất món ăn mà chính thí sinh “sáng tác”. Sau khi đánh giá khía cạnh ngoạn mục trong phần trình diễn nấu nướng của từng thí sinh, ban giám khảo đã thưởng thức tất cả sáu món ăn dự giải và đồng ý trao giải nhất cho món “Ức vịt tiềm cam với nước mắm” của anh Nguyễn Chữ trong tiếng reo hò phấn chấn của các ủng hộ viên và trước nụ cười mãn nguyện của người đầu bếp nghiệp dư. THANH GƯƠNG (Roma) ___________ (*) Chữ “gnam”, người Ý phát âm là “nham”, là một từ vựng dân gian của Ý để chỉ hành động nhai. Tổ chức “Torino by gnam” có nghĩa là “Ẩm thực ở Torino”.
Vòng chung kết cuộc thi của những người nấu ăn nghiệp dư này do tổ chức slow-food “Torino by gnam” (*) tổ chức vào ngày 20-3. Ban giám khảo gồm những chuyên gia ẩm thực cùng với các giảng sư của các trường đào tạo đầu bếp chuyên nghiệp. Cuộc thi diễn ra ngay trong nhà bếp của Câu lạc bộ ẩm thực Spazio Qubì, mỗi thí sinh có được 30 phút trình diễn hoàn tất món ăn mà chính thí sinh “sáng tác”. Sau khi đánh giá khía cạnh ngoạn mục trong phần trình diễn nấu nướng của từng thí sinh, ban giám khảo đã thưởng thức tất cả sáu món ăn dự giải và đồng ý trao giải nhất cho món “Ức vịt tiềm cam với nước mắm” của anh Nguyễn Chữ trong tiếng reo hò phấn chấn của các ủng hộ viên và trước nụ cười mãn nguyện của người đầu bếp nghiệp dư. THANH GƯƠNG (Roma) ___________ (*) Chữ “gnam”, người Ý phát âm là “nham”, là một từ vựng dân gian của Ý để chỉ hành động nhai. Tổ chức “Torino by gnam” có nghĩa là “Ẩm thực ở Torino”.
25. Cõi Nhân Sinh
Viết bởi Thích Như Điển Thứ hai, 22 Tháng 4 2013 09:02
Ngày xưa ở Việt Nam Cụ Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ vừa làm văn vừa làm võ tướng có để lại nhiều bài thơ hay cho đời, trong đó có bài chữ nhàn như sau:
„Thị tại môn tiền náo
Nguyệt lai môn hạ nhàn
So lao tâm lao lực cũng một đàng
Người trần thế muốn nhàn sao được
Vậy phải lấy chữ nhàn làm trước
Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài
Cuộc nhân sinh chừng bảy, tám,chín, mười mươi
Mười lăm trẻ, năm mươi già không xiết kể
Thọat sinh ra thì đà khóc chóe
Trần có vui sao chẳng cười khì
Khi hỷ lạc, khi ái dục, khi sầu bi
Chứa chi lắm một bầu nhân dục
Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc
Tri nhàn,tiện nhàn, đãi nhàn,hà thời nhàn
Cầm, kỳ, thi, tửu với giang san
Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế
Ngã kim nhật tại tọa chi địa
Cổ chi nhơn tằng tiên ngã tọa chi
Ngàn muôn năm ôi cũng thế ni
Ai hay hát mà ai hay nghe hát
Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất
Để Ông Tô riêng một thú thanh tao
Chữ nhàn là chữ làm sao”.
Đây là một trong những bài thơ rất hay cũng như có ý nghĩa về vô thường, khổ, không, sanh diệt, rất gần gủi với Phật Giáo. Thưở ấy, cách đây chừng gần 50 năm về trước, những người học trò Trung Học đệ nhứt cấp đều phải trả bài thuộc lòng cho Thầy giáo, cứ mỗi lần có giờ Việt văn. Thưở ấy học cũng chỉ để mà học. Không ngờ bây giờ sau gần hơn nữa thế kỷ có mặt với đời,những gì của Uy Viễn tướng công đã thổ lộ tâm tư của mình trong thế kỷ thứ 20 có lẽ sẽ mãi mãi là những bài học qúy giá cho đời sau. Tuy Ông có vẻ bi quan một tí; nhưng đó cũng là lẽ thường tình của những người đã từng trải mọi cuộc vui với đời như Ông; nên mới thổ lộ tâm tình của mình được một cách thực tiển như vậy.
Cõi Người Ta như có lần cố Thi Sĩ Bùi Giáng đã dịch thành tác phẩm từ chữ Terre des Home cũng thật là bất tuyệt. Mặc dầu lúc sống, Ông chỉ có cửa chùa cưu mang và đến khi ra người thiên cổ rồi, lại có nhiều người tìm đến thơ Ông để đọc, nhằm hồi tưởng đến một nhà thơ lớn của quê hương xứ Quảng. Điều ấy cũng hợp với câu:
“Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đà say”.
Cõi đời vốn là cõi tạm.Ai trong chúng ta đến đây nhiều lắm là một trăm năm,rồi cũng phải từ giả tất cả. Nhưng trong một trăm năm năm ấy chúng ta đã để lại cõi trần nầy qúa nhiều điều bất ổn, để rồi ta buông xuôi hai tay, trở lại với trạng thái uyên nguyên của đất trời. Những gì của gió,xin trả lại cho gió; những gì của hơi nóng xin trả lại cho lửa; những gì của nước, xin gửi lại cho suối nguồn và những gì của đất, xin trả lại cho đất. Thế mà đã có ai ý thức rõ được điều nầy, để khi ra đi được thỏng tay vào chợ chăng?
Tôi đến xứ Âu Châu nầy từ năm 1977, kể đến nay cũng đã 36 năm rồi. Trong 36 năm ấy đã có không biết bao nhiêu việc đi qua đời mình; hay có, dỡ có. Thành công có, thất bại cũng chẳng phải là không. Ở cái tuổi xế chiều 65 nầy, cũng nên nhìn lại mọi sự việc của cuộc thế như Uy Viễn tướng công cũng không phải sớm mà cũng chẳng phải muộn màn gì. Mỗi người chúng ta khi sinh ra trong cuộc đời nầy đều có nhiều lý do trong trùng trùng duyên khởi và trùng trùng biến hiện của vạn pháp, như trong kinh Hoa Nghiêm Đức Phật đã chỉ bày. Xin cảm ơn đời và xin tạ ân Đạo Pháp đã cho tôi có được nhiều cơ hội để đến, đi, ngồi lại, ngắm nhìn cuộc đời nầy trong bao nhiêu nổi thăng trầm của nhân thế. Tôi phải cảm ơn đời, cảm ơn người. Nếu không có những trợ duyên nầy tôi sẽ chẳng có ý nghĩa nào cả khi tôi hiện hữu trên nơi nầy cả. Có mình phải có họ và họ phải có mình. Cuộc sống nầy là một sự tương tức với nhau như hơi thở; không thể lọai bỏ ra ngòai cơ thể hay tâm thức được. Chỉ có chuyển hóa khổ đau thành hạnh phúc an lạc giải thóat và cũng chính từ những oan khiên nghiệt ngã của cuộc đời nầy, sẽ gíup ta tự tin hơn khi đi vào cuộc sống của cõi nhân sinh nầy.
Phật pháp vốn không có biên giới;cho nên tôi đã đến với giáo lý Phật Đà cũng như vậy. Không điều kiện nào cả và hòan tòan không có một sự ép buộc nào. Do vậy tâm tôi rất thư thái khi suy niệm về quá khứ. Tôi cũng không nghĩ rằng mình đến đây để phải ở lại đây lâu dài, ngay cả trăm năm đi nữa, thì cũng giống như gió thổi mây bay thôi. Đúng là cuộc đời nầy nó không dừng lại, mà con người vẫn luôn bị động bởi tử sinh, sinh tử dài lâu, chưa bao giờ vượt ra khỏi.
Ngày xưa ở Việt Nam Cụ Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ vừa làm văn vừa làm võ tướng có để lại nhiều bài thơ hay cho đời, trong đó có bài chữ nhàn như sau:
„Thị tại môn tiền náo
Nguyệt lai môn hạ nhàn
So lao tâm lao lực cũng một đàng
Người trần thế muốn nhàn sao được
Vậy phải lấy chữ nhàn làm trước
Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài
Cuộc nhân sinh chừng bảy, tám,chín, mười mươi
Mười lăm trẻ, năm mươi già không xiết kể
Thọat sinh ra thì đà khóc chóe
Trần có vui sao chẳng cười khì
Khi hỷ lạc, khi ái dục, khi sầu bi
Chứa chi lắm một bầu nhân dục
Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc
Tri nhàn,tiện nhàn, đãi nhàn,hà thời nhàn
Cầm, kỳ, thi, tửu với giang san
Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế
Ngã kim nhật tại tọa chi địa
Cổ chi nhơn tằng tiên ngã tọa chi
Ngàn muôn năm ôi cũng thế ni
Ai hay hát mà ai hay nghe hát
Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất
Để Ông Tô riêng một thú thanh tao
Chữ nhàn là chữ làm sao”.
Đây là một trong những bài thơ rất hay cũng như có ý nghĩa về vô thường, khổ, không, sanh diệt, rất gần gủi với Phật Giáo. Thưở ấy, cách đây chừng gần 50 năm về trước, những người học trò Trung Học đệ nhứt cấp đều phải trả bài thuộc lòng cho Thầy giáo, cứ mỗi lần có giờ Việt văn. Thưở ấy học cũng chỉ để mà học. Không ngờ bây giờ sau gần hơn nữa thế kỷ có mặt với đời,những gì của Uy Viễn tướng công đã thổ lộ tâm tư của mình trong thế kỷ thứ 20 có lẽ sẽ mãi mãi là những bài học qúy giá cho đời sau. Tuy Ông có vẻ bi quan một tí; nhưng đó cũng là lẽ thường tình của những người đã từng trải mọi cuộc vui với đời như Ông; nên mới thổ lộ tâm tình của mình được một cách thực tiển như vậy.
Cõi Người Ta như có lần cố Thi Sĩ Bùi Giáng đã dịch thành tác phẩm từ chữ Terre des Home cũng thật là bất tuyệt. Mặc dầu lúc sống, Ông chỉ có cửa chùa cưu mang và đến khi ra người thiên cổ rồi, lại có nhiều người tìm đến thơ Ông để đọc, nhằm hồi tưởng đến một nhà thơ lớn của quê hương xứ Quảng. Điều ấy cũng hợp với câu:
“Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đà say”.
Cõi đời vốn là cõi tạm.Ai trong chúng ta đến đây nhiều lắm là một trăm năm,rồi cũng phải từ giả tất cả. Nhưng trong một trăm năm năm ấy chúng ta đã để lại cõi trần nầy qúa nhiều điều bất ổn, để rồi ta buông xuôi hai tay, trở lại với trạng thái uyên nguyên của đất trời. Những gì của gió,xin trả lại cho gió; những gì của hơi nóng xin trả lại cho lửa; những gì của nước, xin gửi lại cho suối nguồn và những gì của đất, xin trả lại cho đất. Thế mà đã có ai ý thức rõ được điều nầy, để khi ra đi được thỏng tay vào chợ chăng?
Tôi đến xứ Âu Châu nầy từ năm 1977, kể đến nay cũng đã 36 năm rồi. Trong 36 năm ấy đã có không biết bao nhiêu việc đi qua đời mình; hay có, dỡ có. Thành công có, thất bại cũng chẳng phải là không. Ở cái tuổi xế chiều 65 nầy, cũng nên nhìn lại mọi sự việc của cuộc thế như Uy Viễn tướng công cũng không phải sớm mà cũng chẳng phải muộn màn gì. Mỗi người chúng ta khi sinh ra trong cuộc đời nầy đều có nhiều lý do trong trùng trùng duyên khởi và trùng trùng biến hiện của vạn pháp, như trong kinh Hoa Nghiêm Đức Phật đã chỉ bày. Xin cảm ơn đời và xin tạ ân Đạo Pháp đã cho tôi có được nhiều cơ hội để đến, đi, ngồi lại, ngắm nhìn cuộc đời nầy trong bao nhiêu nổi thăng trầm của nhân thế. Tôi phải cảm ơn đời, cảm ơn người. Nếu không có những trợ duyên nầy tôi sẽ chẳng có ý nghĩa nào cả khi tôi hiện hữu trên nơi nầy cả. Có mình phải có họ và họ phải có mình. Cuộc sống nầy là một sự tương tức với nhau như hơi thở; không thể lọai bỏ ra ngòai cơ thể hay tâm thức được. Chỉ có chuyển hóa khổ đau thành hạnh phúc an lạc giải thóat và cũng chính từ những oan khiên nghiệt ngã của cuộc đời nầy, sẽ gíup ta tự tin hơn khi đi vào cuộc sống của cõi nhân sinh nầy.
Phật pháp vốn không có biên giới;cho nên tôi đã đến với giáo lý Phật Đà cũng như vậy. Không điều kiện nào cả và hòan tòan không có một sự ép buộc nào. Do vậy tâm tôi rất thư thái khi suy niệm về quá khứ. Tôi cũng không nghĩ rằng mình đến đây để phải ở lại đây lâu dài, ngay cả trăm năm đi nữa, thì cũng giống như gió thổi mây bay thôi. Đúng là cuộc đời nầy nó không dừng lại, mà con người vẫn luôn bị động bởi tử sinh, sinh tử dài lâu, chưa bao giờ vượt ra khỏi.
Tại Bắc Âu Châu có 4 nước tiêu biểu. Đó là Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan và Đan Mạch. Mỗi xứ đều có ngôn ngữ riêng, văn hóa riêng và tiền tệ cũng riêng biệt. Mặc dầu trước đây Phần Lan là thuộc địa của Thụy Điển và Na Uy là thuộc địa của Đan Mạch. Ý nghĩa chữ thuộc địa nầy nó không nặng nề như những xứ bị trị tại Á Châu trong thời gian đệ nhất và đệ nhị thế chiến vừa qua. Nó chỉ mang một ý nghĩa là:nước nào mạnh hơn về mọi mặt thì nước ấy sẽ làm chủ cả khu vực ấy. Thế mà điều chẳng ai ngờ được là ngày nay thế giới đã bình chọn 4 nước Bắc Âu nầy có đời sống an ổn nhất so với gần 200 nước khác trên quả địa cầu nầy. Vậy đâu là sự thật?
Riêng với người tỵ nạn Việt Nam của chúng ta ở Đan Mạch cũng hưởng được những phúc lợi cá nhân khác với những người sống ở Đức hay ở Hoa Kỳ. Ví dụ như sau: Một người trên 60 tuổi chưa có quốc tịch Đan Mạch; hiện đang lưu trú ở diện tỵ nạn;nhưng bây giờ muốn trở lại quê hương để sinh sống thì chính phủ Đan Mạch chấp nhận và cấp mỗi tháng độ 500 USD để chi dùng và sau một năm ở Việt Nam nếu đương sự cảm thấy thích hợp muốn ở lại luôn, thì chính phủ Đan Mạch sẽ cấp 100.000 Kr. một lần và mỗi tháng trong những ngày còn lại ở Việt Nam vẫn nhận được tiền trợ cấp 500 USD như trước. Nếu ngừơi nào muốn nhận 5 năm một lần cũng được, khi thấy mình tuổi đã xế chiều, không còn thọ hưởng được bao nhiêu năm nữa, chính phủ vẫn gíup đỡ, không chối từ. Nếu ai muốn trở lại Đan Mạch sau một năm ở Việt Nam cảm thấy không thích hợp,thì chính phủ ở đây cũng cho quay trở lại Đan Mạch để tiếp tục cuộc sống như trước đây. Dĩ nhiên những đạo luật như thế được Quốc Hội thông qua từng thời điểm khác nhau và hòan tòan không nhứt thiết năm nầy giống năm khác.
Về Tôn Giáo ở các xứ Bắc Âu nầy cũng có những điều khác hẳn với các nước trên thế giới ngày nay. Ví dụ nhưVương Quốc Na Uy là một điển hình. Mỗi ngôi chùa Việt Nam ở đây có bao nhiêu tín đồ thì chính phủ sẽ căn cứ theo đó để gíup lệ phí điều hành hằng năm cho chùa ấy. Đây là quyền lợi sinh họat tín ngưỡng sống trong xã hội an bình của người dân tại đây. Điều nầy giống như một giấc mơ đối với những xứ ngòai Âu Mỹ. Có chùa nhận được hằng nhiều triệu NKR để điều hành công việc chùa. Hoặc chính phủ trợ gíup một hai lần trong năm cho các chùa qua các họat động văn hóa v.v…
Tại Phần Lan cách đây chừng gần 30 năm về trước đã có một ngôi Niệm Phật Đường Thọ Quang được thành lập tại Helsinki; nhưng số phận của ngôi Niệm Phật Đường nầy nó cũng yểu mệnh như người sáng lập ra nó. Bẳng đi một thời gian dài, một Hội Phật Giáo tại Turku được thành lập và GHPGVNTN Âu Châu đã đề cử chư Tăng sang đây để đảm trách nhiệm vụ lãnh đạo tinh thần. Thế nhưng trải qua không biết bao nhiêu là sóng gió, tuyết sương; nay ngôi chùa Liên Tâm ở đây đã được hình thành; mặc dầu người cựu Hội Trưởng đã ra đi vĩnh viễn. Ngôi chùa bây giờ có diện tích độ 600 mét vuông được tọa lạc trên một khu đất với diện tích là 11.000 mét. Ở giữa cánh đồng thóang mát. Giá thành xây cất cho đến giờ nầy là 800.000 Euro; nhưng vẫn còn nợ ngân hàng và Phật Tử độ 400.000 Euro nữa.
Bộ Xã Hội có cho biết rằng trong tương lai gần họ sẽ cho xây một chung cư cho người Việt Nam đối diện bên kia đường với chùa. Quả thật đây là một tin vui cho người lớn tuổi. Vì lại được sống gần chùa. Đây thật là phước báu vô ngần. ”Cầu được, ước thấy” là điều mà trong đời ai lại chẳng ước mong, mà nay sắp trở thành hiện thực. Chính phủ ở đây họ lo cho dân như thế đấy. Từ cái ăn cái mặc, cho đến cả đời sống tâm linh nữa. Cho nên thế giới đánh giá cao về đời sống của ngừơi dân ở các xứ Bắc Âu cũng phải thôi.
Từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 4 tháng 8 năm 2013 nầy đánh dấu một sự kiện lịch sử. Đó là khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 25 được tổ chức tại Turku, Phần Lan do Đại Đức Thích Hạnh Bảo, Trụ Trì chùa Liên Tâm kiêm Hội Trưởng làm Trưởng Ban Tổ Chức địa phương và GHPGVNTNÂU điều hành tổng quát. Điều đặc biệt hơn nữa là Bộ Văn Hóa ở đây cũng giống như Bộ Văn Hóa của một vài Tiểu Bang ở Đức Quốc là không lấy tiền thuê phòng học trong suốt thời gian 10 ngày ấy, mà chỉ lấy tiền điện,Gas, nước tượng trưng mà thôi. Quả thật, chẳng có nước nào ở ngọai quốc hưởng được những điều kiện thuận lợi như thế nầy. Vì chính Phủ tại đây cho rằng:tất cả những họat động nầy của Giáo Hội đều nằm trong phạm vi văn hóa.
Bây giờ thì Đạo Hữu cựu Hội Trưởng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Turku Chơn Ngôn Vĩnh Tuyên không còn nữa; nhưng chắc chắn rằng Đạo Hữu cũng hẳn vui, khi thấy hằng trăm chư tôn đức và hằng ngàn Phật Tử khắp nơi tại Âu, Mỹ, Úc…vân tập về nơi đây để cùng tu, cùng học và cùng chiêm nghiệm giáo lý giải thóat của Phật Đà.
Xin nguyện cầu cho tất cả những ai có thiện duyên với Phật Pháp, dầu thuận hay nghịch trong quảng đời còn lại của mình thì hãy an nhiên để thấy rằng: trong ta có người và trong người có ta. Sự sống của Anh của Chị cũng là sự sống của tôi và ngược lại trong sự tồn tại của tôi ở cõi đời nầy cũng đều có sự tồn tại của Anh và của Chị cũng như của tất cả mọi người. Vì lẽ, không một ai trong chúng ta có thể sống trong kiếp nhân sinh nầy hòan tòan độc lập được cả. Hãy sống cho nhau và vì nhau để đi nốt con đường còn lại của chúng ta trên cõi đời nầy. Có như vậy mới không hổ danh là người Việt Nam ra đi khỏi nước chỉ để tìm hai chữ TỰ DO thật sự, mà nơi quê hương của chúng ta chưa thể hiện trọn vẹn được điều nầy.
Viết xong vào một sáng mùa xuân tại thư phòng chùa Liên Tâm, Turku, Phần Lan khi bên ngòai ánh thái dương rọi chiếu khắp cả một vùng trời.
Thích Như Điển - Nhân chuyến Phái Đòan Hoằng Pháp tại Âu Châu đến đây giảng pháp.
Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 22 Tháng 4 2013 09:10
Riêng với người tỵ nạn Việt Nam của chúng ta ở Đan Mạch cũng hưởng được những phúc lợi cá nhân khác với những người sống ở Đức hay ở Hoa Kỳ. Ví dụ như sau: Một người trên 60 tuổi chưa có quốc tịch Đan Mạch; hiện đang lưu trú ở diện tỵ nạn;nhưng bây giờ muốn trở lại quê hương để sinh sống thì chính phủ Đan Mạch chấp nhận và cấp mỗi tháng độ 500 USD để chi dùng và sau một năm ở Việt Nam nếu đương sự cảm thấy thích hợp muốn ở lại luôn, thì chính phủ Đan Mạch sẽ cấp 100.000 Kr. một lần và mỗi tháng trong những ngày còn lại ở Việt Nam vẫn nhận được tiền trợ cấp 500 USD như trước. Nếu ngừơi nào muốn nhận 5 năm một lần cũng được, khi thấy mình tuổi đã xế chiều, không còn thọ hưởng được bao nhiêu năm nữa, chính phủ vẫn gíup đỡ, không chối từ. Nếu ai muốn trở lại Đan Mạch sau một năm ở Việt Nam cảm thấy không thích hợp,thì chính phủ ở đây cũng cho quay trở lại Đan Mạch để tiếp tục cuộc sống như trước đây. Dĩ nhiên những đạo luật như thế được Quốc Hội thông qua từng thời điểm khác nhau và hòan tòan không nhứt thiết năm nầy giống năm khác.
Về Tôn Giáo ở các xứ Bắc Âu nầy cũng có những điều khác hẳn với các nước trên thế giới ngày nay. Ví dụ nhưVương Quốc Na Uy là một điển hình. Mỗi ngôi chùa Việt Nam ở đây có bao nhiêu tín đồ thì chính phủ sẽ căn cứ theo đó để gíup lệ phí điều hành hằng năm cho chùa ấy. Đây là quyền lợi sinh họat tín ngưỡng sống trong xã hội an bình của người dân tại đây. Điều nầy giống như một giấc mơ đối với những xứ ngòai Âu Mỹ. Có chùa nhận được hằng nhiều triệu NKR để điều hành công việc chùa. Hoặc chính phủ trợ gíup một hai lần trong năm cho các chùa qua các họat động văn hóa v.v…
Tại Phần Lan cách đây chừng gần 30 năm về trước đã có một ngôi Niệm Phật Đường Thọ Quang được thành lập tại Helsinki; nhưng số phận của ngôi Niệm Phật Đường nầy nó cũng yểu mệnh như người sáng lập ra nó. Bẳng đi một thời gian dài, một Hội Phật Giáo tại Turku được thành lập và GHPGVNTN Âu Châu đã đề cử chư Tăng sang đây để đảm trách nhiệm vụ lãnh đạo tinh thần. Thế nhưng trải qua không biết bao nhiêu là sóng gió, tuyết sương; nay ngôi chùa Liên Tâm ở đây đã được hình thành; mặc dầu người cựu Hội Trưởng đã ra đi vĩnh viễn. Ngôi chùa bây giờ có diện tích độ 600 mét vuông được tọa lạc trên một khu đất với diện tích là 11.000 mét. Ở giữa cánh đồng thóang mát. Giá thành xây cất cho đến giờ nầy là 800.000 Euro; nhưng vẫn còn nợ ngân hàng và Phật Tử độ 400.000 Euro nữa.
Bộ Xã Hội có cho biết rằng trong tương lai gần họ sẽ cho xây một chung cư cho người Việt Nam đối diện bên kia đường với chùa. Quả thật đây là một tin vui cho người lớn tuổi. Vì lại được sống gần chùa. Đây thật là phước báu vô ngần. ”Cầu được, ước thấy” là điều mà trong đời ai lại chẳng ước mong, mà nay sắp trở thành hiện thực. Chính phủ ở đây họ lo cho dân như thế đấy. Từ cái ăn cái mặc, cho đến cả đời sống tâm linh nữa. Cho nên thế giới đánh giá cao về đời sống của ngừơi dân ở các xứ Bắc Âu cũng phải thôi.
Từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 4 tháng 8 năm 2013 nầy đánh dấu một sự kiện lịch sử. Đó là khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 25 được tổ chức tại Turku, Phần Lan do Đại Đức Thích Hạnh Bảo, Trụ Trì chùa Liên Tâm kiêm Hội Trưởng làm Trưởng Ban Tổ Chức địa phương và GHPGVNTNÂU điều hành tổng quát. Điều đặc biệt hơn nữa là Bộ Văn Hóa ở đây cũng giống như Bộ Văn Hóa của một vài Tiểu Bang ở Đức Quốc là không lấy tiền thuê phòng học trong suốt thời gian 10 ngày ấy, mà chỉ lấy tiền điện,Gas, nước tượng trưng mà thôi. Quả thật, chẳng có nước nào ở ngọai quốc hưởng được những điều kiện thuận lợi như thế nầy. Vì chính Phủ tại đây cho rằng:tất cả những họat động nầy của Giáo Hội đều nằm trong phạm vi văn hóa.
Bây giờ thì Đạo Hữu cựu Hội Trưởng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Turku Chơn Ngôn Vĩnh Tuyên không còn nữa; nhưng chắc chắn rằng Đạo Hữu cũng hẳn vui, khi thấy hằng trăm chư tôn đức và hằng ngàn Phật Tử khắp nơi tại Âu, Mỹ, Úc…vân tập về nơi đây để cùng tu, cùng học và cùng chiêm nghiệm giáo lý giải thóat của Phật Đà.
Xin nguyện cầu cho tất cả những ai có thiện duyên với Phật Pháp, dầu thuận hay nghịch trong quảng đời còn lại của mình thì hãy an nhiên để thấy rằng: trong ta có người và trong người có ta. Sự sống của Anh của Chị cũng là sự sống của tôi và ngược lại trong sự tồn tại của tôi ở cõi đời nầy cũng đều có sự tồn tại của Anh và của Chị cũng như của tất cả mọi người. Vì lẽ, không một ai trong chúng ta có thể sống trong kiếp nhân sinh nầy hòan tòan độc lập được cả. Hãy sống cho nhau và vì nhau để đi nốt con đường còn lại của chúng ta trên cõi đời nầy. Có như vậy mới không hổ danh là người Việt Nam ra đi khỏi nước chỉ để tìm hai chữ TỰ DO thật sự, mà nơi quê hương của chúng ta chưa thể hiện trọn vẹn được điều nầy.
Viết xong vào một sáng mùa xuân tại thư phòng chùa Liên Tâm, Turku, Phần Lan khi bên ngòai ánh thái dương rọi chiếu khắp cả một vùng trời.
Thích Như Điển - Nhân chuyến Phái Đòan Hoằng Pháp tại Âu Châu đến đây giảng pháp.
Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 22 Tháng 4 2013 09:10
|
24. Đâu người anh hùng thời nay?
FR: Nguyen Dieu truy cap. GS Trần Văn Thọ sinh năm 1949 tại Quảng Nam, năm 1967 sang Nhật du học. Sau khi lấy được bằng tiến sĩ kinh tế đại học Hitotsubashi, ông làm việc tại trung tâm Nghiên cứu kinh tế Nhật Bản, sau đó làm phó giáo sư, rồi giáo sư đại học Obirin. Từ năm 2000 đến nay, ông giảng dạy tại đại học Waseda (Tokyo). GS Thọ là một trong ba người nước ngoài đầu tiên được mời làm thành viên chuyên môn trong hội đồng Tư vấn kinh tế của thủ tướng Nhật, ở cương vị này trong gần mười năm, qua nhiều đời thủ tướng Nhật. - Giải Sách hay 2012 trong lĩnh vực kinh tế đã được trao cho tác phẩm Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam của GS Trần Văn Thọ. Những đề xuất của ông nêu trong cuốn sách ra đời cách đây bảy năm đến nay vẫn nguyên giá trị. Nhìn lại những vấn đề mà cuốn sách đặt ra cách đây bảy năm, ông có buồn nhiều không khi tình hình vẫn chưa có gì thay đổi? Cuốn sách của tôi viết ra nhằm đề khởi những chiến lược, chính sách đẩy mạnh công nghiệp hoá đất nước trước những biến động lớn tại Đông Á. Thông thường loại sách này chỉ có giá trị trong một thời gian nhất định vì tình hình thay đổi thì chiến lược, chính sách cũng phải khác. Thế nhưng “rất tiếc” là phần lớn nội dung cuốn sách vẫn còn giá trị thời sự bởi nhiều chiến lược, chính sách đã không được thực hiện và thách thức của dòng thác công nghiệp tại Á châu thì vẫn như cũ, nếu không nói là ngày càng mạnh hơn. Ông có thể cho biết thách thức của dòng thác ấy đối với Việt Nam và chiến lược, chính sách đáng lẽ phải thực hiện sớm hơn là gì? Thứ nhất, cạnh tranh giữa các nước Đông Á trên thị trường thế giới ngày càng mạnh. Nước nào cũng tìm cách chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao, trong cùng ngành thì tiến lên cao hơn trên chuỗi giá trị. Do đó, chiến lược, chính sách phải vừa củng cố lợi thế so sánh hiện tại và chuẩn bị tiền đề cho lợi thế so sánh trong tương lai năm – bảy năm hoặc mười năm tới (mà tôi gọi là lợi thế so sánh động). Các chính sách, chiến lược này phải được quyết định và thực thi nhanh chóng, đặc biệt tập trung đầu tư hạ tầng có trọng điểm và tranh thủ dòng chảy đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Thứ hai, các ngành công nghiệp chủ đạo hiện nay tại Đông Á cũng như trên thế giới là những ngành liên quan đến máy móc như đồ điện gia dụng, máy tính cá nhân, máy in, điện thoại di động, xe hơi, xe máy... mà việc sản xuất mỗi sản phẩm ngày càng được phân công trên nhiều cứ điểm tại nhiều nước, tạo thành những mạng lưới cung ứng. Điều kiện để có mạng lưới cung ứng là, ngoài chi phí sản xuất khác nhau giữa các cứ điểm tương ứng với tính chất của mỗi linh kiện, bộ phận hoặc công đoạn sản xuất, phí tổn lưu thông giữa các cứ điểm (gọi là phí tổn nối kết dịch vụ) phải nhỏ. Trong thời đại này, các nước tăng sức cạnh tranh quốc gia bằng cách làm cho phí tổn nối kết dịch vụ ngày càng nhỏ, luôn cải thiện hạ tầng phần cứng (hệ thống giao thông, thông tin…) và nhất là chú ý cải thiện hạ tầng phần mềm (thủ tục hành chính, thuế quan, tác phong phục vụ của cán bộ quản lý). Việt Nam có cố gắng cải thiện hạ tầng cứng nhưng thiếu trọng điểm và chất lượng xây dựng còn thấp, lại chậm đưa ra các chính sách thích hợp và thiếu nỗ lực cải cách hệ thống quản lý hành chính, thiếu cán bộ quản lý có năng lực và trách nhiệm, nên đã không thu hút được nhiều FDI trong các ngành liên quan các loại máy móc. Chiến lược quan trọng để phát triển các ngành liên quan đến máy móc là phải phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, nhưng rất tiếc hiện nay các ngành này ở Việt Nam còn rất yếu. Thứ ba, sự trỗi dậy của Trung Quốc là một thách thức lớn. Tác động của hàng công nghiệp xuất khẩu Trung Quốc ngày càng mạnh, có khuynh hướng đè bẹp các nước đi sau. Đặc biệt Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng, phản ảnh trong cơ cấu ngoại thương (chủ yếu xuất hàng nguyên liệu thô và nhập hàng công nghiệp các loại) và nhập siêu lớn đối với Trung Quốc. Thứ tư, trào lưu mậu dịch tự do cũng là một thách thức ngày càng lớn đối với Việt Nam. Đặc biệt khi phải thực hiện đầy đủ các cam kết theo hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc, hàng nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ tràn vào nhiều hơn nữa, gây khó khăn cho con đường công nghiệp hoá của Việt Nam. Triển khai nhanh chóng chiến lược, chính sách đối với hai thách thức đầu tiên sẽ đối phó được với thách thức thứ ba và thứ tư. Rất tiếc cho đến nay các chiến lược, chính sách ấy chưa được quan tâm đầy đủ. Liên quan đến vốn đầu tư nước ngoài, ông nhận định thế nào về sự chuyển dịch của làn sóng đầu tư Nhật Bản vào châu Á? Tình hình Đông Á hiện nay có một thay đổi lớn liên quan đến quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Cuộc tranh chấp chủ quyền đảo Senkaku/Điếu Ngư đã làm ngưng trệ các dự án đầu tư mới của Nhật tại Trung Quốc, nhất là sự thiệt hại ở các cơ sở sản xuất và kinh doanh do các nhóm biểu tình bạo động gây ra, đã làm Nhật thấy môi trường đầu tư tại Trung Quốc quá rủi ro. Nhân thời cơ này Việt Nam có thể nhanh chóng đón bắt làn sóng FDI từ Nhật. Tuy nhiên phải chủ động và tích cực tiến hành các chiến lược, chính sách đã phân tích ở trên. Nếu không, làn sóng đầu tư mới sẽ đi hướng khác. Trên thực tế Nhật đang tiếp tục đầu tư nhiều tại Thái Lan và Indonesia, và ngày càng quan tâm đến Philippines, Ấn Độ và Myanmar. Trong cuốn sách mới xuất bản gần đây – Việt Nam từ năm 2011: vượt lên sự nghiệt ngã của thời gian (NXB Tri Thức), ông có viết về “hình tượng anh hùng trong thời đại phát triển”. Có phải là chúng ta đang thiếu anh hùng? Theo tôi, hai điều kiện tiên quyết để phát triển là năng lực xã hội và thể chế. Các thành phần của năng lực xã hội gồm các tố chất cần thiết của lãnh đạo chính trị, của quan chức, của lãnh đạo doanh nghiệp, của giới lao động và trí thức, và thể chế chi phối hành động của các thành phần xã hội ấy. Trách nhiệm của lãnh đạo chính trị là xây dựng và hoàn thiện một thể chế đủ chất lượng để hướng các nguồn lực xã hội vào mục tiêu phát triển. Trách nhiệm của lãnh đạo chính trị là xây dựng và hoàn thiện một thể chế đủ chất lượng để hướng các nguồn lực xã hội vào mục tiêu phát triển. Trong các thành tố của năng lực xã hội, hiện nay quan trọng nhất là lãnh đạo chính trị và đội ngũ quan chức. Chúng ta có rất nhiều anh hùng dân tộc trong lịch sử chống ngoại xâm, trong thời đại phát triển hiện nay chúng ta cũng cần anh hùng. Anh hùng trong thời đại này cũng có những tố chất như anh hùng thời chống ngoại xâm dù nội dung cụ thể có thể khác. Chẳng hạn tài trí (có tri thức, có tầm nhìn xa, có năng lực lãnh đạo...), dũng cảm (dám nhận trách nhiệm, dám vì lợi ích đất nước mà đương đầu với mọi khó khăn, với các nhóm lợi ích cục bộ), quên mình vì dân vì nước (chí công vô tư, đặt quyền lợi đất nước lên trên hết), trọng dụng và thu phục được người giỏi để thực hiện sự nghiệp lớn (dùng người giỏi thật sự và lắng nghe trí thức) v.v. Tóm lại, anh hùng ngày nay có thể nói là những lãnh đạo chính trị, những quan chức có trách nhiệm cao luôn thao thức về cuộc sống của đại đa số dân chúng, về một đất nước giàu mạnh trong tương lai và lắng nghe chuyên gia, trí thức để tìm ra các biện pháp hữu hiệu cho các mục tiêu đó. Họ phải là những người ăn không ngon, ngủ không yên khi thấy nền công nghiệp yếu ớt, kinh tế bất ổn và đời sống của đa số dân chúng khó khăn. Trong ý nghĩa đó, Việt Nam hiện nay có anh hùng không? Câu trả lời không dễ. Nhưng khi trở lại câu hỏi đầu tiên và câu trả lời của tôi thì ta thấy rõ ràng là Việt Nam thiếu anh hùng trong thời đại này. Nếu cần thêm, tôi có thể nói, những lãnh đạo quyết định những dự án đầu tư lớn không vì lợi ích của đất nước, của đại đa số dân chúng, mà vì các nhóm lợi ích riêng tư, thì rõ ràng còn xa mới tới tiêu chuẩn của anh hùng; những quan chức, những lãnh đạo không lo hết mình với công việc đang đảm trách mà bỏ thì giờ dự lễ hội liên miên, ngồi hội đồng chấm luận án tiến sĩ hoặc tìm mọi cách để được phong giáo sư thì không phải là anh hùng. Theo tôi, chừng nào quan chức, lãnh đạo trong bộ máy nhà nước chưa xem tiến sĩ, giáo sư là những học hàm, học vị chỉ dành cho những người nghiên cứu hoặc giảng dạy ở các viện nghiên cứu, ở các đại học thì kinh tế khó phát triển và giáo dục cũng bị ảnh hưởng xấu. Một vấn đề bức xúc hiện nay là đời sống tinh thần và vật chất nghèo nàn của công nhân trong các khu công nghiệp. Họ bị vắt kiệt sức lao động với đồng lương ngày càng ít ỏi, những khu ổ chuột mới thì ngày một lan rộng. Ông nghĩ gì về hiện tượng này? Đúng là rất đau lòng. Ở đây không có nhiều thì giờ để phân tích nguyên nhân và đưa ra đối sách. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh là trách nhiệm của lãnh đạo và quan chức rất lớn. Họ phải chăm lo đầu tư hạ tầng xã hội để cải thiện cuộc sống của công nhân, và phải cải thiện môi trường đầu tư, kể cả thủ tục hành chính, để doanh nghiệp tăng năng suất lao động và từ đó tăng lương cho công nhân. Ngoài ra phải có chính sách khuyến khích, tưởng thưởng những doanh nghiệp có chế độ phúc lợi tốt đối với lao động, đồng thời có biện pháp phát hiện, chế tài những doanh nghiệp không tôn trọng các cam kết hợp đồng lao động. Một chuyện đau lòng tương tự là hình ảnh người đi lao động xuất khẩu phải vất vả trong hoàn cảnh khắc nghiệt về khí hậu, về điều kiện làm việc ở xứ người. Cần nhấn mạnh rằng một nước xuất khẩu nhiều lao động giản đơn thì hầu hết, nếu không nói tất cả, là những nước nghèo, do đó hình ảnh của những nước này không mấy sáng sủa trên vũ đài thế giới. Anh hùng trong thời đại phát triển là phải đau cái đau của người dân và có kế hoạch chấm dứt tình trạng này trong một thời gian càng ngắn càng tốt. Tôi vẫn còn xúc động khi nhớ lại một đoạn trong cuốn tiểu thuyết đọc thời trung học ở Việt Nam, cũng đã trên 45 năm. Tác giả, một nhà văn Tự lực văn đoàn, đã để cho nhân vật chính của mình nghĩ thế này: “Biểu hiện cho đất nước không phải là những bậc vua chúa, danh nhân mà là đám dân nghèo không tên không tuổi. Dân là nước, yêu nước chính là yêu chung đám thường dân, nghĩ đến sự đau khổ của đám thường dân”. Chúng ta cần những anh hùng, những nhà lãnh đạo suy nghĩ như vậy. Ông nghĩ gì về khái niệm “lợi thế của nước đi sau”? Làm thế nào để chúng ta có được những nhà công nghiệp lớn? Nước đi sau có thể học hỏi kinh nghiệm và du nhập vốn, công nghệ của nước đi trước nên rút ngắn được quá trình công nghiệp hoá. Dĩ nhiên điều kiện đủ là nước đi sau phải có các năng lực cần thiết và thể chế thích hợp. Nhưng cho đến nay các nước đi sau rút ra các kinh nghiệm thành công và thất bại của nước đi trước chủ yếu trên phương diện phát triển công nghiệp, phát triển lực lượng sản xuất, chứ không hoặc ít quan tâm đến phạm trù văn hoá, tính nhân văn của quá trình phát triển. Công nghiệp hoá không phải chỉ là làm sao để xây dựng những ngành công nghiệp hiện đại có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, và được thể hiện bởi những nhà doanh nghiệp chỉ chạy theo lợi nhuận. Nhà doanh nghiệp có văn hoá thì có động cơ và mục tiêu phát triển cao cả hơn, đậm tính nhân văn hơn. Tôi xin nêu vài ví dụ lấy từ Nhật Bản. Năm 1946, giữa hoang tàn đổ nát sau thế chiến thứ hai, Ibuka Masaru, người sáng lập hãng Sony, tại buổi lễ thành lập công ty đã nói một câu làm xúc động lòng người: “Bổn phận hiện nay của chúng ta là phải đem công nghệ và trí tuệ đóng góp vào việc phục hưng tổ quốc”. Nghĩa là việc phục hưng tổ quốc, xây dựng đất nước là mục tiêu đầu tiên. Matsushita Konosuke, người sáng lập công ty bây giờ có tên Panasonic, cũng đưa ra triết lý kinh doanh vì cộng đồng, vì sự phồn vinh của xã hội, của đất nước. Ông lấy việc cải thiện đời sống của người lao động trong công ty làm mục tiêu đuổi kịp trình độ của các nước Âu – Mỹ. Không ít những nhà doanh nghiệp hàng đầu khác của Nhật bắt đầu sự nghiệp bằng động cơ cao cả ấy. Còn nhiều mặt khác của quá trình công nghiệp hoá cũng cần được nói đến: Làm sao để mọi người trong xã hội tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, quá trình phát triển một cách tự nguyện và ngày càng thấy yêu cuộc sống? Làm sao để đời sống và điều kiện làm việc của người lao động được cải thiện nhanh? Làm sao để mọi người trong xã hội có ý thức cộng đồng ngày càng tăng và đối xử với nhau có văn hoá?... Anh hùng ngày nay có thể nói là những lãnh đạo chính trị, những quan chức có trách nhiệm cao luôn thao thức về cuộc sống của đại đa số dân chúng, về một đất nước giàu mạnh trong tương lai và lắng nghe chuyên gia, trí thức để tìm ra các biện pháp hữu hiệu cho các mục tiêu đó. Họ phải là những người ăn không ngon, ngủ không yên khi thấy nền công nghiệp yếu ớt, kinh tế bất ổn và đời sống của đa số dân chúng khó khăn. Đây là những vấn đề tôi nghĩ rất thiết thân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Rút ngắn khoảng cách phát triển trên cơ sở ngày càng làm phong phú cuộc sống tinh thần của người dân mới đạt ý nghĩa đích thực của phát triển. Xin hỏi một câu riêng tư: lý do nào ông vẫn giữ quốc tịch Việt Nam dù sinh sống ở nước ngoài đã hơn 40 năm? Tôi cũng không hiểu sao cho đến nay tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện đổi quốc tịch, mặc dù giữ quốc tịch Việt Nam khiến tôi gặp không ít khó khăn trong công việc vào những thập niên 80 – 90 thế kỷ trước, nhất là khi đi hội nghị ở nước ngoài. Rất mừng là hiện nay những khó khăn ấy không còn nữa. Người có quốc tịch Việt Nam đi các nước ASEAN trong vòng hai tuần thì không phải xin visa như trước. Dấu ấn sâu đậm nào về quê hương mà ông xem là hành trang quý giá hình thành nên con người mình? Tôi sang Nhật năm 19 tuổi. Dấu ấn về quê hương dĩ nhiên là nhiều. Nhưng có lẽ tôi chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ các sách báo về lịch sử Việt Nam, và từ các tác phẩm văn học, thơ ca thời trước năm 1945 mà ta gọi là văn thơ tiền chiến, nhạc tiền chiến. Hành trang mang đi nước ngoài có lẽ là tiếng Việt, tâm hồn và văn hoá Việt gói ghém trong các tác phẩm ấy. THỰC HIỆN: KIM YẾN CHÂN DUNG HỘI HOẠ: HOÀNG TƯỜNG Giáo sư Trần Văn Thọ Đâu người anh hùng thời nay? Chi tiết: http://sgtt.vn/Loi-song/171470/Dau-nguoi-anh-hung-thoi-nay.html 23. CA DAO MỚI - 2013
Cục đá mà biết nói năng Dũng Hùng Sang Trọng hàm răng chẳng còn Có gan ăn cắp chịu đòn Đảng ta ăn cướp lại còn đánh dân *Đố ai đếm được lá rừng Đố ai giết được Trọng Hùng Dũng Sang Bốn thằng tứ trụ Việt gian Để dân nước Việt hân hoan ăn mừng *Thu đi để lại lá vàng Bác đi để lại một thằng họ Nông Thằng này quả thật chơi ngông Bảy mươi lấy vợ má hồng đẹp xinh *Bắc thang lên hỏi ông trời Đánh tan cộng sản đợi thời nào đây Ông trời ổng nói làm ngay Sửa xong hiến pháp bó tay con à *Ngươi về nói với dân là Nam Quan hải đảo đảng ta bán rồi Nếu mà dân vẫn cứ ngồi Ngày mai mất nước thành người Trung Hoa *Hò ớ ơ... Còn thời buôn nước bán dân Hết thời đảng lấy dây thung bắn ruồi Chưa tạc bụt đã nặn buồi Cái thằng y tá mà đòi dạy dân * Ngày xưa bác cũng đi tù Thiếu ăn đói lở sưng vù con chim Từ ngày đảng bác dựng nên Trường học thì ít xà lim thì nhiều * Chiều chiều ra bến Ninh Kiều (2) Dưới chân tượng bác đĩ nhiều hơn dân Ai ơi chớ nghĩ mình đần Đảng kia lãnh đạo cù lần gấp đôi * Ba cô nhập học đầu năm Một cô bị bắt hầu Sầm Đức Xương (3) Mười ba đảng cũng làm luôn Học theo gương bác chẳng buông em nào * Non kia ai đắp mà cao Lương cộng sản ít cớ sao nó giàu Hỏi Sang Trọng Dũng một câu Đảng không suy thoái sao sâu cả bầy * Muốn sang thì bắc cầu kiều Muốn không mất nước bỏ điều bốn ngay Chơi dao sẽ bị đứt tay Đảng đùa với lửa có ngày diệt vong * Cục đá mà biết nói năng Dũng Hùng Sang Trọng hàm răng chẳng còn Có gan ăn cắp chịu đòn Đảng ta ăn cướp lại còn đánh dân Cù Huy Hà Bảodanlambaovn.blogspot.com 22. THÀNH PHỐ MẤT TÊN
Thành phố ấy bây giờ mang tên cáo Loài hồ ly quỉ quái sống trong hang Hơn nữa cuộc đời mạt kiếp lang thang Nơi đất khách quê người tìm phương bán nước Một mùa thu năm xưa non sông ta vô phước Bầy quỷ yêu quần tụ tại Thăng Long Bầu hồ ly làm chúa đảng tiền phong Dương cờ đỏ buá liềm như cờ thần lưỡi hái Từ đó non sông đắm chìm trong kinh hãi Dân tộc ba miền máu đổ thịt xương rơi Và quỷ mặt người chểm chệ bước lên ngôi Dìm cả quê hương vào chín tầng địa ngục Thành phố xót xa mang tên loài nghiệt súc Ngậm oán nuốt hờn nhìn tượng cáo nhe nanh Bầy Cộng nô nhốn nháo giữa đô thành Như lũ mán lũ mường trên tấm thân ngà ngọc Lăng miếu chùa chiền thành lao lung ngục thất Trường học nhà thờ thành trại lính kho lương Quỷ chúa Lê Nin vênh váo giữa công trường Tôn giáo vượn người thánh kinh Các Mác Vương Cung Thánh Đường tiêu điều xơ xác Bồ Đề Vạn Hạnh đạo pháp tan hoang Phật Chúa ngẩn ngơ thương xót giống Tiên Rồng Đang chịu nạn thay cho người dương thế Thành phố mất tên ngập chìm trong biển lệ Nước mắt mẹ già tức tưởi khóc đàn con Nước mắt thê nhi đau đớn tiễn đưa chồng Nước mắt Lạc Hồng xót thương hồn đất nước Thành phố mất tên nghẹn ngào uất ức Trông ngóng một ngày khôi phục lại tên xưa Mà người đi còn khuất cõi xa mờ Người trở lại toàn những phường mất gốc Thành phố mất tên tủi hờn phát khóc Nhìn bầy dê lũ cáo kết tình thân Trên tiệc xương rượu máu của toàn dân Gieo đổ nát hoang tàn cho đất nước Thành phố mất tên dạt dào mơ ước Một ngày quật cường sông núi nổi cuồng phong Quét sạch lũ yêu ma và bọn bán linh hồn Cho đất mẹ hoan ca mùa quang phục Cho Việt Nam thơm danh hồn tổ quốc Và Sài Gòn thắm đẹp lại tên xưa Ngày ấy quê hương trông ngóng từng giờ… Mạc phi Hoàng |
Lời Bàn:
Anh Nam và các Bạn, "Đừng Nghe những gì CS nói !" muôn đời vẫn là chân lý. Cần phân biệt "Bản Chất & Hiện Tượng" trong mỗi suy nghĩ đối với CS và bè lũ. 21. Tôi Với Anh Tôi với anh có cùng giòng máu Việt Chẳng lẽ hận thù giữ mãi hay sao Chiến cuộc xãy ra đất nước điêu tàn Anh rước Nga Tàu tôi cậy Mỹ vào Vì quyền lợi Họ chơi trò trao đổi Tôi bó tay anh kiêu hãnh tự hào Đau thương thay cảnh nồi da xáo thịt Rốt cuộc thua thiệt dành cho đồng bào Ngày xưa anh miệt thị tôi thằng ngụy Thân sa cơ tôi nuốt hận nghẹn ngào Thời trai trẻ nổi trôi theo vận nước Yêu Quê Hương tôi vẫn như ngày nào Nay anh thừa nhận tôi là Niên Trưởng* Có thực lòng hay chiêu dụ hào bao Thôi cũng được xem như tỏ thiện chí Nói và hành động đi đôi đừng xạo Bao giờ thù hận mới xóa sạch đây Hãy quên say men chiến thắng tự cao Cờ Tổ Quốc màu vàng hồn Dân Tộc Đồng bào hân hoan trân quí kính chào DNN *Trên chuyên bay VietnamAirline từ Sài Gòn ra Đà Nẵng lúc 9:45 ngày 8 tháng 4 năm 2013. Tôi được chào đón đích danh 2 lần (lên và xuống máy bay): Chào mừng NT. ĐNN về thăm Quê Huong và bằng Anh ngữ: Welcome Captain ĐNN… |
|
20. BẢN TRƯỜNG CA VIỆT NAM
Rồi một cuộc chiến tranh đã thực sự xảy ra
Được gọi là cuộc chiến tranh cách mạng
Nó kéo dài từ Mùa thu tháng Tám
Năm Bốn lăm cho tới Bảy lăm
Tức giùng giằng dai dẵng suốt 30 năm
Và chỉ kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm đó Một thế kỷ trước đã qua
Rồi một thế kỷ sau cũng đến
Mười ba năm dư lẻ lại qua rồi Hôm nay đây
Cũng trong những ngày
Của sự cố 30 tháng 4 này
Ta muốn ngồi để viết lại
Tất cả những gì từng thấy Con người thực
Cùng những việc đời cũng thực
Đời bình thường
Và những thứ văn nghệ nô vong Những người dân tả tơi trong khói lửa đạn bom
Cùng những bài thơ, lời hát
Xưng tụng chiến tranh một cách nhiệt tình và vô tội vạ ! Khiến biết bao người chết không toàn thây là như thế đó
Cùng biết bao gia đình ly tán chua cay
Suốt ba thập niên nước mắt tràn đầy
Vinh quang nào đây
Hay thực chất chỉ toàn ai oán ? Cuộc chiến tranh đó
Được gọi là nhân dân vì bởi thế
Mà nhân dân tự nguyện, hay chỉ bị ép vào ?
Cuộc chiến tranh Giải phóng
Nhưng lại làm cho nhân dân kinh sợ
biết là bao
Bởi Giải phóng gì đây
Hay phải chăng giải phóng khỏi ách
thực dân đô hộ ? Thực dân Pháp đã đến nước ta từ non thế kỷ
Có biết bao nhiêu anh hùng từng đứng dậy cứu non
sông
Họ có quá nhiều
Đâu chỉ kể hết với vài dòng
Mà phải viết thành trăm nghìn cuốn sách Và Thế chiến thứ hai lại tới
Phe Đồng Minh diệt Trục đến tan tành
Việt Nam tự giải phóng rồi
Những ngày độc lập mới phôi thai
Như cái kén chỉ mới phá được ra trong tự do dân chủ ! Nhà vua nói
Thà ta làm dân một nước
Nước tự do mới thật sự vinh quang
Có gì hơn nước độc lập trong đời
Dân hạnh phúc trong tự do dân chủ ! Nhưng bổng chốc sao đất bằng dậy sấm
Cuộc chiến kia lại tức khắc nổ ra
Nó được tự cho là giải phóng nước nhà
Nhưng là giải phóng theo quan điểm mới ! Ấy thế đấy
Quả Mác Lênin là thế đấy
Giải phóng ra khỏi tư sản để đi lên
Phải biến thành vô sản khắp toàn dân
Ngay cả non sông cũng phải thành vô sản ! Đó chủ thuyết Mác Ăng-ghen đưa lại
Nhằm tiến lên một thế giới đại đồng
Đâu sá gì mọi việc của núi sông
Bởi cần thiết thì toàn dãi Trường Sơn cũng đốt ! Kết cuộc đó, chuyện long trời lở đất
Cả Liên Xô, Trung Quốc đã nhào vào
Còn một bên, thì Mỹ với đồng minh
Thật hoành tráng, một bên xanh bên đỏ ! Bom trút xuống quả hàng hàng lớp lớp
Pháo tiếp nhau cày nát cả núi rừng
Dẫu đồng bằng thành phố thảy như nhau
Thanh niên từng lớp lớp bị xô vào lửa đạn ! Phải giải phóng, phải chống nhau cứu nước
Đỏ hay xanh, đều cả bạn lẫn thù
Bên miền Nam, bên miền Bắc thảy hăng say
Đâu có nghĩ mình chỉ như con chốt ! Cho dẫu Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
Được một ngày dựng dậy
Cũng cờ kia xanh đỏ, sao vàng
Cũng hai bên thế giới, hận thù
Cũng trong mục đích tiến lên vô sản ! Và đô thị toàn những ngày sôi động
Luôn giăng giăng bao biểu ngữ xuống đường
Vì tự do, phải cứu lấy non sông
Phải đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào mới sướng ! Ôi bao lớp sinh viên càng phấn chấn
Chỉ thấy có Bác Hồ trong dạ mới ngoan
Cùng viết bằng máu thề, phải cứu lấy giang san
Phải độc lập, tự do là trên hết ! Tổ quốc đó, ba mươi năm cày xới
Bởi đạn bom, ngùn ngụt hận thù
Để ít ra ba đến bốn triệu người
Giống con rồng đành phải xương tan thịt nát ! Rồi miền Bắc cùng đi vào cải cách
Ruộng đất nhằm để tố khổ lẫn nhau
Hai chục vạn người, tính trước tính sau
Phải bị giết trong hỗn loạn và dã man hiếm thấy ! Tiếp theo đó, ngay miền Nam cũng thế
Cải tạo công thương, nghiệp chướng thế nào
Hàng vạn người bị buộc phải lên rừng
Bằng tay không đặng làm kinh tế mới ! Để đến đỗi, nhiều triệu người vượt biển ra đi không
nuối tiếc
Bỏ lại hết sau lưng mọi tài sản ruộng vườn
Và cả nửa triệu người phải mất mạng ở biển đông
Vùi trong sóng Thái Bình Dương vạn thuở ! Họ đâu biết được những tháng năm bao cấp
Cùng làm ăn tập thể, khắp mọi miền
Ra ruộng đồng theo tiếng kẽng, tiếng chiêng
Làm lếu láo, chờ tối về để tính bàn công điểm ! Sự đời thế, song dễ ai người dám nói
Chỉ lặng yên, như cả một bầy cừu
Hoặc có con nào cất giọng be be
Nào thể khác kiểu rập ràng ca ngợi ! Đời là thế, quả sự đời là thế
Có gì qua được ngưỡng sự độc tài
Sức mạnh nào hơn bạo lực cảnh sát công an
Để nhằm mọi người cùng tiến nhanh tiến mạnh ! Tiến vững chắc ! Lên con đường cộng sản
Dầu tấm thân, chỉ quần áo mong manh
Song tiếc làm sao, Liên Xô đổ cái rầm
Thế là hết, cả thiên đường đã mất ! Đành từ giả thôi con đường bao cấp
Quay trở lui lại kinh tế thị trường
Bành tan rồi, hội nhập kể từ đây
Nhưng cũng nào dám cắt cái đuôi chủ nghĩa ! Xã hội đó, muốn cười sao vẫn méo
Cười tương lai, méo quá khứ hận thù
Dẫu qua rồi, cuộc chiến mấy thập niên
Trong ảo tưởng một cuộc đời tốt đẹp ! Nay nhìn lại, Hoàng Sa xưa đã mất
Biết bao giờ thu lại mảnh giang sơn ?
Cả Trường Sa, cũng thấp thỏm từng ngày
Rồi cửa ngỏ Biển Đông, biết khi nào tiêu nốt ! Nay ta phải viết Bản Trường ca là vậy
Việt Nam ơi, sao lòng thấy nghẹn ngào
Năm bảy lăm, ta từ chối vượt biên
Cốt ở lại, cùng người dân chia sẻ ! Nay ôn lại, thật anh hùng ngu dại
Chia sẻ gì, chỉ có lụy vào thân
Và ngoài ta, cũng đâu hiếm anh hùng
Thảy đều lụy như ta, đâu có khác ! Bởi độc lập tự do, là quý nhất
Không tự do, độc lập cũng ra chi
Dẫu cá nhân, hay dầu cả nước non
Độc lập mất, thì tự do cũng mất ! Người độc lập không lụy ai, trong cuộc sống
Người tự do, chẳng hùa mị theo ai
Vì toàn dân nếu đều sợ công an
Thì thử hỏi còn gì là quý nhất ! Nhưng công an, bởi do ai điều khiển
Có phải chăng, cũng chỉ một số người
Vốn nắm quyền, mà dân chẳng bầu lên
Âu là thế, quả chỉ là định mệnh ! Lớp trước lớp sau, chỉ dàn hàng tiến tới
Quan hàng quan, và dân cũng hàng dân
Vua vẫn do đám quan lại cơi lên
Chỉ có đám dân den, vẫn chỉ là dân đen vạn đợi ! Nào hỏi có ai biết gì, về tự do dân chủ
Dân hay vua, cũng mù tịt thế thôi
Một thế cờ chua, đã được xếp vậy rồi
Âu đành đánh, khác gì chơi cờ thế ! Chơi cờ thế, đố có ai người ngoài thắng cuộc
Hệt cờ gian bạc lận, giữa cuộc đời
Bàn cờ kia, dân chủ lẫn tự do
Thử hỏi lại, ai vốn là người đã từng sắp sẳn ? Là Các Mác, Lê Nin hay những ai sau đó
Thế cuộc này, thế giới có những ai
Hay hỏi xem, từ nguồn cội Hùng Vương
Bản Trường Ca Việt Nam có bao giờ là như thế ! Ta muốn viết, nhằm để lớp sau xem tới
Dẫu ngàn năm sau, cũng nhớ mãi lịch sử này
Nó như con rồng, con phượng được vẽ vời
Ngay trên nền trời, giữa đám mây vân cẩu ! Dân nhìn xuống, có thể nào thấy được
Bởi chuyện làm ăn, hay đồng áng hàng ngày
Nhưng chỉ hiềm, cả một đám vong thân
Bỏ ra hết cuộc đời cốt để nhằm xưng tụng ! Dân è cổ, đặng chúng ngồi trên cổ
Chúng ngu dân, và ru ngủ người dân
Hỏi người dân có khi nào nhìn thấy chúng không
Hay cả thân mình chúng to kềnh vẫn che mặt trời tối lại ! Dân cảm thấy có sức người đè lên cổ
Nhưng nhìn lên, đâu có thấy được nào
Chỉ một ánh hào quang dân chủ, tự do
Hào quang ảo, lẫn giữa vùng đen tối ! Mong một sớm, xóa mây mù đen kịt
Nền trời xanh trong sáng lại hiện ra
Ánh hào quang thật sự tự mặt trời
Ánh hào quang đã có tự ngàn đời trên đất nước !
VHT
(27/4/2013)
19. Đảng Là Ai
Chẳng biết từ đâu đảng đến đây? Trên đầu trên cổ đám dân nầy Ai bầu, ai bán, ai đề cử Mà đảng lên làm lãnh đạo đây? Mà đảng lên làm lãnh đạo đây? Một phường bán nước lũ tay sai Con rơi con rớt vô thừa nhận Nhảy tót ngồi lên những chiếc ngai. Nhảy tót ngồi lên những chiếc ngai Tàn tham, bạc ác với dân gầy Gian tà, gião quyệt cùng thế giới A dua lạy lục đám quan thầy A dua lạy lục đám quan thầy Tay liềm tay búa múa hăng say Đâm thuê chém mướn cho phường Cộng Tan nát quê hương tổ quốc này. Tan nát quê hương tổ quốc này Tương tàn cốt nhục thật chua cay Tự do giải phóng nào đâu thấy Chỉ thấy hung hăng kẻ cướp ngày. Chỉ thấy hung hăng kẻ cướp ngày Đuổi nhà chiếm đất đám dân cày Hốt vàng đổi bạc vơ đầy túi Bám chặt quyền uy chẳng đổi thay Bám chặt quyền uy chẳng đổi thay Mặc cho non nước nhục vơi đầy Mặc cho dân chúng bao đồ thán Chẳng biết từ đâu đảng đến đây? |
|
18. Nước & Đảng
Đảng là một nhóm thời cơ
Mạo danh kháng chiến dương cờ máu lên Nước là của giống Rồng Tiên Bốn ngàn năm trước còn truyền sử xanh. Đảng là một lũ lưu manh Đánh thuê chủ nghĩa cướp giành non sông Nước là nước của toàn dân Không phân giai cấp chỉ cần thương nhau. Đảng là một bọn tào lao Tay sai quốc tế, chư hầu Nga Hoa Nước là xã tắc sơn hà Bình Chiêm phá Tống tên là Việt Nam Đảng là một đảng tham tàn Độc quyền trị nước, Việt gian nhất thời Nước là tổ quốc đời đời Thanh bình hạnh phúc dưới trời tự do. Đứng lên giành lại cơ đồ Hỡi người dân Việt, thời cơ đến rồi! MPH |
17. Độc đáo quá. Con rất thích
Tưởng đâu “lão Toán” ngán làm THƠ
Hóa ra nghĩ thế mới dật DỜ
Một chút cay cay nhưng dí dỏm
Hài bi từng tập rất phân MINH
Có lúc lên voi rồi xuống CHÓ
Ở đời ai biết trước nhục VINH
Lòng son dễ tỏ khi thời loạn
Khốn khó gian nan mới hiểu TÌNH
Phận số khác gì với trò CHƠI
Kẻ được người thua chuyện đã RỒI
Lắm lúc thằng ngu ôm được tất
Người tài cay đắng trắng tay CHƠI
Ai biết giang sơn nay đổ GÃY?
Ai ngờ tổ quốc bỗng nhiên RƠI?
Xót xa lặng chảy theo dòng lệ
Hòa lẫn dòng thơ nhỏ xuống ĐỜI
Anh hùng chờ mãi vẫn im HƠI
Toàn thấy nhởn nhơ lũ xu THỜI
Bụng thì quá lớn tim quá bé
Ngày quỉ đêm ma hỏng cả RỒI
Toàn dân bỗng chốc thành QUAN BIỂU
Biểu gì nghe nấy mới thức THỜI
Đứa nào ngoan ngoãn quan cho bánh
Bằng không tàu suốt chở đi CHƠI…
Tưởng đâu “lão Toán” ngán làm THƠ
Hóa ra nghĩ thế mới dật DỜ
Một chút cay cay nhưng dí dỏm
Hài bi từng tập rất phân MINH
Có lúc lên voi rồi xuống CHÓ
Ở đời ai biết trước nhục VINH
Lòng son dễ tỏ khi thời loạn
Khốn khó gian nan mới hiểu TÌNH
Phận số khác gì với trò CHƠI
Kẻ được người thua chuyện đã RỒI
Lắm lúc thằng ngu ôm được tất
Người tài cay đắng trắng tay CHƠI
Ai biết giang sơn nay đổ GÃY?
Ai ngờ tổ quốc bỗng nhiên RƠI?
Xót xa lặng chảy theo dòng lệ
Hòa lẫn dòng thơ nhỏ xuống ĐỜI
Anh hùng chờ mãi vẫn im HƠI
Toàn thấy nhởn nhơ lũ xu THỜI
Bụng thì quá lớn tim quá bé
Ngày quỉ đêm ma hỏng cả RỒI
Toàn dân bỗng chốc thành QUAN BIỂU
Biểu gì nghe nấy mới thức THỜI
Đứa nào ngoan ngoãn quan cho bánh
Bằng không tàu suốt chở đi CHƠI…
16. Cảm hứng khi xem bức hình Người Phu Xe
Mac Phi Hoang
Xe chạy về đâu hỡi bác phu
Mà trông bác giống lão Văn Thu
Một thời bay bướm trường Quý Cáp
Một thuở tung hoành dọc chiến khu
ĐÁP ĐỀN
Đưng chê 'laõ TOÁN' tập làm thơ
Bằng , trằc- luật niêm vốn DẬT DỜ
Nên chăng "Nhất tam ngủ bất luận"
Hẳn là "Nhì tứ lục phân minh "
Ươn hèn tốt số - cười voi chó
Tài giỏi rơi đài- khóc nhục vinh
LỘN LEÒ lốc xoáy qua ly loạn
Mất hết - Còn nhau MỖI CHÚT TÌNH !
Tử tù, tử trận... dễ như chơi
Còn sống là may, phước đức rồi
Caĩ tiến Hai càng- sang mệnh số
Xích lô Ba gác, DIỄU trò chời
Hạm, Pháo.. banh nòng- Quan kiếm gãy
Tăng, Tàu ...đứt xích - Lính cung rơi
Thái lai - Con cháu "...thành danh toại "
Cảm ơn Phật Chúa....- nhớ ơn đời !
Số mình sau trước vẫn XE HƠI
Ba gác Xich lô chỉ tạm thới
Jeep lùn Dodge 4 thêm Remort
Đãi pháo Anten vứt hết rồi
Cơỉ aó nhà binh - làm "DÂN BIỂU"
Biểu đâu chạy đấy biết thế thời
Một vợ ba con năm nhà trăm bánh
Tần tàn đưa đón VỢ rong chới !
Xin chớ cười
"Thằng cúc đột trời ơi " !!!!
CHƠI !! Bui van Thu
Xe chạy về đâu hỡi bác phu
Mà trông bác giống lão Văn Thu
Một thời bay bướm trường Quý Cáp
Một thuở tung hoành dọc chiến khu
ĐÁP ĐỀN
Đưng chê 'laõ TOÁN' tập làm thơ
Bằng , trằc- luật niêm vốn DẬT DỜ
Nên chăng "Nhất tam ngủ bất luận"
Hẳn là "Nhì tứ lục phân minh "
Ươn hèn tốt số - cười voi chó
Tài giỏi rơi đài- khóc nhục vinh
LỘN LEÒ lốc xoáy qua ly loạn
Mất hết - Còn nhau MỖI CHÚT TÌNH !
Tử tù, tử trận... dễ như chơi
Còn sống là may, phước đức rồi
Caĩ tiến Hai càng- sang mệnh số
Xích lô Ba gác, DIỄU trò chời
Hạm, Pháo.. banh nòng- Quan kiếm gãy
Tăng, Tàu ...đứt xích - Lính cung rơi
Thái lai - Con cháu "...thành danh toại "
Cảm ơn Phật Chúa....- nhớ ơn đời !
Số mình sau trước vẫn XE HƠI
Ba gác Xich lô chỉ tạm thới
Jeep lùn Dodge 4 thêm Remort
Đãi pháo Anten vứt hết rồi
Cơỉ aó nhà binh - làm "DÂN BIỂU"
Biểu đâu chạy đấy biết thế thời
Một vợ ba con năm nhà trăm bánh
Tần tàn đưa đón VỢ rong chới !
Xin chớ cười
"Thằng cúc đột trời ơi " !!!!
CHƠI !! Bui van Thu
- 15. Đảng Cướp Bạo Quyền
Từ thuở mang gươm đi dựng nước
Ngày đêm thương nhớ đất Thăng long'
Đến lúc trở về tan mộng ước
Một bầy quỉ đỏ chiếm non sông
Máu chảy oán hờn trên ruộng đất
Mẹ già* tức tưởi chết oan khiên
Mắt mẹ trợn trừng như muốn nói
"Kẻ cướp, con ơi, đảng bạo quyền!"
"Kẻ cướp, con ơi, đảng bạo quyền!
Vốn là nghiệp chướng của Rồng Tiên
Tham tàn, dốt nát, lòng lang sói
Chỉ biết dâm ô với bạc tiền."
"Kẻ cướp, con ơi, đảng bạo quyền!
Một bầy hoang tưởng, lũ cuồng điên
Theo đường mac xít quên nòi giống
Bán rẽ quê nhà, nhục tổ tiên."
"Kẻ cướp, con ơi, đảng bạo quyền!
Mẹ lầm theo đảng mấy mươi niên
Gia tài điền sản đem dâng hiến
U uất mang theo xuống cữu tuyền."
"Hãy nhớ lời ta hỡi các con!
Đảng là một đảng cướp non sông
Cướp công kháng chiến người yêu nước
Tôi tớ Nga Tàu đại ác ôn."
14. Người bạn xe thồ
Anh còn lại được gì sau cuộc chiến
Chiếc xe thồ chở nặng nợ áo cơm
Vợ con anh đứa đầu non góc biển
Bạn bè giờ ngủ lịm tận thâm sơn .
Áo anh rách như đời anh tơi tả
Sau những năm nghiệt ngã chốn lao tù
Chân đạp xe –hồn anh mang ý lạ
Chở căm hờn đến mãi tận thiên thu .
Tôi gặp anh giữa một chiều mưa bão
Đốm lửa thuốc lào sưởi ấm thân thương
Tôi trọng anh,coi khinh phường vô đạo
Quan tướng nào tháo chạy bỏ quê hương .
Nợ sông núi giờ đây anh chưa trả
Nợ áo cơm anh lại phải đa mang
Tôi như anh đâu có gì khác lạ
Mang nặng bên mình lắm nỗi đa đoan .
Rít hơi thuốc , anh nhìn tôi tâm sự
Vợ bỏ anh theo tiếng gọi kim tiền
Vì cơm áo con cũng đành bỏ xứ
Giữa biển đời bặt tăm cá bóng chim .
Chén cơm lạnh nuôi thân gầy chưa đủ
Mỏi đôi chân điểm đến lại còn dài
Ai tâng bốc,ai suy tôn chế độ
Lá cờ hồng che khuất nẻo tương lai .
Tôi thương anh gần trọn đời khốn khổ
Ngày tháng quay theo vòng bánh xe đời
Dù gặp anh một lần tôi vẫn nhớ
Người bạn thồ - chiến hữu của tôi ơi .
Dư Mỹ
Anh còn lại được gì sau cuộc chiến
Chiếc xe thồ chở nặng nợ áo cơm
Vợ con anh đứa đầu non góc biển
Bạn bè giờ ngủ lịm tận thâm sơn .
Áo anh rách như đời anh tơi tả
Sau những năm nghiệt ngã chốn lao tù
Chân đạp xe –hồn anh mang ý lạ
Chở căm hờn đến mãi tận thiên thu .
Tôi gặp anh giữa một chiều mưa bão
Đốm lửa thuốc lào sưởi ấm thân thương
Tôi trọng anh,coi khinh phường vô đạo
Quan tướng nào tháo chạy bỏ quê hương .
Nợ sông núi giờ đây anh chưa trả
Nợ áo cơm anh lại phải đa mang
Tôi như anh đâu có gì khác lạ
Mang nặng bên mình lắm nỗi đa đoan .
Rít hơi thuốc , anh nhìn tôi tâm sự
Vợ bỏ anh theo tiếng gọi kim tiền
Vì cơm áo con cũng đành bỏ xứ
Giữa biển đời bặt tăm cá bóng chim .
Chén cơm lạnh nuôi thân gầy chưa đủ
Mỏi đôi chân điểm đến lại còn dài
Ai tâng bốc,ai suy tôn chế độ
Lá cờ hồng che khuất nẻo tương lai .
Tôi thương anh gần trọn đời khốn khổ
Ngày tháng quay theo vòng bánh xe đời
Dù gặp anh một lần tôi vẫn nhớ
Người bạn thồ - chiến hữu của tôi ơi .
Dư Mỹ
13.Lục bát tháng tư
Ta người Việt,mất quê hương
Tháng tư về .Lật lại chương sử buồn
Chim bỏ tổ .Nước xa nguồn
Thuyền không bến giữa trùng dương bềnh bồng
Tháng tư về .Em nhớ không ?
Ba tám năm vẫn theo dòng đời trôi
Quê hương bỏ lại bên trời
Đêm đêm tiếng quốc rã rời trong sương
Tháng tư .Đốt nén trầm hương
Gửi người lính chiến can trường hy sinh
Bao dũng tướng chết theo thành
Nghìn sau tên tuổi sử xanh rạng ngời.
Tháng tư đau cuộc đổi đời
Phồn hoa rũ áo lại thời hồng hoang
Nhìn xem lang sói xuống ngàn
Phố phường tan nát,xóm làng xác xơ .
Tháng tư trong mắt em thơ
Khô dòng máu lệ khóc chờ đợi cha
Thẩn thờ ánh mắt mẹ già
Trông con tận chiến trường xa mịt mờ .
Tháng tư máu chảy vào thơ
Vết thương năm cũ bây giờ còn đau
Ta xin tạ tội .Cúi đầu
Việt Nam ơi!Nguyện mai sau đáp đền
Tháng tư hồ dễ nào quên …
Dư Mỹ
Ta người Việt,mất quê hương
Tháng tư về .Lật lại chương sử buồn
Chim bỏ tổ .Nước xa nguồn
Thuyền không bến giữa trùng dương bềnh bồng
Tháng tư về .Em nhớ không ?
Ba tám năm vẫn theo dòng đời trôi
Quê hương bỏ lại bên trời
Đêm đêm tiếng quốc rã rời trong sương
Tháng tư .Đốt nén trầm hương
Gửi người lính chiến can trường hy sinh
Bao dũng tướng chết theo thành
Nghìn sau tên tuổi sử xanh rạng ngời.
Tháng tư đau cuộc đổi đời
Phồn hoa rũ áo lại thời hồng hoang
Nhìn xem lang sói xuống ngàn
Phố phường tan nát,xóm làng xác xơ .
Tháng tư trong mắt em thơ
Khô dòng máu lệ khóc chờ đợi cha
Thẩn thờ ánh mắt mẹ già
Trông con tận chiến trường xa mịt mờ .
Tháng tư máu chảy vào thơ
Vết thương năm cũ bây giờ còn đau
Ta xin tạ tội .Cúi đầu
Việt Nam ơi!Nguyện mai sau đáp đền
Tháng tư hồ dễ nào quên …
Dư Mỹ
12. Cuối Đường!
Vuong Mong Long
Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-Gòn hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của quốc lộ 1. Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, quốc lộ 1 sẽ chấm dứt. Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-Bình thì Bộ chỉ huy Liên đoàn 24 Biệt Động Quân đã di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi như con gà con lạc đàn. Tôi vào máy gọi Liên đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn. Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, thình lình máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu:
- “Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủ Sài-Gòn!”
Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-Bình, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để “phòng thủ thủ đô”. Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên-Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ. Trên quốc lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ. Vào giờ này, quân số Tiểu đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân khu 2 còn lại chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu tá Vương mộng Long), Thiếu úy Thủy, Trung úy Trâm, Chuẩn úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ. Ông Đại úy Ngũ văn Hoàn (TĐP) chết đêm 28 tháng Tư. Trung úy Đăng mất tích. Thiếu úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu úy Học, Thiếu úy Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng. Chuẩn úy Gấm, Chuẩn úy Trung, hai ông Chuẩn úy Phước (Lê văn Phước, Nguyễn văn Phước) cùng Trung úy Phước (Trần văn Phước) thất lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-Bình ngày hôm qua. Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long-Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi.
Lúc tôi tới Cầu Hang thì những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-Gòn. Giờ này họ đã quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào phòng, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội. Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đã khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa. Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên Hòa có lẽ đã rơi vào tay Cộng Quân. Trước mắt chúng tôi là quốc lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-Gòn. Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp tre. Họ đã hi sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống này. Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới.
Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu tướng Lê minh Đảo,Tư lệnh Sư Đoàn 18 BB đã khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ-Đức. Tư lệnh đã quay lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Ông Dương văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là “những người anh em”. Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi:
- “Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?”
- “Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế này?”
Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt:
- “Thiếu tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu tá ơi! Hu...hu...hu...”
Vào Nơi Lửa Đạn
Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng đàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van...
Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí, thế tác chiến sẵn sàng. Những người lính Biệt Động đang chăm chú nhìn cấp chỉ huy của họ. Họ nhìn tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép mình trong lòng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi tình hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này. Trong mười năm chiến trận, đã có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn còn hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu lòng, không bỏ vị trí. Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đã trở thành một hình nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm gì bây giờ. Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương văn Minh lên chức Tổng thống lúc nào đâu? Tôi biết hỏi ai rằng ông Tổng thống này là thiệt hay giả? Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng thống VNCH được nhỉ? Sao một thường dân có thể lên làm Tổng thống dễ dàng thế nhỉ? Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quệt nước mắt.
Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây. Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang,
- “Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!”
- “Hoan hô!...Hoan hô!”
Thùng... thùng... Hoan hô... Hoan hô... Thùng... thùng... Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió. Lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió.
- “Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?” Chửi thề xong, ông Hạ sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, bò lê, bò càng tìm chỗ tránh đạn.
- “Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủ Sài-Gòn!”
Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-Bình, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để “phòng thủ thủ đô”. Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên-Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ. Trên quốc lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ. Vào giờ này, quân số Tiểu đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân khu 2 còn lại chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu tá Vương mộng Long), Thiếu úy Thủy, Trung úy Trâm, Chuẩn úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ. Ông Đại úy Ngũ văn Hoàn (TĐP) chết đêm 28 tháng Tư. Trung úy Đăng mất tích. Thiếu úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu úy Học, Thiếu úy Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng. Chuẩn úy Gấm, Chuẩn úy Trung, hai ông Chuẩn úy Phước (Lê văn Phước, Nguyễn văn Phước) cùng Trung úy Phước (Trần văn Phước) thất lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-Bình ngày hôm qua. Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long-Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi.
Lúc tôi tới Cầu Hang thì những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-Gòn. Giờ này họ đã quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào phòng, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội. Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đã khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa. Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên Hòa có lẽ đã rơi vào tay Cộng Quân. Trước mắt chúng tôi là quốc lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-Gòn. Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp tre. Họ đã hi sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống này. Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới.
Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu tướng Lê minh Đảo,Tư lệnh Sư Đoàn 18 BB đã khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ-Đức. Tư lệnh đã quay lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Ông Dương văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là “những người anh em”. Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi:
- “Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?”
- “Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế này?”
Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt:
- “Thiếu tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu tá ơi! Hu...hu...hu...”
Vào Nơi Lửa Đạn
Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng đàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van...
Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí, thế tác chiến sẵn sàng. Những người lính Biệt Động đang chăm chú nhìn cấp chỉ huy của họ. Họ nhìn tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép mình trong lòng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi tình hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này. Trong mười năm chiến trận, đã có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn còn hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu lòng, không bỏ vị trí. Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đã trở thành một hình nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm gì bây giờ. Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương văn Minh lên chức Tổng thống lúc nào đâu? Tôi biết hỏi ai rằng ông Tổng thống này là thiệt hay giả? Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng thống VNCH được nhỉ? Sao một thường dân có thể lên làm Tổng thống dễ dàng thế nhỉ? Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quệt nước mắt.
Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây. Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang,
- “Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!”
- “Hoan hô!...Hoan hô!”
Thùng... thùng... Hoan hô... Hoan hô... Thùng... thùng... Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió. Lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió.
- “Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?” Chửi thề xong, ông Hạ sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, bò lê, bò càng tìm chỗ tránh đạn.
- “Thôi! Ta đi!” Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị.
- “Mình đi đâu bây giờ, Thiếu tá?” Thiếu úy Thủy băn khoăn hỏi.
- “Thì cứ đi về hướng Sài-Gòn, tìm xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với họ.” Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết mình sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.
- “Thùng... thùng...hoan hô...hoan hô”. Chúng tôi đi được chừng nửa cây số thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng.
- “Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi!” Hạ sĩ Phi lại đổ quạu.
- “Cành! Cành! Cành... cành... cành! Cành!” Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt đường. Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết. Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài-Gòn. Cứ đi được vài trăm mét, chúng tôi lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long thì thằng Don đưa ống nghe cho tôi:
- “Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!”
Tôi nghe tiếng Trung tá Hoàng kim Thanh, Liên đoàn trưởng LĐ24/BĐQ:
- “Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!”
Giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn, không có vẻ gì là lo lắng.
Nghe ba tiếng “Đường-Sơn Quán”, tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy. Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường Hồ chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740. Những cú nổ mìn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sésan là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương bắc. Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông. Họ quen gọi tôi là “Anh Hai”. Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng “Anh Hai” của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó. Thỉnh thoảng, “Anh Hai” lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn 2 giao phó. Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha. Khi cuốn phim “Đường-Sơn Đại-Huynh” được chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-Bình, ở Pleiku, thì đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh “Đường-Sơn Đại-Huynh” chỉ vì tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lý tiểu Long, tài tử chính của phim này. Sau khi “Anh Hai” vào Plei-Me nhận Tiểu đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái “Đường Sơn” khiến quân thù vừa nghe tên đã khiếp vía... Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được ở Sài-Gòn cũng có cái quán được đặt tên như trong phim võ hiệp của Tàu? Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán thì máy liên đoàn đã cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi,
- “Có phải Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?”
- “Phải rồi! 82 đây!”
- “Lên xe đi! Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!”
- “Có ai ở đó không?”
- “Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng”
Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi,
- “Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!”
- “Mình đi đâu bây giờ, Thiếu tá?” Thiếu úy Thủy băn khoăn hỏi.
- “Thì cứ đi về hướng Sài-Gòn, tìm xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với họ.” Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết mình sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.
- “Thùng... thùng...hoan hô...hoan hô”. Chúng tôi đi được chừng nửa cây số thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng.
- “Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi!” Hạ sĩ Phi lại đổ quạu.
- “Cành! Cành! Cành... cành... cành! Cành!” Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt đường. Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết. Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài-Gòn. Cứ đi được vài trăm mét, chúng tôi lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long thì thằng Don đưa ống nghe cho tôi:
- “Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!”
Tôi nghe tiếng Trung tá Hoàng kim Thanh, Liên đoàn trưởng LĐ24/BĐQ:
- “Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!”
Giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn, không có vẻ gì là lo lắng.
Nghe ba tiếng “Đường-Sơn Quán”, tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy. Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường Hồ chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740. Những cú nổ mìn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sésan là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương bắc. Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông. Họ quen gọi tôi là “Anh Hai”. Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng “Anh Hai” của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó. Thỉnh thoảng, “Anh Hai” lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn 2 giao phó. Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha. Khi cuốn phim “Đường-Sơn Đại-Huynh” được chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-Bình, ở Pleiku, thì đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh “Đường-Sơn Đại-Huynh” chỉ vì tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lý tiểu Long, tài tử chính của phim này. Sau khi “Anh Hai” vào Plei-Me nhận Tiểu đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái “Đường Sơn” khiến quân thù vừa nghe tên đã khiếp vía... Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được ở Sài-Gòn cũng có cái quán được đặt tên như trong phim võ hiệp của Tàu? Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán thì máy liên đoàn đã cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi,
- “Có phải Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?”
- “Phải rồi! 82 đây!”
- “Lên xe đi! Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!”
- “Có ai ở đó không?”
- “Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng”
Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi,
- “Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!”
Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho “hòa bình” có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp. Hai khẩu M60, một của Hạ sĩ Phi, một của Trung sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.
Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng thì hai bên đường có tiếng la,
- “Bắn! Bắn!... Không cho đứa nào chạy thoát!”
Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống. “Hòa bình” rồi. Tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng?
- “Choác! Choác!....Choác!”
Gian Lao
Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể, hơi nước phun “phì...phì...” che kín đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng mình, tôi đã ở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh,
- “Đưa tao!”
Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng. Tên du kích giãy giụa trên vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên mình thằng du kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc xe be. “Oành!”. Một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đã ghim vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu. Máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò. Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-Bình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay.
Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính còn đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ. Có người chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về hướng địch. Hầu như ai cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể mình đã trúng thương nơi đâu. Hạ sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đã trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay còn lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá, “Cành! Cành!...” - “Choác! Choác!... “ - “Xoẹt! Xoẹt!...” - “Oành! Oành!..” Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang.
- “Cành! Cành! Cành!...” Trên xe, Hạ sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí,
- “Đù má tụi mi ! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi mi cũng chết!”
Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của quốc lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đã diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di chuyển xuống lề đường. Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đã bị loại ra ngoài vòng chiến. Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại. Việt-Cộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân chúng cũng chết! Những người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, vùng 2, ruột đổ lòng thòng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên. Hết đạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả những gì cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng được xử dụng. Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé... Binh nhứt Liêu chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó. Tôi biết chắc người đó là chú Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người tình phụ).
Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe thì đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng trung úy Trâm thét lên, bên hông trái xe,
- “Thái Sơn ơi! Hình như tank tới !”
- “Làm gì có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!”
Đạn phòng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ “đúp” (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân mình người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy nát. Hạ sĩ Phi vỡ óc. Hạ sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không còn khẩu M16 nào hoạt động. Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.
Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết vì trúng đạn 12,7 ly. Trung sĩ Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn mình vài vòng, tới bên Tài. Tài nhìn tôi, thều thào,
“Chạy đi!... Ông thày... chạy đi!...”
Tôi định xốc Tài lên để dìu anh vào lề đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn bay xém bên mình tôi, nổ “toang toác!” trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ.
- “Anh em chết hết rồi. Chạy đi, thày ơi!” Đó là tiếng Trung úy Trâm.
“Toác! Toác!” - “Chíu! Chíu!” đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạy được một đỗi thì tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật. Trâm cõng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất. Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngã bổ nhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ con vương vãi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt nhớ tới gia đình vợ con tôi ngoài Ban Mê Thuột. Chắc vợ con tôi đã chết hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú,
- “Ôi!... Ôi!... Ông Trời ơi!... Ông Trời ơi!...ơi...ơi...”
Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay như sắt nguội của Trung úy Trâm phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng.
- “Trâm ơi! Làm ơn!... Cho anh chết! Trâm ơi!...” Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung úy Trâm lầm lì, xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn còn lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một gò mả. Trâm từng bước dìu tôi về hướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì một nông dân đạp xe tới chặn đường,
- “Ông thiếu tá bị thương hả?”
Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đã nhìn thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động lòng,
- “Ông trung úy lấy xe này đưa thiếu tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!”
-”Cám ơn cụ!” Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng.
Con lộ đất dẫn tới một văn phòng Hội Đồng Xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều người đang tập trung. Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài,
- “Cởi quân phục vứt đi thì chỉ còn cái áo mayor với cái quần xà-lỏn. Mình làm sao đây, Thái Sơn?”
Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-moọc, “Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa nòng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào cò súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!” Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự giải thoát nữa, thì chú Trâm van lơn,
- “Thày ơi! Thôi đi thày ơi! Đừng bỏ em, thày ơi!”
Gian Lao
Trung úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thày trò tôi ôm nhau. “Hu... hu... hu....” Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma không có người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng gì với nhau, nhìn nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi.
Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng quốc lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ :
- “Thiếu tá lên xe, em chở đi trốn.”
Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo.
- “Chúng nó (VC) chết nhiều lắm! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu rồi? Họ khai có ông thiếu tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác thiếu tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa thiếu tá đi dấu. Không để cho chúng nó bắt.”
Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa,
- “Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa cho con!”
Cánh cửa hé mở, một bà già, giọng Bắc Di Cư:
- “Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho tao đỡ lo!”
- “Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, chòm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo!”
Bà mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà,
- “Hai đứa lấy quần áo 'si-vin' của thằng Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu!” Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đã chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà.
Trước sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp,
- “Anh kia! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri Ngụy chạy qua đây không?” một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi.
- “Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ cây dừa nghiêng...”
Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,
- “Chứ hai anh kia làm chi rứa?”
- “Anh Cả và anh Hai của tôi đó!” Hải nhanh miệng.
- “Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biềt.” Bà cụ phân trần.
Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh,
- “Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có súng!”
Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về,
- “Thiếu tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi.”
- “Hai con có còn tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho!” bà cụ ân cần.
- “Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền đây. Chúng cháu mới lãnh lương. Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào.” Tôi cảm động nói không nên lời. Bà già nhìn chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm tình thương xót bao la.
- “Thưa Mẹ! Con đi!”
- “Thưa Mẹ! Con đi!”
- “Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!”
Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đã là Mẹ tôi, đã sinh ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi về hướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải còn trông theo.
Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng người hướng về Thủ-Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi, “Thái Sơn ơi! Trâm ơi!” Thì ra người gọi chúng tôi là Thiếu úy Trần văn Thủy. Ba thày trò tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những gì đã trải qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy loạn đang tìm đường về nhà, sau khi im tiếng súng. Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đã xảy ra cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố. Tới chợ Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb bò ì ạch vì quá tải. Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu tá Nguyễn hữu Tài, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường-Sơn Quán (?)
Còn cách ngã ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ vòng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, vì giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy. Có vài cán binh Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng thì thày trò tôi tới xa lộ Đại-Hàn. Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về Sài-Gòn. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược.
Chúng tôi về tới Thị-Nghè thì mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41 đứt xích vì B40. C hiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đã khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương vãi vài bộ quân phục Việt Nam Cộng Hòa, dây đạn, nón sắt, ba lô...
Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc tình hình lộn xộn, chòm xóm biết mình là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờ trên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc. Nhà anh bạn Nguyễn gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan Cảnh-Sát, Trưởng đoàn phòng vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽ gia đình bạn tôi đã di tản rồi. Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy. Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia...
Quên đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày trò tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung úy Trần văn Phước; vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm giềng không biết mình là ai; vừa tìm xem chú Phước còn hay mất. Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước còn mở cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu “Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh”. Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước. Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi, “Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Hai ơi!” Thì ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-Bình. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-Gòn.
Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đã được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu úy Thủy đã cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không thành công, vì địch quá đông. Đến lúc khẩu phòng không 12,7 ly của địch tham chiến thì Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, hình như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rõ số mệnh ra sao. Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau nữa.
Thời gian trôi...
mười ba năm sau, cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca “Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh”. Có một anh Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng đã mau mắn trả lời :
- “Đi rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm rồi!”
- “Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!” Anh Bắc-Kỳ mừng rỡ. Bà chủ nhà... nghệt mặt, giương mắt nhìn anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ý anh.
Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá, Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có còn nhận ra anh không? Qua văn phòng Ủy-Ban Nhân-Dân Xã, đến quốc lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-Sơn Quán vài cây số. Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đã tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng cuối cùng. Những người nằm xuống đã sang thế giới bên kia trong quân phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có chữ số “82” màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng còn nhớ tới họ, nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói.
Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng,
- “Các chú tha lỗi cho anh...”
Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lớn lên từ lòng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me. Hình như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, não nuột:
- “Thày ơi! Chạy đi!... Thày ơi!...”
Ngồi bên bìa rừng, đôi mắt Đường-Sơn Đại-Huynh đẫm lệ...!
Hồi Ký cuả Vương Mộng Long, Khóa 20
***
Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng thì hai bên đường có tiếng la,
- “Bắn! Bắn!... Không cho đứa nào chạy thoát!”
Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống. “Hòa bình” rồi. Tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng?
- “Choác! Choác!....Choác!”
Gian Lao
Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể, hơi nước phun “phì...phì...” che kín đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng mình, tôi đã ở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh,
- “Đưa tao!”
Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng. Tên du kích giãy giụa trên vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên mình thằng du kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc xe be. “Oành!”. Một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đã ghim vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu. Máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò. Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-Bình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay.
Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính còn đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ. Có người chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về hướng địch. Hầu như ai cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể mình đã trúng thương nơi đâu. Hạ sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đã trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay còn lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá, “Cành! Cành!...” - “Choác! Choác!... “ - “Xoẹt! Xoẹt!...” - “Oành! Oành!..” Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang.
- “Cành! Cành! Cành!...” Trên xe, Hạ sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí,
- “Đù má tụi mi ! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi mi cũng chết!”
Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của quốc lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đã diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di chuyển xuống lề đường. Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đã bị loại ra ngoài vòng chiến. Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại. Việt-Cộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân chúng cũng chết! Những người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, vùng 2, ruột đổ lòng thòng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên. Hết đạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả những gì cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng được xử dụng. Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé... Binh nhứt Liêu chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó. Tôi biết chắc người đó là chú Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người tình phụ).
Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe thì đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng trung úy Trâm thét lên, bên hông trái xe,
- “Thái Sơn ơi! Hình như tank tới !”
- “Làm gì có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!”
Đạn phòng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ “đúp” (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân mình người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy nát. Hạ sĩ Phi vỡ óc. Hạ sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không còn khẩu M16 nào hoạt động. Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.
Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết vì trúng đạn 12,7 ly. Trung sĩ Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn mình vài vòng, tới bên Tài. Tài nhìn tôi, thều thào,
“Chạy đi!... Ông thày... chạy đi!...”
Tôi định xốc Tài lên để dìu anh vào lề đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn bay xém bên mình tôi, nổ “toang toác!” trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ.
- “Anh em chết hết rồi. Chạy đi, thày ơi!” Đó là tiếng Trung úy Trâm.
“Toác! Toác!” - “Chíu! Chíu!” đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạy được một đỗi thì tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật. Trâm cõng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất. Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngã bổ nhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ con vương vãi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt nhớ tới gia đình vợ con tôi ngoài Ban Mê Thuột. Chắc vợ con tôi đã chết hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú,
- “Ôi!... Ôi!... Ông Trời ơi!... Ông Trời ơi!...ơi...ơi...”
Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay như sắt nguội của Trung úy Trâm phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng.
- “Trâm ơi! Làm ơn!... Cho anh chết! Trâm ơi!...” Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung úy Trâm lầm lì, xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn còn lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một gò mả. Trâm từng bước dìu tôi về hướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì một nông dân đạp xe tới chặn đường,
- “Ông thiếu tá bị thương hả?”
Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đã nhìn thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động lòng,
- “Ông trung úy lấy xe này đưa thiếu tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!”
-”Cám ơn cụ!” Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng.
Con lộ đất dẫn tới một văn phòng Hội Đồng Xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều người đang tập trung. Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài,
- “Cởi quân phục vứt đi thì chỉ còn cái áo mayor với cái quần xà-lỏn. Mình làm sao đây, Thái Sơn?”
Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-moọc, “Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa nòng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào cò súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!” Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự giải thoát nữa, thì chú Trâm van lơn,
- “Thày ơi! Thôi đi thày ơi! Đừng bỏ em, thày ơi!”
Gian Lao
Trung úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thày trò tôi ôm nhau. “Hu... hu... hu....” Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma không có người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng gì với nhau, nhìn nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi.
Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng quốc lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ :
- “Thiếu tá lên xe, em chở đi trốn.”
Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo.
- “Chúng nó (VC) chết nhiều lắm! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu rồi? Họ khai có ông thiếu tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác thiếu tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa thiếu tá đi dấu. Không để cho chúng nó bắt.”
Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa,
- “Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa cho con!”
Cánh cửa hé mở, một bà già, giọng Bắc Di Cư:
- “Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho tao đỡ lo!”
- “Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, chòm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo!”
Bà mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà,
- “Hai đứa lấy quần áo 'si-vin' của thằng Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu!” Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đã chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà.
Trước sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp,
- “Anh kia! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri Ngụy chạy qua đây không?” một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi.
- “Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ cây dừa nghiêng...”
Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,
- “Chứ hai anh kia làm chi rứa?”
- “Anh Cả và anh Hai của tôi đó!” Hải nhanh miệng.
- “Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biềt.” Bà cụ phân trần.
Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh,
- “Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có súng!”
Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về,
- “Thiếu tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi.”
- “Hai con có còn tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho!” bà cụ ân cần.
- “Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền đây. Chúng cháu mới lãnh lương. Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào.” Tôi cảm động nói không nên lời. Bà già nhìn chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm tình thương xót bao la.
- “Thưa Mẹ! Con đi!”
- “Thưa Mẹ! Con đi!”
- “Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!”
Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đã là Mẹ tôi, đã sinh ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi về hướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải còn trông theo.
Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng người hướng về Thủ-Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi, “Thái Sơn ơi! Trâm ơi!” Thì ra người gọi chúng tôi là Thiếu úy Trần văn Thủy. Ba thày trò tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những gì đã trải qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy loạn đang tìm đường về nhà, sau khi im tiếng súng. Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đã xảy ra cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố. Tới chợ Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb bò ì ạch vì quá tải. Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu tá Nguyễn hữu Tài, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường-Sơn Quán (?)
Còn cách ngã ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ vòng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, vì giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy. Có vài cán binh Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng thì thày trò tôi tới xa lộ Đại-Hàn. Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về Sài-Gòn. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược.
Chúng tôi về tới Thị-Nghè thì mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41 đứt xích vì B40. C hiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đã khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương vãi vài bộ quân phục Việt Nam Cộng Hòa, dây đạn, nón sắt, ba lô...
Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc tình hình lộn xộn, chòm xóm biết mình là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờ trên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc. Nhà anh bạn Nguyễn gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan Cảnh-Sát, Trưởng đoàn phòng vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽ gia đình bạn tôi đã di tản rồi. Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy. Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia...
Quên đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày trò tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung úy Trần văn Phước; vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm giềng không biết mình là ai; vừa tìm xem chú Phước còn hay mất. Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước còn mở cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu “Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh”. Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước. Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi, “Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Hai ơi!” Thì ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-Bình. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-Gòn.
Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đã được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu úy Thủy đã cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không thành công, vì địch quá đông. Đến lúc khẩu phòng không 12,7 ly của địch tham chiến thì Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, hình như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rõ số mệnh ra sao. Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau nữa.
Thời gian trôi...
mười ba năm sau, cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca “Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh”. Có một anh Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng đã mau mắn trả lời :
- “Đi rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm rồi!”
- “Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!” Anh Bắc-Kỳ mừng rỡ. Bà chủ nhà... nghệt mặt, giương mắt nhìn anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ý anh.
Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá, Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có còn nhận ra anh không? Qua văn phòng Ủy-Ban Nhân-Dân Xã, đến quốc lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-Sơn Quán vài cây số. Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đã tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng cuối cùng. Những người nằm xuống đã sang thế giới bên kia trong quân phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có chữ số “82” màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng còn nhớ tới họ, nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói.
Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng,
- “Các chú tha lỗi cho anh...”
Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lớn lên từ lòng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me. Hình như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, não nuột:
- “Thày ơi! Chạy đi!... Thày ơi!...”
Ngồi bên bìa rừng, đôi mắt Đường-Sơn Đại-Huynh đẫm lệ...!
Hồi Ký cuả Vương Mộng Long, Khóa 20
***
VÁ CƠ ĐỒ RÁCH Ngày xưa Mẹ vá con manh áo,
Dành dụm đưa con đến học đường;
Ngày nay anh vá cơ đồ rách,
Em tiễn đưa anh tận chiến trường.
(vô danh)
Dành dụm đưa con đến học đường;
Ngày nay anh vá cơ đồ rách,
Em tiễn đưa anh tận chiến trường.
(vô danh)
11. Tháng Tư Đen
Mùa xuân ấy Tháng Tư về tang tóc Lũ Hồng Hà úng thóc Cữu Long Giang Lửa Trường Sơn cằn kiệt nước Sông Hàn Bầy sâu dại ngập đồng ngô ruộng lúa. Từ phương bắc bọn cùng hung cực ác Vẩy búa liềm xua chết chóc vào nam L ũ người không tim óc chẳng linh hồn Đi cướp bóc dưới chiêu bài giãi phóng. Cả Miền Nam đang thanh bình vui sống Trở thành mồi cho Cộng sản xâm lăng Vận nước non đang phải lúc suy tàn Bao nghĩa sĩ hùng anh đành tuẩn tiết. Lá cờ máu vấy khung trời nước Việt Địa ngục đầy nhung nhúc quỉ sa tăng Cả nước non ngơ ngác nỗi kinh hoàng Toàn dân tộc hãi hùng cơn quốc nạn. Lũ giặc nước trong điên rồ mù quáng Dìm giống nòi vào biển máu thê lương Nhắm mắt đi theo chủ nghĩa ngông cuồng Biến xã hội thành nhà tù vĩ đại. * Tháng Tư đen vì Miền Nam chiến bại Trước kẻ thù gian xão với phi nhân Tháng Tư đen vì bè lũ vô thần Theo Các Mác quên cha ông nguồn gốc. Tháng Tư đen vì hồn thiêng tổ quốc Phải tủi hờn chua xót khóc non sông Tháng Tư đen vì con cháu Tiên Rồng Phải quằn quại trong xích xiềng nô lệ. Tháng Tư đen vì đàn con của mẹ Phải chia lìa cơn quốc phá gia vong Tháng Tư đen vì yêu dấu Sài Gòn Phải đau đớn mang tên loài nghiệt súc. Tháng Tư đen vì chín tầng địa ngục Đã đọa đày úp xuống mảnh giang sơn Tháng Tư đen vì u uất căm hờn Của dân tộc chìm trong làn sóng đỏ. * Tháng Tư đen, Tháng Tư đen còn đó Là nhát thù chém xuống giữa con tim Là vết thương đau nhức xé hằng đêm Trong tâm khãm những tấm lòng yêu nước. Tháng Tư đen không bao giờ quên được Là lời thề trên mỗi bước lưu vong Đến bao giờ chưa trả hận non sông Thì cuộc sống chỉ toàn là cay đắng. Mạc Phi Hoàng |
10. Không Cho Phép Mình Quên
Đem tâm tư, tình cảm để trang trải như thế này trong mùa tháng Tư Quốc Hận quả thật là một điều đáng trân trọng và chia xẻ. Tôi xin phép được chuyển tiếp , phổ biến càng nhiều càng tốt, vì tác giả đã nói hộ cho tôi những điều tôi muốn nói.
Xin cám ơn tác giả , cám ơn các bạn cùng chia xẻ.
Người Lính Già 73 – LPN
Đem tâm tư, tình cảm để trang trải như thế này trong mùa tháng Tư Quốc Hận quả thật là một điều đáng trân trọng và chia xẻ. Tôi xin phép được chuyển tiếp , phổ biến càng nhiều càng tốt, vì tác giả đã nói hộ cho tôi những điều tôi muốn nói.
Xin cám ơn tác giả , cám ơn các bạn cùng chia xẻ.
Người Lính Già 73 – LPN
Tôi tên Nguyễn Khánh Vũ, kỹ sư điện toán cho một công ty bên Arizona. Đã tham gia với bài "Nước Mỹ và tôi" vào năm đầu tiên, và mới nhất là bài "Nước Mỹ và vợ tôi".. . .
Nhiều người cho rằng chiến tranh đã kết thúc hơn 30 năm rồi, vả lại Việt cộng cũng thay đổi rồi, sao lại chống? Với tôi, những bài học, những kinh nghiệm thương đau mà thế hệ Cha Anh đã có với Việt cộng nhắc tôi phải cảnh giác luôn luôn.
Bài học số 1: Việt cộng giết người Quốc gia ngay trong thời kỳ phôi thai kháng Pháp, đánh Nhật, vì Việt cộng muốn cướp quyền lãnh đạo đất nước, để có thể toàn quyền làm tay sai cho cộng sản quốc tế trước kia, và nay cho quan thầy Trung cộng.
Bài học số 2: Trong những kỳ cải cách ruộng đất, Việt cộng đã giết biết bao người dân vô tội, giết ngay cảnhững người mà có lẽ chẳng bao lâu trước đó đã hào phóng bỏ ra vàng, tiền của đóng góp trong các cuộc quyên góp cho Việt cộng.
Bài học số 3: Ký kết ngưng bắn với Việt cộng chưa ráo mực thì Hồ Chí Minh xua ngay quân giết hàng ngàn đồng bào miền Nam vô tội trong Tết Mậu Thân.
Bài học số 4: Việt cộng xé ngay bản hòa đàm Paris mà chúng chỉ vừa ký.
Bài học số 5: Trường học Cai Lậy, nơi bao trẻ thơ đang ê a bên trang sách, sao lại là mục tiêu pháo kích của Việt cộng? Sao Việt cộng lại nhẫn tâm bắn vào hàng ngàn đồng bào vô tội đang trốn chạy "giải phóng quân" trên đại lộ kinh hoàng?
Bài học số 6: "Nhà nước thông báo để nhân dân đừng tin vào các tin đồn thất thiệt. Nhà nước sẽ không đổi tiền". Và việc đổi tiền, thực chất là một cuộc ăn cướp tài sản của người dân miền Nam, được tiến hành chỉ một ngày sau đó. Đây là một nhóm thổ phỉ cai trị, chứ không phải là một nhà nước pháp trị. 500 đồng tiền Việt Namcộng hòa đổi lấy 1 đồng tiền Hồ. Việt cộng có cái gì để mà đổi?
Bài học số 7:
- "Ngày mai em sẽ chở các con đến đây thăm anh", Mẹ tôi bịn rịn chia tay Ba tôi sau khi chở Ba tôi đến địa điểm tập trung "cải tạo".
- "Em về ráng lo cho Thầy Mẹ và các con. Đêm nay chắc chắn anh sẽ bị đem đi nơi khác. Và em cũng đừng mong anh sẽ về sau 10 ngày", Ba tôi căn dặn.
- "Nhưng… cách mạng thông báo tập trung 10 ngày mà", Mẹ tôi trả lời.
Ôi thương thay cho người dân hiền lành, thật thà đất nước tôi. Và chắc đâu đó ở Hà nội, đã có một nhóm người ngồi cười khoái trá.
Trên đây là một ít trong số những bài học "cơ bản" mà tôi luôn tự nhắc mình và "không bao giờ cho phép mình quên."
Có nhiều người cho rằng Việt cộng đã thay đổi rồi. Với tôi, Việt cộng chỉ là một loài tắc kè dỏm và hạ cấp. Nó thay đổi màu để tồn tại, để tiếp tục lừa bịp, che đậy cái bản chất bất biến của chúng là tàn ác và đê hèn. Với những người cùng một dòng máu Việt thì chúng chẳng chừa một hành vi bẩn thỉu nào, nhưng với kẻ thù phương Bắc, kẻ thù mà ngàn năm trước cha ông ta đã chỉ mặt đặt tên, thì chúng lại quì gối. Khi đọc bản tin Giang Trạch Dân vào tắm ở Đà nẵng, rồi vào Saigon gặp mặt hoa kiều Chợ Lớn, sau đó mới bay ra Hà nội đểgặp bọn đàn em ở Ba Đình, lòng tôi sôi sục căm hờn, tủi nhục. Với cái thằng Tàu phù này, Việt Nam xem chừng chỉ là cái ao làng của nó. Khi đọc bản tin thấy đám du khách Trung cộng phất cờ, đón đuốc thế vận trên đường phố Saigon trong khi những người dân Việt bị cô lập, bị đẩy ra xa, tôi biết rằng tôi vẫn còn sáng suốt. Tôi vẫn thấy rõ cái tồi tệ, xấu xí của Việt cộng dù đang được che đậy dưới một cái áo màu mè bên ngoài của một con tắc kè. Việt cộng đã thay đổi?
Nhiều người cho rằng chiến tranh đã kết thúc hơn 30 năm rồi, vả lại Việt cộng cũng thay đổi rồi, sao lại chống? Với tôi, những bài học, những kinh nghiệm thương đau mà thế hệ Cha Anh đã có với Việt cộng nhắc tôi phải cảnh giác luôn luôn.
Bài học số 1: Việt cộng giết người Quốc gia ngay trong thời kỳ phôi thai kháng Pháp, đánh Nhật, vì Việt cộng muốn cướp quyền lãnh đạo đất nước, để có thể toàn quyền làm tay sai cho cộng sản quốc tế trước kia, và nay cho quan thầy Trung cộng.
Bài học số 2: Trong những kỳ cải cách ruộng đất, Việt cộng đã giết biết bao người dân vô tội, giết ngay cảnhững người mà có lẽ chẳng bao lâu trước đó đã hào phóng bỏ ra vàng, tiền của đóng góp trong các cuộc quyên góp cho Việt cộng.
Bài học số 3: Ký kết ngưng bắn với Việt cộng chưa ráo mực thì Hồ Chí Minh xua ngay quân giết hàng ngàn đồng bào miền Nam vô tội trong Tết Mậu Thân.
Bài học số 4: Việt cộng xé ngay bản hòa đàm Paris mà chúng chỉ vừa ký.
Bài học số 5: Trường học Cai Lậy, nơi bao trẻ thơ đang ê a bên trang sách, sao lại là mục tiêu pháo kích của Việt cộng? Sao Việt cộng lại nhẫn tâm bắn vào hàng ngàn đồng bào vô tội đang trốn chạy "giải phóng quân" trên đại lộ kinh hoàng?
Bài học số 6: "Nhà nước thông báo để nhân dân đừng tin vào các tin đồn thất thiệt. Nhà nước sẽ không đổi tiền". Và việc đổi tiền, thực chất là một cuộc ăn cướp tài sản của người dân miền Nam, được tiến hành chỉ một ngày sau đó. Đây là một nhóm thổ phỉ cai trị, chứ không phải là một nhà nước pháp trị. 500 đồng tiền Việt Namcộng hòa đổi lấy 1 đồng tiền Hồ. Việt cộng có cái gì để mà đổi?
Bài học số 7:
- "Ngày mai em sẽ chở các con đến đây thăm anh", Mẹ tôi bịn rịn chia tay Ba tôi sau khi chở Ba tôi đến địa điểm tập trung "cải tạo".
- "Em về ráng lo cho Thầy Mẹ và các con. Đêm nay chắc chắn anh sẽ bị đem đi nơi khác. Và em cũng đừng mong anh sẽ về sau 10 ngày", Ba tôi căn dặn.
- "Nhưng… cách mạng thông báo tập trung 10 ngày mà", Mẹ tôi trả lời.
Ôi thương thay cho người dân hiền lành, thật thà đất nước tôi. Và chắc đâu đó ở Hà nội, đã có một nhóm người ngồi cười khoái trá.
Trên đây là một ít trong số những bài học "cơ bản" mà tôi luôn tự nhắc mình và "không bao giờ cho phép mình quên."
Có nhiều người cho rằng Việt cộng đã thay đổi rồi. Với tôi, Việt cộng chỉ là một loài tắc kè dỏm và hạ cấp. Nó thay đổi màu để tồn tại, để tiếp tục lừa bịp, che đậy cái bản chất bất biến của chúng là tàn ác và đê hèn. Với những người cùng một dòng máu Việt thì chúng chẳng chừa một hành vi bẩn thỉu nào, nhưng với kẻ thù phương Bắc, kẻ thù mà ngàn năm trước cha ông ta đã chỉ mặt đặt tên, thì chúng lại quì gối. Khi đọc bản tin Giang Trạch Dân vào tắm ở Đà nẵng, rồi vào Saigon gặp mặt hoa kiều Chợ Lớn, sau đó mới bay ra Hà nội đểgặp bọn đàn em ở Ba Đình, lòng tôi sôi sục căm hờn, tủi nhục. Với cái thằng Tàu phù này, Việt Nam xem chừng chỉ là cái ao làng của nó. Khi đọc bản tin thấy đám du khách Trung cộng phất cờ, đón đuốc thế vận trên đường phố Saigon trong khi những người dân Việt bị cô lập, bị đẩy ra xa, tôi biết rằng tôi vẫn còn sáng suốt. Tôi vẫn thấy rõ cái tồi tệ, xấu xí của Việt cộng dù đang được che đậy dưới một cái áo màu mè bên ngoài của một con tắc kè. Việt cộng đã thay đổi?
Tôi may mắn có một người cha sáng suốt với những phân tích sắc bén, thuyết phục. Ông luôn là người đầu tiên tôi tìm đến để tham khảo và hỏi ý kiến khi nghe hoặc đọc thấy những biến động nào trong xã hội. Là một cựu quân nhân trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, ở tuổi ngoài 70, ông vẫn canh cánh trong lòng chuyện vận mạng đất nước. "Muốn chống cộng mình phải hoặc là có tiền hoặc là có quyền", Ba tôi nói. Và trong tình thếkhông có cả hai, ông vẫn chống cộng theo cách riêng. Ông hun đúc tinh thần yêu nước cho con cháu trong gia đình qua các câu chuyện kể, qua những nhận định tình hình, nhắc nhở con cháu tỉnh táo trước những mưu chước của Việt cộng. Ông nhắc con cháu dành chút thời gian thắp một nén nhang, đặt một ít hoa, nơi đài chiếnsĩ Việt-Mỹ nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong. Ông cố gắng đến với các cuộc biểu tình nghiêm túc trong cộng đồng. "Mình đến dù không làm được gì nhưng mình phải đến để thể hiện chính kiến của mình, đồng thời động viên anh em", Ông thường nói như vậy. Ông đến với các buổi ra mắt sách có liên quan đến lịch sử, đến quân đội và luôn ủng hộ mua sách từ những đồng tiền ít ỏi Ông nhận được hàng tháng. Tôi được nghe rất nhiều lần từ những người bạn của Ông, từ sơ giao đến thân tình, "Mỗi lần gặp anh, tôi hiểu ra nhiều vấn đề quá".
Tôi luôn cố gắng theo Ba tôi tham gia các cuộc biểu tình nghiêm túc trong cộng đồng. Tôi phụ giúp giảng dạy Việt ngữ cho các em nhỏ với hy vọng góp một bàn tay phá vỡ cái nghị quyết 36 mà Việt cộng đã và đang cố gắng thực hiện tại hải ngoại qua sách báo, qua các chương trình ca nhạc của chúng. Tôi tranh thủ giờ ăn trưa trong công ty, để viết bài và tham gia tranh luận trên các diễn đàn với cố gắng "giành dân, lấn đất" với Việt cộng trên mạng điện toán. Tôi luôn mua băng gốc các chương trình ca nhạc, các tài liệu lịch sử để ủng hộ các trung tâm, các cơ sở có đường hướng chống Cộng rõ ràng. Tôi cố gắng giải thích cho các con tôi khi chúng thắc mắc về lá cờ máu chúng thấy trong sách báo.
Bạn bè tôi, có người cho tôi chống cộng cực đoan. Là người Việt nên tôi vẫn nhớ Ông Bà ngày xưa có dạy "một câu nhịn, chín câu lành". Tôi cũng cho mình là một người Công giáo kiên định và vâng phục. Chúa tôi có dạy rằng "Nếu có kẻ tát con má bên phải, con hãy đưa má bên trái cho kẻ đó tát".
Kính thưa Ông Bà,
Việt cộng ngày xưa đày Ba con nơi rừng sâu, chỉ thả về khi Ba con khập khễng trên đôi nạng gỗ với một bệnh án sống thêm được vài tháng là hết. Mấy chị em con bị xếp vào hàng cuối cùng trong xã hội vì "trúng" đủ mọi "tiêu chuẩn" của Việt cộng, dân Bắc di cư-đạo Công giáo-con Ngụy quân Ngụy quyền. Ngày xưa Việt cộng gọichúng con là đĩ điếm bám chân đế quốc thì nay là "khúc ruột ngàn dặm", một khúc ruột mà hàng năm có thể gửi về trong nước gần 10 tỉ tiền đế quốc. Bao nhiêu đồng bào nghèo lê lết sống bên Cambodia hay còn kẹt lại ở Philippines, bao nhiêu công nhân làm tôi mọi khắp nơi, bao nhiêu cô gái bán thân khắp vùng Đông Nam Á, thì sao không là "khúc ruột"?
Trước, Việt cộng giết dân miền Bắc trong "cải cách ruộng đất", chôn sống dân miền Trung trong Mậu Thân, đày đọa, thủ tiêu quân cán chính miền Nam sau ngày "giải phóng", nay Việt cộng lại tiếp tục cướp đất của bao người dân thấp cổ, bé miệng, tiếp tục tàn phá quê hương, phá bỏ đạo đức làm người. Người dân đã chẳng những "một nhịn", mà trăm ngàn "nhịn", mà "lành" vẫn không thấy.
Ông Bà kính,
làm sao có "lành" với quỷ?
Lạy Chúa,
Việt cộng đánh đồng bào con thê thảm trong "cải cách ruộng đất". Việt cộng chôn sống đồng bào con trong Tết Mậu Thân. Việt cộng đánh gia đình con và biết bao gia đình miền Nam tan nát sau "ngày giải phóng". Việt cộng đẩy đồng bào con ra biển Đông và hàng ngàn người đã bỏ mình, đã ô nhục, nhơ nhớp dưới tay hải tặc. Nay Việt cộng tiếp tục đánh phá các cộng đồng hải ngoại, nơi chúng con đang xây dựng lại cuộc sống mới cho thếhệ mai sau.
Lạy Chúa,
chẳng những cả hai má chúng con đã để cho Việt cộng tát, mà toàn thân, lục phủ ngũ tạng cũng tang thương. Thì nay xin Chúa cho con theo câu "có lúc con phải hiền như con trừu, có khi con phải khôn ngoan như con rắn". Tôi có cực đoan không khi tôi chống Cộng hay Việt cộng đã thay đổi chăng?
Tôi sẽ còn chống cộng ngay cả khi Việt cộng không còn trên quê hương tôi. Ngày quê hương thanh bình, tôi sẽ về lại vùng quê Mỹ Tho hiền hòa, mở một ngôi trường dạy học cho các em nhỏ. Và lồng trong những bài học Việt văn, toán học, tôi chắc chắn sẽ kể cho các em nghe những tội ác của Việt cộng, nhắc cho các em những kinh nghiệm thương đau của cha ông, với một hy vọng các em sẽ không bao giờ để cái chủ nghĩa quái thai này xuất hiện một lần nữa trên đất nước thân yêu dưới bất kỳ hình thức nào.
Tôi viết bài này trong niềm tưởng nhớ người Chú, người Cậu, những sĩ quan anh dũng của quân lực Việt Nam cộng hòa hy sinh trong cuộc chiến, những đứa em và bà con xa gần chết trên biển Đông, vì lý tưởng tự do.
NGUYỄN KHÁNH VŨ
9. Trái Tim Còn Lại ( Thơ Hoàng Lộc )
-Mang Viên Long
Cách nay hơn 37 năm (th.3/1972), trên KH và TT tôi đã có dịp đọc tập thơ đầu tay của Nhà Thơ Hoàng Lộc – đó là tập “Trái Tim Còn Lại” (Quế Sơn – XB th.9/1971). Báo và bản thảo đều bị “thất lạc” sau 75. May thay, một người bạn Văn ở Bến Tre vừa gởi cho một số sách và bản thảo cũ của tôi – trong đó có bài viết về tập thơ “Trái Tim Còn Lại”… Nhận thấy những ghi nhận lúc ấy vẫn còn nhiều ý nghĩa cho sinh hoạt VHNT hôm nay – nên xin được đăng lại …như lưu giữ một kỷ niệm! MVL
Trái Tim Còn Lại là tập thơ đã được trao giải thi ca Văn Bút Việt Nam năm 1970 của Hoàng Lộc – một nhà thơ trẻ. Tác giả là một nhà thơ quen thuộc của các tạp chí Bách Khoa, Văn, Văn học, Khởi Hành (…) Thi phẩm in dày 80 trang, gồm 28 bài thơ, đủ các thể loại (bảy chữ, lục bát, năm chữ, tự do và tám chữ). Bìa in ba màu (màu tím, xanh biển và đen) do họa sĩ Trịnh Cung vẽ, và hai phụ bản thật dễ thương của Lê Chánh. Tóm lại, phần trình bày của tập thơ có một nét đẹp giản dị, không hẳn là một tập thơ có hình thức lý tưởng (mà phải đòi hỏi nhiều tốn kém), nhưng đã là một tập thơ rất thơ. Trang nhã. Quyến rũ. Trái Tim Còn Lại do Quế Sơn xuất bản, phát hành tháng 9 năm 1971.
Trước đây tôi đã có nhiều dịp đọc Hoàng Lộc rải rác trên nhiều tạp chí, đã có lòng mến mộ vì những bài thơ tình thơ mộng rất học trò rất kiều diễm, nhưng cho tới bây giờ mới được đọc Ông với nguyên một tác phẩm được in ra. TRÁI TIM CÒN LẠI dầu chưa có thể cho tôi biết rõ được con đường dài đang tới trong dòng sáng tác của Ông- nhưng qua hai mươi tám bài thơ bày tỏ như một tâm sư liên tục; tôi đã nhìn thấy được mối suy tưởng đã qua và hiện có - thể hiện trong thơ ông : Cái nhan “Trái Tim Còn Lại” trước hết cho tôi hình dung được một hình ảnh ngời sáng sau cùng thực đáng lưu ý để từ đó bước dần vào thơ Ông theo nguồn xúc cảm mới. Dĩ nhiên là có nhiều ngã đường dẫn vào thế giới thơ Hoàng Lộc, có nhiều khía cạnh của mỗi giòng thơ được viết ra, nhưng ở đây, phạm vi bài này, tôi xin đề cập tới một tiêu đề, theo tôi, đó là một điểm tựa chính yếu (ít nhất là cho tập thơ này) : Trái Tim. Hy vọng rằng, trong một bài khác, tôi có thể sẽ nói tới Ông như là một nhà thơ tuyệt vời nhất của một cõi Tình yêu đầy mộng. “Áo trắng nõn nà chiều tan học / Nên mấy phong trần cũng thấy vui” – (Ngày Về Phép Cuối ở Hội An, tr 72.) (…). Vào đầu tập thơ, Ông đã cho trích hai câu thơ của bài “Qua Những Chặng Thăng Trầm” (tr.53):
Tôi còn lại trái tim người biết khóc,
Xin giữ làm kỷ niệm giữa hư vô.
Trài Tim, một báu vật thực linh thiêng của đời người, nó là biểu tượng của Tình yêu, của rung động, của lòng thành, của giá trị còn lại của con người. Trái Tim đã được Hoàng Lộc nói tới khá nhiều trong thơ Ông, như một nhắc nhở, phơi bày, tâm sự với mọi người một cách hết sức tha thiết. Trước hết, với một người yêu nào đó (ở Hội An, Vĩnh Điện hay Chánh Hưng?):
Anh còn trái tim còn màu da vàng
Em còn Tình yêu với bờ tóc chết
(Đầu Năm Cho Tình Yêu – tr.11)
Nhưng “Trái Tim Còn Lại” của Hoàng Lộc không là một trái tim hồng tươi, tim hy vọng, tim hạnh phúc: Đó là một trái tim đã héo, đã chai, đã rạn vỡ vì quá nhiều đau xót can qua. Ông đã viết như là một luyến tiếc ngậm ngùi cho một người tình (Có thể coi là một lời nhắn gửi cuối ?):
Hỡi con chim xưa lạc loài bé nhỏ
Đường tim hồng hãy soãi cánh cho nhanh
(Trời Xưa Cũ – tr.22)
Trái tim hồng son phơi phới mầm hy vọng kia đã có một thời che chở người thơ như là một hầm trú kiên cố nhất. Tim ru nồng tình người – Tim che chở bom đạn thù hận :
Em dẫn anh về thành phố
Bằng trái tim giận hờn
Làm nơi trốn pháo kích
(Ngoại Ô – tr.41)
Tâm sự của Ông bày tỏ một cách thật đầy đủ, thật bùi ngùi trong “Lần Hành Quân Trở Về” (tr.75). Sau một cuộc chém giết, sau những giờ phút xao động vì máu lửa bịt bùng, quay trở lại với sự chiến thắng ảo não đã khiến Ông cảm nhận rõ ràng sự lạc lõng ngơ ngác của đời mình trong thù hận. Ông đã thố lộ :
Muốn hỏi em lời buồn không hỏi được
Nên buổi chiều chiến thắng cũng sầu bi
Anh bé nhỏ như một loài ngựa lạc
Trái tim khô se sắt buổi quay về
(Lần Hành Quân Trở Về - 75)
Và đã nghĩ tới một ngày mai vô cùng ảm đảm :
Một ngày mai quỷ dữ
Ngự xuống từng con tim
Anh sẽ vào tu viện
Để muôn đời quên em
(Tiên Đoán – tr.62)
Sự “tiên đoán” của Hoàng Lộc không có gì lạ lùng để ngạc nhiên bởi vì đã nhiều lần Ông bày tỏ nỗi lòng (qua trái tim) là một hình ảnh tan vỡ, thất lạc, héo hắt tuyệt vọng cùng cực : “Anh còn lại trái tim người biết khóc / Xin giữ làm kỷ niệm giữa hư vô”. Trái tim được gửi vào cõi vô tận, hư ảo, vụn vỡ chơi vơi như mây gió. Có còn một số kiếp nào khác để trái tim được tươi hồng trở lại? Với người yêu ? Với bè bạn ? Với người thân? Với quê hương? Đó là một câu hỏi tắt nghẽn trong sự lạc loài cô độc giữa cõi chết trùng trùng; đây là một cảm tưởng tiêu biểu của Ông (nói với người yêu nào đó ở Chánh Hưng?):
Mắt ta mờ mịt luân hồi
Trái tim đã vỡ cuối thời phân tranh
Về nghe lá đổ vai mình
Thương con phố lạ đôi cành bóng xiêu
Này anh phận mỏng tay nghèo
Ngó đi em để xế chiếu nhớ nhau
(Khi Ghé Chánh Hưng – tr.25)
Hay :
Muốn vứt chuyện phân tranh ngoài tầm trí nhớ
Vẫn hằn trong tim những vết thương thầm
(Ơi Hoang Đường Ta – tr.26)
Tình yêu là một nơi chốn vừa quyến rũ vừa gợi nhiều nỗi tâm sự, bởi thế Hoàng Lộc đã qua người yêu, nói hết được những xúc cảm chân thực của tim Ông. Về chiến tranh. Về thù hận. Về số phận. Về tương lai. Về quê hương , v.v… Phải chăng chỉ có tiếng nói thì thầm rung động đó mới là tiếng nói thực của tim người ? Tôi đã tìm hiểu được dòng tư tưởng Hoàng Lộc nhờ những dòng bày tỏ tha thiết tràn đầy xúc cảm đó. Tuy vậy, chúng ta cũng có thể tìm thấy một vài nhắc nhở, tâm sự về cuộc đời ông qua ảnh hình của người thân, cha và mẹ :
Tim đọng lời di chúc
Của người cha chết oan
Một chiều bên núi đá
Hy vọng nào cho con
Đời sau còn tiếp nối?
Ngồi trong vùng nước độc
Nhớ mẹ hiền quê nhà
Chiếc rìu trên tay nhỏ
Có mong gì tương lai
Khi còng lưng tuổi trẻ
(Vì Mê Đi Tìm Trầm – tr.31)
Trái Tim Còn Lại là tập thơ đã được trao giải thi ca Văn Bút Việt Nam năm 1970 của Hoàng Lộc – một nhà thơ trẻ. Tác giả là một nhà thơ quen thuộc của các tạp chí Bách Khoa, Văn, Văn học, Khởi Hành (…) Thi phẩm in dày 80 trang, gồm 28 bài thơ, đủ các thể loại (bảy chữ, lục bát, năm chữ, tự do và tám chữ). Bìa in ba màu (màu tím, xanh biển và đen) do họa sĩ Trịnh Cung vẽ, và hai phụ bản thật dễ thương của Lê Chánh. Tóm lại, phần trình bày của tập thơ có một nét đẹp giản dị, không hẳn là một tập thơ có hình thức lý tưởng (mà phải đòi hỏi nhiều tốn kém), nhưng đã là một tập thơ rất thơ. Trang nhã. Quyến rũ. Trái Tim Còn Lại do Quế Sơn xuất bản, phát hành tháng 9 năm 1971.
Trước đây tôi đã có nhiều dịp đọc Hoàng Lộc rải rác trên nhiều tạp chí, đã có lòng mến mộ vì những bài thơ tình thơ mộng rất học trò rất kiều diễm, nhưng cho tới bây giờ mới được đọc Ông với nguyên một tác phẩm được in ra. TRÁI TIM CÒN LẠI dầu chưa có thể cho tôi biết rõ được con đường dài đang tới trong dòng sáng tác của Ông- nhưng qua hai mươi tám bài thơ bày tỏ như một tâm sư liên tục; tôi đã nhìn thấy được mối suy tưởng đã qua và hiện có - thể hiện trong thơ ông : Cái nhan “Trái Tim Còn Lại” trước hết cho tôi hình dung được một hình ảnh ngời sáng sau cùng thực đáng lưu ý để từ đó bước dần vào thơ Ông theo nguồn xúc cảm mới. Dĩ nhiên là có nhiều ngã đường dẫn vào thế giới thơ Hoàng Lộc, có nhiều khía cạnh của mỗi giòng thơ được viết ra, nhưng ở đây, phạm vi bài này, tôi xin đề cập tới một tiêu đề, theo tôi, đó là một điểm tựa chính yếu (ít nhất là cho tập thơ này) : Trái Tim. Hy vọng rằng, trong một bài khác, tôi có thể sẽ nói tới Ông như là một nhà thơ tuyệt vời nhất của một cõi Tình yêu đầy mộng. “Áo trắng nõn nà chiều tan học / Nên mấy phong trần cũng thấy vui” – (Ngày Về Phép Cuối ở Hội An, tr 72.) (…). Vào đầu tập thơ, Ông đã cho trích hai câu thơ của bài “Qua Những Chặng Thăng Trầm” (tr.53):
Tôi còn lại trái tim người biết khóc,
Xin giữ làm kỷ niệm giữa hư vô.
Trài Tim, một báu vật thực linh thiêng của đời người, nó là biểu tượng của Tình yêu, của rung động, của lòng thành, của giá trị còn lại của con người. Trái Tim đã được Hoàng Lộc nói tới khá nhiều trong thơ Ông, như một nhắc nhở, phơi bày, tâm sự với mọi người một cách hết sức tha thiết. Trước hết, với một người yêu nào đó (ở Hội An, Vĩnh Điện hay Chánh Hưng?):
Anh còn trái tim còn màu da vàng
Em còn Tình yêu với bờ tóc chết
(Đầu Năm Cho Tình Yêu – tr.11)
Nhưng “Trái Tim Còn Lại” của Hoàng Lộc không là một trái tim hồng tươi, tim hy vọng, tim hạnh phúc: Đó là một trái tim đã héo, đã chai, đã rạn vỡ vì quá nhiều đau xót can qua. Ông đã viết như là một luyến tiếc ngậm ngùi cho một người tình (Có thể coi là một lời nhắn gửi cuối ?):
Hỡi con chim xưa lạc loài bé nhỏ
Đường tim hồng hãy soãi cánh cho nhanh
(Trời Xưa Cũ – tr.22)
Trái tim hồng son phơi phới mầm hy vọng kia đã có một thời che chở người thơ như là một hầm trú kiên cố nhất. Tim ru nồng tình người – Tim che chở bom đạn thù hận :
Em dẫn anh về thành phố
Bằng trái tim giận hờn
Làm nơi trốn pháo kích
(Ngoại Ô – tr.41)
Tâm sự của Ông bày tỏ một cách thật đầy đủ, thật bùi ngùi trong “Lần Hành Quân Trở Về” (tr.75). Sau một cuộc chém giết, sau những giờ phút xao động vì máu lửa bịt bùng, quay trở lại với sự chiến thắng ảo não đã khiến Ông cảm nhận rõ ràng sự lạc lõng ngơ ngác của đời mình trong thù hận. Ông đã thố lộ :
Muốn hỏi em lời buồn không hỏi được
Nên buổi chiều chiến thắng cũng sầu bi
Anh bé nhỏ như một loài ngựa lạc
Trái tim khô se sắt buổi quay về
(Lần Hành Quân Trở Về - 75)
Và đã nghĩ tới một ngày mai vô cùng ảm đảm :
Một ngày mai quỷ dữ
Ngự xuống từng con tim
Anh sẽ vào tu viện
Để muôn đời quên em
(Tiên Đoán – tr.62)
Sự “tiên đoán” của Hoàng Lộc không có gì lạ lùng để ngạc nhiên bởi vì đã nhiều lần Ông bày tỏ nỗi lòng (qua trái tim) là một hình ảnh tan vỡ, thất lạc, héo hắt tuyệt vọng cùng cực : “Anh còn lại trái tim người biết khóc / Xin giữ làm kỷ niệm giữa hư vô”. Trái tim được gửi vào cõi vô tận, hư ảo, vụn vỡ chơi vơi như mây gió. Có còn một số kiếp nào khác để trái tim được tươi hồng trở lại? Với người yêu ? Với bè bạn ? Với người thân? Với quê hương? Đó là một câu hỏi tắt nghẽn trong sự lạc loài cô độc giữa cõi chết trùng trùng; đây là một cảm tưởng tiêu biểu của Ông (nói với người yêu nào đó ở Chánh Hưng?):
Mắt ta mờ mịt luân hồi
Trái tim đã vỡ cuối thời phân tranh
Về nghe lá đổ vai mình
Thương con phố lạ đôi cành bóng xiêu
Này anh phận mỏng tay nghèo
Ngó đi em để xế chiếu nhớ nhau
(Khi Ghé Chánh Hưng – tr.25)
Hay :
Muốn vứt chuyện phân tranh ngoài tầm trí nhớ
Vẫn hằn trong tim những vết thương thầm
(Ơi Hoang Đường Ta – tr.26)
Tình yêu là một nơi chốn vừa quyến rũ vừa gợi nhiều nỗi tâm sự, bởi thế Hoàng Lộc đã qua người yêu, nói hết được những xúc cảm chân thực của tim Ông. Về chiến tranh. Về thù hận. Về số phận. Về tương lai. Về quê hương , v.v… Phải chăng chỉ có tiếng nói thì thầm rung động đó mới là tiếng nói thực của tim người ? Tôi đã tìm hiểu được dòng tư tưởng Hoàng Lộc nhờ những dòng bày tỏ tha thiết tràn đầy xúc cảm đó. Tuy vậy, chúng ta cũng có thể tìm thấy một vài nhắc nhở, tâm sự về cuộc đời ông qua ảnh hình của người thân, cha và mẹ :
Tim đọng lời di chúc
Của người cha chết oan
Một chiều bên núi đá
Hy vọng nào cho con
Đời sau còn tiếp nối?
Ngồi trong vùng nước độc
Nhớ mẹ hiền quê nhà
Chiếc rìu trên tay nhỏ
Có mong gì tương lai
Khi còng lưng tuổi trẻ
(Vì Mê Đi Tìm Trầm – tr.31)
Một nơi chốn, theo tôi, cũng ngọt ngào tươi mát như Tình yêu mà cũng là nơi dễ gợi nhiều tâm sự nhất đó là tình bằng hữu. Ở trong mối tình này, Hoàng Lộc cũng có những phát biểu như cùng một tâm sự, một dòng nước cùng nguồn để nói về đời sống, hy vọng, tương lai :
Nỗi hy vọng anh em
Chảy ngang dòng máu đỏ
Tôi đập vào bóng đêm
Bằng con tim phẫn nộ
Vui đã nhiều hoan hô
Buồn cũng rồi đả đảo
Giờ chúng tôi vẫn ngồi
Giữa dòng dây kẽm đó .
(Nhớ Một Thuở Cầm Cờ - tr.50)
Và cũng chính vì thế mà :
Xứ sở đó sắt se hồn dân tộc
Phượng hoàng kia ngoảnh cổ gáy mơ hồ
Tôi còn lại trái tim người biết khóc
Xin giữ làm kỷ niệm giữa hư vô.
Như đã trình bày ngay từ lúc đầu, tôi chỉ mới đề cập “Trài Tim Còn Lại” với một khía cạnh được giải tỏ của tác giả ; tuy vậy đọc hết tất cả những giòng thơ trong toàn tập, tôi có thể kết luận : thi cảm của Ông là một giòng nước lớn, trong, và tươi mát. Một giòng nước chảy rất chậm, rất êm ái qua hồn người, nhưng đã để lại vô cùng xao động, mênh mang, và lâu bền. Thơ trước tiên là một niềm xúc cảm mạnh mẽ, Hoàng Lộc đã viết ra mỗi dòng thơ đều bay thoát từ cái cảm xúc nồng nàn đó nên Ông đã truyền thấu được người đọc nhiều rung cảm như Ông. Ông thành công nhất ở thơ bảy và tám chữ. Thơ lục bát của Ông cũng là những thi cảm thi âm lạ, vì thế nó không nhập nhòa trùng hợp dễ gây nản chán như những bài thơ chỉ là một sự ghép chữ không hơn không kém khác mà tôi đã có dịp đọc. Tiếp tục cái đà khám phá, xây đắp xúc cảm cho tuyệt đỉnh, thơ Ông là những rung chuyển mạnh cho thế giới thơ hôm nay. Tôi cũng tìm thấy niềm hy vọng đó ở những người thơ như Luân Hoán, Trần Huiền Ân, Lâm Chương, Hà Nguyên Thạch, Hoàng Đình Huy Quan, Vũ Hữu Định, Hà Thúc Sinh, Mường Mán, Lâm Hảo Dũng, Phạm Cao Hoàng, v.v… Ngày nay, có thể nói thơ đã được nhiều người viết (hay thở) nhưng thơ không thể là một gán ghép, thu xếp bằng chữ nghĩa trống không mà nghe rất sang sảng. Rất triết lý chắp vá kỳ quặt. Thơ phải là một đời sống luôn trôi chảy, mải miết rung chuyển, vô cùng gần gũi với tâm hồn chớ không là mớ ngôn từ cóp nhặt giả trá để lừa đảo chính mình và người đọc. Đọc “Trái Tim Còn Lại” của Hoàng Lộc, tôi rất hy vọng. Tôi muốn được truyền niềm hân hoan tin tưởng này tới tất cả. Hôm nay./.
Tuy Hòa, tháng 3.1972
Nỗi hy vọng anh em
Chảy ngang dòng máu đỏ
Tôi đập vào bóng đêm
Bằng con tim phẫn nộ
Vui đã nhiều hoan hô
Buồn cũng rồi đả đảo
Giờ chúng tôi vẫn ngồi
Giữa dòng dây kẽm đó .
(Nhớ Một Thuở Cầm Cờ - tr.50)
Và cũng chính vì thế mà :
Xứ sở đó sắt se hồn dân tộc
Phượng hoàng kia ngoảnh cổ gáy mơ hồ
Tôi còn lại trái tim người biết khóc
Xin giữ làm kỷ niệm giữa hư vô.
Như đã trình bày ngay từ lúc đầu, tôi chỉ mới đề cập “Trài Tim Còn Lại” với một khía cạnh được giải tỏ của tác giả ; tuy vậy đọc hết tất cả những giòng thơ trong toàn tập, tôi có thể kết luận : thi cảm của Ông là một giòng nước lớn, trong, và tươi mát. Một giòng nước chảy rất chậm, rất êm ái qua hồn người, nhưng đã để lại vô cùng xao động, mênh mang, và lâu bền. Thơ trước tiên là một niềm xúc cảm mạnh mẽ, Hoàng Lộc đã viết ra mỗi dòng thơ đều bay thoát từ cái cảm xúc nồng nàn đó nên Ông đã truyền thấu được người đọc nhiều rung cảm như Ông. Ông thành công nhất ở thơ bảy và tám chữ. Thơ lục bát của Ông cũng là những thi cảm thi âm lạ, vì thế nó không nhập nhòa trùng hợp dễ gây nản chán như những bài thơ chỉ là một sự ghép chữ không hơn không kém khác mà tôi đã có dịp đọc. Tiếp tục cái đà khám phá, xây đắp xúc cảm cho tuyệt đỉnh, thơ Ông là những rung chuyển mạnh cho thế giới thơ hôm nay. Tôi cũng tìm thấy niềm hy vọng đó ở những người thơ như Luân Hoán, Trần Huiền Ân, Lâm Chương, Hà Nguyên Thạch, Hoàng Đình Huy Quan, Vũ Hữu Định, Hà Thúc Sinh, Mường Mán, Lâm Hảo Dũng, Phạm Cao Hoàng, v.v… Ngày nay, có thể nói thơ đã được nhiều người viết (hay thở) nhưng thơ không thể là một gán ghép, thu xếp bằng chữ nghĩa trống không mà nghe rất sang sảng. Rất triết lý chắp vá kỳ quặt. Thơ phải là một đời sống luôn trôi chảy, mải miết rung chuyển, vô cùng gần gũi với tâm hồn chớ không là mớ ngôn từ cóp nhặt giả trá để lừa đảo chính mình và người đọc. Đọc “Trái Tim Còn Lại” của Hoàng Lộc, tôi rất hy vọng. Tôi muốn được truyền niềm hân hoan tin tưởng này tới tất cả. Hôm nay./.
Tuy Hòa, tháng 3.1972
8. QUÊ NGOẠI
Quê Ngoại tôi ở Cẩm Nam …
Quê Ngoại tôi ở Cẩm Nam …
Ngày xưa khi còn bé, mỗi lần được Mẹ cho cùng về quê Ngoại, ôi thôi sung sướng lắm, suốt cả đêm trước đó không tài nào chợp mắt được!
Khi đó chưa có cây cầu như bây chừ … ra bến đò Bạch Đằng, đi đò để sang bờ bên kia … chòng chành, chòng chành … nhưng không hiểu sao lúc đó tôi chẳng thấy sợ (mặc dầu những lần đầu chưa biết bơi). Lần nào cũng vậy, tôi luôn đòi được ngồi bên mép đò để đưa một bàn tay xuống làn nước trong xanh … khi con đò lướt về trước, những tia nước bắn lên tung toé, đôi lúc ướt cả áo quần … thích quá đi mất!
… Đò cập bến, là thôn một, mà nhà Ngoại tôi ở tận dưới thôn ba, phải đi bộ xa lắm, thế mà chẳng thấy mệt tí nào cả … “Cô Bảy mới dzề đó hả?” Câu hỏi này có thể nghe đến cả hàng trăm lần trên đoạn đường từ bến đò về nhà Ngoại … Đúng là vùng quê Việt Nam! … Dường như bà con hàng xóm, họ cũng tự hào rằng có người con gái xứ quê mình về làm dâu bên Phố! Ba tôi khi đó cũng thuộc diện “con cưng, con nhà kha khá” của ông Nội tôi.
Ông Ngoại đã mất từ khi nào tôi cũng không biết, còn Bà thì lúc nào cũng vậy, chiếc áo bà ba ngắn tay, tóc trắng xoá được cắt theo kiểu “ca rê ba phân”, miệng luôn nhỏm nhẻm nhai trầu … “con bảy dzề đó hả, có đứa mô dzề theo đông không?” … Chạy u vô khi vừa đến ngõ, chùi đầu vào trong lòng Bà … những lúc Bà nói, nhất là khi cười mãn nguyện vì có con cháu bên Phố về xúm xít bên mình … nước trầu đỏ thắm văng lên cả tóc tai, áo quần của mình …
… Thường thì trong dịp Tết tôi mới được ở lại qua đêm, Mẹ tôi thì quanh năm buôn bán, đây là lúc người được chơi bài chòi ở cây đa gần nhà Ngoại … đêm đến thì không có điện mà sao lại thích thú với cái cảnh đèn dầu, và thêm vào đó lại là “Nhất Quận Công - Nhì ỉa đồng!”. Chỉ có về quê mới được … sướng nhì đấy chứ!
Nhà Cậu tôi cách nhà Ngoại gần lắm và ở mé sông … và cũng từ đây tôi lại được học bơi, một trong những lý do không chợp mắt được khi được biết ngày mai sẽ về với Ngoại … bì bà bì bỏm … uống no cả đầy bụng nước của dòng sông quê nhà … và nhờ thế mà lớn khôn đến ngày hôm nay!
… Thường thì trong dịp Tết tôi mới được ở lại qua đêm, Mẹ tôi thì quanh năm buôn bán, đây là lúc người được chơi bài chòi ở cây đa gần nhà Ngoại … đêm đến thì không có điện mà sao lại thích thú với cái cảnh đèn dầu, và thêm vào đó lại là “Nhất Quận Công - Nhì ỉa đồng!”. Chỉ có về quê mới được … sướng nhì đấy chứ!
Nhà Cậu tôi cách nhà Ngoại gần lắm và ở mé sông … và cũng từ đây tôi lại được học bơi, một trong những lý do không chợp mắt được khi được biết ngày mai sẽ về với Ngoại … bì bà bì bỏm … uống no cả đầy bụng nước của dòng sông quê nhà … và nhờ thế mà lớn khôn đến ngày hôm nay!
Những bữa cơm nhà Ngoại không thể thiếu được món đặc sản, bữa sáng thì hến được ăn cùng với bánh tráng dày bẻ nhỏ, ngon nhất là loại bánh tráng gạo lứt có màu nâu đỏ nhạt; hến cùng với nước hến được hâm lên cho thật nóng … cắn kèm với ớt trái xanh thật cay! Trưa và chiều tối, hến xào xúc với bánh tráng nướng, hoặc hến và nước được nấu chung với rau muống xắt nhỏ … hoặc với bí ngô đỏ … chỉ còn biết ngồi một chỗ mà thở ra sau khi ăn do cái bụng căng cứng!
… Và rồi đến một lúc, lính Công Binh về làm chiếc cầu bắc qua dòng sông Hoài quê tôi, thoạt nghe ai cũng lấy làm mừng rỡ lắm, đương nhiên là trong đó có cả tôi, như vậy mình sẽ thường xuyên được về thăm Ngoại hơn … nhưng đến lúc cầu xây xong … thì Ngoại cũng đã qua đời!
Đi bằng xe đạp, rồi bằng xe máy trên cầu … dần dần quê Ngoại của tôi cũng “bê tông hoá” … mỗi lần về quê … những ngày thơ ấu lại ùa về bóp nghẹt lấy lồng ngực mình!
Một lần trở về khi tóc đã điểm bạc!
Một người em!
Tranvanlanchau
Tranvanlanchau
7. best banh mi in Vietnam
(Nguyễn Diệu Sưu Tầm, đọc cho vui).
Gõ Google tìm “best banh mi in Vietnam” (bánh mì ngon nhất ở Việt Nam) và câu trả lời bạn nhận được khá bất ngờ: bánh mì Phượng ở Hội An. Nếu tin vào sự khẳng định ấy, bạn hãy thử tìm đến tiệm bánh mì khiêm tốn ở gần cầu Cẩm Nam, vốn đã được đưa lên bản đồ du lịch thế giới kể từ khi đầu bếp danh tiếng Anthony Bourdain đi ngang qua đây, nếm thử và hết lời ca ngợi món ăn bình dân này. Bạn sẽ thấy ở tiệm có những xưng tụng còn ghê gớm hơn của nhiều du khách đối với bánh mì Phượng, chẳng hạn “Từ Úc/ Anh/ Phần Lan…, bằng mọi giá tôi đã đi đến đây chỉ để ăn món này”. Liệu Anthony Bourdain cũng như nhiều du khách nước ngoài có quá lời không? Bạn hãy thử ăn bánh mì Phượng rồi tự tìm câu trả lời. Bánh mì ngon nhất Việt Nam là đây
Có điều cô Phượng chủ tiệm đã phục vụ món bánh mì “xuất sắc nhất” theo lời Caroline Mills, phóng viên của tạp chí du lịch online Travelfish, cho người Hội An, và có lẽ cho toàn thế giới, suốt hơn 20 năm qua. Đều đặn mỗi ngày cô dậy sớm, chuẩn bị làm các thứ để nhồi vào bánh mì: đó là thịt heo xá xíu khi nhai như tan ra trong khẩu cái, patê và jambon ngon ở mức độ tuyệt hảo. Rồi một thứ nước xốt nhà làm bí ẩn khiến vị giác của bạn như reo lên trong niềm hân hoan!Thật khó để diễn tả đến tận cùng sự khoái khẩu khi nhai từng miếng bánh mì của tiệm Phượng, điều mà Anthony Bourdain mô tả như là “bản hòa âm trong miếng bánh sandwich” (a symphony in a sandwich) nhưng đây không phải là sandwich mà là “loại bánh mì đã phổ thông khắp thế giới như tất cả chúng ta đã được biết” (Caroline Mills).Muốn biết bánh mì Phượng ngon cỡ nào, nói như Caroline Mills, chỉ cần tưởng tượng đến một món ngon nào đó bạn đã từng nếm trải rồi nhân lên 100 lần sự khoái khẩu với món ấy thì ra ngay! Và câu chuyện về cô Phượng không chỉ dừng lại ở một món ăn gây cảm hứng sâu rộng mà cô bán hằng ngày.
Có điều cô Phượng chủ tiệm đã phục vụ món bánh mì “xuất sắc nhất” theo lời Caroline Mills, phóng viên của tạp chí du lịch online Travelfish, cho người Hội An, và có lẽ cho toàn thế giới, suốt hơn 20 năm qua. Đều đặn mỗi ngày cô dậy sớm, chuẩn bị làm các thứ để nhồi vào bánh mì: đó là thịt heo xá xíu khi nhai như tan ra trong khẩu cái, patê và jambon ngon ở mức độ tuyệt hảo. Rồi một thứ nước xốt nhà làm bí ẩn khiến vị giác của bạn như reo lên trong niềm hân hoan!Thật khó để diễn tả đến tận cùng sự khoái khẩu khi nhai từng miếng bánh mì của tiệm Phượng, điều mà Anthony Bourdain mô tả như là “bản hòa âm trong miếng bánh sandwich” (a symphony in a sandwich) nhưng đây không phải là sandwich mà là “loại bánh mì đã phổ thông khắp thế giới như tất cả chúng ta đã được biết” (Caroline Mills).Muốn biết bánh mì Phượng ngon cỡ nào, nói như Caroline Mills, chỉ cần tưởng tượng đến một món ngon nào đó bạn đã từng nếm trải rồi nhân lên 100 lần sự khoái khẩu với món ấy thì ra ngay! Và câu chuyện về cô Phượng không chỉ dừng lại ở một món ăn gây cảm hứng sâu rộng mà cô bán hằng ngày.
Tiệm bánh mì Phượng luôn đông khách, cả dân địa phương lẫn du khách năm châu Tiệm bánh nhỏ của cô đã ra đời từ trước đổi mới ở Việt Nam, khi đất nước này lần đầu mở cửa đón du khách nước ngoài. Hội An khi đó vẫn chưa phục hồi do hậu quả chiến tranh để lại, đa số người dân phố cổ còn nghèo khổ và chẳng có mấy hàng quán, chỉ có những người bán rong các món ăn trên phố. Khi đó Phượng tìm được một địa điểm trong khu chợ cổ để mở tiệm bán bánh mì. Mỗi ngày cô dậy lúc 3g sáng để chuẩn bị món thịt heo xá xíu và các phụ gia khác, sẵn sàng phục vụ cho những người khách đầu tiên đến mua; trong khi cô em gái của Phượng nướng bánh mì lại cho giòn và những mẻ bánh được nướng nóng, kẹp nhân thịt, patê, đồ chua… như vậy được bán suốt ngày. Chẳng mấy chốc, tiệm bánh mì Phượng trở thành một trong những điểm bán hàng ăn đông khách nhất của Hội An. Nhiều năm qua tiệm bánh mì Phượng vẫn không có gì thay đổi Điều lạ nhất về tiệm bánh mì Phượng ở chỗ nó hầu như chẳng thay đổi gì mấy so với những ngày đầu mới mở cách đây đã hơn 20 năm. Cô chủ vẫn đứng bán dưới mái hiên lợp tôn của cửa tiệm là một ngôi nhà gỗ nhỏ trên đường Hoàng Diệu.
Các loại bánh mì được bán và thời điểm mở cửa tiệm vẫn là 3g sáng vẫn như thế sau bao năm tháng. Có chăng một chút thay đổi là bánh mì cung cấp cho tiệm của cô đến từ một lò bánh ở góc phố, và ngoài cô em gái còn có bốn thành viên khác trong gia đình phụ giúp Phượng theo ca, bởi tiệm Phượng bây giờ đã quá nổi tiếng, khách mua đông thế mà không ai phải chờ đợi lâu bởi có một dây chuyền cung cấp bánh mì hợp lý, chỉ sau vài giây là khách đã nhận được món ăn còn nóng hổi! “Tôi đã đi bao dặm đường đến đây để ăn bánh mì Hội An” (du khách Chris Conway) Bạn sẽ order thứ gì khi đến tiệm bánh mì Phượng? Dù nay ở đây đã có mặt hàng mới là hamburger thịt heo rất ngon, nhưng sản phẩm “truyền thống” vẫn được ưa chuộng nhất là bánh mì kẹp thịt heo, rau thơm, salad và thứ nước xốt huyền hoặc chỉ có ở đây. Một ổ giá chỉ 15.000 đồng. Nếu bắt chước Anthony Bourdain gọi một ổ “bánh mì deluxe” thì cô chủ quán sẽ đặt lên trên lớp nhân một quả trứng chiên giòn rụm và khi đó giá ổ bánh là 20.000 đồng.Nếu bạn ăn chay mà vẫn muốn thưởng thức bánh mì Phượng thì sao? Có chứ: một ổ bánh mì ốp-la ngon lạ thường dành cho người ăn chay với giá chỉ 10.000 đồng. “Sẽ phải ăn thêm một ổ!” Điều cuối cùng bạn cần nhớ: dù bánh mì là loại thức ăn mua mang về nhưng ở tiệm của Phượng luôn có một cái bàn nhỏ và vài cái ghế nhựa. Nếu bàn còn trống chỗ, bạn hãy ngồi xuống và gọi món để ăn tại chỗ. Sẽ rất thú vị khi ngồi ăn bánh mì Phượng tại chỗ và bạn sẽ chẳng cần di chuyển nếu như muốn gọi thêm một ổ bánh nữa! Trang web du lịch TripAdvisor xếp hạng tiệm bánh mì Phượng thứ 15 trong số 227 điểm ẩm thực được xếp hạng ở Hội An. Còn đây là vài đánh giá của du khách nước ngoài trên TripAdvisor:
Bánh mì bậc thầy “Ngồi trên hè phố với dân địa phương ở tiệm bánh mì Phượng, và thử ăn loại sandwich truyền thống này của người Việt với giá chỉ 20.000 đồng VN – có thể bạn chưa bao giờ thưởng thức một thứ gì ngon hơn. Một chiếc bánh mì baguette nóng giòn, bên trong ruột mềm mại và chứa đầy những thứ tươi rói, để hợp thành một bản hòa tấu trong vị giác của bạn. Tiệm bánh mì Phượng trên đường Hoàng Diệu – chỉ có mù mới bỏ qua nó! Chỉ cần nhìn dãy người – cả du khách và dân địa phương – xếp hàng ở đó thì biết”. - lightningboy (Surrey, Canada) Bạn sẽ không chỉ ăn một lần “Tiệm bánh mì này có khuynh hướng trở thành một điểm bạn ‘phải trải nghiệm’ khi đến với Hội An. Tôi đã làm thế và tất cả những gì tôi có thể nói là: một trong những loại bánh mì ngon nhất tôi đã từng ăn bán ở đây”. - SydAstroboy (Sydney, Úc) Bánh mì ngon nhất ở Việt Nam? Đúng thế!! “Bạn có thể ăn bánh mì ở mọi nơi tại Việt Nam, nhưng chỉ nói về phẩm chất của các thành phần trong ổ bánh mì thì bánh mì ở tiệm Phượng có khả năng là xuất sắc nhất trên toàn bộ đất nước này”. - Lennycakes (Washington DC, Mỹ)
Xem bang tieng Anh, co Slide. link:
http://www.priceoftravel.com/201/the-best-vietnamese-banh-mi-sandwich-in-the-world/
Bánh mì bậc thầy “Ngồi trên hè phố với dân địa phương ở tiệm bánh mì Phượng, và thử ăn loại sandwich truyền thống này của người Việt với giá chỉ 20.000 đồng VN – có thể bạn chưa bao giờ thưởng thức một thứ gì ngon hơn. Một chiếc bánh mì baguette nóng giòn, bên trong ruột mềm mại và chứa đầy những thứ tươi rói, để hợp thành một bản hòa tấu trong vị giác của bạn. Tiệm bánh mì Phượng trên đường Hoàng Diệu – chỉ có mù mới bỏ qua nó! Chỉ cần nhìn dãy người – cả du khách và dân địa phương – xếp hàng ở đó thì biết”. - lightningboy (Surrey, Canada) Bạn sẽ không chỉ ăn một lần “Tiệm bánh mì này có khuynh hướng trở thành một điểm bạn ‘phải trải nghiệm’ khi đến với Hội An. Tôi đã làm thế và tất cả những gì tôi có thể nói là: một trong những loại bánh mì ngon nhất tôi đã từng ăn bán ở đây”. - SydAstroboy (Sydney, Úc) Bánh mì ngon nhất ở Việt Nam? Đúng thế!! “Bạn có thể ăn bánh mì ở mọi nơi tại Việt Nam, nhưng chỉ nói về phẩm chất của các thành phần trong ổ bánh mì thì bánh mì ở tiệm Phượng có khả năng là xuất sắc nhất trên toàn bộ đất nước này”. - Lennycakes (Washington DC, Mỹ)
Xem bang tieng Anh, co Slide. link:
http://www.priceoftravel.com/201/the-best-vietnamese-banh-mi-sandwich-in-the-world/
6. NGÀY TRỞ VỀ
Tuy hiện ở Đà Nẵng, cách phố cổ không bao xa, nhưng mỗi lần về Hội An lại là một lần có công chuyện gì đó, phần lớn là chuyện gia đình.
Lần này cũng vậy, về đám giỗ cho Ba Má tôi, nhưng trong tôi đã có sẵn một “chương trình” nên về khá sớm …
Tuy hiện ở Đà Nẵng, cách phố cổ không bao xa, nhưng mỗi lần về Hội An lại là một lần có công chuyện gì đó, phần lớn là chuyện gia đình.
Lần này cũng vậy, về đám giỗ cho Ba Má tôi, nhưng trong tôi đã có sẵn một “chương trình” nên về khá sớm …
Bánh phở “một nắng” dai dai sựt sựt, những lát bò tái thật mềm, bỏ thêm một ít tương cà, một ít sa tế, ăn kèm với đu đủ dầm vừa đủ chua và mấy cọng rau thơm … đó là tất cả những gì của tô phở Liến mà không thể nào không ghé mỗi khi có dịp về quê …
Và sau khi uống cà phê tại góc ngã tư đối diện “Tiểu Khu” cũ … tôi lẩn thẩn đi men theo con đường cũ trở về mái trường xưa..
Dọc đường những chiếc lá bàng đổi sắc đỏ trên cao, từng đoàn khách du lịch rảo bước … như càng thúc giục lòng người…
Trước đây có thông tin là ngôi trường này sẽ bị đổi tên và trở thành trường “chuyên của Tỉnh” … thật xót xa! Nhưng nay đã rõ, người ta đang xây một ngôi trường “chuyên” mới và tạm đặt “trụ sở ”tại ngôi trường cũ của tôi …
Sáng chủ nhật, sân trường thật vắng lặng, những tia nắng ấm đầu Xuân tràn ngập sân trường và xuyên qua từng kẽ lá … Các cổng trường đều được khoá kỹ … leo trèo tường rào … ồ may quá! Thấy “Bác cai trường” rồi … đang cởi trần quét dọn sân trường … sau vài câu đối đáp thì “Bác” cũng vui lòng mở cửa cho tôi vào trong … qua ánh mắt của “Bác” tôi nghĩ “Bác” cũng đang vui khi có một người học trò cũ quay lại thăm ngôi trường xưa!
Những hình ảnh xưa cũ tràn về trong tâm trí … tuy hiện giờ những phòng học dường như đã được xây mới nhưng vị trí thì không hề thay đổi … những phòng học từ lớp đệ thất đến đệ tam (trước 30 tháng 4 năm 1975), rồi từ nửa năm sau lớp 10 đến lớp 12 vẫn còn nguyên đó (tôi học lớp 12 niên khoá 1976 - 1977).
Những ngày đầu sau 30/4/1975, “họ” đã quên tất cả! Trong trường khi chúng tôi đi học lúc bấy giờ toàn là những câu khẩu hiệu “thời thượng”: 5 điều bác dạy! Sống, học tập và làm việc theo gương bác Hồ vĩ đại! …
Bây chừ … những gì thuộc về chân lý, thuộc về đạo lý học làm trò, học làm người … đều phải được trả lại đúng nguyên giá trị của nó!
“Cái gì của Ceasar - Hãy trả lại cho Ceasar!”
Bây chừ … những gì thuộc về chân lý, thuộc về đạo lý học làm trò, học làm người … đều phải được trả lại đúng nguyên giá trị của nó!
“Cái gì của Ceasar - Hãy trả lại cho Ceasar!”
Duy chỉ có một sự “mất mát”: Những phòng học “chuồng gà” phía sau không còn nữa, thay vào đó là một căn tin và một sân bóng chuyền, sân bóng đá mini...
Mải mê với ngày xưa … nhìn chiếc trống trường … chuông điện thoại reo cứ ngỡ là hết tiết học … vâng, phải quay về nhà thôi! Khách mời và bà con nội ngoại đã bắt đầu đến dự đám giỗ của Ba Má tôi …
Ngày trở về thật sự bùi ngùi khi phải chia tay!
Một buổi sáng chủ nhật đầu Xuân Quý Tỵ!
Một người em!
TQC TranvanLanChau
Một buổi sáng chủ nhật đầu Xuân Quý Tỵ!
Một người em!
TQC TranvanLanChau
5.Rượu Quê Hương.
Đất Quảng Nam thuộc loại đất cát pha, nên rất dễ thấm nước, ướt sủng, khi trời vừa mới đổ cơn mưa và trái lại cũng không giữ nước lâu dài như những nơi khác. Cho nên phong thổ cũng làm ảnh hưởng đến con người Quảng Nam với phong cách đặc biệt riêng của mình. Từ lối ăn uống giản dị, đơn sơ đạm bạc cho đến cung cách tiếp đãi, mời khách uống chung trà, chén rượu, khi gặp nhau mới vừa đó hay xa vắng một thời gian dài, lúc nào cũng nồng nhiệt, thiệt tình. Người Quảng Nam không nói: mời uống rượu, vì uống nó ra làm sao, không được từ tốn, vội vã quá, chưa đủ thời gian chín mùi để thể hiện chút tình với nhau. Rượu phải nhấm mới thú vị. Xử dụng cả thị giác, ngắm nhìn màu sắc trong đục ngà ngà rất bắt mắt, khứu giác đánh mùi thơm đến cở nào và sau cùng mới dùng vị giác. Hớp từng ngụm rượu để thưởng thức vị cay nồng, dịu ngọt không đến nổi làm cháy cổ họng. Có như thế mới cảm nhận hương vị độc đáo, đặc biệt chén rượu trao cho, gật đầu khen ngon:
“Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm.
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say.”
Ngoài rượu hồng đào ra, ở quê tôi còn có một thứ rượu đặc sản khác gọi là “rượu lậu”, cũng không kém phần đậm đà hương vị quê hương. Nhân ngày đầu năm mới, tôi xin được giới thiệu đến quý vị đồng hương Quảng Nam, một thứ rượu khác, sản phẩm của quê hương tôi mà mọi người đều ưa chuộng, không rượu thì đời mất vui: “Nam vô Tửu như Kỳ vô phong”.
Mỗi khi nhắc đến cái tên rượu lậu, chắc chắn mọi người ở quê hương tôi đều thèm thuồng thưởng thức cho được chén rượu quê mình. Nhất là trong các dịp giỗ kỵ, hội hè, ngày Tết… cùng nhau trò chuyện, nhấm nháp chén rượu: chén tạc, chén thù khề khà với nhau, thì ôi thôi vui vẻ cả xóm làng. Làng Xuân Đài của tôi, “đất ba châu”, bà con truyền khẩu từ đời nầy qua đời nọ, gọi như thế từ lâu. Dân chúng trong làng lấy làm hãnh diện được thơm lây, vì có Tổng Đốc Hoàng Diệu đã làm rạng danh muôn đời: tinh thần bất khuất, anh dũng tuẩn tiết hy sinh, chứ không chịu nhục đầu hàng giặc Pháp. Bà con làng tôi phần đông sinh sống bằng nghề nông, cày sâu cuốc bẩm. Nhưng xứ đất ba châu, cò bay không thẳng cánh thì làm sao có đời sống dồi dào thoải mái, ăn sung mặc sướng. Hơn nữa dân số càng ngày càng đông thêm, nên chi mới phát sinh ra nhiều nghề phụ: làm tằm, ươm tơ dệt lụa, kéo sợi dệt vải và nấu rượu lậu… Nấu rượu lậu một nghề cũng có nhiều nổi thăng trầm, khổ cực của nó trong suốt thời kỳ Pháp thuộc cho tới thời kỳ Việt Minh. Trước khi nói đến cách thức nấu rượu lậu và tại sao có tên gọi “rượu lậu”, tôi xin được trình bày sơ qua như thế nầy: Tên rượu lậu phát xuất từ thời Pháp thuộc, ở Đà Nẵng và Hội An có hãng CiCa, hãng rượu nầy được cấp phát môn bài, được độc quyền sản xuất để cung cấp nhu cầu cho giới tiêu thụ. Trái lại, rượu lậu là thứ rượu ở quê tôi, nấu lén không có đóng thuế nên thành ra lậu là thế đó. Ở đây tôi cũng xin nêu cái oái ăm cảnh người dân làm ăn thời Pháp thuộc. Biết được phận lậu của mình, người dân phải lo đút lót cho bọn thuế vụ ở huyện Điện Bàn. Bọn nầy cũng biết cách bày trò để che mắt bọn quan thầy thực dân. Hằng tháng hay hằng kỳ, chúng lên tận làng tôi giả vờ bắt bớ, đập phá dụng cụ sản xuất, lập biên bản và dĩ nhiên phải nộp tiền phạt. Việc dàn cảnh như thế đều có đường dây và được thông tin trước ngày giờ để đôi bên chuẩn bị cho ăn khớp với nhau. Cũng nhờ có chỗ hở, ếm nhẹm được nên mọi việc cũng đâu vào đó, để rồi còn tiếp sản xuất và dĩ nhiên còn phải lo đút lót mãi mãi…Bây giờ tôi nói qua đặc điểm của rượu lậu. Rượu đựng trong chai, nhìn thấy không được trong cho lắm, không trong suốt như rượu CiCa. Nước rượu màu trong ngà ngà, đục đục. Người đã quen dùng rượu lậu thì cảm thấy nó có hậu ngọt trong cổ họng, không quá cay nồng đến nổi cháy cổ như các loại rượu khác, vì rượu được cất từ hổn hợp lên men của cơm gạo, ngâm ủ trong dung dịch đường mật và men chang. Để làm ra rượu, người ta dùng lúa xay thành gạo lức, giữ nguyên phần vỏ lụa của hạt thóc cho bổ. Gạo đem nấu chín, đổ ra nia canh cho thật nguội, sau đó trộn thật đều men cơm đã tán nhỏ ra bột, loại men cơm thường phải mua ơ Huế do nhà chuyên môn làm ra. Dùng thúng tre có trắt dầu rái, bên trong có lót lá chuối để đựng cơm đã trộn men, đậy thật kỷ để giữ ấm, ủ cơm đến khi nào lên men mềm nhão, thơm mùi rượu ngọt ngào mới cho vào hổn hợp pha loãng đường hoặc mật. Hổn hợp nầy, người ta thường dùng loại đường hạ địa phương hay mật mua ở Quảng Ngãi, pha với nước lạnh trong sạch lấy tận giếng sâu, với tỷ lệ 1 thùng đường pha 10 thùng nước, 1 thùng mật pha 5 thùng nước. Nước hổn hợp đường mật trên được chứa đựng trong chum Châu Ổ hay thùng đựng rượu chát bằng gỗ, không bao giờ dùng vật dụng bằng xi măng để ngâm rượu, vì khi rượu lên men có thể làm bể dụng cụ. Tiếp theo người ta cho vào nước hổn hợp đó loại men chang và bóp nát để hòa tan. Loại men nầy được làm tại địa phương, dùng bài “thuốc bắc” để cho mùi thơm và độ nóng như: quế chi, tam lăn ngải truật, đương quy, trần bì, đinh hương, đại hồi, tiểu hồi… và bột củ riềng số lượng dùng nhiều nhất vì cần độ nóng nhiều, tác dụng lên men hiệu quả cao. Men chang là hổn hợp: bột gạo nước, thuốc bắc, củ riềng khô tán thành bột, trộn chung lại viên thành viên dẹp, sắp đặt trên chiếc nong có rải vỏ trấu, đậy thật kín để mau nổi và xốp, sau đó đem phơi nắng cho thật khô, mới trở thành men chang tốt. Sau cùng, cho cơm đã ngã men vào hổn hợp trên và đậy đặm cho thật kỷ, giữ độ nóng để rượu lên men, thời gian từ 5 đến 7 ngày tùy theo thời tiết nóng hay lạnh. Khi nào chum rượu hết sôi tăm, cơm rượu lóng hết xuống đáy chum, nước dung dịch đã trở thành màu cam nhạt, dùng đầu ngón tay chấm nước nếm thử, mùi vị chát chát, hết ngọt là rượu đã lên men, có thể đem nấu cất lấy rượu ròng.
“Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm.
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say.”
Ngoài rượu hồng đào ra, ở quê tôi còn có một thứ rượu đặc sản khác gọi là “rượu lậu”, cũng không kém phần đậm đà hương vị quê hương. Nhân ngày đầu năm mới, tôi xin được giới thiệu đến quý vị đồng hương Quảng Nam, một thứ rượu khác, sản phẩm của quê hương tôi mà mọi người đều ưa chuộng, không rượu thì đời mất vui: “Nam vô Tửu như Kỳ vô phong”.
Mỗi khi nhắc đến cái tên rượu lậu, chắc chắn mọi người ở quê hương tôi đều thèm thuồng thưởng thức cho được chén rượu quê mình. Nhất là trong các dịp giỗ kỵ, hội hè, ngày Tết… cùng nhau trò chuyện, nhấm nháp chén rượu: chén tạc, chén thù khề khà với nhau, thì ôi thôi vui vẻ cả xóm làng. Làng Xuân Đài của tôi, “đất ba châu”, bà con truyền khẩu từ đời nầy qua đời nọ, gọi như thế từ lâu. Dân chúng trong làng lấy làm hãnh diện được thơm lây, vì có Tổng Đốc Hoàng Diệu đã làm rạng danh muôn đời: tinh thần bất khuất, anh dũng tuẩn tiết hy sinh, chứ không chịu nhục đầu hàng giặc Pháp. Bà con làng tôi phần đông sinh sống bằng nghề nông, cày sâu cuốc bẩm. Nhưng xứ đất ba châu, cò bay không thẳng cánh thì làm sao có đời sống dồi dào thoải mái, ăn sung mặc sướng. Hơn nữa dân số càng ngày càng đông thêm, nên chi mới phát sinh ra nhiều nghề phụ: làm tằm, ươm tơ dệt lụa, kéo sợi dệt vải và nấu rượu lậu… Nấu rượu lậu một nghề cũng có nhiều nổi thăng trầm, khổ cực của nó trong suốt thời kỳ Pháp thuộc cho tới thời kỳ Việt Minh. Trước khi nói đến cách thức nấu rượu lậu và tại sao có tên gọi “rượu lậu”, tôi xin được trình bày sơ qua như thế nầy: Tên rượu lậu phát xuất từ thời Pháp thuộc, ở Đà Nẵng và Hội An có hãng CiCa, hãng rượu nầy được cấp phát môn bài, được độc quyền sản xuất để cung cấp nhu cầu cho giới tiêu thụ. Trái lại, rượu lậu là thứ rượu ở quê tôi, nấu lén không có đóng thuế nên thành ra lậu là thế đó. Ở đây tôi cũng xin nêu cái oái ăm cảnh người dân làm ăn thời Pháp thuộc. Biết được phận lậu của mình, người dân phải lo đút lót cho bọn thuế vụ ở huyện Điện Bàn. Bọn nầy cũng biết cách bày trò để che mắt bọn quan thầy thực dân. Hằng tháng hay hằng kỳ, chúng lên tận làng tôi giả vờ bắt bớ, đập phá dụng cụ sản xuất, lập biên bản và dĩ nhiên phải nộp tiền phạt. Việc dàn cảnh như thế đều có đường dây và được thông tin trước ngày giờ để đôi bên chuẩn bị cho ăn khớp với nhau. Cũng nhờ có chỗ hở, ếm nhẹm được nên mọi việc cũng đâu vào đó, để rồi còn tiếp sản xuất và dĩ nhiên còn phải lo đút lót mãi mãi…Bây giờ tôi nói qua đặc điểm của rượu lậu. Rượu đựng trong chai, nhìn thấy không được trong cho lắm, không trong suốt như rượu CiCa. Nước rượu màu trong ngà ngà, đục đục. Người đã quen dùng rượu lậu thì cảm thấy nó có hậu ngọt trong cổ họng, không quá cay nồng đến nổi cháy cổ như các loại rượu khác, vì rượu được cất từ hổn hợp lên men của cơm gạo, ngâm ủ trong dung dịch đường mật và men chang. Để làm ra rượu, người ta dùng lúa xay thành gạo lức, giữ nguyên phần vỏ lụa của hạt thóc cho bổ. Gạo đem nấu chín, đổ ra nia canh cho thật nguội, sau đó trộn thật đều men cơm đã tán nhỏ ra bột, loại men cơm thường phải mua ơ Huế do nhà chuyên môn làm ra. Dùng thúng tre có trắt dầu rái, bên trong có lót lá chuối để đựng cơm đã trộn men, đậy thật kỷ để giữ ấm, ủ cơm đến khi nào lên men mềm nhão, thơm mùi rượu ngọt ngào mới cho vào hổn hợp pha loãng đường hoặc mật. Hổn hợp nầy, người ta thường dùng loại đường hạ địa phương hay mật mua ở Quảng Ngãi, pha với nước lạnh trong sạch lấy tận giếng sâu, với tỷ lệ 1 thùng đường pha 10 thùng nước, 1 thùng mật pha 5 thùng nước. Nước hổn hợp đường mật trên được chứa đựng trong chum Châu Ổ hay thùng đựng rượu chát bằng gỗ, không bao giờ dùng vật dụng bằng xi măng để ngâm rượu, vì khi rượu lên men có thể làm bể dụng cụ. Tiếp theo người ta cho vào nước hổn hợp đó loại men chang và bóp nát để hòa tan. Loại men nầy được làm tại địa phương, dùng bài “thuốc bắc” để cho mùi thơm và độ nóng như: quế chi, tam lăn ngải truật, đương quy, trần bì, đinh hương, đại hồi, tiểu hồi… và bột củ riềng số lượng dùng nhiều nhất vì cần độ nóng nhiều, tác dụng lên men hiệu quả cao. Men chang là hổn hợp: bột gạo nước, thuốc bắc, củ riềng khô tán thành bột, trộn chung lại viên thành viên dẹp, sắp đặt trên chiếc nong có rải vỏ trấu, đậy thật kín để mau nổi và xốp, sau đó đem phơi nắng cho thật khô, mới trở thành men chang tốt. Sau cùng, cho cơm đã ngã men vào hổn hợp trên và đậy đặm cho thật kỷ, giữ độ nóng để rượu lên men, thời gian từ 5 đến 7 ngày tùy theo thời tiết nóng hay lạnh. Khi nào chum rượu hết sôi tăm, cơm rượu lóng hết xuống đáy chum, nước dung dịch đã trở thành màu cam nhạt, dùng đầu ngón tay chấm nước nếm thử, mùi vị chát chát, hết ngọt là rượu đã lên men, có thể đem nấu cất lấy rượu ròng.
4.Đặc Sản 'Hội An & Đà Nẵng"
Hội An được UNESCO xếp vào danh sách "Di Sản Văn Hóa Thế Giới", từ đó những đăc trưng, đăc thù Hội An đã trở thành phổ biến trong "Sản Xuất & Du Lịch". Người Hội An tại các thành phố lớn trong nước nắm bắt kịp thời, đưa những Đặc Sản Hội An đến khắp nơi có người Việt sinh sống trên toàn thế giới. Anh Lại Quảng Nam sưu tầm và gởi đến CHS .TQC. HA những món ăn đang được ưa thích, để dễ dàng cho chúng ta khi về thăm Quê.
Chả bò làm từ thịt bò tươi, mềm, không hàn the nên rất mau ra nhớt, phải bảo quản ở chế độ thật lạnh, nếu tháo hết lớp lá thì dù có để lạnh chả vẫn chuyển sang màu đen lớp bên ngoài.
Chả quết (người miền nam hay gọi là mộc) được chế biến từ những nguyên liệu như chả bò nhưng để sống, món này rất tiện để viên thành cục nhỏ nấu bún bò hoặc nhồi khổ qua, nấu bánh canh, nấu cháo cho trẻ em…
Mắm dưa DÌ CẨN được làm từ cá Cơm tươi và dưa Gang.
Rất nhiều khách hàng nhầm lẫn với dưa mắm người miền nam.
Món này được chế biến vừa ăn, không phải nêm nếm thêm, chỉ cần nấu cơm trắng và lấy ra một chén nhỏ dưa và nước, ăn rất hao cơm… Hoặc ăn kèm thịt heo luộc và rau sống.
Món này cả ba miền Bắc, Trung, Nam rất thích, có nhiều khách hàng ghiền nặng. Doanh số bán cao nhất trong tất cả các loại mắm…đặc biệt khách mua gởi đi nước ngoài rất tiện.
NGOÀI RA CÒN CÓ MẮM CÁ CƠM, MẮM CÁ NỤC, MẮM CÁ RÒ, MẮM NÊM, MẮM CÁ THU, MẮM TÔM CHUA.
Chả quết (người miền nam hay gọi là mộc) được chế biến từ những nguyên liệu như chả bò nhưng để sống, món này rất tiện để viên thành cục nhỏ nấu bún bò hoặc nhồi khổ qua, nấu bánh canh, nấu cháo cho trẻ em…
Mắm dưa DÌ CẨN được làm từ cá Cơm tươi và dưa Gang.
Rất nhiều khách hàng nhầm lẫn với dưa mắm người miền nam.
Món này được chế biến vừa ăn, không phải nêm nếm thêm, chỉ cần nấu cơm trắng và lấy ra một chén nhỏ dưa và nước, ăn rất hao cơm… Hoặc ăn kèm thịt heo luộc và rau sống.
Món này cả ba miền Bắc, Trung, Nam rất thích, có nhiều khách hàng ghiền nặng. Doanh số bán cao nhất trong tất cả các loại mắm…đặc biệt khách mua gởi đi nước ngoài rất tiện.
NGOÀI RA CÒN CÓ MẮM CÁ CƠM, MẮM CÁ NỤC, MẮM CÁ RÒ, MẮM NÊM, MẮM CÁ THU, MẮM TÔM CHUA.
CÁ ĐƯỢC MUA TỪ DƯỚI BẾN KHI TÀU VỪA VÀO ĐẤT LIỀN NÊN RẤT TƯƠI NGON. CÁ ĐÀ NẴNG THỊT RẤT NGỌT VÀ ĐẬM ĐÀ HƠN CÁ NHỮNG VÙNG BIỂN KHÁC NHỜ ĐỘ MẶN CỦA VÙNG BIỂN ĐÀ NẴNG.
Cá Bã Trầu nướng muối ớt rất ngon, da hơi dày nhưng ăn được, có nhiều canxi hoặc nấu canh chua, lẩu chua, chiên…
Cá Chuồn làm sạch vảy, vi, lấy sạch ruột, xẻ dọc, gấp làm đôi nhét hỗn hợp (hạt nén, ớt xanh, muối hột, nghệ, tiêu, bột ngọt, đường, tất cả giã nhuyễn) chiên lên hoặc nướng ăn với cơm hoặc ăn không.
Cá Dìa nướng muối ớt thơm và ngon hơn những cách chế biến khác.
Là loại cá sống tự nhiên ở ruộng, không nuôi được, ngay tại Đà Nẵng vẫn thường xuyên cháy hàng. Khách du lịch thường đến ăn ở quán HAI CỬ (đường Yên Bái, Đà Nẵng).
Cá Diếc chỉ nấu duy nhất với rau răm là ngon, nước trong, không dầu mỡ, khi nấu lên có mùi thơm giống thuốc bắc, ăn rất bổ cho sức khỏe, đặc biệt là người ốm ăn vào mau lại sức.
Cá này rất nhiều xương, khi nấu cho trẻ em ăn chỉ nên lấy nước, nếu lấy thịt phải gỡ cá thật kĩ.
Cá Chuồn làm sạch vảy, vi, lấy sạch ruột, xẻ dọc, gấp làm đôi nhét hỗn hợp (hạt nén, ớt xanh, muối hột, nghệ, tiêu, bột ngọt, đường, tất cả giã nhuyễn) chiên lên hoặc nướng ăn với cơm hoặc ăn không.
Cá Dìa nướng muối ớt thơm và ngon hơn những cách chế biến khác.
Là loại cá sống tự nhiên ở ruộng, không nuôi được, ngay tại Đà Nẵng vẫn thường xuyên cháy hàng. Khách du lịch thường đến ăn ở quán HAI CỬ (đường Yên Bái, Đà Nẵng).
Cá Diếc chỉ nấu duy nhất với rau răm là ngon, nước trong, không dầu mỡ, khi nấu lên có mùi thơm giống thuốc bắc, ăn rất bổ cho sức khỏe, đặc biệt là người ốm ăn vào mau lại sức.
Cá này rất nhiều xương, khi nấu cho trẻ em ăn chỉ nên lấy nước, nếu lấy thịt phải gỡ cá thật kĩ.
Cá Hanh nấu lẩu chua, hấp với hành lá, sả
Cá Hố cắt thành khúc nhỏ kho với nghệ hoặc nướng
Cá Nục hấp, ăn theo kiểu Đà Nẵng : ướp với tiêu tỏi, đường, bột ngọt, nước mắm, sả, ướp khoảng nửa tiếng sau đó hấp, ăn kèm với rau muống cuốn bánh tráng, vị rất ngon, lạ.
Cá Sơn Đá màu hồng đậm, vảy rất dày, chỉ nướng là ngon nhất, thịt cá rất ngon, lạ.
QUÝ KHÁCH CÓ NHU CẦU NHỮNG MÓN KHÁC KHÔNG NẰM TRONG DANH MỤC TRÊN XIN VUI LÒNG ĐẶT HÀNG VỚI CHÚNG TÔI, CHÚNG TỐI SẼ ĐÁP ỨNG LẦN TỚI.
Cá Hố cắt thành khúc nhỏ kho với nghệ hoặc nướng
Cá Nục hấp, ăn theo kiểu Đà Nẵng : ướp với tiêu tỏi, đường, bột ngọt, nước mắm, sả, ướp khoảng nửa tiếng sau đó hấp, ăn kèm với rau muống cuốn bánh tráng, vị rất ngon, lạ.
Cá Sơn Đá màu hồng đậm, vảy rất dày, chỉ nướng là ngon nhất, thịt cá rất ngon, lạ.
QUÝ KHÁCH CÓ NHU CẦU NHỮNG MÓN KHÁC KHÔNG NẰM TRONG DANH MỤC TRÊN XIN VUI LÒNG ĐẶT HÀNG VỚI CHÚNG TÔI, CHÚNG TỐI SẼ ĐÁP ỨNG LẦN TỚI.
3.Nhớ Bánh Quê Mình
Cứ mỗi độ Xuân về, Tết đến là mốc thời gian để chúng ta đếm. Không một ai mà không có quê hương để nhớ. Nhất là hình ảnh quê cũ, người xưa, mà ở đó mọi người cùng chung một phong tục, một tập quán, một món ăn đặc sản đã thấm sâu vào tâm khảm khó quên. Thói quen làm bánh tết, hầu hết mọi nhà đều có sự chuẩn bị từ nhiều ngày trước tết. Nhà khá giã ngoài lối phô trương sự sung túc, còn tỏ ra cho thiên hạ biết tài khéo tay, công dung ngôn hạnh trổ tài. Nhà nghèo khổ cũng bận rộn, lo việc làm bánh với các loại bình dân ít tốn kém, để cho con cái cũng có mà vui xuân. Xin mời quí bà con, thử thưởng thức một vài loại bánh quen thuộc của quê hương. Ngon dỡ còn tùy thuộc vào khẩu vị. Nhưng tôi tin chắc là ngon, nhờ ở nội tâm có tâm lý tác động sự khao khát, và tiềm tàng trong ký ức nơi quê Cha đất Tổ.
Bánh bảy lửa: quá trình hình thành khúc bánh, phải trải qua 7 lần lửa: rang, hấp, sấy… Lửa thứ nhất: gạo ngâm nước để ráo, đem rang và xay thành bột khô. Lửa thứ 2: thắn đường để trộn vào bột, in thành khúc bánh hình trụ tròn, khuôn bánh làm bằng đoạn cây trảy 7 phân chẻ đôi, khi nhận bột đầy ống, tháo hai vòng niềng để lấy khúc bánh ra. Lửa thứ 3: hấp cách thủy bánh đã in để bột nở, đường thấm đều. Lửa thứ 4: sấy bánh cho vừa khô. Lửa thứ 5: rang hạt mè chà vỏ cho thơm, sàng sãy sạch sẽ đất cát, đổ trải đều một lớp mõng trên mặt cái mâm, chuẩn bị để đó. Lửa thứ 6: thắn nước đường đến độ sa cánh dơi, dẽo quẹo, nhúng từng khúc bánh vào nước đường, rồi đem lăn tròn lên lớp mè cho thật đều bao quanh. Lửa thứ 7: giai đoạn chót, sấy lửa cho thật khô dòn, đem cất vào quả dùng đựng bánh, kín gió và khô ráo.
Ngày nay, ở Khuê Trung Quận Hòa Vang có chỗ làm bánh để bán, dán nhãn hiệu: “Bánh khô mè – Đặc sản Quảng Nam/Đà Nẵng”. Hình dáng cũng đã biến đổi thành hình vuông dẹp, mất đi hình thù đặc biệt cố hữu xưa cũ. Nhận xét khách quan khi đem so sánh 2 chiếc bánh, nó khác xa từ hình dáng cho đến phẩm chất. Khúc bánh bảy lửa ngày xưa, ngoài phần thơm ngon, dòn bên trong, dẽo bên ngoài, cho chúng ta thấy được bản chất mộc mạc, ăn chắc mặc bền của người nông dân chất phác.
Bánh thuẩn: vật liệu gồm các thứ: bột gạo, đường cát Quảng Ngãi và trứng gà. Ba thứ nầy được pha trộn ngang nhau, theo tỷ lệ cân nặng. Người ta ngâm gạo cho mềm, đổ ra rổ cho ráo nước, giã thành bột rây cho thật mịn. Hột gà lấy cả tròng đỏ lẫn tròng trắng, cho vào chậu sành. Dùng một nắm đủa đánh cho trứng nổi (nhỏ vào nước để thử, thấy nổi trên mặt nước là được). Tiếp theo cho đường vào trộn cho thật đều. Khuôn đổ bánh bằng đồng, miệng khuôn bằng miệng chén chung uống trà. Dùng nồi bằng gang hay bằng đất, có chứa một mớ cát ở đáy nồi, sắp đặt các khuôn dìm sâu xuống cát. Nắp nồi đậy lộn ngược trở lại, bỏ than đỏ bên trên nắp vung. Đun nồi cát cho nóng, khuôn nóng theo, thoa chút ít dầu phụng vào lòng khuôn trước khi đổ bột vào. Bánh chín khi trên mặt thấy nở ren, màu tươi tự nhiên vàng hùm. Bánh còn cần phải sấy khô mới để dành được lâu ngày, cắn một miếng cảm thấy đượm đà, ngọt bùi, thơm lừng. Không như loại bánh đổ bằng bột mì, mềm xèo, thấy ra làm sao.
Xôi ngọt: đặc sản chính cống của quê hương, dễ dàng làm ra món ăn ngọt nầy. Ở miền nam gọi là xôi dị (vị), ở quê mình có nơi còn gọi xôi đường. Theo như cách gọi xôi ngọt thấy hợp lý nhất. Phân biệt được với xôi lạt, nấu bằng nếp, hoặc trộn đậu xanh cà vỏ, đậu đen, đậu phụng. Món xôi ngọt rất thông dụng trong ngày giỗ kỵ, đi đám giỗ mà người vụng về, chi bằng nấu khay xôi ngọt cũng tiện, không tốn kém bao nhiêu. Đậu đen hầm nấu thật chín mềm, đổ ra rổ hứng lấy nước cốt, màu đen sềnh sệch. Dùng nước đó mà nấu với nếp thành xôi màu sẩm đen. Chặt đường táng thành cục nhỏ, nấu chung với nước đậu còn lại, chừng nào thấy đường tan hết, lấy đậu đen đã nấu chín, và gừng tươi giã nhỏ cho vào, nấu rim rim cho đậu thấm đường, đợi cho khi nào rặt bớt nước mới xéo xôi vào. Trộn xôi lẹ tay cho thật đều với đậu, giữ lửa liu riu, nhỏ ngọn, hông tiếp tục cho khô dần, keo quánh, dẽo quẹo. Không để quá lửa, sẽ cháy khét mất ngon. Chuẩn bị khay bằng gỗ, lót lá chuối non hay ny lông vào khay, cả đáy và chung quanh cũng đều được lót. Bới xôi còn nóng vào khay, lẹ tay ép bằng mặt, rải lên trên mặt một lớp mè rang chà vỏ, đồng thời ém dính vào mặt xôi, cũng có thể rắt thêm bột quế nếu thấy thích. Dùng dao rạch cắt ra từng miếng nhỏ vừa ăn, vuông vắn, sắc cạnh, sắp đặt vào dĩa đem ra mời khách.
Bánh ít lá gai: được dịp giới thiệu, như sự bày tỏ tấm lòng thương nhớ hình ảnh Mẹ hiền. Mỗi lần làm ra bánh, kêu bầy con thưởng thức cái hương vị, mùi vị đặc biệt bánh ít lá gai ngon đến cở nào: thơm ngon mùi lá gai khác thường, nhưn đậu xanh bùi bùi, đường táng ngọt lịm, bột nếp dẽo mềm…Mọi công việc đều do bàn tay khéo léo mẹ làm ra, con khen ngon là mẹ vui lắm rồi.
Trước hết, ngâm nếp cho mềm, xay thành bột lỏng, đổ vào bao vải ép cho thật khô nước. Đường táng chặt cục và thắn lên thành nước sềnh sệch. Lá gai hái vào, lặt bỏ cộng, luộc cho chín, vắt khô bỏ nước có màu đen, xắt nhỏ như sợi thuốc rê, bỏ vào cối đá quếch cho thật nhuyển nhừ. Cho bột vào quếch một hồi nữa, rồi cho nước đường vào quếch tiếp tục, đến khi nào hổn hợp có màu xám xanh đều mới thôi. Khối bột làm bánh không quá khô và cũng không quá ướt, hơi nhão một tí là vừa. Viên bột thành từng viên tròn đều nhau, chuẩn bị sẵn sàng. Bánh ít phải có nhưn, đậu xanh không vỏ hông cho thật chín, tán cho nhuyển trước khi cho đường cát trắng vào, bắt lên bếp dáo và viên thành viên tròn. Lấy viên bột ép dẹp ra, đặt viên nhưn vào giữa, ém gọn viên tròn trơn tru, không dính tay nhờ có thoa dầu phụng khi viên. Sau cùng dùng lá chuối thoa chút dầu mà gói bánh, theo kiểu gấp hai đầu lá về phía bên dưới, rồi cột lại. Đợi cho nồi nước sôi vùng, đặt vĩ đã sắp bánh gói xong vào nồi, đậy nắp lại, hấp cách thủy, độ nửa giờ bánh chín biến đổi thành màu đen láng lứt. Vớt bánh ra, vỗ sửa thành hình ống, vặn xoắn hai đầu lá lại và cắt bỏ phần thừa. Cũng có thể cột chéo hai đầu lá lại với nhau, trông cái bánh xôm tụ nhiều hơn. Bánh ít lá gai bán ở Hội An, làm theo kiểu cách người thành phố, ăn lấy ngon in ít, nhỏ xíu, không như ở thôn quê cái nào cái nấy to bự, ăn một cái đã đời. Bây giờ ở Hoa Kỳ, muốn làm bánh ít lá gai quá dễ dàng, khỏe re. Bột nếp tinh khiết từng bao, đường bột vàng hảo hạng, đậu xanh không vỏ, tất cả đều có bán tại chợ Việt Nam. Muốn làm bánh ít lá gai, nên trồng một bụi lá gai để lấy lá, thì ngon hơn. Cũng dễ trồng, mùa hè lá ra xanh mượt, cứ hai tuần lễ cắt lấy lá non, luộc chín vắt khô để dồn trong ngăn đá, tủ lạnh cũng tiện. Dùng máy xay thay cối đá, khỏi mõi tay nhọc sức, tiện lợi vô cùng. Nên làm nhưn trước để vào tủ lạnh, đến khi viên phần vỏ bên ngoài, nên để cho hỗn hợp hơi nhão một chút, như thế khi bánh chín mới ngon. Nhân khi đề cập về bánh ít lá gai, món ăn đặc sản của quê mình, tôi sực nhớ câu vè ở vùng thôn quê, nghe cũng ngộ nghĩnh:
"Bánh ít thì xít lá gai,
Có chồng ngoài Huế cho dài đường đi.”
Chắc chắn phải có chàng trai xứ Quảng nào đó, không muốn con gái của quê mình đi lấy chồng xứ người. Lại còn rào đón, cố giữ không cho lọt ra ngoài, sợ người ta rước đi, mất phần mình: “Trâu Ta ăn cỏ đồng Ta, đừng ham cỏ tốt ăn qua đồng Người”. Còn chàng thì mặc sức, hào hoa là sự thường tình! Như thế bất công quá - phải không Quý Vị?
“Học trò trong Quảng ra thi,
Thấy cô gái Huế bỏ đi không đành”
DNNam
Vai Anh dep cua TQC Nguyen Dieu (Santa Ana)
Nho Anh Truc chuyen loi Cam On cua Hoi den Chi Nguyen Thi Viet Hang.
TRANH TRƯỜNG TÔI.pdf (429KB) OK Căn,
Anh Trúc: Nhân tiện gởi Căn bức tranh Trường Tôi của Nguyễn Thị Việt Hằng (bạn thân của Lê Thị Hàn), để Căn tùy nghi sử dụng trên Trang Nhà CHS/TQC. Email của Hằng:
paintingsbyhang@aol.com
TRANH TRƯỜNG TÔI.pdf (429KB) OK Căn,
Anh Trúc: Nhân tiện gởi Căn bức tranh Trường Tôi của Nguyễn Thị Việt Hằng (bạn thân của Lê Thị Hàn), để Căn tùy nghi sử dụng trên Trang Nhà CHS/TQC. Email của Hằng:
paintingsbyhang@aol.com
2.Mì Quảng Nguyên Thủy
ĐOÀN NGỌC NAM
Thành Ngữ để nhắc nhở nhớ đến công ơn người xưa, đã để lại những gì cho chúng ta được thừa hưởng bây giờ, chỉ ngắn gọn mà thâm sâu đầy ý nghĩa như sau:
“U ống nước nhớ nguồn”
“ Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”
Là người dân Quảng Nam, chúng ta không bao giờ quên công ơn vua Trần Anh Tông đã đem công chúa cành vàng lá ngọc Huyền Trân (em nhà vua) gã cho vua Chiêm Thành (Chế Mân) để đổi lấy hai châu Ô và Rí, trong đó có phần đất Quảng Nam mà chúng ta đương sinh sống ngày nay. Do cuộc hôn phối lịch sử không cân xứng, cho nên chúng ta mới có hai câu ca dao để đời:
“Tiếc thay hạt gạo trắng ngần ,
Đem vo nước đục lại vần lửa rơm .”
“Tiếc thay cây quế giữa rừng ,
Để cho thằng mán thằng mường nó leo .”
Vốn là vùng đất nông nghiệp, sản xuất được nhiều lúa gạo không những đủ nuôi ăn cho dân chúng trong tỉnh, mà còn bán ra cho các tỉnh bạn. Vì dư ăn cho nên người ta mới nghĩ ra cách đem gạo biến chế thành mì, món ăn độc đáo đặc sản quê hương, khắp mọi nơi đều biết danh và ưa chuộng vô cùng.
Mì Quảng Nam là món ăn dân dã rất dễ làm, không cần đòi hỏi thực phẩm tốn kém nhiều tiền bạc. Ngay trong nhà nông dân cũng có đủ thứ để làm một bửa mì, ăn hoặc đải khách. Thậm chí, ngày đám giỗ làm món nòng cốt cuối cùng sau khi khai vị vài món thịt nướng, ram, thù đủ trộn…như thế cũng đầy đủ một bửa đải khách thịnh soạn. Gạo không thiếu. Rau thơm, cải con, rau muống tha hồ. Búp chuối sứ tràn hê. Thêm ớt tươi, chanh trái, đậu phụng, bánh tráng mọi thứ toàn là cây nhà lá vườn. Bửa mì ngon dỡ phụ thuộc vào phần nhưn là chính. Nhà khá giã bắt gà làm thịt. Không thì tát bàu bắt cá: tràu, trê, nhét, lươn làm nhưn được tuốt luốt. Ếch nhái mùi vị cũng đậm đà. Tùy theo đó mà tên gọi khác nhau: mì gà, mì cá, mì tôm thịt…Người Quảng Nam không gọi nước lèo, nước dùng mà gọi nhưn. Nhưn mì là phần thực phẩm được xắt nhỏ ướp cho thấm trước khi khử dầu phụng xào nấu. Thêm vào hành tây, cà chua bằm nát, tạo thành một hổn hợp vừa đủ sềnh sệch, không quá loãng trở thành lạt lẽo. Ngoài ra, kỷ thuật um nhưn không để quá chín lũn và béo quá. Người nào thích béo, có sẵn dầu phụng khử hành phi để riêng, chan thêm vào tùy ý. Có ông người Bình Định ra Quảng Nam bán dầu phụng, chứng tỏ dầu ngon không pha chế, múc nửa chén ăn cơm dầu đổ vào tô mì ăn một cách khoái khẩu, ngon lành.
Người Quảng Nam vào quán không bao giờ gọi: “cho tôi tô mì quảng bà chủ”. Gọi như thế cũng đủ biết người nầy không phải gốc Quảng Nam. Chỉ cần gọi cho tô mì là có ngay. Khách phương xa đến Quảng Nam, đi khắp các vùng Tam Kỳ, Trung Phước, Duy Xuyên, Đại Lộc, Điện Bàn… vào quán gọi tô bún bò, tô phở chắc là khó có. Chỉ độc nhất một món mì. Tô mì tuy đơn sơ, nhưng đầy đủ phẩm chất bổ dưỡng, ăn hoài không bao giờ chán chê.
Thành Ngữ để nhắc nhở nhớ đến công ơn người xưa, đã để lại những gì cho chúng ta được thừa hưởng bây giờ, chỉ ngắn gọn mà thâm sâu đầy ý nghĩa như sau:
“U ống nước nhớ nguồn”
“ Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”
Là người dân Quảng Nam, chúng ta không bao giờ quên công ơn vua Trần Anh Tông đã đem công chúa cành vàng lá ngọc Huyền Trân (em nhà vua) gã cho vua Chiêm Thành (Chế Mân) để đổi lấy hai châu Ô và Rí, trong đó có phần đất Quảng Nam mà chúng ta đương sinh sống ngày nay. Do cuộc hôn phối lịch sử không cân xứng, cho nên chúng ta mới có hai câu ca dao để đời:
“Tiếc thay hạt gạo trắng ngần ,
Đem vo nước đục lại vần lửa rơm .”
“Tiếc thay cây quế giữa rừng ,
Để cho thằng mán thằng mường nó leo .”
Vốn là vùng đất nông nghiệp, sản xuất được nhiều lúa gạo không những đủ nuôi ăn cho dân chúng trong tỉnh, mà còn bán ra cho các tỉnh bạn. Vì dư ăn cho nên người ta mới nghĩ ra cách đem gạo biến chế thành mì, món ăn độc đáo đặc sản quê hương, khắp mọi nơi đều biết danh và ưa chuộng vô cùng.
Mì Quảng Nam là món ăn dân dã rất dễ làm, không cần đòi hỏi thực phẩm tốn kém nhiều tiền bạc. Ngay trong nhà nông dân cũng có đủ thứ để làm một bửa mì, ăn hoặc đải khách. Thậm chí, ngày đám giỗ làm món nòng cốt cuối cùng sau khi khai vị vài món thịt nướng, ram, thù đủ trộn…như thế cũng đầy đủ một bửa đải khách thịnh soạn. Gạo không thiếu. Rau thơm, cải con, rau muống tha hồ. Búp chuối sứ tràn hê. Thêm ớt tươi, chanh trái, đậu phụng, bánh tráng mọi thứ toàn là cây nhà lá vườn. Bửa mì ngon dỡ phụ thuộc vào phần nhưn là chính. Nhà khá giã bắt gà làm thịt. Không thì tát bàu bắt cá: tràu, trê, nhét, lươn làm nhưn được tuốt luốt. Ếch nhái mùi vị cũng đậm đà. Tùy theo đó mà tên gọi khác nhau: mì gà, mì cá, mì tôm thịt…Người Quảng Nam không gọi nước lèo, nước dùng mà gọi nhưn. Nhưn mì là phần thực phẩm được xắt nhỏ ướp cho thấm trước khi khử dầu phụng xào nấu. Thêm vào hành tây, cà chua bằm nát, tạo thành một hổn hợp vừa đủ sềnh sệch, không quá loãng trở thành lạt lẽo. Ngoài ra, kỷ thuật um nhưn không để quá chín lũn và béo quá. Người nào thích béo, có sẵn dầu phụng khử hành phi để riêng, chan thêm vào tùy ý. Có ông người Bình Định ra Quảng Nam bán dầu phụng, chứng tỏ dầu ngon không pha chế, múc nửa chén ăn cơm dầu đổ vào tô mì ăn một cách khoái khẩu, ngon lành.
Người Quảng Nam vào quán không bao giờ gọi: “cho tôi tô mì quảng bà chủ”. Gọi như thế cũng đủ biết người nầy không phải gốc Quảng Nam. Chỉ cần gọi cho tô mì là có ngay. Khách phương xa đến Quảng Nam, đi khắp các vùng Tam Kỳ, Trung Phước, Duy Xuyên, Đại Lộc, Điện Bàn… vào quán gọi tô bún bò, tô phở chắc là khó có. Chỉ độc nhất một món mì. Tô mì tuy đơn sơ, nhưng đầy đủ phẩm chất bổ dưỡng, ăn hoài không bao giờ chán chê.
Khách đến Phố cỗ Hội An, muốn ăn Mì Quảng vào tiệm Hai Huế, Ba Huế, Ông Cảnh... là trật lất. Phải vào chợ ăn thử tô mì tôm cua, ngon đến cở nào. Cái béo của thịt heo ba chỉ, vị ngọt của chất tôm cua, mùi rau thơm khác thường của loại rau Trà Quế mà ở Hội An mới có. Vào thập niên 60, quán mì bà Đợi ai mà không biết đến. Nơi đây là chỗ hẹn hò, tụ họp ăn hàng của giới học sinh thời bấy giờ. Quán là nhà ở, lợp tranh, phên tre, rèm chống. Bên trong đặt mấy cái bàn gỗ thấp lè tè. Trên mỗi bàn bày ra ống đủa tre, chai nước mắm, chai dấm, dĩa ớt tươi. Bà chủ đứng bên trong tấm phên lững, ngăn cách nhà bếp và khách ăn hàng, sẵn sàng tiếp đón một cách nồng hậu bất cứ là ai. “Mỗi đứa một tô bà chủ”. Có liền. Bốn tô mì đầy ấp đưa ra còn đương nóng hổi, vì ở đây con mì được trụng nước sôi, không như ở nhà khi xắt thoa dầu phụng khử tỏi thơm lừng. Không cần biết mặn hay lạt, nước mắm, dấm, xịt đại vô tô. Bánh tráng nướng bóp nghe dòn rụm. Mạnh đứa nào bưng tô cầm đủa trộn đều rau sống ở đáy tô lên trên, cứ thế và ăn không còn chút nước. Hết tô 300 đồng, miệng còn muốn ăn, không ngần ngại đưa tô trở lại cho thêm 200 đồng. Ăn theo lối gỡ gạt vừa rẻ vừa no. Chủ đở rửa thêm tô, khách đở 100 đồng vì tô sau chỉ cần bớt chút nhưn cũng còn ngon chán, vừa đủ no. Không như nghe đâu có người ăn một mạch ăn hết mười tô mì, vì có người thách đố. Sau đó phải nhãy xuống hồ nước xe trâu, ngâm cho tiêu cái bụng phình trướng, no cành.
Mì Quảng Nam cũng theo thời gian mà biến thể. Nguyên thủy thuần ròng từ hạt gạo làm nên. Gạo có khi trắng khi lứt, nên lá mì cũng theo màu của hạt gạo. Dù có màu gì đi nữa, lá mì nguyên thủy vẩn giữ được phẩm chất tinh khiết, ăn ngon miệng và bổ dưỡng. Ngày xưa làm gì có máy xay lúa. Lúa trở thành gạo nhờ cối xay để bóc lớp vỏ cứng bên ngoài. Muốn trắng đến cở nào, bỏ vào cối đá dùng chày giả cho đến khi nào vừa ý. Hạt gạo rất quí, coi như hột ngọc trời cho:
“Cày bừa vào buổi ban trưa,
Mồ hôi thấm ướt như mưa ruộng lầy.
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẽo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”
Thiếu nữ ngày xưa xay lúa không khác thiếu nữ ngày nay tập thể dục bằng máy để giữ eo thon, ngực nở. Hai tay cầm lấy vòng xay, đẩy tới kéo lui vận chuyển cho thớt trên cối xay quây tròn. Công việc giản dị như thế, nhưng việc làm thường xuyên nên tay chân dẽo dai, thân hình nở nang một cách tự nhiên:
“Con gái mười bảy,
Bẻ gãy sừng trâu.”
Ngày nay ở Mỹ, nghe các lò bánh cuốn quảng cáo: bánh ướt tráng tay tại chỗ ngon, mềm dẽo. Đúng vậy, bánh ướt do máy sản xuất làm sao ngon bằng bánh ướt tráng tay. Lá mì tráng tay đủ hai lớp lại càng ngon hơn, vừa dẽo vừa dòn và nhất là không bị gãy nát. Màu sắc trắng ngà hoặc sậm, chứ làm gì có màu vàng nghệ như hiện nay. Mì màu vàng cũng không làm tăng thêm phần ngon hơn chút nào. Vậy thì do đâu có màu vàng màu mè, làm mất đi cái vẻ tự nhiên khiêm tốn, mộc mạc nguyên thủy như thế?Vào thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Việt Minh phát động chiến dịch tiết kiệm, mỗi nhà bắt buộc phải có hủ gạo nuôi quân. Mỗi lần nấu cơm bớt ra nắm gạo cho vào hủ. Hằng tháng tổ phụ nữ đến tận nhà thâu đem về nộp kho. Gặp những năm mất mùa, đến nổi sắn khoai cũng không có mà ăn, gạo tìm đâu ra bỏ hủ. Để đáp ứng nhu cầu, lệnh cấm được ban ra, mọi nhà không được ăn mì và nhất là các quán mì tuyệt đối cấm không được bán. Bởi lẽ đó bánh tráng sắn mới rầm rộ xuất hiện. Phong trào bánh tráng sắn cuốn rau muống, chấm mắm cái phổ biến khắp mọi nơi. Không dừng ứng biến ở đó. Người ta tìm mọi cách để đáp ứng nhu cầu, bắp tẻ (bắp vàng) xay ra bột trộn thêm bột sắn cũng có thể tráng thành mì lá. Dù không ngon bằng mì gạo, nhưng có còn hơn không. Cái khó ló cái khôn. Bà con ta lấy bột nghệ trộn vào bột gạo để tráng mì, trông na ná giống mì bắp, qua mặt được con mắt theo dõi, dòm ngó cú vọ của bọn hăng say xu thời, báo cáo lập thành tích tranh công. Kể từ đó tô mì màu vàng xuất hiện một thời gian dài, cho đến khi thời Việt Nam Cộng Hòa ra đời, tô mì được tự do trở lại nguyên thủy màu gạo tự nhiên, không còn bị hạn chế, cấm đoán như xưa.
Bây giờ, Mì Quảng đi khắp nơi, ở miền nam Cali nhà hàng nào cũng có Mì Quảng, chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp cũng đều bán được cả. Tô mì thì quá lớn, dầu mỡ có thừa, tôm lột vỏ nguyên con lu bù, thịt heo bề bộn, thêm vào làm chi mấy lát chả không cần thiết... mặn và cay khỏi phải chê. Mì Quảng phải vừa ăn hay lạt để còn chỗ nêm vào chút nước mắm, cay quá làm sao còn thú vị thưởng thức vị cay thơm của trái ớt xanh. Đã là đàn bà, con gái Quảng Nam ai ai cũng có thể làm Mì Quảng, thậm chí đàn ông có khi làm cũng ngon không kém. Như vậy Mì Quảng phát xuất từ gốc Quảng Nam. Quảng Bình, Quảng Trị quá xa, vượt qua được đèo Hải Vân khó khăn lắm rồi. Quảng Ngãi tuy giáp ranh, nhưng cũng không thể nhận lấy cùng xuất xứ. Ngay cả cách gọi cũng khác nhau xa. Củ khoai lang gọi là củ, củ sắn gọi là khoai mì, ông ấy bà ấy gọi là nẩu....
Như thế, khi gọi “Mì Quảng” phải nghĩ đó là món ăn đặc sản, độc đáo chính gốc của xứ Quảng Nam; Mà chúng ta lấy làm tự hào, dự phần vào văn hóa ẩm thực, đã ghi vào dòng lịch sử Việt Nam muôn đời.-
Mì Quảng Nam cũng theo thời gian mà biến thể. Nguyên thủy thuần ròng từ hạt gạo làm nên. Gạo có khi trắng khi lứt, nên lá mì cũng theo màu của hạt gạo. Dù có màu gì đi nữa, lá mì nguyên thủy vẩn giữ được phẩm chất tinh khiết, ăn ngon miệng và bổ dưỡng. Ngày xưa làm gì có máy xay lúa. Lúa trở thành gạo nhờ cối xay để bóc lớp vỏ cứng bên ngoài. Muốn trắng đến cở nào, bỏ vào cối đá dùng chày giả cho đến khi nào vừa ý. Hạt gạo rất quí, coi như hột ngọc trời cho:
“Cày bừa vào buổi ban trưa,
Mồ hôi thấm ướt như mưa ruộng lầy.
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẽo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”
Thiếu nữ ngày xưa xay lúa không khác thiếu nữ ngày nay tập thể dục bằng máy để giữ eo thon, ngực nở. Hai tay cầm lấy vòng xay, đẩy tới kéo lui vận chuyển cho thớt trên cối xay quây tròn. Công việc giản dị như thế, nhưng việc làm thường xuyên nên tay chân dẽo dai, thân hình nở nang một cách tự nhiên:
“Con gái mười bảy,
Bẻ gãy sừng trâu.”
Ngày nay ở Mỹ, nghe các lò bánh cuốn quảng cáo: bánh ướt tráng tay tại chỗ ngon, mềm dẽo. Đúng vậy, bánh ướt do máy sản xuất làm sao ngon bằng bánh ướt tráng tay. Lá mì tráng tay đủ hai lớp lại càng ngon hơn, vừa dẽo vừa dòn và nhất là không bị gãy nát. Màu sắc trắng ngà hoặc sậm, chứ làm gì có màu vàng nghệ như hiện nay. Mì màu vàng cũng không làm tăng thêm phần ngon hơn chút nào. Vậy thì do đâu có màu vàng màu mè, làm mất đi cái vẻ tự nhiên khiêm tốn, mộc mạc nguyên thủy như thế?Vào thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Việt Minh phát động chiến dịch tiết kiệm, mỗi nhà bắt buộc phải có hủ gạo nuôi quân. Mỗi lần nấu cơm bớt ra nắm gạo cho vào hủ. Hằng tháng tổ phụ nữ đến tận nhà thâu đem về nộp kho. Gặp những năm mất mùa, đến nổi sắn khoai cũng không có mà ăn, gạo tìm đâu ra bỏ hủ. Để đáp ứng nhu cầu, lệnh cấm được ban ra, mọi nhà không được ăn mì và nhất là các quán mì tuyệt đối cấm không được bán. Bởi lẽ đó bánh tráng sắn mới rầm rộ xuất hiện. Phong trào bánh tráng sắn cuốn rau muống, chấm mắm cái phổ biến khắp mọi nơi. Không dừng ứng biến ở đó. Người ta tìm mọi cách để đáp ứng nhu cầu, bắp tẻ (bắp vàng) xay ra bột trộn thêm bột sắn cũng có thể tráng thành mì lá. Dù không ngon bằng mì gạo, nhưng có còn hơn không. Cái khó ló cái khôn. Bà con ta lấy bột nghệ trộn vào bột gạo để tráng mì, trông na ná giống mì bắp, qua mặt được con mắt theo dõi, dòm ngó cú vọ của bọn hăng say xu thời, báo cáo lập thành tích tranh công. Kể từ đó tô mì màu vàng xuất hiện một thời gian dài, cho đến khi thời Việt Nam Cộng Hòa ra đời, tô mì được tự do trở lại nguyên thủy màu gạo tự nhiên, không còn bị hạn chế, cấm đoán như xưa.
Bây giờ, Mì Quảng đi khắp nơi, ở miền nam Cali nhà hàng nào cũng có Mì Quảng, chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp cũng đều bán được cả. Tô mì thì quá lớn, dầu mỡ có thừa, tôm lột vỏ nguyên con lu bù, thịt heo bề bộn, thêm vào làm chi mấy lát chả không cần thiết... mặn và cay khỏi phải chê. Mì Quảng phải vừa ăn hay lạt để còn chỗ nêm vào chút nước mắm, cay quá làm sao còn thú vị thưởng thức vị cay thơm của trái ớt xanh. Đã là đàn bà, con gái Quảng Nam ai ai cũng có thể làm Mì Quảng, thậm chí đàn ông có khi làm cũng ngon không kém. Như vậy Mì Quảng phát xuất từ gốc Quảng Nam. Quảng Bình, Quảng Trị quá xa, vượt qua được đèo Hải Vân khó khăn lắm rồi. Quảng Ngãi tuy giáp ranh, nhưng cũng không thể nhận lấy cùng xuất xứ. Ngay cả cách gọi cũng khác nhau xa. Củ khoai lang gọi là củ, củ sắn gọi là khoai mì, ông ấy bà ấy gọi là nẩu....
Như thế, khi gọi “Mì Quảng” phải nghĩ đó là món ăn đặc sản, độc đáo chính gốc của xứ Quảng Nam; Mà chúng ta lấy làm tự hào, dự phần vào văn hóa ẩm thực, đã ghi vào dòng lịch sử Việt Nam muôn đời.-
1.Cơm gà Xứ Quảng
Gà là thực phẩm nhận được yêu thích vì dược tính lành và giá trị dinh dưỡng cao. Cơm gà là món ăn khoái khẩu, một món dân dã nhưng vô cùng tinh tế khi lên bếp.
Lựa được gà ngon, người xưa hài hước:“Gà đen chân trắng mẹ mắng cũng mua / Gà trắng chân chì, mua chi thứ ấy”.
Gà quê mang theo cái mỡ màng của đồng lúa vàng ngào ngạt, được chọn để chế biến. Lúc thưởng thức, từng thớ săn giòn, ngọt lịm và thơm ngút như sự tưởng thưởng từ đất mẹ dành cho những người con xa xứ.
Thưởng thức cơm gà xứ Quảng
Để cơm ngon, ăn mãi không chán, khi xới ra đĩa, từng hạt cơm phải tơi đủ để lưu lại nét e ấp, mượt mà của đồng nội sau công đoạn lựa chọn công phu: chọn, gút gạo và sử dụng nước luộc gà…
Nhón đũa gắp miếng hành chua, thêm ít ớt tương vào chén sốt có hương vị đặc trưng được chế biến dùng riêng cho cơm gà xứ Quảng, rưới đều lên dĩa cơm tỏa khói, chợt nghiệm ra cái hồn nhiên nhưng tinh túy của đất trời. Màu trắng nõn nà bên trong lớp da mỏng vàng tươm từ miếng gà luộc, sắc hồng ửng bởi hành ngâm, cay mãi còn cay là màu đỏ từ ớt tương, rau thơm (rau mùi) tươi xanh…tất cả hương, sắc, vị quyện lấy nhau. Bên chén canh nhỏ nóng hổi làm rạo rực và ấm lòng bao người con xa quê, càng hiểu ra giá trị ẩm thực Việt càng yêu quê, yêu đất, yêu người…
Mách nhỏ: thực khách thích món nướng sẽ không bao giờ quên được món cơm cánh gà nướng tại Quán Phượng - Cơm Gà Xứ Quảng. Ngoài ra, người sành ẩm thực, chuộng món quê có thể đặt mua các sản vật nổi tiếng: bánh tráng mè trắng, tương ớt Quảng Nam, tỏi Lý Sơn, bánh nổ Bà Chín, khô bò và các món chả "quết tay” từ thịt heo, thịt bò rất ngon miệng.
Lựa được gà ngon, người xưa hài hước:“Gà đen chân trắng mẹ mắng cũng mua / Gà trắng chân chì, mua chi thứ ấy”.
Gà quê mang theo cái mỡ màng của đồng lúa vàng ngào ngạt, được chọn để chế biến. Lúc thưởng thức, từng thớ săn giòn, ngọt lịm và thơm ngút như sự tưởng thưởng từ đất mẹ dành cho những người con xa xứ.
Thưởng thức cơm gà xứ Quảng
Để cơm ngon, ăn mãi không chán, khi xới ra đĩa, từng hạt cơm phải tơi đủ để lưu lại nét e ấp, mượt mà của đồng nội sau công đoạn lựa chọn công phu: chọn, gút gạo và sử dụng nước luộc gà…
Nhón đũa gắp miếng hành chua, thêm ít ớt tương vào chén sốt có hương vị đặc trưng được chế biến dùng riêng cho cơm gà xứ Quảng, rưới đều lên dĩa cơm tỏa khói, chợt nghiệm ra cái hồn nhiên nhưng tinh túy của đất trời. Màu trắng nõn nà bên trong lớp da mỏng vàng tươm từ miếng gà luộc, sắc hồng ửng bởi hành ngâm, cay mãi còn cay là màu đỏ từ ớt tương, rau thơm (rau mùi) tươi xanh…tất cả hương, sắc, vị quyện lấy nhau. Bên chén canh nhỏ nóng hổi làm rạo rực và ấm lòng bao người con xa quê, càng hiểu ra giá trị ẩm thực Việt càng yêu quê, yêu đất, yêu người…
Mách nhỏ: thực khách thích món nướng sẽ không bao giờ quên được món cơm cánh gà nướng tại Quán Phượng - Cơm Gà Xứ Quảng. Ngoài ra, người sành ẩm thực, chuộng món quê có thể đặt mua các sản vật nổi tiếng: bánh tráng mè trắng, tương ớt Quảng Nam, tỏi Lý Sơn, bánh nổ Bà Chín, khô bò và các món chả "quết tay” từ thịt heo, thịt bò rất ngon miệng.