Đoàn Ngọc Nam
Sinh ngay 01 tháng 9 năm 1945 (40) Tại làng Xuân Đài, Điện Bàn, QN
Cựu HS/TQC/HA (1957-1964) Cựu Đại Úy CSQG/VNCH. Đến Mỹ (HO) ngày 12-6-1991. Hiện cư ngụ tại Cerritos, Los Angeles
Sinh ngay 01 tháng 9 năm 1945 (40) Tại làng Xuân Đài, Điện Bàn, QN
Cựu HS/TQC/HA (1957-1964) Cựu Đại Úy CSQG/VNCH. Đến Mỹ (HO) ngày 12-6-1991. Hiện cư ngụ tại Cerritos, Los Angeles
34. Họa Thơ: Dã Thảo (TTQ)
Có Phải Xuân Về
Mỏng manh sương trắng đầu cành,
Phớt bay nhẹ bám bao quanh nụ hồng.
Nắng xuân xua đuổi mưa đông,
Tĩnh mơ vội vã lìa hồng sương tan.
Gió lay hoa cúc mơ màng,
Giật mình khẽ hỏi xuân sang bao giờ.
Hình như tôi ở trong mơ,
Ra đi cách biệt sang bờ ly tan.
Nắng hồng sưởi ấm không gian,
Vì sao tôi mãi lang thang mịt mù.
Đeo sầu chi chuyện phù du,
Xuân sang có hay, ngủ ru mộng tình.
ĐNN
(Họa tặng chị Quế & Wally)
Thở Dài
Vườn xuân nào có bướm vàng,
Đón xuân làm bạn bên nàng Thủy Tiên.
Nắng xuân chẳng ấm khắp miền,
Ngày xuân nhớ ai, ưu phiền biết bao?
Lòng ta dạo ấy xôn xao,
Nửa chừng xuân gãy cành đào non Tiên.
Ra đi quảy gánh buồn riêng,
Mong đừng hờn trách bạn hiền năm xưa!
Ông trời trút xuống cơn mưa,
Ngồi nhà lại nhớ tình xưa chúng mình.
Bướm hoa gần gũi tỏ tình,
Tuổi xuân đầy mộng bình minh tuyệt vời…!
ĐNN
Có Phải Xuân Về
Mỏng manh sương trắng đầu cành,
Phớt bay nhẹ bám bao quanh nụ hồng.
Nắng xuân xua đuổi mưa đông,
Tĩnh mơ vội vã lìa hồng sương tan.
Gió lay hoa cúc mơ màng,
Giật mình khẽ hỏi xuân sang bao giờ.
Hình như tôi ở trong mơ,
Ra đi cách biệt sang bờ ly tan.
Nắng hồng sưởi ấm không gian,
Vì sao tôi mãi lang thang mịt mù.
Đeo sầu chi chuyện phù du,
Xuân sang có hay, ngủ ru mộng tình.
ĐNN
(Họa tặng chị Quế & Wally)
Thở Dài
Vườn xuân nào có bướm vàng,
Đón xuân làm bạn bên nàng Thủy Tiên.
Nắng xuân chẳng ấm khắp miền,
Ngày xuân nhớ ai, ưu phiền biết bao?
Lòng ta dạo ấy xôn xao,
Nửa chừng xuân gãy cành đào non Tiên.
Ra đi quảy gánh buồn riêng,
Mong đừng hờn trách bạn hiền năm xưa!
Ông trời trút xuống cơn mưa,
Ngồi nhà lại nhớ tình xưa chúng mình.
Bướm hoa gần gũi tỏ tình,
Tuổi xuân đầy mộng bình minh tuyệt vời…!
ĐNN
XE GIÓ
ngăn sông thác nước tạo ra
đẩy đưa xe gió quây qua nhiều vòng
chúc xuống múc nước vào trong
mang lên đầy ống rót lòng xối treo
đêm ngày chạy mãi nương theo
nguồn nước bất tận vượt trèo ruộng nương
ếch nhái kết bạn ểnh ương
rủ nhau hòa tấu “cung thương” khắp vùng
chồng cày vợ cấy ung dung
xế trưa đứng bóng thủy chung ngồi bờ
được mùa mừng sướng như mơ
mái tranh dột nát đợi chờ bấy lâu
giờ đây thỏa mãn lo âu
ruộng mà có nước còn cầu nỗi chi
thu bồn nước ngọt nguyên y
bóng hình xe gió mất đi lâu rồi
ĐNN
ngăn sông thác nước tạo ra
đẩy đưa xe gió quây qua nhiều vòng
chúc xuống múc nước vào trong
mang lên đầy ống rót lòng xối treo
đêm ngày chạy mãi nương theo
nguồn nước bất tận vượt trèo ruộng nương
ếch nhái kết bạn ểnh ương
rủ nhau hòa tấu “cung thương” khắp vùng
chồng cày vợ cấy ung dung
xế trưa đứng bóng thủy chung ngồi bờ
được mùa mừng sướng như mơ
mái tranh dột nát đợi chờ bấy lâu
giờ đây thỏa mãn lo âu
ruộng mà có nước còn cầu nỗi chi
thu bồn nước ngọt nguyên y
bóng hình xe gió mất đi lâu rồi
ĐNN
Mì Gánh
Mì gánh dạo bán khắp nơi,
Mời anh ngồi xuống ăn chơi lót lòng.
Mở hàng đắt khách ước mong,
Đến trưa đòn gánh bớt cong mừng thầm.
Trã nhưn hâm hẩm sôi râm,
Tôm rằn cua lột cà bằm quyện theo.
Béo thêm ba chỉ thịt heo,
Rau thơm muống chẻ cong queo hành ngò.
Ớt xanh trêu cợt pha trò,
Rằng cay, cô chủ giả đò nói không.
Tô mì mộc mạc hao công,
Xay bột mì tráng đợi trông ai chừ.
Ai rãnh có dám nói ừ,
Chân quê đáp trả ngần ngừ cười duyên.
Đậu rang bánh nướng để riêng,
Khẻ tay nhẹ bóp kẽo phiền lòng nhau.
Tay bưng nâng bát trộn rau,
Tô mì cạn nước rời mau về nhà,
Mến nhau câu nói thật thà,
Lần sau nhớ ghé mì gà ngon hơn.
Ra về lưu luyến cám ơn,
Quảng Nam mì gánh ngon trơn đói lòng.
ĐNN
Mì gánh dạo bán khắp nơi,
Mời anh ngồi xuống ăn chơi lót lòng.
Mở hàng đắt khách ước mong,
Đến trưa đòn gánh bớt cong mừng thầm.
Trã nhưn hâm hẩm sôi râm,
Tôm rằn cua lột cà bằm quyện theo.
Béo thêm ba chỉ thịt heo,
Rau thơm muống chẻ cong queo hành ngò.
Ớt xanh trêu cợt pha trò,
Rằng cay, cô chủ giả đò nói không.
Tô mì mộc mạc hao công,
Xay bột mì tráng đợi trông ai chừ.
Ai rãnh có dám nói ừ,
Chân quê đáp trả ngần ngừ cười duyên.
Đậu rang bánh nướng để riêng,
Khẻ tay nhẹ bóp kẽo phiền lòng nhau.
Tay bưng nâng bát trộn rau,
Tô mì cạn nước rời mau về nhà,
Mến nhau câu nói thật thà,
Lần sau nhớ ghé mì gà ngon hơn.
Ra về lưu luyến cám ơn,
Quảng Nam mì gánh ngon trơn đói lòng.
ĐNN
“Cái học nhà nho đã hỏng rồi,
Mười người đi học chín người thôi.
Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thầy khóa tư lương nhấp nhỏm ngồi.”
Trần Tế Xương
Chữ Quốc Ngữ
Ngày xưa dân Việt học chữ nho
Hán tự khó học viết quanh co
Hàn Thuyên soạn nôm đọc âm Việt*
Chữ nôm thêm rắc rối tập tò
Đến hồi tây phương sang truyền Đạo
Giáo Sĩ Đắc Lộ có công to**
Mẫu tự la tinh vần Quốc Ngữ
Đọc thông viết thạo giới học trò
ĐNN
* Hàn Thuyên, tên thật Nguyễn Thuyên,
Thượng thư Bộ hình.
Thời vua Trần Nhân Tông 1258 – 1308.
**Alexandre de Rhocdes
Giáo Sĩ dòng tên Bồ Đồ Nha.
Mười người đi học chín người thôi.
Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thầy khóa tư lương nhấp nhỏm ngồi.”
Trần Tế Xương
Chữ Quốc Ngữ
Ngày xưa dân Việt học chữ nho
Hán tự khó học viết quanh co
Hàn Thuyên soạn nôm đọc âm Việt*
Chữ nôm thêm rắc rối tập tò
Đến hồi tây phương sang truyền Đạo
Giáo Sĩ Đắc Lộ có công to**
Mẫu tự la tinh vần Quốc Ngữ
Đọc thông viết thạo giới học trò
ĐNN
* Hàn Thuyên, tên thật Nguyễn Thuyên,
Thượng thư Bộ hình.
Thời vua Trần Nhân Tông 1258 – 1308.
**Alexandre de Rhocdes
Giáo Sĩ dòng tên Bồ Đồ Nha.
Đàn Gãy Tai Trâu
Sinh ra làm kiếp thân trâu,
Tai to bụng lớn nhu cầu nghề nông.
Cày bừa ngọn cỏ trả công,
Nắng mưa chẳng quản bên ông trai cày.
Hò rì hò tắc thẳng ngay,
Lội ruộng bì bõm cuối ngày mới lơi.
Nắm đuôi lạc ngõ tìm nơi,
Về chuồng nhá cỏ nghỉ ngơi chái hè.
Đến hồi cạn sức đạp che,
Trống da thúc giục đua ghe đánh thùng.
Ngày vui còn nhớ thủy chung,
Ta đây trâu đó sống cùng bên nhau.
Thôi đành hẹn lại mai sau,
Lai sinh tái ngộ mời cau ăn trầu.
Đánh đàn chi nữa tai trâu,
Khác nào đối thoại người đầu trống trơn.
Kẻ khôn phân biệt giả chơn,
Trâu ngu tai điếc gãy đờn uổng công.
ĐNN
Sinh ra làm kiếp thân trâu,
Tai to bụng lớn nhu cầu nghề nông.
Cày bừa ngọn cỏ trả công,
Nắng mưa chẳng quản bên ông trai cày.
Hò rì hò tắc thẳng ngay,
Lội ruộng bì bõm cuối ngày mới lơi.
Nắm đuôi lạc ngõ tìm nơi,
Về chuồng nhá cỏ nghỉ ngơi chái hè.
Đến hồi cạn sức đạp che,
Trống da thúc giục đua ghe đánh thùng.
Ngày vui còn nhớ thủy chung,
Ta đây trâu đó sống cùng bên nhau.
Thôi đành hẹn lại mai sau,
Lai sinh tái ngộ mời cau ăn trầu.
Đánh đàn chi nữa tai trâu,
Khác nào đối thoại người đầu trống trơn.
Kẻ khôn phân biệt giả chơn,
Trâu ngu tai điếc gãy đờn uổng công.
ĐNN
Bánh Xèo
Bánh gì nghe đổ cái xèo,
Bên kia tường vách muốn trèo qua xem.
Đúc bánh dầu dính tay em,
Ngon dỡ chưa biết mà thèm chi đây?
Phải lòng nên cũng vui lây,
Lần sau lui tới dĩa đầy mời anh.
Tôm bạc đỏ thắm rải quanh,
Thêm thịt heo mỡ phân ranh đôi đường.
Giá tươi rấm cát sau vườn,
Rắc vào giữa chão ngọt đường mắm pha.
Bột gạo xay cối tại nhà,
Tháng mười trời lạnh chu choa ấm lòng.
Xa quê chạnh nhớ lòng vòng,
Bao giờ về lại thỏa mong đợi chờ.
Gặp nhau sao quá tình cờ,
Chủ quán ngồi đó đâu ngờ rằng em.
Bánh xèo bán kèm chả nem,
Không ngon bằng thuở êm đềm ngày xưa!
Đoàn Ngọc Nam
Bánh gì nghe đổ cái xèo,
Bên kia tường vách muốn trèo qua xem.
Đúc bánh dầu dính tay em,
Ngon dỡ chưa biết mà thèm chi đây?
Phải lòng nên cũng vui lây,
Lần sau lui tới dĩa đầy mời anh.
Tôm bạc đỏ thắm rải quanh,
Thêm thịt heo mỡ phân ranh đôi đường.
Giá tươi rấm cát sau vườn,
Rắc vào giữa chão ngọt đường mắm pha.
Bột gạo xay cối tại nhà,
Tháng mười trời lạnh chu choa ấm lòng.
Xa quê chạnh nhớ lòng vòng,
Bao giờ về lại thỏa mong đợi chờ.
Gặp nhau sao quá tình cờ,
Chủ quán ngồi đó đâu ngờ rằng em.
Bánh xèo bán kèm chả nem,
Không ngon bằng thuở êm đềm ngày xưa!
Đoàn Ngọc Nam
33. Tạ Ơn
Tạ ơn đất nước Cờ Hoa,
Cưu mang trợ giúp chúng ta quá nhiều.
Tinh thần vật chất đủ điều,
Thoát nạn cộng sản sớm chiều thảnh thơi.
Tạ ơn đất nước Việt Nam,
Sản sinh giòng giống không cam cúi đầu.
Đồng lòng như một bấy lâu,
Ngoại bang xâm lấn yêu cầu hy sinh.
Tạ ơn các bạn đồng môn,
Trường xưa vẫn nhớ sư tôn chân thành.
Bạn bè nhớ lại rành rành,
Mặc dầu khác lớp cùng cành mà ra.
Tạ ơn các bạn đồng hương,
Cùng chung số phận tai ương nước nhà.
Nhớ ơn chiến sĩ cộng hòa,
Hy sinh bảo vệ chúng ta một thời.
Tạ ơn người bạn chung tình,
Giầm sương giải nắng một mình lo toan.
Nuôi con khôn lớn giỏi ngoan,
Thân cò lặn lội rừng hoang nuôi chồng.
ĐNN
Tạ ơn đất nước Cờ Hoa,
Cưu mang trợ giúp chúng ta quá nhiều.
Tinh thần vật chất đủ điều,
Thoát nạn cộng sản sớm chiều thảnh thơi.
Tạ ơn đất nước Việt Nam,
Sản sinh giòng giống không cam cúi đầu.
Đồng lòng như một bấy lâu,
Ngoại bang xâm lấn yêu cầu hy sinh.
Tạ ơn các bạn đồng môn,
Trường xưa vẫn nhớ sư tôn chân thành.
Bạn bè nhớ lại rành rành,
Mặc dầu khác lớp cùng cành mà ra.
Tạ ơn các bạn đồng hương,
Cùng chung số phận tai ương nước nhà.
Nhớ ơn chiến sĩ cộng hòa,
Hy sinh bảo vệ chúng ta một thời.
Tạ ơn người bạn chung tình,
Giầm sương giải nắng một mình lo toan.
Nuôi con khôn lớn giỏi ngoan,
Thân cò lặn lội rừng hoang nuôi chồng.
ĐNN
Gặp lại Cố Nhân
Về đêm phố cổ Hội An,
Đèn mờ đủ sáng quá giang tìm người.
Ra đi để nhớ thương mười,
Trở về tìm lại nụ cười cố nhân.
Bao năm lưu lạc xa gần,
Dõi theo hình bóng ân cần dọ thăm.
Người ơi sao nở biệt tăm!
Để thương gieo nhớ buồn căm não nùng.
Ngờ đâu tao ngộ trùng phùng,
Chúng mình gặp lại vô cùng mừng vui.
Bây giờ tính chuyện làm sui,
Bên tôi nhà gái chị vui không nè?
Không duyên chắp nối bạn bè,
Năm xưa rảo bước trưa hè nhớ chăng?
ĐNN
Về đêm phố cổ Hội An,
Đèn mờ đủ sáng quá giang tìm người.
Ra đi để nhớ thương mười,
Trở về tìm lại nụ cười cố nhân.
Bao năm lưu lạc xa gần,
Dõi theo hình bóng ân cần dọ thăm.
Người ơi sao nở biệt tăm!
Để thương gieo nhớ buồn căm não nùng.
Ngờ đâu tao ngộ trùng phùng,
Chúng mình gặp lại vô cùng mừng vui.
Bây giờ tính chuyện làm sui,
Bên tôi nhà gái chị vui không nè?
Không duyên chắp nối bạn bè,
Năm xưa rảo bước trưa hè nhớ chăng?
ĐNN
32. Quê Hương & Kỷ Niệm
ĐOÀN NGỌC NAM
Quê Hương là nơi chôn nhau cắt rốn, lớn lên và trưởng thành. Nói rộng ra còn có biết bao nhiêu điều liên quan đến, để thương để nhớ, đã ghi sâu vào ký ức của một đời người khó quên. Nơi đó không thiếu dấu vết bàn chân, chạy nhãy tung tăng của một thờ thơi ấu với chúng bạn cùng trang lứa, hang cùng ngõ hẽm nào cũng lội qua. Con sông quê chảy qua như một kho tàng nước uống, không bao giờ cạn kiệt, hàng năm dâng nước lụt đến xóm làng, tô bồi thêm màu mỡ cho đất Tổ, quê Cha. Bãi cát rộng thênh thang làm nơi nô đùa trong những buổi chiều nắng hạ, với những trận đá banh, giành nhau mồ hôi nhuễ nhoại, để rồi tắm sông nô đùa thỏa thích. Bóng mát cây đa là nơi quây quần chơi trò trốn kiếm, bịt mắt bắt dê. Len lỏi lội men theo lũy tre làng, rủ nhau tìm chim bắn ná thi tài, tìm mọi cách leo lên tổ chim dồn dột, treo lơ lửng trên ngọn cây tre cao vút, bắt chim con về nuôi. Ra ao nước hồ xe trâu câu cá: tràu, rô, diếc… đủ loại vui biêt mấy. Trường làng là nơi đầu tiên bập bẹ i tờ, bịn rịn không muốn rời xa mẹ dù trong chốc lác. Quê Hương là tiếng khóc chào đời, câu hát ầu ơi mẹ ru con ngủ, đòn roi mỗi lần hoan nghịch, lười biếng đi đến trường trên con đường cái của làng, đã quen đi lại lắm lần. Quê Hương là hàng cau, giàn trầu của mẹ, trầu cau chia xẻ ngọt bùi hàng xóm láng giềng, tối lửa tắt đèn có nhau.
Quê Hương Xuân Đài của tôi, không năm nào tránh khỏi nạn nước lụt, tràn ngập xóm làng. Sông Thu Bồn chảy đến Giao Thủy, chia ra hai nhánh: sông trước rẽ tay mặt chảy qua cầu Chiêm Sơn, sông sau rẽ tay trái chảy qua cầu Kỳ Lam để rồi cùng nhau nhập lại vùng Thi Lai, Hà Mật trước khi chảy ra biển Cửa Đại. Đó là khu Gò Nổi thuộc Quận Điền Bàn, tỉnh Quảng Nam, vùng đất được coi như trù phú nhất trong tỉnh, cư dân đông đúc, sinh sống bằng đủ ngành nghề, nông nghiệp nối gót ông cha cày sâu cuốc bẩm, kỷ nghệ tìm tòi phát triển theo kịp trào lưu. Khách viếng thăm vùng Gò Nổi, từ hướng đông lên bến đò Điện Bình, hướng tây xuống bến đò Ông Đốc, hướng bắc vào bến đò Kỳ Lam, hướng nam qua không cần đi đò ngang, nhiều chỗ nước cạn lội qua dễ dàng. Làng tôi không rộng lắm, do ba ông Tiền Hiền Phạm, Đoàn, Huỳnh đến đây đầu tiên khai khẩn đất hoang lập nghiệp. Làng chia ra bốn xóm: Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi xóm có miếu riêng thờ Thần. Mỗi họ đều có nhà thờ, xuân thu nhị kỳ tế lễ hằng năm, để nhớ ơn Tổ Tiên đã sinh sản ra giòng họ. Trong làng còn có đình làng là nơi thờ phụng các Ông Tổ, đã có công xây dựng nên làng xóm, mà kẻ hậu sinh được thừa hưởng ngày nay. Các Vị Tiền Hiền đều theo Chúa Nguyễn vào nam lập nghiệp, kể từ đó đến nay Tộc Đoàn Xuân Đài sinh hạ đến đời thứ mười bảy. Càng ngày con cháu càng đông, nên một số lớn phải ra đi nơi khác làm ăn, song không bao giờ quên ngày Giỗ Tổ, ngày 25 tháng giêng âm lịch hàng năm trở về. Trước kính viếng Tiền Nhân, dâng hương Ông Bà, sau hàn huyên tâm sự cùng bà con cho thỏa lòng mong đợi, là dịp xưng hô thứ lớp phân minh, dạ thưa cho đúng phép tắc trên dưới theo gia phả lưu truyền. Từ xưa đến nay đã qua bốn lần xây dựng nhà thờ Họ Đoàn Xuân Đài. Ngôi nhà thờ hiện giờ khang trang bề thế nhất từ trước đến nay, từ bên ngoài cho đến bên trong, đều giữ lại phong cách cổ xưa và hiện đại hóa cho thích hợp với trào lưu mới, không lạc hậu. Trong lần xây dựng nầy, bà con trong tộc đồng lòng tham gia nhiệt tình, bỏ công của để xây dựng một ngôi Nhà Thờ xứng đáng với đẳng cấp Tiền Hiền. Gia Tộc ghi công con cháu ở hải ngoại, đã đóng góp một số ngân quỷ dồi dào, mới làm nên cơ ngôi thờ phụng khang trang, huy hoàng như hiện nay.
Ông bà nội tôi được bà con trong làng nể trọng, gia đinh đông con, ăn nên làm ra nổi tiếng nhất vùng. Nhất là bà nội họ Hồ ở Đông Bàn, có lòng thương người, bà con trong làng kính phục và nhắc nhở đức tính tốt cho con cháu noi theo. Mùa nước lụt, bà cho trai bạn bơi ghe đến từng nhà người nghèo khổ, cho cơm hoặc bắp hầm đậu đen ăn chờ nước lụt dựt ra khỏi nhà. Cô hai đầu lòng có chồng họ Phan ở làng Bảo An, con đông nên được bên ngoại giúp đỡ thường xuyên. Cô thứ ba có chồng họ Châu ở Hội An, ghe lên ghe xuống, thường về lo ngày giỗ kỵ trong nhà. Bác thứ bốn do ông xã Ban người trong họ mai mối, cưới được bà họ Lê ở Hoán Mỹ, sui gia tương xứng ông bà nội vui lòng. Cô thứ năm có chồng họ Phan ở Bảo An gần làng, chồng cô thầy giáo đương thời, các con đều thành đạt, quyến luyến và thân thiện bên ngoại từ hồi nào tới giờ. Bác thứ sáu cưới bà họ Phan ở Bảo An, ông làm nhà dây thép (bưu điện) ở Tuy Hòa, mỗi lần về quê thường mặc âu phục, khác với người trong làng, trong nhà thường gọi bác Thông (thông phán), bác dẫn dắt các cháu đi chơi quanh xóm và cho tiền mua bánh mì xú, kẹo ú ăn thỏa thích. Bác thứ bảy cưới bà họ Trần ở Phong Thử, gia đình bên ngoại đều những người thành danh, hai bác đều thương yêu con cháu trong nhà lắm, mỗi lần về quê thường ở chơi lâu ngày, anh em trò chuyện với nhau đắt ý, vui vẻ mặn nồng. Thứ tám Cậu (Cha) tôi không đi đâu xa, cứ làm rể họ Phan ở Bảo An cho gần. Ông bà ngoại qua đời, để lại ruộng đất và cơ ngơi đồ sộ cho các cậu nối tiếp sự nghiệp đã giàu công tạo dựng, làm nên. Chú thứ chín nghe lời ông bà nội cưới vợ họ Nguyễn ở Bàn Lãnh, ý định cai quản một số ruộng đất của nhà mình cho tiện, nhưng sự đời có ai ngờ, cuối cùng dọn về Xuân Đài sinh sống nghề thợ may. Hiện giờ đại gia đình ông bà nội chỉ còn một mình Thiếm Tôn, năm nay 99 tuổi mà còn minh mẫn quá chừng. Cuối cùng bà cô thứ mười mất sớm từ khi còn nhỏ.
Quê Hương là nơi chôn nhau cắt rốn, lớn lên và trưởng thành. Nói rộng ra còn có biết bao nhiêu điều liên quan đến, để thương để nhớ, đã ghi sâu vào ký ức của một đời người khó quên. Nơi đó không thiếu dấu vết bàn chân, chạy nhãy tung tăng của một thờ thơi ấu với chúng bạn cùng trang lứa, hang cùng ngõ hẽm nào cũng lội qua. Con sông quê chảy qua như một kho tàng nước uống, không bao giờ cạn kiệt, hàng năm dâng nước lụt đến xóm làng, tô bồi thêm màu mỡ cho đất Tổ, quê Cha. Bãi cát rộng thênh thang làm nơi nô đùa trong những buổi chiều nắng hạ, với những trận đá banh, giành nhau mồ hôi nhuễ nhoại, để rồi tắm sông nô đùa thỏa thích. Bóng mát cây đa là nơi quây quần chơi trò trốn kiếm, bịt mắt bắt dê. Len lỏi lội men theo lũy tre làng, rủ nhau tìm chim bắn ná thi tài, tìm mọi cách leo lên tổ chim dồn dột, treo lơ lửng trên ngọn cây tre cao vút, bắt chim con về nuôi. Ra ao nước hồ xe trâu câu cá: tràu, rô, diếc… đủ loại vui biêt mấy. Trường làng là nơi đầu tiên bập bẹ i tờ, bịn rịn không muốn rời xa mẹ dù trong chốc lác. Quê Hương là tiếng khóc chào đời, câu hát ầu ơi mẹ ru con ngủ, đòn roi mỗi lần hoan nghịch, lười biếng đi đến trường trên con đường cái của làng, đã quen đi lại lắm lần. Quê Hương là hàng cau, giàn trầu của mẹ, trầu cau chia xẻ ngọt bùi hàng xóm láng giềng, tối lửa tắt đèn có nhau.
Quê Hương Xuân Đài của tôi, không năm nào tránh khỏi nạn nước lụt, tràn ngập xóm làng. Sông Thu Bồn chảy đến Giao Thủy, chia ra hai nhánh: sông trước rẽ tay mặt chảy qua cầu Chiêm Sơn, sông sau rẽ tay trái chảy qua cầu Kỳ Lam để rồi cùng nhau nhập lại vùng Thi Lai, Hà Mật trước khi chảy ra biển Cửa Đại. Đó là khu Gò Nổi thuộc Quận Điền Bàn, tỉnh Quảng Nam, vùng đất được coi như trù phú nhất trong tỉnh, cư dân đông đúc, sinh sống bằng đủ ngành nghề, nông nghiệp nối gót ông cha cày sâu cuốc bẩm, kỷ nghệ tìm tòi phát triển theo kịp trào lưu. Khách viếng thăm vùng Gò Nổi, từ hướng đông lên bến đò Điện Bình, hướng tây xuống bến đò Ông Đốc, hướng bắc vào bến đò Kỳ Lam, hướng nam qua không cần đi đò ngang, nhiều chỗ nước cạn lội qua dễ dàng. Làng tôi không rộng lắm, do ba ông Tiền Hiền Phạm, Đoàn, Huỳnh đến đây đầu tiên khai khẩn đất hoang lập nghiệp. Làng chia ra bốn xóm: Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi xóm có miếu riêng thờ Thần. Mỗi họ đều có nhà thờ, xuân thu nhị kỳ tế lễ hằng năm, để nhớ ơn Tổ Tiên đã sinh sản ra giòng họ. Trong làng còn có đình làng là nơi thờ phụng các Ông Tổ, đã có công xây dựng nên làng xóm, mà kẻ hậu sinh được thừa hưởng ngày nay. Các Vị Tiền Hiền đều theo Chúa Nguyễn vào nam lập nghiệp, kể từ đó đến nay Tộc Đoàn Xuân Đài sinh hạ đến đời thứ mười bảy. Càng ngày con cháu càng đông, nên một số lớn phải ra đi nơi khác làm ăn, song không bao giờ quên ngày Giỗ Tổ, ngày 25 tháng giêng âm lịch hàng năm trở về. Trước kính viếng Tiền Nhân, dâng hương Ông Bà, sau hàn huyên tâm sự cùng bà con cho thỏa lòng mong đợi, là dịp xưng hô thứ lớp phân minh, dạ thưa cho đúng phép tắc trên dưới theo gia phả lưu truyền. Từ xưa đến nay đã qua bốn lần xây dựng nhà thờ Họ Đoàn Xuân Đài. Ngôi nhà thờ hiện giờ khang trang bề thế nhất từ trước đến nay, từ bên ngoài cho đến bên trong, đều giữ lại phong cách cổ xưa và hiện đại hóa cho thích hợp với trào lưu mới, không lạc hậu. Trong lần xây dựng nầy, bà con trong tộc đồng lòng tham gia nhiệt tình, bỏ công của để xây dựng một ngôi Nhà Thờ xứng đáng với đẳng cấp Tiền Hiền. Gia Tộc ghi công con cháu ở hải ngoại, đã đóng góp một số ngân quỷ dồi dào, mới làm nên cơ ngôi thờ phụng khang trang, huy hoàng như hiện nay.
Ông bà nội tôi được bà con trong làng nể trọng, gia đinh đông con, ăn nên làm ra nổi tiếng nhất vùng. Nhất là bà nội họ Hồ ở Đông Bàn, có lòng thương người, bà con trong làng kính phục và nhắc nhở đức tính tốt cho con cháu noi theo. Mùa nước lụt, bà cho trai bạn bơi ghe đến từng nhà người nghèo khổ, cho cơm hoặc bắp hầm đậu đen ăn chờ nước lụt dựt ra khỏi nhà. Cô hai đầu lòng có chồng họ Phan ở làng Bảo An, con đông nên được bên ngoại giúp đỡ thường xuyên. Cô thứ ba có chồng họ Châu ở Hội An, ghe lên ghe xuống, thường về lo ngày giỗ kỵ trong nhà. Bác thứ bốn do ông xã Ban người trong họ mai mối, cưới được bà họ Lê ở Hoán Mỹ, sui gia tương xứng ông bà nội vui lòng. Cô thứ năm có chồng họ Phan ở Bảo An gần làng, chồng cô thầy giáo đương thời, các con đều thành đạt, quyến luyến và thân thiện bên ngoại từ hồi nào tới giờ. Bác thứ sáu cưới bà họ Phan ở Bảo An, ông làm nhà dây thép (bưu điện) ở Tuy Hòa, mỗi lần về quê thường mặc âu phục, khác với người trong làng, trong nhà thường gọi bác Thông (thông phán), bác dẫn dắt các cháu đi chơi quanh xóm và cho tiền mua bánh mì xú, kẹo ú ăn thỏa thích. Bác thứ bảy cưới bà họ Trần ở Phong Thử, gia đình bên ngoại đều những người thành danh, hai bác đều thương yêu con cháu trong nhà lắm, mỗi lần về quê thường ở chơi lâu ngày, anh em trò chuyện với nhau đắt ý, vui vẻ mặn nồng. Thứ tám Cậu (Cha) tôi không đi đâu xa, cứ làm rể họ Phan ở Bảo An cho gần. Ông bà ngoại qua đời, để lại ruộng đất và cơ ngơi đồ sộ cho các cậu nối tiếp sự nghiệp đã giàu công tạo dựng, làm nên. Chú thứ chín nghe lời ông bà nội cưới vợ họ Nguyễn ở Bàn Lãnh, ý định cai quản một số ruộng đất của nhà mình cho tiện, nhưng sự đời có ai ngờ, cuối cùng dọn về Xuân Đài sinh sống nghề thợ may. Hiện giờ đại gia đình ông bà nội chỉ còn một mình Thiếm Tôn, năm nay 99 tuổi mà còn minh mẫn quá chừng. Cuối cùng bà cô thứ mười mất sớm từ khi còn nhỏ.
Năm 1945 chiến tranh bùng nổ, năm đó tôi mới lên 5, chị hai Giám mới 16 tuổi đã có chồng, ngày đám cưới chị tôi không biết gì hơn ngoài thích xem con heo nạp lễ “thỉnh kỳ”, nhốt trong củi đặt trước sân nhà. Còn lại chị ba (Khiết), chị bốn (Nguyên) và hai em Nữ và Nhi được cậu mẹ đùm bọc đi tản cư lánh nạn, xa tận đến Bình Kiều, Tí, Sé, Dùi Chiên, Bình Yên, Phú Gia… nay đây mai đó không nhất định nơi nào, dù ở đâu cũng bóm theo nghề dệt sinh sống qua ngày. Khi gia đình ở Phú Hanh, tôi thường theo cậu đi mua vải sợi ở chợ Phú Thuận từ 3 giờ sáng để tránh máy bay oanh tạc. Nhớ mỗi lần xuống hầm trú ẩn, nghe tiếng máy bay sà xuống bắn, cả nhà đều mắc tiểu quýnh lên, nhiều khi tè ngay dưới hầm. Có lần ba anh em dẫn nhau lên Trung Phước thăm anh chị Lịnh, vừa lên khỏi ghe bị trạm kiểm soát bắt giữ, vì trong túi áo có mấy tờ truyền đơn từ trên máy bay thả xuống, lượm cất để chơi vì thấy đẹp quá. Họ nói bắt được “việt gian” nghe bắt sợ run cả người, sau nhờ ông Trình bảo lãnh mới được tha. Sống vùng “tự do” đến năm 48-49 đành phải trở về quê, vì chỉ quê mình mới có đường sinh sống thuận lợi hơn. Sống vùng “bị chiếm” không còn lo sợ máy bay oanh tạc như vùng tự do. Nhưng hằng đêm cũng phải thức dậy xuống hầm trú ẩn, trốn đạn trong đồn bắn ra hay đại bác các nơi bắm yểm trợ cho đồn Xuân Đài. Có một lần, ban ngày mà cũng bị máy bay bắn quanh đồn, nhà ngói nào cũng bị bắn từ phía trước vào, tại miễu xóm tây học trò trong làng đang học cũng bị bắn, thằng Thuyền chết ngay tại chỗ, con Cống gãy mất một chân, tôi và hai em thoát chết chạy về khóc bù loa, từ đó bỏ học luôn. Rồi đồn Xuân Đài cùng đồn Vân Ly bị đánh một lượt, sau đó không bao lâu quân Pháp chiếm trở lại, lần nầy đồn kiên cố hơn, lô cốt đúc bằng xi măng cốt sắt, hàng rào bằng dây kẽm gai bao chung quanh, giữa hai lớp hàng rào có gài mìn hộp bằng nhựa dày đặc. Lần Tây tấn công chiếm lại đồn, cậu tôi bị bắt cùng với nhiều người, bị trói qua một đêm bỏ ngoài trời, sáng hôm sau ai có lý trưởng nhận được tha về, còn không bị giải xuống Hội An giam giữ điều tra. Năm 1952 chi đó, các đồn bót vùng Gò Nổi đều rút hết, trở thành vùng tự do. Tuy vậy, nổi lo sợ bị tấn công mấy hồi, các đồn Vĩnh Điện, Ái Nghĩa, Hòn Bằng còn đó không xa lắm, chỉ cần nghe tiếng nổ đại pháo bắn đi là sợ hết hồn, không đợi nổ lại mới chết người. Đến hồi hiệp định Genève ký kết (20-07-54), bà con trong làng hồi cư về càng ngày đông, chính quyền Quốc Gia được thành lập, mọi sinh hoạt trên đà phát triển, việc học hành bắt đầu nở rộ, ở Xuân Đài có anh Tám Thiệt mỡ lớp dạy học, trình độ từ lớp ba trở xuống, tôi và chú Tăng cùng học lớp 3 mà không bài toán nào dưới điểm 10/10, sau đó thầy Phan Đức Thông ở Bảo An mỡ lớp nhất và nhì, thi thử trình độ chú Tăng và tôi được sắp vào lớp nhất, sau đó tôi phải xin thầy xuống lớp nhì vì lâu nay có học gì đâu, tản cư nay đây mai đó mất căn bản ngay từ đầu, coi như bậc tiểu học chỉ có hai năm cuối. Năm 1957 vào Trường Trần Quí Cáp Hội An học bậc trung học. Cũng nhờ buổi giao thời, làm giấy khai sinh lại giảm tuổi xuống được tiếp tục đi học, vì đã lớn nên cố gắng rất nhiều mới qua được bậc trung học. Xong Tú Tài bắt đầu kiếm việc làm, bởi vì Cậu Mẹ không ở được trong quê sau cây lụt năm giáp thìn (1964), chạy ra Đà Nẵng lánh nạn không có công ăn việc làm. Nhớ lại khi còn đồn Xuân Đài, đám cưới chị Khiết tổ chức theo kiểu “đời sống mới”, Cậu mua được xấp lụa, cắt và may tay chiếc áo bà ba để mặc ngày cưới, thật quá giản dị thấy tội nghiệp, Mẹ làm vài ba loại bánh ngọt bỏ vào đôi bầu, gánh ra Kỳ Lam gọi là tiệc trà ngày cưới, vừa mới giới thiệu chi đó, đạn pháo ở đồn Bồ Bồ bắn vào, bỏ chạy tán loạn, thế mà sau nầy đông đảo, con đàn cháu đám. Trong làng có hai anh Phạm Tăng và Trịnh Tám, cùng gạ gẫm chị Nguyên, kết cuộc anh Tám cưới được chị, và ngày đám cưới rước dâu theo đúng tục lệ cổ truyền. Một thời gian sau, hai em đã có chồng, ông anh bị hối thúc mãi, nên cũng gặp được người ưng ý, do cơ duyên trong những ngày tháng ở Hội An, thường chơi thân với bạn HNT, không ngờ hợp nhãn cô bạn gái, dáng người nho nhỏ dễ thương, nhất là tính tình hiền lành, nói năng nhỏ nhặn nên gây được tình cảm anh chàng đang tìm chọn người yêu, và chuyện tình đi đến hồi kết thúc, trở thành má các con bây giờ. Trước ngày có việc làm chính thức, nào xin vào ngành thông tin Quảng Nam làm tạm, nào làm thư ký cho phòng viển thông ty bưu điện Đà Nẵng, cho đến ngày 28 tháng 01 năm 1966 vào Học Viện CSQG/ Sài Gòn. Ở nhà Cậu Mẹ đi coi mắt con dâu tương lai, tìm hiểu gia đình, cậy người mai mối và Lễ hỏi tiến hành không cần có mặt chú rễ. Đám cưới dự định tổ chức ngày 19 tháng 9 năm 1966, sau ngày mãn khóa huấn luyện một tuần lễ. Ông ngoại lo làm ngôi nhà nho nhỏ ở Hội An dành làm tổ ấm cho ngày cưới, tươm tấc đàng hoàng.
Cưới xong lại đi tu nghiệp tại Phi Luật Tân ba tháng rưởi, ngày 13 tháng 04 năm 1967 về đến Sài Gòn, nghe cô Trợ Liêm nói: “Ổng chờ mi đó” lòng buồn rã rời, mất Cậu còn chi đâu. Lấy vé máy bay về Đà Nẵng ngày hôm sau, Cậu nằm yên trên giường không ăn uống chi hết, nói chuyện tỉnh táo, căn dặn đủ điều: đừng làm cho Mẹ buồn, tẩm liệm cho Cậu dùng bộ đồ trắng có sẵn được rồi, con dùng bộ đồ để tang cho cô Ba còn đó cũng được… Nghe Cậu nói thật đau lòng, đến hồi ra đi còn lo đủ điều, thương con suốt cả cuộc đời. Cậu dạy vậy đó, nhưng các con không nở nghe theo, sẵn chị hai bán vải có thiếu thốn gì phải lo. Đám tang Cậu, bà con xa gần tiển đưa Cậu lần cuối tại Đà Nẵng thật đông, tình cảm mọi người dành cho Cậu thật bùi ngùi, thương tiếc một người có công nhiều với họ hàng, xóm làng, ra đi với tuổi đời mới vừa 58. Sau nầy hỏi Lệ mới hay Cậu đau nặng sau khi anh đi, dặn đừng cho biết, sợ anh lo, thật là cha kính yêu một đời vì con. Sau đám tang Thân Phụ, tôi trở vào Sài Gòn nhận “sự vụ lệnh” lên TTHL/CSDC/DALAT phục vụ, kể từ tháng 4 năm 67 với nhiều công tác khác nhau, chức vụ cuối cùng Tiểu Đoàn Trưởng TĐ/KS, và từ đây vợ chồng sum họp, sinh con đầu lòng vào năm 68. Ngoài giờ làm việc, tân dụng thời gian rãnh rỗi, dùng vỏ và trái cây thông làm đồ kỷ niệm Dalat, như nhà thượng có cây hoa anh đào nở bông, màu hồng tươi thắm kết bằng hạt xốp nhuộm phấn màu, vài con chim đậu trên cành cây bằng trái thông… Nhờ vậy mà năm 74 thuyên chuyển về Đà Nẵng để dành được 8 lượng vàng, mới có tiền mua nhà, chứ tiền lương lãnh ra vừa đủ ăn là may lắm rồi. Bà nội vào Dalat ở, trông nom săn sóc các cháu: Dung, Thu, Hà, và khi có Hiền bà nội bồng Hà về nhà cô hai không chịu vô nữa, chờ cho đến khi cả nhà cùng về Đà Nẵng.
Gia đình về được ngoài mình, bác Khâm vui lắm, bác đem 2 lượng vàng của anh Bổ chị Vân, bảo thêm vào mua nhà, khi nào có mới trả lại. Thực ra “liệu cơm mà gắp mắm”, 8 lượng vàng dành dụm đủ rồi, Bác sẵn lòng không nở từ chối, chi bằng nhận lấy đem bỏ tiết kiệm cũng có lợi, thêm vào đó Ông Ngoại đưa cho 150 ngàn, nhập chung thành 350 ngàn gởi vào ngân hàng kiếm lời sướng quá. Ngờ đâu biến cố 75 xãy ra, mất sạch tiếc quá đi thôi. Khi chị Vân còn sống, sau ngày ở tù trở về có kể cho chị nghe, biết vậy chứ lấy đâu ra trả nổi với hoàn cảnh hiện giờ. Đi tù 7 năm, ở nhà nhờ có bà nội săn sóc các cháu để má lo bươi chải kiếm ăn qua ngày. Các con cũng được đi học nhưng thua kém bạn bè, vì thiếu người chỉ dẫn, má lo chạy gạo cũng đủ bơ phờ lắm rồi, không những còn lo tiếp tế cho ba đợi ngày đoàn tụ, trở về. Đến đây phải ghi công bà vợ, đã thay chồng chăm sóc mẹ già và diều dắt đàn con chắt chiêu, qua những ngày tháng đầy gian nan khổ cực, một mình lặn lội thân cò, ngồi vỉa hè bán thuốc lá lẻ, kiếm ăn qua ngày. Cuối năm 81 ra tù về nhà, mừng thì có mừng, nhưng tương lai mù mịt, nhà cửa bị tịch thu với lý do “làm tay sai cho đế quốc”, vốn liến không có bao nhiêu, thôi thì làm cái nghề bất đắt dĩ “xe thồ” sống qua ngày. Bây giờ nghĩ lại, nếu còn tiếp tục chắc chết bảy đời không chừng, còn đâu đến ngày nay qua được tuổi “thất thập cổ lai hy”. Ngờ đâu, như trên trời rớt xuống, không biết diễn tả sao cho hết nỗi vui mừng, khi được tin chính phủ Mỹ cho qua Hoa Kỳ tái định cư. Vô cùng biết ơn những người đi trước còn nghĩ đến kẻ ở lại, vận động chính phủ Hoa Kỳ nên mới có chương trình HO, cứu vớt hàng triệu người nói chung và gia đình tôi nói riêng qua cơn bỉ cực. Cũng phải nói, nhờ có mấy Ông Anh gởi tiền về cho, nộp đủ lệ phí dịch vụ nên mới được đi sớm và có cháu bảo trợ qua được California, khí hậu thích hợp với mình vô cùng. Mới qua gia đình được trợ cấp 8 tháng, bốn đứa con lớn đi học nghề, hai đứa nhỏ được tiếp tục đi học. Ngày 04 tháng 11 năm 1995 (mùng sáu tháng mười năm Ất Hợi) vô cùng sửng sốt nghe tin bên nhà báo tin Bà Nội từ trần. Sau ngày đi đám giỗ Bà Cố về, Mẹ nói với chị Khiết thấy mệt và đêm hôm sau ngủ rồi đi luôn, ra đi một cách nhẹ nhàng, không phiền lụy đến con cái chút nào. Hưởng thọ vào tuổi 85, bà theo ông về khu bạc hà núi Duy Xuyên, an giấc ngàn thu. Ngày cúng tạ hoàn tất mộ Cậu Mẹ, chẳng may tôi bị tai nạn tại Vĩnh Điện, gãy xương bả vai và bể xương hông, nằm nhà thương mất mấy tháng, không chết là may. Cũng năm nầy, vợ chồng con cái dành dụm đủ tiền 25% giá trị ngôi nhà, nên được nhà Bank cho vay mua nhà, tại thành phố Cerritos California, Hoa Kỳ. Hiện giờ các con đều có gia đình riêng, mua được nhà, sửa sang ngăn nắp, đầy đủ tiện nghi. Dung – Quang sinh được hai trai một gái, Thu – Thịnh hai gái một trai, Hà – Lễ duy nhất một trai, Hiền – Tài hai trai một gái, Hoa – Phát hai trai, và Trâm – Hiệp hai gái. Tất cả mười bốn cháu, lớn thì đi học, nhỏ ở nhà gởi ông bà ngoại trông coi như một nhà trẻ.
Hiện giờ hai vợ chồng Đoàn Ngọc Nam được lãnh “tiền già” vừa đủ ăn, chi tiêu bất thường nếu thiếu có các con yểm trợ. Nói chung, đại gia đình đầm ấm sum vầy, các con đều thành gia thất, vâng lời và hiếu thảo với ba má; Chị em hòa thuận, yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Đó là điều hạnh phúc lắm rồi, không còn nỗi vui mừng - sung sướng nào hơn.-
Cưới xong lại đi tu nghiệp tại Phi Luật Tân ba tháng rưởi, ngày 13 tháng 04 năm 1967 về đến Sài Gòn, nghe cô Trợ Liêm nói: “Ổng chờ mi đó” lòng buồn rã rời, mất Cậu còn chi đâu. Lấy vé máy bay về Đà Nẵng ngày hôm sau, Cậu nằm yên trên giường không ăn uống chi hết, nói chuyện tỉnh táo, căn dặn đủ điều: đừng làm cho Mẹ buồn, tẩm liệm cho Cậu dùng bộ đồ trắng có sẵn được rồi, con dùng bộ đồ để tang cho cô Ba còn đó cũng được… Nghe Cậu nói thật đau lòng, đến hồi ra đi còn lo đủ điều, thương con suốt cả cuộc đời. Cậu dạy vậy đó, nhưng các con không nở nghe theo, sẵn chị hai bán vải có thiếu thốn gì phải lo. Đám tang Cậu, bà con xa gần tiển đưa Cậu lần cuối tại Đà Nẵng thật đông, tình cảm mọi người dành cho Cậu thật bùi ngùi, thương tiếc một người có công nhiều với họ hàng, xóm làng, ra đi với tuổi đời mới vừa 58. Sau nầy hỏi Lệ mới hay Cậu đau nặng sau khi anh đi, dặn đừng cho biết, sợ anh lo, thật là cha kính yêu một đời vì con. Sau đám tang Thân Phụ, tôi trở vào Sài Gòn nhận “sự vụ lệnh” lên TTHL/CSDC/DALAT phục vụ, kể từ tháng 4 năm 67 với nhiều công tác khác nhau, chức vụ cuối cùng Tiểu Đoàn Trưởng TĐ/KS, và từ đây vợ chồng sum họp, sinh con đầu lòng vào năm 68. Ngoài giờ làm việc, tân dụng thời gian rãnh rỗi, dùng vỏ và trái cây thông làm đồ kỷ niệm Dalat, như nhà thượng có cây hoa anh đào nở bông, màu hồng tươi thắm kết bằng hạt xốp nhuộm phấn màu, vài con chim đậu trên cành cây bằng trái thông… Nhờ vậy mà năm 74 thuyên chuyển về Đà Nẵng để dành được 8 lượng vàng, mới có tiền mua nhà, chứ tiền lương lãnh ra vừa đủ ăn là may lắm rồi. Bà nội vào Dalat ở, trông nom săn sóc các cháu: Dung, Thu, Hà, và khi có Hiền bà nội bồng Hà về nhà cô hai không chịu vô nữa, chờ cho đến khi cả nhà cùng về Đà Nẵng.
Gia đình về được ngoài mình, bác Khâm vui lắm, bác đem 2 lượng vàng của anh Bổ chị Vân, bảo thêm vào mua nhà, khi nào có mới trả lại. Thực ra “liệu cơm mà gắp mắm”, 8 lượng vàng dành dụm đủ rồi, Bác sẵn lòng không nở từ chối, chi bằng nhận lấy đem bỏ tiết kiệm cũng có lợi, thêm vào đó Ông Ngoại đưa cho 150 ngàn, nhập chung thành 350 ngàn gởi vào ngân hàng kiếm lời sướng quá. Ngờ đâu biến cố 75 xãy ra, mất sạch tiếc quá đi thôi. Khi chị Vân còn sống, sau ngày ở tù trở về có kể cho chị nghe, biết vậy chứ lấy đâu ra trả nổi với hoàn cảnh hiện giờ. Đi tù 7 năm, ở nhà nhờ có bà nội săn sóc các cháu để má lo bươi chải kiếm ăn qua ngày. Các con cũng được đi học nhưng thua kém bạn bè, vì thiếu người chỉ dẫn, má lo chạy gạo cũng đủ bơ phờ lắm rồi, không những còn lo tiếp tế cho ba đợi ngày đoàn tụ, trở về. Đến đây phải ghi công bà vợ, đã thay chồng chăm sóc mẹ già và diều dắt đàn con chắt chiêu, qua những ngày tháng đầy gian nan khổ cực, một mình lặn lội thân cò, ngồi vỉa hè bán thuốc lá lẻ, kiếm ăn qua ngày. Cuối năm 81 ra tù về nhà, mừng thì có mừng, nhưng tương lai mù mịt, nhà cửa bị tịch thu với lý do “làm tay sai cho đế quốc”, vốn liến không có bao nhiêu, thôi thì làm cái nghề bất đắt dĩ “xe thồ” sống qua ngày. Bây giờ nghĩ lại, nếu còn tiếp tục chắc chết bảy đời không chừng, còn đâu đến ngày nay qua được tuổi “thất thập cổ lai hy”. Ngờ đâu, như trên trời rớt xuống, không biết diễn tả sao cho hết nỗi vui mừng, khi được tin chính phủ Mỹ cho qua Hoa Kỳ tái định cư. Vô cùng biết ơn những người đi trước còn nghĩ đến kẻ ở lại, vận động chính phủ Hoa Kỳ nên mới có chương trình HO, cứu vớt hàng triệu người nói chung và gia đình tôi nói riêng qua cơn bỉ cực. Cũng phải nói, nhờ có mấy Ông Anh gởi tiền về cho, nộp đủ lệ phí dịch vụ nên mới được đi sớm và có cháu bảo trợ qua được California, khí hậu thích hợp với mình vô cùng. Mới qua gia đình được trợ cấp 8 tháng, bốn đứa con lớn đi học nghề, hai đứa nhỏ được tiếp tục đi học. Ngày 04 tháng 11 năm 1995 (mùng sáu tháng mười năm Ất Hợi) vô cùng sửng sốt nghe tin bên nhà báo tin Bà Nội từ trần. Sau ngày đi đám giỗ Bà Cố về, Mẹ nói với chị Khiết thấy mệt và đêm hôm sau ngủ rồi đi luôn, ra đi một cách nhẹ nhàng, không phiền lụy đến con cái chút nào. Hưởng thọ vào tuổi 85, bà theo ông về khu bạc hà núi Duy Xuyên, an giấc ngàn thu. Ngày cúng tạ hoàn tất mộ Cậu Mẹ, chẳng may tôi bị tai nạn tại Vĩnh Điện, gãy xương bả vai và bể xương hông, nằm nhà thương mất mấy tháng, không chết là may. Cũng năm nầy, vợ chồng con cái dành dụm đủ tiền 25% giá trị ngôi nhà, nên được nhà Bank cho vay mua nhà, tại thành phố Cerritos California, Hoa Kỳ. Hiện giờ các con đều có gia đình riêng, mua được nhà, sửa sang ngăn nắp, đầy đủ tiện nghi. Dung – Quang sinh được hai trai một gái, Thu – Thịnh hai gái một trai, Hà – Lễ duy nhất một trai, Hiền – Tài hai trai một gái, Hoa – Phát hai trai, và Trâm – Hiệp hai gái. Tất cả mười bốn cháu, lớn thì đi học, nhỏ ở nhà gởi ông bà ngoại trông coi như một nhà trẻ.
Hiện giờ hai vợ chồng Đoàn Ngọc Nam được lãnh “tiền già” vừa đủ ăn, chi tiêu bất thường nếu thiếu có các con yểm trợ. Nói chung, đại gia đình đầm ấm sum vầy, các con đều thành gia thất, vâng lời và hiếu thảo với ba má; Chị em hòa thuận, yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Đó là điều hạnh phúc lắm rồi, không còn nỗi vui mừng - sung sướng nào hơn.-
31. Dang Dở
Mắt tròn mõ nhọn mượt lông,
Vành khuyên ríu rít thinh không gọi mời.
Ban mai sương lạnh chân trời,
Ai kia hờ hững nở rời cố hương.
Người đi để lại nhớ thương,
Chim về vầy tổ qui nương theo cành.
Đêm nằm thao thức năm canh,
Phải chăng không phận thôi đành xa nhau.
Nên chi hẹn lại mai sau,
Lai sinh hóa kiếp chim bay về đồng.
Rộng nương mạ lúa mênh mông,
Dứt dây ràng buộc vợ chồng chắp duyên.
Cuộc đời nhiều nổi truân chuyên,
Càng cao danh vọng thuyền quyên nhớ đời.
Mặc cho đất đổi sao dời,
Đôi ta tung cánh bầu trời bay cao.
ĐNN
Lễ Tình Nhân
Khi xưa tuy học khác trường,
Đôi ta rảo bước chung đường thân quen.
Em còn cửa đóng cài then,
Yêu đương còn thẹn chi bằng cười duyên.
Thân gái thời ấy chính chuyên,
Tình nhân đâu được quyền trao hoa.
Bây giờ đất khách quê xa,
Tập tục nên biết xa hoa nhớ đừng.
Vợ chồng đâu phải người dưng,
Bao năm chung sống đã từng quen hơi.
Tình yêu không chỉ một thời,
Trăm năm gắn bó một đời nghĩa ân.
Em chừ mãi muốn tình nhân,
Phu nhân phong chức chả cần bỉm môi.
Yêu thương là vậy thế thôi,
Nguýt yêu thầm bảo đến hồi thủy chung.
ĐNN
Mắt tròn mõ nhọn mượt lông,
Vành khuyên ríu rít thinh không gọi mời.
Ban mai sương lạnh chân trời,
Ai kia hờ hững nở rời cố hương.
Người đi để lại nhớ thương,
Chim về vầy tổ qui nương theo cành.
Đêm nằm thao thức năm canh,
Phải chăng không phận thôi đành xa nhau.
Nên chi hẹn lại mai sau,
Lai sinh hóa kiếp chim bay về đồng.
Rộng nương mạ lúa mênh mông,
Dứt dây ràng buộc vợ chồng chắp duyên.
Cuộc đời nhiều nổi truân chuyên,
Càng cao danh vọng thuyền quyên nhớ đời.
Mặc cho đất đổi sao dời,
Đôi ta tung cánh bầu trời bay cao.
ĐNN
Lễ Tình Nhân
Khi xưa tuy học khác trường,
Đôi ta rảo bước chung đường thân quen.
Em còn cửa đóng cài then,
Yêu đương còn thẹn chi bằng cười duyên.
Thân gái thời ấy chính chuyên,
Tình nhân đâu được quyền trao hoa.
Bây giờ đất khách quê xa,
Tập tục nên biết xa hoa nhớ đừng.
Vợ chồng đâu phải người dưng,
Bao năm chung sống đã từng quen hơi.
Tình yêu không chỉ một thời,
Trăm năm gắn bó một đời nghĩa ân.
Em chừ mãi muốn tình nhân,
Phu nhân phong chức chả cần bỉm môi.
Yêu thương là vậy thế thôi,
Nguýt yêu thầm bảo đến hồi thủy chung.
ĐNN
Tìm Nơi Đâu
Thăm thẳm đại dương nửa quả cầu
Mong sao kết hợp mộng dài lâu
Trông chờ khoắc khoải lòng chưa nguội
Mòn mõi bâng khuâng dạ vẫn đau
Chua xót ngậm ngùi duyên bến cũ
U hoài thương tiếc mối tình đầu
Đông về viễn xứ trời se lạnh
Cánh hạc ngàn ngơi biết kiếm đâu...? LKC
HỌA
Xa thẳm đại dương nửa địa cầu
Dẫu xa ước mộng mong dài lâu
Thổn thức trông chờ lòng chưa nguội
Thân còm mòn mõi dạ thảm sầu
Ngậm ngùi suy ngẫm duyên tình cũ
U hoài thương nhớ hởi người đâu
Viễn xứ đông sang trời thêm lạnh
Thân hạc đơn côi bức rức đầu
ĐNN
Thăm thẳm đại dương nửa quả cầu
Mong sao kết hợp mộng dài lâu
Trông chờ khoắc khoải lòng chưa nguội
Mòn mõi bâng khuâng dạ vẫn đau
Chua xót ngậm ngùi duyên bến cũ
U hoài thương tiếc mối tình đầu
Đông về viễn xứ trời se lạnh
Cánh hạc ngàn ngơi biết kiếm đâu...? LKC
HỌA
Xa thẳm đại dương nửa địa cầu
Dẫu xa ước mộng mong dài lâu
Thổn thức trông chờ lòng chưa nguội
Thân còm mòn mõi dạ thảm sầu
Ngậm ngùi suy ngẫm duyên tình cũ
U hoài thương nhớ hởi người đâu
Viễn xứ đông sang trời thêm lạnh
Thân hạc đơn côi bức rức đầu
ĐNN
Tình Đời
“Gió đưa bụi trúc sau hè,
Anh mê vợ bé bỏ bầy con thơ”.
Ngày nay đổi mới lời thơ,
Con em nuôi dưỡng chẳng nhờ tới anh.
Lớn lên chúng hiểu ngọn ngành,
Không nuôi bỏ phế thôi dành chi con.
Trâu già ham gặm cỏ non,
Đèo bồng cho lắm mõi mòn sực hay.
Ngộ ra mới thấy đắng cay,
Thân tàn ma dại trắng tay trở về.
Cuộc đời còn lắm nhiêu khê,
Nhân nghĩa đánh mất phu thê hết tình.
Làm người xử sự phân minh,
Sống cho phải đạo chúng mình dài lâu.
ĐNN
“Gió đưa bụi trúc sau hè,
Anh mê vợ bé bỏ bầy con thơ”.
Ngày nay đổi mới lời thơ,
Con em nuôi dưỡng chẳng nhờ tới anh.
Lớn lên chúng hiểu ngọn ngành,
Không nuôi bỏ phế thôi dành chi con.
Trâu già ham gặm cỏ non,
Đèo bồng cho lắm mõi mòn sực hay.
Ngộ ra mới thấy đắng cay,
Thân tàn ma dại trắng tay trở về.
Cuộc đời còn lắm nhiêu khê,
Nhân nghĩa đánh mất phu thê hết tình.
Làm người xử sự phân minh,
Sống cho phải đạo chúng mình dài lâu.
ĐNN
30. Chiến Sĩ Vô Danh
Quốc phá gia vong quyết hy sinh Xả thân vì Nước chẳng cầu vinh Lâm nguy gan dạ tiến lên trước Huynh đệ đồng đội trọn nghĩa tình Sa trường xông pha tên lửa đạn Sống chết gang tấc chốn điêu linh Gian lao khổ cực nào than oán Thành công mặc ai nhớ đến mình Anh Hùng Thời Vận Anh hùng thời vận mặc sức ca Trên đời nhất chỉ một mình ta Nước thống nhất qui về một mối Cớ sao gieo thêm thù hận ra Quá tự hào nẫy sinh kiêu hãnh Ăn chơi lắm có ngày thành ma Cơ hội may đâu phải được mãi Lịch sử lưu truyền việc xấu xa Đất Người quá hiền ví như cục đất Nhờ đất nhà cửa có nơi cất Đất không sinh người cứ mãi sinh Chật chỗ rồi tranh nhau xấu tật Đất nước chung cùng nhau sinh sống Lẽ nào kẻ nhiều người lại mất Tư hữu do công lao gầy dựng Chân lý đó muôn đời không trật DNN |
|
29. VÊ LÚA
VÊ LÚA
Gió chiều thổi nhẹ qua đây,
Hai cô thôn nữ nâng đầy thúng vê.
Hạt nặng rơi xuống tràn hê,
Hạt lép bay bổng trở về ruộng nương.
Hởi người em gái hậu phương,
Cày sâu cuốc bẩm tôi thương thuở nào!
Bây giờ sáng mắt trăng sao,
Lý tưởng tiêu hết lâm vào khổ đau?
Giá mà ngày ấy hiểu nhau,
Thì đâu vỡ mộng tĩnh say thế nầy!
Hẹn em không sớm thì chầy,
Quê Hương gặp lại ruộng lầy mà vui…
ĐNN
Con Nhà Nghèo
cà rem em bán quanh đồn
tiền lời kiếm được để dồn sắm mua.
nhà nghèo thân phận kém thua,
tuổi thơ bỏ học chen đua trường đời.
tranh nhau cốt để kiếm lời,
chiều về sạch bách ấy thời mừng vui.
hôm nào chẵng may vận xui,
tối về thùng nặng chưa khui mở hàng.
đang buồn xe Mỹ chạy ngang,
miệng la tay vẫy sẵn sàng nhận lem (salem).
okay thuốc thơm cho em,
bao nguyên chớ hút gói đem về nhà.
chợ trời đến đó xìa ra,
bán đổi mua gạo chan hòa tình thương.
DNN
Gió chiều thổi nhẹ qua đây,
Hai cô thôn nữ nâng đầy thúng vê.
Hạt nặng rơi xuống tràn hê,
Hạt lép bay bổng trở về ruộng nương.
Hởi người em gái hậu phương,
Cày sâu cuốc bẩm tôi thương thuở nào!
Bây giờ sáng mắt trăng sao,
Lý tưởng tiêu hết lâm vào khổ đau?
Giá mà ngày ấy hiểu nhau,
Thì đâu vỡ mộng tĩnh say thế nầy!
Hẹn em không sớm thì chầy,
Quê Hương gặp lại ruộng lầy mà vui…
ĐNN
Con Nhà Nghèo
cà rem em bán quanh đồn
tiền lời kiếm được để dồn sắm mua.
nhà nghèo thân phận kém thua,
tuổi thơ bỏ học chen đua trường đời.
tranh nhau cốt để kiếm lời,
chiều về sạch bách ấy thời mừng vui.
hôm nào chẵng may vận xui,
tối về thùng nặng chưa khui mở hàng.
đang buồn xe Mỹ chạy ngang,
miệng la tay vẫy sẵn sàng nhận lem (salem).
okay thuốc thơm cho em,
bao nguyên chớ hút gói đem về nhà.
chợ trời đến đó xìa ra,
bán đổi mua gạo chan hòa tình thương.
DNN
28. Mừng sinh nhựt “Tháng 9”
Tháng chín sinh nhựt bạn ta,
Chúc lành toàn thể làm quà gởi nhau.
Hầu hết tuổi hạc trong tay
An nhàn hưởng phước xưa rày khỏe không?
Lúc nầy đến hồi chờ trông,
Bà nhà ngóng đợi mong ông mau về.
Trong nhà vắng bóng hiền thê,
Việc nhà quờ quạng ra bề hoài công.
Mỗi khi thấy cháu chạy rông,
Hồi tưởng trở lại giống ông thuở nào!
Sinh nhựt mừng ké liệt vào,
Có tôi trong đó tuổi cao thọ rồi.
Giờ đây ăn uống đứng ngồi,
Luôn được nhắc nhở ôi thôi mọi điều.
Già rồi chớ có ham nhiều,
Năng siêng đi bộ sớm chiều nhớ cho…
(Thân tặng cho những ai có ngày sinh nhựt
trong tháng 9 DL.)
GÁI ĐẠI LỘC
Con gái Đại Lộc quá mến thương
Trinh nguyên thôn nữ tỏa sắc hương
Bòn bon ngon ngọt quê em có
Duyên nợ trăm năm mộng bình thường
Vu Gia uốn khúc dòng sông nhỏ
Phù sa bồi đắp tỏa ruộng nương
Ai về Mỹ Trạch qua xóm vắng
Gái lành hiền thục chọn đúng đường
GÁI ĐIỆN BÀN
Điện Bàn con gái xinh đẹp lắm
Áo dài thướt tha bên phượng thắm
Chân chất nông dân gốc rơm rạ
Việc nhà quán xuyến học lại chăm
Mai nầy đỗ đạt nên danh phận
Lắm anh mê gạ gẫm hỏi thăm
Cha mẹ em còn lo phụng dưỡng
Khất hẹn các anh chuyện trăm năm
ĐNN
Con gái Đại Lộc quá mến thương
Trinh nguyên thôn nữ tỏa sắc hương
Bòn bon ngon ngọt quê em có
Duyên nợ trăm năm mộng bình thường
Vu Gia uốn khúc dòng sông nhỏ
Phù sa bồi đắp tỏa ruộng nương
Ai về Mỹ Trạch qua xóm vắng
Gái lành hiền thục chọn đúng đường
GÁI ĐIỆN BÀN
Điện Bàn con gái xinh đẹp lắm
Áo dài thướt tha bên phượng thắm
Chân chất nông dân gốc rơm rạ
Việc nhà quán xuyến học lại chăm
Mai nầy đỗ đạt nên danh phận
Lắm anh mê gạ gẫm hỏi thăm
Cha mẹ em còn lo phụng dưỡng
Khất hẹn các anh chuyện trăm năm
ĐNN
27. Tâm Sự Với Bò
Bò ơi mi sướng hơn tau,
Vuốt ve triều mến đôi tay ngọc ngà!
Ngày nay đất nước thái hòa,
Mở mang kiến thiết xây tòa tháp cao.
Đâu còn ngọn cỏ bờ ao,
Tươi xanh non mượt cắt vào nuôi mi?
Thôi thì đừng nói chuyện chi,
No cơm ấm áo chủ mi được nào.
Toàn là chuyện nói tào lao,
Công bằng xã hội nêu cao miệng mồm!
Vội Vàng
Mẹ già gióng thúng oằn vai,
Cơm ngày hai bữa chạy dài hụt hơi.
Vội vàng rời quán tìm nơi,
Đông người nhiều khách ăn chơi bán hàng.
Đàn con bầy cháu cưu mang,
Quanh năm đâu có phàn nàn khổ thân.
Mong sao khỏe mạnh đôi chân,
Nơi nầy chốn nọ chẳng cần gần xa.
Tối về nhẩm tính lời ra,
Ngày mai lại cũng bôn ba như thường!
Cơm ngày hai bữa chạy dài hụt hơi.
Vội vàng rời quán tìm nơi,
Đông người nhiều khách ăn chơi bán hàng.
Đàn con bầy cháu cưu mang,
Quanh năm đâu có phàn nàn khổ thân.
Mong sao khỏe mạnh đôi chân,
Nơi nầy chốn nọ chẳng cần gần xa.
Tối về nhẩm tính lời ra,
Ngày mai lại cũng bôn ba như thường!
Nụ Cười Của Bé
Nụ cười miển cưỡng bé ơi!
Tuy thân rách nát, không vơi tấm lòng.
Dù cho lận đận long đong,
Quê mình giữ lấy, chớ trông quê người.
Đài Loan, Hàn Quốc trò cười,
Ra đi hớn hở, về người thành ma.
Nhớ rằng đẹp nhất Quê Ta,
Đến nơi xứ lạ, thiếu người thân thương.
Mong rằng bé vững lập trường,
Đừng nghe dụ dỗ ngọt đường khổ thân.
Đoàn Ngọc Nam
Tuy thân rách nát, không vơi tấm lòng.
Dù cho lận đận long đong,
Quê mình giữ lấy, chớ trông quê người.
Đài Loan, Hàn Quốc trò cười,
Ra đi hớn hở, về người thành ma.
Nhớ rằng đẹp nhất Quê Ta,
Đến nơi xứ lạ, thiếu người thân thương.
Mong rằng bé vững lập trường,
Đừng nghe dụ dỗ ngọt đường khổ thân.
Đoàn Ngọc Nam
26. Nhớ Năm Xưa
Nhớ lại những tháng năm xưa cũ
Bạn thân nhau bày tỏ nhắn nhủ
Học đi thôi kỳ thi đến rồi
Không đỗ đạt cuộc đời tối mù
Cha mẹ tần tão nuôi ăn học
Lẽ nào phung phí đi ngao du
Chí đã quyết nghe lời dạy bảo
Thành công rồi ngờ đâu vào tù
Bạn thân nhau bày tỏ nhắn nhủ
Học đi thôi kỳ thi đến rồi
Không đỗ đạt cuộc đời tối mù
Cha mẹ tần tão nuôi ăn học
Lẽ nào phung phí đi ngao du
Chí đã quyết nghe lời dạy bảo
Thành công rồi ngờ đâu vào tù
Nhớ Sài Gòn
Sài Gòn chợt mưa chợt nắng,
Buồn thay, tay trắng đổi đời năm xưa.
Vĩa hè bất kể sớm trưa,
Gánh hàng bày bán dạ thưa chào mời.
Ông anh! hủ tiếu ghé xơi,
Thêm, cà phê đá nghỉ ngơi rồi về.
Cuộc đời lắm nổi nhiêu khê,
Hơi đâu mà trách khen chê luận bàn.
Ra về tâm trạng hoang mang,
Chim lồng, cá chậu bất an tháng ngày.
Rồi đây ác mộng tĩnh say,
Rừng thiên nước độc đắng cay muôn phần.
Dầu cho đày đọa tấm thân,
Sài Gòn biểu tượng xa gần không quên…
Buồn thay, tay trắng đổi đời năm xưa.
Vĩa hè bất kể sớm trưa,
Gánh hàng bày bán dạ thưa chào mời.
Ông anh! hủ tiếu ghé xơi,
Thêm, cà phê đá nghỉ ngơi rồi về.
Cuộc đời lắm nổi nhiêu khê,
Hơi đâu mà trách khen chê luận bàn.
Ra về tâm trạng hoang mang,
Chim lồng, cá chậu bất an tháng ngày.
Rồi đây ác mộng tĩnh say,
Rừng thiên nước độc đắng cay muôn phần.
Dầu cho đày đọa tấm thân,
Sài Gòn biểu tượng xa gần không quên…
Mơ Ước
Gạnh ngói ta nung nóng cả lò
Mai nầy dột ướt khỏi phải lo
Nhà tranh vách đất thay nhà ngói
Nơi ăn chốn ở hết co ro
Nhìn lên thiên hạ sánh sao kịp
Nhìn xuống nhà mình đã khá to
Biết đủ là vừa mong chi nữa
Thỏa mãn quá rồi cần cơm no
Mai nầy dột ướt khỏi phải lo
Nhà tranh vách đất thay nhà ngói
Nơi ăn chốn ở hết co ro
Nhìn lên thiên hạ sánh sao kịp
Nhìn xuống nhà mình đã khá to
Biết đủ là vừa mong chi nữa
Thỏa mãn quá rồi cần cơm no
“Thuốc Đắng Đả Tật, Sự Thật Mắc Lòng”
Sinh lão bệnh tử luật ghi,
Cuộc đời là thế lo chi thêm phiền.
Có người dù lắm bạc tiền,
Nhiều khi phạm thuốc qui tiên sự thường.
Gặp khi hoạn nạn tai ương,
Cứu sống nhờ thuốc y lương tận tình.
Thuốc đắng đả tật hồi sinh,
Giỏi thầy phước chủ giữ tình với nhau.
Thì giờ thấm thoát qua mau,
Mấy ai qua khỏi nhạt màu thời gian.
Sống đời nên giữ bình an,
Thấy quấy giữ thế không can hại người.
Góp ý giữ nét mặt tươi,
Mắc lòng mặc kệ mỉm cười như không,
Lắm điều gặp phải bất công,
Thấy sai mà cứ thưa ông nhất rồi.
Loại người như thế hạng tồi,
Lánh xa bảng mặt chớ ngồi với nhau.
Sự thật nói thẳng lòng đau,
Không sợ chết đứng cây ngay bao giờ.
Đoàn Ngọc Nam
Cuộc đời là thế lo chi thêm phiền.
Có người dù lắm bạc tiền,
Nhiều khi phạm thuốc qui tiên sự thường.
Gặp khi hoạn nạn tai ương,
Cứu sống nhờ thuốc y lương tận tình.
Thuốc đắng đả tật hồi sinh,
Giỏi thầy phước chủ giữ tình với nhau.
Thì giờ thấm thoát qua mau,
Mấy ai qua khỏi nhạt màu thời gian.
Sống đời nên giữ bình an,
Thấy quấy giữ thế không can hại người.
Góp ý giữ nét mặt tươi,
Mắc lòng mặc kệ mỉm cười như không,
Lắm điều gặp phải bất công,
Thấy sai mà cứ thưa ông nhất rồi.
Loại người như thế hạng tồi,
Lánh xa bảng mặt chớ ngồi với nhau.
Sự thật nói thẳng lòng đau,
Không sợ chết đứng cây ngay bao giờ.
Đoàn Ngọc Nam
25. Trò Chơi Trẻ Con Thời Xa Xưa
“Con nít con nít, chằm mũ lá mít,
cởi ngựa tàu cau, rủ nhau một lũ,
ăn rồi lại ngủ, ngủ dậy đi chơi,
xuống nước đập bơi, lên bờ đánh đáo,
miệng thổi kèn lá, tò tít tò te,
tay phất cờ tre, rủ nhau ra hè, giã đò đánh giặc.”
Đó là những câu đồng dao, hát rất ngây thơ của bọn trẻ con ở làng quê. Chúng nó tụ tập nhau lại nơi bóng mát cây da cao, cây thị rợp bóng để đùa vui với nhau vào những buổi trưa hè nóng bức, trời nóng như thiêu như đốt. Còn những đêm sáng trăng cứ việc ra đường cái hoặc sân đình làng rộng rãi, tha hồ mà vui chơi. Người ta nghe chừng đó câu hát nghêu ngao đồng loạt rập ràng, cũng đủ hình dung ra được một trận đồ giặc giã, với đầy đủ binh tướng áo mão ngựa đao và cờ xí rợp trời. Trẻ con ở vào thời buổi xa xưa đó, có một tâm hồn rất hồn nhiên, vô tư và nhiểm tính ưa bắt chước. Ngôn ngữ mộc mạc, bình dân, trực tính, hòa nhã với bạn bè, nhường nhịn anh chị em và kính yêu ông bà, cha mẹ.
Trò chơi của trẻ thơ, hầu hết đều do óc sáng tạo tự tay làm lấy, rất đơn sơ giản dị và không cầu kỳ. Tất cả đều do quan sát thực tiển, nhìn vào hiện thực bên ngoài mà biến thành trò chơi thích hợp với đặc tính: vui - trẻ - khỏe. Thực ra trò chơi của tuổi trẻ có rất nhiều, từ lối chơi riêng rẻ cho đến tập thể, đông cả bọn. Ở đây chỉ nêu lên một số trò chơi tiêu biểu, gọi là một chút kỷ niệm dễ thương của một thời thơ ấu đã qua.
Chơi rồng rắn: bọn trẻ chọn ra một bạn có tướng mạo khôi ngô, khỏe mạnh để giả làm ông thầy thuốc, đầu bịt khăn đầu riều, tay cầm quạt mo, quạt nhịp. Nhóm trẻ còn lại, đứa sau ôm bụng đứa trước làm thành rồng rắn với cái đầu chọn ra một bạn mạnh nhất và cái đuôi một bạn lanh lợi, nhanh nhẹn để có thể uyển chuyển tránh né được ông thầy rượt bắt. Vào cuộc chơi, ông thầy hỏi: rồng rắn đi đâu? rồng rắn trả lời: bứt râu ông thầy, về làm chi? về bốc thuốc cho con. Con lên mấy? con lên một, chưa ngon. Con lên hai, chưa ngon. Con lên ba, đà ngon. Rồi ông thầy hỏi tiếp: cho xin khúc đầu? rồng rắn trả lời: đầu cứng. Cho xin khúc giữa, giữa xương. Cho xin khúc đuôi, đuôi mềm, bắt được thì ăn… Lập tức ông thầy thì cố sức rượt bắt cho được khúc đuôi trong tư thế né tránh. Còn đầu rồng rắn thì phình hai cánh tay râu ria ra để bảo vệ an toàn tính mệnh. Cuộc chơi thật là vui nhộn, cả tiếng hò reo cười đùa thỏa thích. Ôi thôi! mù mịt bụi đất bốc lên nồng nặc, nghẹt cả lỗ mũi. Kết thúc cuộc chơi: hoặc ông thầy bị bắt, hoặc khúc đuôi bị xơi tái.
Chơi mua bán heo: Chọn ra một bạn ưng ý nhất, khỏe mạnh và lanh lợi để giả bộ làm người đi mua heo. Một bạn nữa dáng bộ mập mạp làm con heo. Chuồng nhốt heo là vòng tròn, tay nắm tay thật chặt của nhóm. Người đi mua heo đi vòng quanh chuồng, rao mấy câu dọ hỏi và chủ nuôi heo trả lời: nhà ai có heo bán không? Mua heo chi - heo lan. Lan chi - lan huệ. Huệ chi - huệ lan. Một quan bán không? không bán. Hai quan bán không? không bán. Ba quan bán không? đà bán… Tức thì người đi mua heo có thể đạp vào cửa chuồng để bắt xúc heo. Muốn vào được phải thử cửa chuồng (chỗ nắm tay nhau) bằng cách: đặt đầu gối lên cửa chuồng và hỏi: kiền kiền hay củi mục? Nếu cửa chuồng cảm thấy mình yếu, thì nên trả lời củi mục, lái heo bỏ qua và đi đến cửa khác hỏi tiếp tục. Cửa nào dám trả lời: kiền kiền, lái heo bất cứ giá nào cũng ra sức đè đầu gối, đạp cửa chuồng vào bắt heo cho được. Lái heo phải lanh trí, dự liệu đủ sức có thể bắt được heo, chứ không chừng bị chuồng heo nhốt lại và con heo sẫy chuồng, thoát ra ngoài chạy lanh quanh trêu chọc quê, tức lắm đó… cả bọn mặc sức hò reo inh ỏi vang dội khắp xóm làng.
Chơi bỏ khăn: bọn trẻ cả trai lẫn gái, ngồi xấp bằng thành một vòng tròn, mặt xây vào bên trong. Đầu tiên một cô hay cậu xung phong trước nhận đi bỏ khăn. Trên tay cầm chiếc khăn lau mặt, có khi đi có khi chạy lúp xúp quanh vòng tròn người. Nhè nhẹ bỏ chiếc khăn lau sau lưng một đứa nào đó, nhắm chừng nó không biết, rồi mau lẹ chạy quanh trở lại. Nếu nó không hề hay biết, đập nhẹ vào lưng biểu phải đứng dậy thay thế cho mình và ngồi vào chỗ nó. Ngược lại, đứa bị bỏ khăn phát hiện kịp thời, đứng dậy chạy đuổi theo mà bắt kịp, coi như nó có quyền ngồi trở lại chỗ cũ. Còn không, phải tiếp tục trò chơi, trổ tài lừa phỉnh sụp bẫy đứa khác… cho đến khi cuộc chơi nhàm chán mới chấm dứt.
Chơi u mọi: đây là trò chơi bạo mạnh, nên thích hợp với bọn con trai nhiều hơn. Cả bọn chia nhau bắt thành hai phe, một bên cởi trần trùi trụi, còn bên kia có quyền mặc áo. Sân chơi hình chữ nhật rộng rãi, bốn góc bỏ dồn những chiếc áo làm cột mốc giới hạn, ở giữa sân vạch một lằn ranh giới, chia ra làm hai địa phận. Bắt đầu cuộc chơi, quân của bên nào thì ở vào vị trí bày binh bố trận của bên nấy. Bên cởi trần bắt đầu cử ra một quân đi u trước, chạy một mạch từ cuối sân của mình, khi xuyên qua đất địch bắt đầu giữ hơi trong miệng, phát ra tiếng u…u…u…liên hồi, có khi lên cao hay trầm xuống, cốt yếu làm sao giữ hơi cho dài để có thể trở về, mất hơi là chết. Lượn qua liếc lại tìm cách đánh vào đối phương để tiêu diệt, chết phải ra khỏi sân. Còn quân đi u nếu bị bắt giải về hậu cứ của đối phương, chờ cho cùng phe đến cứu, đụng vào người phe mình đương nhiên được trở về. Cuộc chơi cứ thế mà tiếp diễn, cho đến khi nào một bên hết quân thua trận thì thôi. Ôi thôi! Cả một cuộc niếu kéo không kể gì đến trầy đầu gối, lã cùi chỏ…
Trồng cây dừa: Dựa vào hình dáng cây dừa có từng lóng mắt, mà bọn trẻ bày ra trò chơi nầy. Cả bọn ngồi quanh một vòng tròn, mỗi đứa hai tay nắm chặt và lần lượt chồng chất lên nhau, hết đứa nọ đến đứa kia. Một đứa trong bọn đọc lên những câu vè như thế nầy: trồng cây dừa chừa cây nọ, cây nào cao cây nào thấp, cây nào mập cây nào nhòng, dây mồng tơi dây bí đỏ, con Văn con Vỏ, ăn cắp trứng gà, bù xa bù xít, con rắn con rít, bỏ qua tay nầy, lại gầy tay nọ, lại bỏ tay kia… Mỗi câu vè thích ứng với một nắm tay, vừa đọc vừa chỉ lòng vòng từ dưới lên trên và ngược lại. Nắm tay nào trùng với câu vè cuối cùng: “lại bỏ tay kia” được quyền bỏ tay ra khỏi cây dừa. Cứ thế mà tiếp tục đọc vè trở lại, cho đến khi nào chỉ còn duy nhất một nắm tay của đứa bị xui, phải đành chịu bịt mắt đi tìm những đứa khác trốn vào góc xó bờ tường tối thui, buội chuối lùm cây kín mít khó bề tìm ra.
Chơi đá banh: là môn giải trí có tính cách thể thao nhất, trẻ con chơi hoài không biết chán. Sân chơi được chọn ở những chỗ như: khúc con đường kiệt có chỗ rộng phình ra, đoạn đường cái bóng mát của hai dãy cây sầu đông hai bên, đám ruộng vừa mới gặt xong và tiện nhất là bãi cát trắng ngoài bờ sông. Khi đã chọn được sân banh rồi, cột phô rất đơn giản bằng cách bỏ dồn đống dép, mớ gạch vụn cũng được rồi. Quả banh là trái bòng the người ta chê, đem lùi vào đống lửa quét đốt rác cho nó hơi mềm hoặc dùng bẹ chuối sứ phơi khô, lấy sương cho dẽo đan bệnh thành trái banh cũng bền và êm chân lắm. Đá banh mà chẳng bao giờ có trọng tài, một bên cởi trần, một bên bận áo để dễ phân biệt. Hai bên đá lộn xà ngầu với nhau rất hăn say, mồ hôi đứa nào đứa nấy nhễ nhại, ướt đẩm cả người, nhiều khi vì quá hăn quên mất đau đớn đá nhằm vào gạch sỏi trên đường đến nổi toát đầu nhón chân, chảy máu mà không hề hay biết. Càng về chập choạng tối, trận đấu càng thêm hào hứng nhiều hơn, cho đến khi có tiếng gọi về tắm rửa ăn cơm tối mới chịu ngưng cuộc chơi.
Hát ru em: bọn con gái thích nhất trò chơi em bé, giã đò làm mẹ làm chị hát ru cho em ngủ. Em bé dùng bẹ chuối cắt nên hình, cũng đủ thành phần đầu mình và tứ chi. Chiếc nôi bẹ chuối có đủ bốn tao hẳng hoài và đem treo lên cành cây, chỗ bóng mát, rồi bắt đầu hát bắt quờ, không nhất thiết có bài bản nào cả, dỗ dành ru cho em ngủ: ầu ơ ba trái ầu ơ… chim ăn hết hột còn xơ với cùi, chim quyên xuống đất ăn trùn, anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than. Thuốc thang, thang thuốc bỏ gừng, ta không bỏ bạn bạn đừng bỏ ta. Chim quyên ăn trái nhãn lồng, lia thia quen chậu vợ chồng quen hơi. Ba ba nấu cháo nồi ba, tam tam như cửu cháo đà chín chưa. Con chim đa đa đậu nhánh cành đa, nó kêu lất la lất lẻo, con chim chèo bẽo đậu nhánh măng vòi, nó kêu bớ trò hai, trò không cưới vợ, ở hoài rứa răn. Trên trời có một cái trăng, khi tròn khi khuyết đạo ngãi hằng ai lo. Mẹ già hai đứa nuôi chung, đứa lo cơm nước đứa dành thuốc thang. Chàng ơi phụ thiếp làm chi, thiếp là cơm nguội chờ khi đói lòng. Đói lòng ăn hột chà là, để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng. Mẹ ơi đừng đánh con đau, để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ. Mẹ ơi đừng đánh con khờ, để con ra buội con rờ mụt măng. Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẽ có thương con chồng…
Đánh cờ gánh: trò chơi đánh cờ gánh rất thông dụng ở thôn quê, nhất là thích hợp với lứa tuổi thơ dại, suy nghĩ còn non kém. Nơi bài trí trò chơi cũng quá dễ dàng, chỉ cần vẽ xuống mặt đất bằng phẳng với cây que, hay trên nền xi măng bằng cục gạch bễ, cục than hay viên phấn thành bàn cờ gánh để chơi với nhau trong giờ ra chơi hoặc lúc rãnh rổi. Cách vẽ bàn cờ, đầu tiên vẽ một hình vuông rồi chia hình vuông đó thành bốn hình vuông nhỏ bằng nhau, tiếp đến vẽ các đường chéo và sau cùng nối trung tâm điểm của các cạnh hình vuông nhỏ lại với nhau để đủ năm huê thị là chỗ gánh cờ. Bộ cờ gánh gồm mười sáu cái vỏ hến lớn, một bên úp mặt, bên kia lật ngửa phân biệt hai bên rõ rang. Tất cả con cờ đều sắp chung quanh bàn cờ ở chỗ đầu mối phân ô. Năm con cờ hàng ngang của mỗi bên thì sắp như nhau. Ba con cờ hàng dọc sắp khác nhau, một con ở hàng dọc bên trái và hai con ở bên phải, bên kia thì ngược lại. Cách thức đi cờ, đi con cờ từ nấc một, đi dọc đi ngang hay đi chéo cũng được. Thay phiên nhau mỗi bên đi một quân, ăn quân đối phương bằng cách đi vào huê thị hay nấc giữa hai con cờ để gánh và cờ của bên kia trở thành quân mình. Gánh cờ thường là gánh hai, gánh bốn tới gánh sáu. Trường hợp sơ ý để trống bị gánh thì thiệt hại ít, ngược lại bị mỡ gánh thì thiệt hại hao quân mới đáng kể. Ngoài cách gánh quân còn có thể dồn ép, bao vây không còn lối đi gọi là bóp chết. Kết quả thắng cuộc, khi quân của một bên nào đó không còn một mạng. Từ lối chơi cờ gánh nẫy sinh ra đánh cờ hùm. Bàn cờ vẽ thêm vào hình thoi có hai đường chéo, đỉnh nhọn đính vào chính giữa một cạnh của hình vuông, đỉnh kia vẽ một gạch ngang và nối dài đường chéo thành chỗ hang hùm. Con hùm là nan tre bẻ cong một đầu, hùm đi bằng cách nhãy qua đầu con cờ là ăn được một quân của mười sáu con cờ trong bàn cờ. Con hùm chỉ cần ăn một quân sơ hở, coi như thế nào cũng thắng. Còn quân cố giữ không để chết con nào, tìm cách dồn ép hùm hết lối nhãy qua là thắng cuộc.
Chơi thả dều: Cứ đến mùa gió nôm thổi từ Lào qua, hay gió nờm thổi từ cửa bể lên, đó là thời điểm thả dều rong chơi của bọn trẻ con thích hợp nhất. Con dều làm bằng hai thẻ nan tre vót mõng, cột tréo chữ thập lại với nhau, bồi dán lên đó miếng giấy xi măng đã xắp gọn ghẽ giống như thân dều. Hai bên thân dều kết thêm hai tua giấy giã làm cánh, ở về phía đằng sau còn có thêm tua giấy nữa làm cái đuôi, bay lượn uốn khúc theo chiều gió. Vẽ thêm hai con mắt và tô màu cho đẹp thêm. Tiếp đến lấy lá go cũ dệt vải tháo ra sợi dây thật dài, một đầu cột vào ống quây vải để quấn dây, đầu kia buộc nơi tréo chữ thập dưới bụng dều. Bấy giờ chỉ còn mang dều ra cánh đồng trống, hay bãi cát rộng mênh mông mà thả dều bay bỗng, uốn khúc, lượn quanh trên bầu trời trông rất đẹp mắt. Càng gió to, càng nới lõng sợi dây go cho dều được tự do lên cao rồi xuống thấp tùy theo lối điều khiển khéo léo của tay chơi dều đầy kinh nghiệm, còn vui sướng nào hơn và la to lên rằng: “ lên như dều giặp gió”.
Chơi đá dế: phải tuyển chọn cho ra con dế trống than có dáng bộ oai vệ, cặp chân phải cao, cánh thì dày và bộ nanh phải sắc bén, mới đủ điều kiện để dự tranh hùng. Dế than thường hay núp ở dưới những đống vớ dây khoai lang mục ngoài đồng, chỉ cần giở đống dây đó lên, chú dế nhãy ra, lanh tay chụp lấy bỏ vào hộp quẹt diêm hay cái lon sữa bò đã chuẩn bị sẵn. Cũng có thể lội vào những đám ruộng đã cày bệ, mà rình nghe tiếng gáy đồng thời lật từng cục đất bệ lên, thế nào cũng tóm cổ được nó. Nhiều khi những con dế khôn đạt tiêu chuẩn, lại hay ẩn mình dưới lỗ đất nẻ của đám ruộng sau khi gặt bỏ hoang, phải dùng đến liềm dẫy mà đào đất mới bắt được con dế cừ khôi, đá trận nào thắng trận đó. Mỗi chú dế được nuôi riêng biệt, cho ăn lá rau muống, lá dâu non, cho uống sương vào ban đêm và còn phải làm hang, thả vào để lấy hơi đất cho có sức mạnh như khi còn hoang giã. Đấu trường thường là chiếc hình hộp trống miệng, cái hục đào sâu xuống đất có mặt đáy bằng phẳng. Đầu tiên chủ bắt dế của mình ra, lấy một sợi tóc ở đầu gấp đôi lại móc vào chân sau của dế, cầm lấy sợi tóc quây lòng vòng cho dế say nổi máu ngà, kích động hăng say gọi là làm nổi. Hai bên bỏ dế ra cùng một lúc, lập tức hai đấu thủ phùng cánh, dương râu, gáy te te và nhào tới nhe nanh nghinh chiến: cắn, đá túi bụi, dùng hết mọi sở đoản, sở trường để tranh hùng. Mỗi lần dế bên nào đá được cú hiểm, tiếng la hò hắt của phe chủ vang lên ầm ỹ náo nhiệt cả một góc trời. Cũng có đôi khi đôi dế chậm chạm tráng, chủ dế phải dùng mấy cộng nhỏ cây chổi đót vê vào đầu chúng nó, kích động, chọc tức cho mau giao chiến để đôi bên chủ dế tranh nhau giành phần thắng, khoe danh con dế cừ khôi của mình, không có con nào địch nổi.
Chơi nuôi chim: chơi nuôi chim là một cái thú mà hầu hết trẻ con đều thích, các loại chim ở vùng thôn quê từ con chim nhỏ nhất như con chim sâu, đến con to như con quạ ô, con diều hâu đều có cả. Bọn trẻ chọn ra những con chim khôn dễ nuôi với thức ăn cho chúng nó dễ tìm ra. Những con chim dồn dộc đan tổ rất tinh xão, dùng cái mõ nhỏ xíu tướt xé từng sợi lá mía, lá cây bói tha về đan thành tổ như chiếc giày ống chúc miệng xuống đất. Tổ treo tòn teng trên cành cây me cao, cây cau và nhiều nhất ở bãi sậy, ruộng mía trùng trùng điệp điệp… Chim con bắt về từ khi còn lông nhặm, nhai gạo sún vào miệng cho nó ăn. Cho uống nước đường gây ghiền để bay đi rồi cũng trở lại, nhãy quanh quẩn trên cành cây dúi khô trụi lá, treo dưới mái hiên hay rèm cửa trong nhà. Nhìn những con chim dồn dộc, ổ già nhằn thóc tách vỏ tài tình quá thích thú, đi đâu cũng không quên trở về treo từng chùm bông lúa, đổ dặm nước uống không đời nào bỏ quên. Giống cu đất bạc lắm, nuôi từ khi còn nhỏ đến lúc có được tiếng gáy hay: cập cú cu…cu, cập cú cu… cu, rủi để sẫy lồng, không còn hy vọng trông thấy nó trở về. Tổ giống cu đất quá đơn sơ, xấu nhất trong các loài chim, cu mẹ cu cha tha về một ít cộng cỏ chỉ, lót vội vàng qua loa cho xong chuyện. Cũng vì thế tổ thường ở chỗ thấp, nơi chấn ba cay dúi, chỗ mắt gốc tre, tránh được ngọn gió to làm bay trốc tổ. Cu mẹ ấp trứng phải phơi cái lưng dưới sức nắng nóng, mưa sa…Hình dáng con cu được gắn liền với câu hát dân gian đầy ý nghĩa: “con cu đậu bởi cành mè, chữ thập chữ tứ lại đè chữ tâm”, đố chữ gì? Chữ Đức đó mà. Tổ chim cà cưỡng nằm trên cây da cao, cây mù u, cây mít… tổ rất to dễ trông thấy, nhưng không dễ gì trèo lên để bắt chim con. Cà cưỡng mẹ ấp trứng bên trong tổ kín đáo, an toàn. Theo dõi khi nào thấy chim mẹ tha mồi con trùn, con châu chấu về nuôi con được vài tuần trở lên, tìm cách trèo lên bắt chim con về nuôi. Có khi lên được tổ cà cưỡng, mà lại bắt được chim tu hú mới thấy lạ chứ! Bởi loài tu hú bẩm sinh làm biếng, không biết làm tổ, chờ cơ hội hút trứng và đẻ ra thay thế, xong nhiệm vụ. Thành thử để ám chỉ sự bạc tình, bạc nghĩa, quên công ơn nuôi dưỡng sinh thành thế gian mới có câu: “Uổng công cà cưỡng tha mồi, nuôi cho tu hú lớn rồi bay đi”. Chim sáo, con nhồng tổ ở tận trong bộng cây cao nơi đình chùa, miếu vỏ, rất khó phát hiện ra nơi chúng sinh đẻ, phải bỏ công rình rập nhiều ngày từ khi chim tha rác làm tổ, cho đến khi thấy tha mồi mới tìm cách trèo lên bắt chim con. Chơi chim sáo, chim nhồng rất công phu, lồng nhốt phải là lồng bốn trụ có song dọc, song ngang bao quanh. Thức ăn toàn con nhộng, lát thịt heo mỡ, trái chuối chín, trái ớt chín tươi… Con sáo, con nhồng có ưu điểm sống lâu và có thể tập biết huýt sáo, nói được thành tiếng: “mẹ ơi có khách”. Trẻ con không mấy đứa nuôi được, chỉ có hạng người nhà giàu nhàng rỗi, đủ điều kiện tiêu khiển vui chơi.
Chơi nuôi cá: làm gì có được những con cá long nhãn mắt lồi đẹp đẽ, thanh nhã đủ màu sắc sặc sỡ để ngắm nhìn. Trẻ con tìm được những con cá cấn có vi lưng, vi bụng màu đỏ cam mà người ta bắt được khi để nhá cá rầm hay cất trủ về mùa mưa nước lụt. Hoặc lượm nhặt được những con cá rô thia có đủ màu sắc: tím, vàng, đen, đỏ… mắc cạn trên bờ trong lúc người ta tác bàu bắt cá. Nuôi cá trong cái chai, cái thẩu kẹo màu trắng, bỏ vào đó một ít cộng rong rêu cho cá có nơi nương tựa, cho cá ăn bằng cám, bằng cơm nguội, chứ không phải cho ăn bằng những con lăng quăng như trẻ con thành phố. Sung sướng hơn, nếu được cha mẹ chìu lòng kêu thợ đến nhà đúc cho cái hồ hình chữ nhật bằng xi măng với bốn chân quì và mặt trước có gắn tấm gương để nhìn xem cá bơi lội trong hồ. Trên mặt nước lúc nào cũng thả bèo để che nắng cho nước khỏi nóng và cũng ngăn cảng không cho cá vọt ra ngoài khi trời mưa đầy hồ, nước tràn.
Tắm mưa – lội nước lụt: mùa xuân đi qua, mùa hạ đến mang theo khí hậu nóng nực hầm hầm rất khó chịu, nóng như thế người ta gọi là: trời hầm giông. Đồng thời trong lúc đó lại nghe tiếng cóc kêu ọp ẹp, thì thế nào cũng có một trận mưa giông, thường thường liên tiếp trong ba buổi chiều. Đứng trưa khí trời càng nóng bức hơn, không có một tí gió thổi, bỗng nhiên bầu trời chuyển biến: mây đen ùn ùn kéo đến, từng luồng gió to thổi ào ào, bầu trời sẩm tối, sấm chớp nổ đì đùng…và tiếp theo một trận mưa giông xối xả vút mặt không kịp. Đợi cho mùi hơi đất không còn nồng nặc, bọn trẻ trong xóm trai lẫn gái kêu gọi ơi ới, rủ nhau trần truồng chạy rong ngoài trời tắm mưa, nghịch ngợm tạt nước vào nhau, níu kéo xô đẩy hò reo inh ỏi… Lại còn tràn vào đám rau muống trước sân, tranh nhau giẫm đạp từng cái bong bóng nổi phồng: “Trời mưa bong bóng phập phồng, mẹ đi lấy chồng con ở với ai?” Ba hồi còn hè nhau chạy tới nhà nào đó có máng xối, tranh giành chen lấn hứng tắm ngọn nước chảy xuống tung tóe, mát rượi: “Một mình mà ở hai nhà, trời cho một bửa tà loa hai đầu.”. Trận mưa đầu mùa thật là mát mẻ, được dịp vui đùa như thế còn thú nào hơn, người lớn còn bảo tắm mưa giông làm cho mấy mụt sãy lặn mất, không biết có đúng như vậy không nè? Rồi mùa đông đến, mưa giầm triền miên gây nhiều trận lụt tràn ngập đồng ruộng, xóm làng biết bao nhiêu thiệt hại. Người lớn thì lo sợ, ngao ngán lụt lội, trái lại trẻ con coi nước lụt là niềm vui, là cơ hội thuận tiện để tung tăng nô đùa. Lội nước lụt là một cái thú đồng quê, tay cầm cây nạng chống đi lần mò biết chỗ sâu, chỗ cạn, lội khắp các con đường lối xóm, kêu rủ bạn bè cùng nhau ra bắt những con dế cơm mắt nước lụt, bu trên hàng cây keo, hàng rào chè tàu vui biết mấy… Nhớ tránh xa từng về kiến lửa, không thì có nước khóc chịu trận mà thôi! Bọn con trai lớn ra vườn chặt cây chuối, lấy cọc mứt nhọn đóng xuyên qua từng khúc chuối, kết thành cái bè thả nổi trôi trên mặt nước đục ngầu. Dùng cây sào mà chống bè đi từ chỗ nầy đến chỗ nọ, ngao du dưới trời nước mênh mông, nhiều khi gặp cơn mưa thình lình đổ xuống, về nhà không kịp ướt lạnh run cầm cập. Giầm nước lụt chống bè đã đời, thấy đói về nhà lục nồi cơm nguội, cạy ra từng cục cơm trong hông nồi đồng, ăn với trái dưa gang đèo muối trong hũ mắm cá rầm, hoặc xúc một tô bắp nấu hầm với đậu đen, ăn ngon miệng còn hơn ăn chả!
Đã trên sáu chục năm qua, trò chơi của trẻ con ở làng quê xứ Quảng là như vậy đó. Bằng với phương tiện giải trí: đơn giản vụng về quê mùa, đã thể hiện được tinh thần đoàn kết, đùm bọc yêu thương lẫn nhau, qua bản tính ngây thơ, hồn nhiên trong đức tính cần cù nhẫn nại và tiết kiệm. Tất cả làm căn bản để phát huy mà tồn tại. Ngày nay khoa học tiến bộ, trẻ con có sẵn quá nhiều trò chơi, không cần tìm kiếm đâu xa, cái gì cũng có, khỏi mất công tạch mạch tìm tòi để sáng tạo đồ chơi, thích hợp với lứa tuổi hoa niên như một thời đã qua. Ôi! Chỉ còn trong ký ức, dĩ vãng nhạt nhòa xa xưa.-
ĐOÀN NGỌC NAM
cởi ngựa tàu cau, rủ nhau một lũ,
ăn rồi lại ngủ, ngủ dậy đi chơi,
xuống nước đập bơi, lên bờ đánh đáo,
miệng thổi kèn lá, tò tít tò te,
tay phất cờ tre, rủ nhau ra hè, giã đò đánh giặc.”
Đó là những câu đồng dao, hát rất ngây thơ của bọn trẻ con ở làng quê. Chúng nó tụ tập nhau lại nơi bóng mát cây da cao, cây thị rợp bóng để đùa vui với nhau vào những buổi trưa hè nóng bức, trời nóng như thiêu như đốt. Còn những đêm sáng trăng cứ việc ra đường cái hoặc sân đình làng rộng rãi, tha hồ mà vui chơi. Người ta nghe chừng đó câu hát nghêu ngao đồng loạt rập ràng, cũng đủ hình dung ra được một trận đồ giặc giã, với đầy đủ binh tướng áo mão ngựa đao và cờ xí rợp trời. Trẻ con ở vào thời buổi xa xưa đó, có một tâm hồn rất hồn nhiên, vô tư và nhiểm tính ưa bắt chước. Ngôn ngữ mộc mạc, bình dân, trực tính, hòa nhã với bạn bè, nhường nhịn anh chị em và kính yêu ông bà, cha mẹ.
Trò chơi của trẻ thơ, hầu hết đều do óc sáng tạo tự tay làm lấy, rất đơn sơ giản dị và không cầu kỳ. Tất cả đều do quan sát thực tiển, nhìn vào hiện thực bên ngoài mà biến thành trò chơi thích hợp với đặc tính: vui - trẻ - khỏe. Thực ra trò chơi của tuổi trẻ có rất nhiều, từ lối chơi riêng rẻ cho đến tập thể, đông cả bọn. Ở đây chỉ nêu lên một số trò chơi tiêu biểu, gọi là một chút kỷ niệm dễ thương của một thời thơ ấu đã qua.
Chơi rồng rắn: bọn trẻ chọn ra một bạn có tướng mạo khôi ngô, khỏe mạnh để giả làm ông thầy thuốc, đầu bịt khăn đầu riều, tay cầm quạt mo, quạt nhịp. Nhóm trẻ còn lại, đứa sau ôm bụng đứa trước làm thành rồng rắn với cái đầu chọn ra một bạn mạnh nhất và cái đuôi một bạn lanh lợi, nhanh nhẹn để có thể uyển chuyển tránh né được ông thầy rượt bắt. Vào cuộc chơi, ông thầy hỏi: rồng rắn đi đâu? rồng rắn trả lời: bứt râu ông thầy, về làm chi? về bốc thuốc cho con. Con lên mấy? con lên một, chưa ngon. Con lên hai, chưa ngon. Con lên ba, đà ngon. Rồi ông thầy hỏi tiếp: cho xin khúc đầu? rồng rắn trả lời: đầu cứng. Cho xin khúc giữa, giữa xương. Cho xin khúc đuôi, đuôi mềm, bắt được thì ăn… Lập tức ông thầy thì cố sức rượt bắt cho được khúc đuôi trong tư thế né tránh. Còn đầu rồng rắn thì phình hai cánh tay râu ria ra để bảo vệ an toàn tính mệnh. Cuộc chơi thật là vui nhộn, cả tiếng hò reo cười đùa thỏa thích. Ôi thôi! mù mịt bụi đất bốc lên nồng nặc, nghẹt cả lỗ mũi. Kết thúc cuộc chơi: hoặc ông thầy bị bắt, hoặc khúc đuôi bị xơi tái.
Chơi mua bán heo: Chọn ra một bạn ưng ý nhất, khỏe mạnh và lanh lợi để giả bộ làm người đi mua heo. Một bạn nữa dáng bộ mập mạp làm con heo. Chuồng nhốt heo là vòng tròn, tay nắm tay thật chặt của nhóm. Người đi mua heo đi vòng quanh chuồng, rao mấy câu dọ hỏi và chủ nuôi heo trả lời: nhà ai có heo bán không? Mua heo chi - heo lan. Lan chi - lan huệ. Huệ chi - huệ lan. Một quan bán không? không bán. Hai quan bán không? không bán. Ba quan bán không? đà bán… Tức thì người đi mua heo có thể đạp vào cửa chuồng để bắt xúc heo. Muốn vào được phải thử cửa chuồng (chỗ nắm tay nhau) bằng cách: đặt đầu gối lên cửa chuồng và hỏi: kiền kiền hay củi mục? Nếu cửa chuồng cảm thấy mình yếu, thì nên trả lời củi mục, lái heo bỏ qua và đi đến cửa khác hỏi tiếp tục. Cửa nào dám trả lời: kiền kiền, lái heo bất cứ giá nào cũng ra sức đè đầu gối, đạp cửa chuồng vào bắt heo cho được. Lái heo phải lanh trí, dự liệu đủ sức có thể bắt được heo, chứ không chừng bị chuồng heo nhốt lại và con heo sẫy chuồng, thoát ra ngoài chạy lanh quanh trêu chọc quê, tức lắm đó… cả bọn mặc sức hò reo inh ỏi vang dội khắp xóm làng.
Chơi bỏ khăn: bọn trẻ cả trai lẫn gái, ngồi xấp bằng thành một vòng tròn, mặt xây vào bên trong. Đầu tiên một cô hay cậu xung phong trước nhận đi bỏ khăn. Trên tay cầm chiếc khăn lau mặt, có khi đi có khi chạy lúp xúp quanh vòng tròn người. Nhè nhẹ bỏ chiếc khăn lau sau lưng một đứa nào đó, nhắm chừng nó không biết, rồi mau lẹ chạy quanh trở lại. Nếu nó không hề hay biết, đập nhẹ vào lưng biểu phải đứng dậy thay thế cho mình và ngồi vào chỗ nó. Ngược lại, đứa bị bỏ khăn phát hiện kịp thời, đứng dậy chạy đuổi theo mà bắt kịp, coi như nó có quyền ngồi trở lại chỗ cũ. Còn không, phải tiếp tục trò chơi, trổ tài lừa phỉnh sụp bẫy đứa khác… cho đến khi cuộc chơi nhàm chán mới chấm dứt.
Chơi u mọi: đây là trò chơi bạo mạnh, nên thích hợp với bọn con trai nhiều hơn. Cả bọn chia nhau bắt thành hai phe, một bên cởi trần trùi trụi, còn bên kia có quyền mặc áo. Sân chơi hình chữ nhật rộng rãi, bốn góc bỏ dồn những chiếc áo làm cột mốc giới hạn, ở giữa sân vạch một lằn ranh giới, chia ra làm hai địa phận. Bắt đầu cuộc chơi, quân của bên nào thì ở vào vị trí bày binh bố trận của bên nấy. Bên cởi trần bắt đầu cử ra một quân đi u trước, chạy một mạch từ cuối sân của mình, khi xuyên qua đất địch bắt đầu giữ hơi trong miệng, phát ra tiếng u…u…u…liên hồi, có khi lên cao hay trầm xuống, cốt yếu làm sao giữ hơi cho dài để có thể trở về, mất hơi là chết. Lượn qua liếc lại tìm cách đánh vào đối phương để tiêu diệt, chết phải ra khỏi sân. Còn quân đi u nếu bị bắt giải về hậu cứ của đối phương, chờ cho cùng phe đến cứu, đụng vào người phe mình đương nhiên được trở về. Cuộc chơi cứ thế mà tiếp diễn, cho đến khi nào một bên hết quân thua trận thì thôi. Ôi thôi! Cả một cuộc niếu kéo không kể gì đến trầy đầu gối, lã cùi chỏ…
Trồng cây dừa: Dựa vào hình dáng cây dừa có từng lóng mắt, mà bọn trẻ bày ra trò chơi nầy. Cả bọn ngồi quanh một vòng tròn, mỗi đứa hai tay nắm chặt và lần lượt chồng chất lên nhau, hết đứa nọ đến đứa kia. Một đứa trong bọn đọc lên những câu vè như thế nầy: trồng cây dừa chừa cây nọ, cây nào cao cây nào thấp, cây nào mập cây nào nhòng, dây mồng tơi dây bí đỏ, con Văn con Vỏ, ăn cắp trứng gà, bù xa bù xít, con rắn con rít, bỏ qua tay nầy, lại gầy tay nọ, lại bỏ tay kia… Mỗi câu vè thích ứng với một nắm tay, vừa đọc vừa chỉ lòng vòng từ dưới lên trên và ngược lại. Nắm tay nào trùng với câu vè cuối cùng: “lại bỏ tay kia” được quyền bỏ tay ra khỏi cây dừa. Cứ thế mà tiếp tục đọc vè trở lại, cho đến khi nào chỉ còn duy nhất một nắm tay của đứa bị xui, phải đành chịu bịt mắt đi tìm những đứa khác trốn vào góc xó bờ tường tối thui, buội chuối lùm cây kín mít khó bề tìm ra.
Chơi đá banh: là môn giải trí có tính cách thể thao nhất, trẻ con chơi hoài không biết chán. Sân chơi được chọn ở những chỗ như: khúc con đường kiệt có chỗ rộng phình ra, đoạn đường cái bóng mát của hai dãy cây sầu đông hai bên, đám ruộng vừa mới gặt xong và tiện nhất là bãi cát trắng ngoài bờ sông. Khi đã chọn được sân banh rồi, cột phô rất đơn giản bằng cách bỏ dồn đống dép, mớ gạch vụn cũng được rồi. Quả banh là trái bòng the người ta chê, đem lùi vào đống lửa quét đốt rác cho nó hơi mềm hoặc dùng bẹ chuối sứ phơi khô, lấy sương cho dẽo đan bệnh thành trái banh cũng bền và êm chân lắm. Đá banh mà chẳng bao giờ có trọng tài, một bên cởi trần, một bên bận áo để dễ phân biệt. Hai bên đá lộn xà ngầu với nhau rất hăn say, mồ hôi đứa nào đứa nấy nhễ nhại, ướt đẩm cả người, nhiều khi vì quá hăn quên mất đau đớn đá nhằm vào gạch sỏi trên đường đến nổi toát đầu nhón chân, chảy máu mà không hề hay biết. Càng về chập choạng tối, trận đấu càng thêm hào hứng nhiều hơn, cho đến khi có tiếng gọi về tắm rửa ăn cơm tối mới chịu ngưng cuộc chơi.
Hát ru em: bọn con gái thích nhất trò chơi em bé, giã đò làm mẹ làm chị hát ru cho em ngủ. Em bé dùng bẹ chuối cắt nên hình, cũng đủ thành phần đầu mình và tứ chi. Chiếc nôi bẹ chuối có đủ bốn tao hẳng hoài và đem treo lên cành cây, chỗ bóng mát, rồi bắt đầu hát bắt quờ, không nhất thiết có bài bản nào cả, dỗ dành ru cho em ngủ: ầu ơ ba trái ầu ơ… chim ăn hết hột còn xơ với cùi, chim quyên xuống đất ăn trùn, anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than. Thuốc thang, thang thuốc bỏ gừng, ta không bỏ bạn bạn đừng bỏ ta. Chim quyên ăn trái nhãn lồng, lia thia quen chậu vợ chồng quen hơi. Ba ba nấu cháo nồi ba, tam tam như cửu cháo đà chín chưa. Con chim đa đa đậu nhánh cành đa, nó kêu lất la lất lẻo, con chim chèo bẽo đậu nhánh măng vòi, nó kêu bớ trò hai, trò không cưới vợ, ở hoài rứa răn. Trên trời có một cái trăng, khi tròn khi khuyết đạo ngãi hằng ai lo. Mẹ già hai đứa nuôi chung, đứa lo cơm nước đứa dành thuốc thang. Chàng ơi phụ thiếp làm chi, thiếp là cơm nguội chờ khi đói lòng. Đói lòng ăn hột chà là, để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng. Mẹ ơi đừng đánh con đau, để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ. Mẹ ơi đừng đánh con khờ, để con ra buội con rờ mụt măng. Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẽ có thương con chồng…
Đánh cờ gánh: trò chơi đánh cờ gánh rất thông dụng ở thôn quê, nhất là thích hợp với lứa tuổi thơ dại, suy nghĩ còn non kém. Nơi bài trí trò chơi cũng quá dễ dàng, chỉ cần vẽ xuống mặt đất bằng phẳng với cây que, hay trên nền xi măng bằng cục gạch bễ, cục than hay viên phấn thành bàn cờ gánh để chơi với nhau trong giờ ra chơi hoặc lúc rãnh rổi. Cách vẽ bàn cờ, đầu tiên vẽ một hình vuông rồi chia hình vuông đó thành bốn hình vuông nhỏ bằng nhau, tiếp đến vẽ các đường chéo và sau cùng nối trung tâm điểm của các cạnh hình vuông nhỏ lại với nhau để đủ năm huê thị là chỗ gánh cờ. Bộ cờ gánh gồm mười sáu cái vỏ hến lớn, một bên úp mặt, bên kia lật ngửa phân biệt hai bên rõ rang. Tất cả con cờ đều sắp chung quanh bàn cờ ở chỗ đầu mối phân ô. Năm con cờ hàng ngang của mỗi bên thì sắp như nhau. Ba con cờ hàng dọc sắp khác nhau, một con ở hàng dọc bên trái và hai con ở bên phải, bên kia thì ngược lại. Cách thức đi cờ, đi con cờ từ nấc một, đi dọc đi ngang hay đi chéo cũng được. Thay phiên nhau mỗi bên đi một quân, ăn quân đối phương bằng cách đi vào huê thị hay nấc giữa hai con cờ để gánh và cờ của bên kia trở thành quân mình. Gánh cờ thường là gánh hai, gánh bốn tới gánh sáu. Trường hợp sơ ý để trống bị gánh thì thiệt hại ít, ngược lại bị mỡ gánh thì thiệt hại hao quân mới đáng kể. Ngoài cách gánh quân còn có thể dồn ép, bao vây không còn lối đi gọi là bóp chết. Kết quả thắng cuộc, khi quân của một bên nào đó không còn một mạng. Từ lối chơi cờ gánh nẫy sinh ra đánh cờ hùm. Bàn cờ vẽ thêm vào hình thoi có hai đường chéo, đỉnh nhọn đính vào chính giữa một cạnh của hình vuông, đỉnh kia vẽ một gạch ngang và nối dài đường chéo thành chỗ hang hùm. Con hùm là nan tre bẻ cong một đầu, hùm đi bằng cách nhãy qua đầu con cờ là ăn được một quân của mười sáu con cờ trong bàn cờ. Con hùm chỉ cần ăn một quân sơ hở, coi như thế nào cũng thắng. Còn quân cố giữ không để chết con nào, tìm cách dồn ép hùm hết lối nhãy qua là thắng cuộc.
Chơi thả dều: Cứ đến mùa gió nôm thổi từ Lào qua, hay gió nờm thổi từ cửa bể lên, đó là thời điểm thả dều rong chơi của bọn trẻ con thích hợp nhất. Con dều làm bằng hai thẻ nan tre vót mõng, cột tréo chữ thập lại với nhau, bồi dán lên đó miếng giấy xi măng đã xắp gọn ghẽ giống như thân dều. Hai bên thân dều kết thêm hai tua giấy giã làm cánh, ở về phía đằng sau còn có thêm tua giấy nữa làm cái đuôi, bay lượn uốn khúc theo chiều gió. Vẽ thêm hai con mắt và tô màu cho đẹp thêm. Tiếp đến lấy lá go cũ dệt vải tháo ra sợi dây thật dài, một đầu cột vào ống quây vải để quấn dây, đầu kia buộc nơi tréo chữ thập dưới bụng dều. Bấy giờ chỉ còn mang dều ra cánh đồng trống, hay bãi cát rộng mênh mông mà thả dều bay bỗng, uốn khúc, lượn quanh trên bầu trời trông rất đẹp mắt. Càng gió to, càng nới lõng sợi dây go cho dều được tự do lên cao rồi xuống thấp tùy theo lối điều khiển khéo léo của tay chơi dều đầy kinh nghiệm, còn vui sướng nào hơn và la to lên rằng: “ lên như dều giặp gió”.
Chơi đá dế: phải tuyển chọn cho ra con dế trống than có dáng bộ oai vệ, cặp chân phải cao, cánh thì dày và bộ nanh phải sắc bén, mới đủ điều kiện để dự tranh hùng. Dế than thường hay núp ở dưới những đống vớ dây khoai lang mục ngoài đồng, chỉ cần giở đống dây đó lên, chú dế nhãy ra, lanh tay chụp lấy bỏ vào hộp quẹt diêm hay cái lon sữa bò đã chuẩn bị sẵn. Cũng có thể lội vào những đám ruộng đã cày bệ, mà rình nghe tiếng gáy đồng thời lật từng cục đất bệ lên, thế nào cũng tóm cổ được nó. Nhiều khi những con dế khôn đạt tiêu chuẩn, lại hay ẩn mình dưới lỗ đất nẻ của đám ruộng sau khi gặt bỏ hoang, phải dùng đến liềm dẫy mà đào đất mới bắt được con dế cừ khôi, đá trận nào thắng trận đó. Mỗi chú dế được nuôi riêng biệt, cho ăn lá rau muống, lá dâu non, cho uống sương vào ban đêm và còn phải làm hang, thả vào để lấy hơi đất cho có sức mạnh như khi còn hoang giã. Đấu trường thường là chiếc hình hộp trống miệng, cái hục đào sâu xuống đất có mặt đáy bằng phẳng. Đầu tiên chủ bắt dế của mình ra, lấy một sợi tóc ở đầu gấp đôi lại móc vào chân sau của dế, cầm lấy sợi tóc quây lòng vòng cho dế say nổi máu ngà, kích động hăng say gọi là làm nổi. Hai bên bỏ dế ra cùng một lúc, lập tức hai đấu thủ phùng cánh, dương râu, gáy te te và nhào tới nhe nanh nghinh chiến: cắn, đá túi bụi, dùng hết mọi sở đoản, sở trường để tranh hùng. Mỗi lần dế bên nào đá được cú hiểm, tiếng la hò hắt của phe chủ vang lên ầm ỹ náo nhiệt cả một góc trời. Cũng có đôi khi đôi dế chậm chạm tráng, chủ dế phải dùng mấy cộng nhỏ cây chổi đót vê vào đầu chúng nó, kích động, chọc tức cho mau giao chiến để đôi bên chủ dế tranh nhau giành phần thắng, khoe danh con dế cừ khôi của mình, không có con nào địch nổi.
Chơi nuôi chim: chơi nuôi chim là một cái thú mà hầu hết trẻ con đều thích, các loại chim ở vùng thôn quê từ con chim nhỏ nhất như con chim sâu, đến con to như con quạ ô, con diều hâu đều có cả. Bọn trẻ chọn ra những con chim khôn dễ nuôi với thức ăn cho chúng nó dễ tìm ra. Những con chim dồn dộc đan tổ rất tinh xão, dùng cái mõ nhỏ xíu tướt xé từng sợi lá mía, lá cây bói tha về đan thành tổ như chiếc giày ống chúc miệng xuống đất. Tổ treo tòn teng trên cành cây me cao, cây cau và nhiều nhất ở bãi sậy, ruộng mía trùng trùng điệp điệp… Chim con bắt về từ khi còn lông nhặm, nhai gạo sún vào miệng cho nó ăn. Cho uống nước đường gây ghiền để bay đi rồi cũng trở lại, nhãy quanh quẩn trên cành cây dúi khô trụi lá, treo dưới mái hiên hay rèm cửa trong nhà. Nhìn những con chim dồn dộc, ổ già nhằn thóc tách vỏ tài tình quá thích thú, đi đâu cũng không quên trở về treo từng chùm bông lúa, đổ dặm nước uống không đời nào bỏ quên. Giống cu đất bạc lắm, nuôi từ khi còn nhỏ đến lúc có được tiếng gáy hay: cập cú cu…cu, cập cú cu… cu, rủi để sẫy lồng, không còn hy vọng trông thấy nó trở về. Tổ giống cu đất quá đơn sơ, xấu nhất trong các loài chim, cu mẹ cu cha tha về một ít cộng cỏ chỉ, lót vội vàng qua loa cho xong chuyện. Cũng vì thế tổ thường ở chỗ thấp, nơi chấn ba cay dúi, chỗ mắt gốc tre, tránh được ngọn gió to làm bay trốc tổ. Cu mẹ ấp trứng phải phơi cái lưng dưới sức nắng nóng, mưa sa…Hình dáng con cu được gắn liền với câu hát dân gian đầy ý nghĩa: “con cu đậu bởi cành mè, chữ thập chữ tứ lại đè chữ tâm”, đố chữ gì? Chữ Đức đó mà. Tổ chim cà cưỡng nằm trên cây da cao, cây mù u, cây mít… tổ rất to dễ trông thấy, nhưng không dễ gì trèo lên để bắt chim con. Cà cưỡng mẹ ấp trứng bên trong tổ kín đáo, an toàn. Theo dõi khi nào thấy chim mẹ tha mồi con trùn, con châu chấu về nuôi con được vài tuần trở lên, tìm cách trèo lên bắt chim con về nuôi. Có khi lên được tổ cà cưỡng, mà lại bắt được chim tu hú mới thấy lạ chứ! Bởi loài tu hú bẩm sinh làm biếng, không biết làm tổ, chờ cơ hội hút trứng và đẻ ra thay thế, xong nhiệm vụ. Thành thử để ám chỉ sự bạc tình, bạc nghĩa, quên công ơn nuôi dưỡng sinh thành thế gian mới có câu: “Uổng công cà cưỡng tha mồi, nuôi cho tu hú lớn rồi bay đi”. Chim sáo, con nhồng tổ ở tận trong bộng cây cao nơi đình chùa, miếu vỏ, rất khó phát hiện ra nơi chúng sinh đẻ, phải bỏ công rình rập nhiều ngày từ khi chim tha rác làm tổ, cho đến khi thấy tha mồi mới tìm cách trèo lên bắt chim con. Chơi chim sáo, chim nhồng rất công phu, lồng nhốt phải là lồng bốn trụ có song dọc, song ngang bao quanh. Thức ăn toàn con nhộng, lát thịt heo mỡ, trái chuối chín, trái ớt chín tươi… Con sáo, con nhồng có ưu điểm sống lâu và có thể tập biết huýt sáo, nói được thành tiếng: “mẹ ơi có khách”. Trẻ con không mấy đứa nuôi được, chỉ có hạng người nhà giàu nhàng rỗi, đủ điều kiện tiêu khiển vui chơi.
Chơi nuôi cá: làm gì có được những con cá long nhãn mắt lồi đẹp đẽ, thanh nhã đủ màu sắc sặc sỡ để ngắm nhìn. Trẻ con tìm được những con cá cấn có vi lưng, vi bụng màu đỏ cam mà người ta bắt được khi để nhá cá rầm hay cất trủ về mùa mưa nước lụt. Hoặc lượm nhặt được những con cá rô thia có đủ màu sắc: tím, vàng, đen, đỏ… mắc cạn trên bờ trong lúc người ta tác bàu bắt cá. Nuôi cá trong cái chai, cái thẩu kẹo màu trắng, bỏ vào đó một ít cộng rong rêu cho cá có nơi nương tựa, cho cá ăn bằng cám, bằng cơm nguội, chứ không phải cho ăn bằng những con lăng quăng như trẻ con thành phố. Sung sướng hơn, nếu được cha mẹ chìu lòng kêu thợ đến nhà đúc cho cái hồ hình chữ nhật bằng xi măng với bốn chân quì và mặt trước có gắn tấm gương để nhìn xem cá bơi lội trong hồ. Trên mặt nước lúc nào cũng thả bèo để che nắng cho nước khỏi nóng và cũng ngăn cảng không cho cá vọt ra ngoài khi trời mưa đầy hồ, nước tràn.
Tắm mưa – lội nước lụt: mùa xuân đi qua, mùa hạ đến mang theo khí hậu nóng nực hầm hầm rất khó chịu, nóng như thế người ta gọi là: trời hầm giông. Đồng thời trong lúc đó lại nghe tiếng cóc kêu ọp ẹp, thì thế nào cũng có một trận mưa giông, thường thường liên tiếp trong ba buổi chiều. Đứng trưa khí trời càng nóng bức hơn, không có một tí gió thổi, bỗng nhiên bầu trời chuyển biến: mây đen ùn ùn kéo đến, từng luồng gió to thổi ào ào, bầu trời sẩm tối, sấm chớp nổ đì đùng…và tiếp theo một trận mưa giông xối xả vút mặt không kịp. Đợi cho mùi hơi đất không còn nồng nặc, bọn trẻ trong xóm trai lẫn gái kêu gọi ơi ới, rủ nhau trần truồng chạy rong ngoài trời tắm mưa, nghịch ngợm tạt nước vào nhau, níu kéo xô đẩy hò reo inh ỏi… Lại còn tràn vào đám rau muống trước sân, tranh nhau giẫm đạp từng cái bong bóng nổi phồng: “Trời mưa bong bóng phập phồng, mẹ đi lấy chồng con ở với ai?” Ba hồi còn hè nhau chạy tới nhà nào đó có máng xối, tranh giành chen lấn hứng tắm ngọn nước chảy xuống tung tóe, mát rượi: “Một mình mà ở hai nhà, trời cho một bửa tà loa hai đầu.”. Trận mưa đầu mùa thật là mát mẻ, được dịp vui đùa như thế còn thú nào hơn, người lớn còn bảo tắm mưa giông làm cho mấy mụt sãy lặn mất, không biết có đúng như vậy không nè? Rồi mùa đông đến, mưa giầm triền miên gây nhiều trận lụt tràn ngập đồng ruộng, xóm làng biết bao nhiêu thiệt hại. Người lớn thì lo sợ, ngao ngán lụt lội, trái lại trẻ con coi nước lụt là niềm vui, là cơ hội thuận tiện để tung tăng nô đùa. Lội nước lụt là một cái thú đồng quê, tay cầm cây nạng chống đi lần mò biết chỗ sâu, chỗ cạn, lội khắp các con đường lối xóm, kêu rủ bạn bè cùng nhau ra bắt những con dế cơm mắt nước lụt, bu trên hàng cây keo, hàng rào chè tàu vui biết mấy… Nhớ tránh xa từng về kiến lửa, không thì có nước khóc chịu trận mà thôi! Bọn con trai lớn ra vườn chặt cây chuối, lấy cọc mứt nhọn đóng xuyên qua từng khúc chuối, kết thành cái bè thả nổi trôi trên mặt nước đục ngầu. Dùng cây sào mà chống bè đi từ chỗ nầy đến chỗ nọ, ngao du dưới trời nước mênh mông, nhiều khi gặp cơn mưa thình lình đổ xuống, về nhà không kịp ướt lạnh run cầm cập. Giầm nước lụt chống bè đã đời, thấy đói về nhà lục nồi cơm nguội, cạy ra từng cục cơm trong hông nồi đồng, ăn với trái dưa gang đèo muối trong hũ mắm cá rầm, hoặc xúc một tô bắp nấu hầm với đậu đen, ăn ngon miệng còn hơn ăn chả!
Đã trên sáu chục năm qua, trò chơi của trẻ con ở làng quê xứ Quảng là như vậy đó. Bằng với phương tiện giải trí: đơn giản vụng về quê mùa, đã thể hiện được tinh thần đoàn kết, đùm bọc yêu thương lẫn nhau, qua bản tính ngây thơ, hồn nhiên trong đức tính cần cù nhẫn nại và tiết kiệm. Tất cả làm căn bản để phát huy mà tồn tại. Ngày nay khoa học tiến bộ, trẻ con có sẵn quá nhiều trò chơi, không cần tìm kiếm đâu xa, cái gì cũng có, khỏi mất công tạch mạch tìm tòi để sáng tạo đồ chơi, thích hợp với lứa tuổi hoa niên như một thời đã qua. Ôi! Chỉ còn trong ký ức, dĩ vãng nhạt nhòa xa xưa.-
ĐOÀN NGỌC NAM
24. Cây Xương Rồng
trời sinh ra sống trên cồn cát
cây không lá trổ hoa tươi mát
da xanh mủ trắng gai lú nhú
lỡ chạm vào chích nhức đau rát
mặc cho nắng hạn mưa bão táp
giòng họ nhà rồng chẳng tan nát
sa mạc cõi chung cùng nhau sống
xương rồng lưỡi long đâu lấn át
Dây Tơ Hồng
tạo hóa khéo sinh dây tơ hồng
rễ không gốc chẳng tựa râu rồng
chè tàu thẳng nếp nương nhau sống
trao thân gởi phận trước gió đông
xuân về óng ánh vàng trong nắng
dệt mãnh tình đời kẻ đợi trông
xấu số cho nên còn lận đận
rằng mong hậu vận được tấm chồng
Đoàn Ngọc Nam
*Dây tơ hồng không ai trồng mà mọc.
Con gái chưa chồng anh chọc ghẹo chơi.
trời sinh ra sống trên cồn cát
cây không lá trổ hoa tươi mát
da xanh mủ trắng gai lú nhú
lỡ chạm vào chích nhức đau rát
mặc cho nắng hạn mưa bão táp
giòng họ nhà rồng chẳng tan nát
sa mạc cõi chung cùng nhau sống
xương rồng lưỡi long đâu lấn át
Dây Tơ Hồng
tạo hóa khéo sinh dây tơ hồng
rễ không gốc chẳng tựa râu rồng
chè tàu thẳng nếp nương nhau sống
trao thân gởi phận trước gió đông
xuân về óng ánh vàng trong nắng
dệt mãnh tình đời kẻ đợi trông
xấu số cho nên còn lận đận
rằng mong hậu vận được tấm chồng
Đoàn Ngọc Nam
*Dây tơ hồng không ai trồng mà mọc.
Con gái chưa chồng anh chọc ghẹo chơi.
23. Quê Xưa
Con gà cục tác lá chanh,
Mì gà nhưn thịt tiêu hành thêm thơm.
Nồi đất nấu cơm lửa rơm,
Ruột bầu canh ngọt râu tơm mặn nồng.*
Chiều tà giọt nắng ráng hồng,
Reo vang réo gọi mục đồng thúc trâu.
Cô nàng thôn nữ qua cầu,
Trên vai nặng triểu đôi bầu đường đen.**
Bình minh ló dạng tắt đèn,***
Nông cụ đầy đủ dùng quen sẵn sàng.
Rủ nhau lũ lượt thành đàn,
Cùng nhau cày cuốc chải ban phẳng đồng.
Xe trâu dẫn nước thành công,
Ông cày bà cấy vần công chung tình.
Quê hương xứ sở chúng mình,
Chôn nhau cắt rốn đẹp xinh muôn đời.
*Râu tơm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
**Đường táng Quảng
***Mỗi ngày hai bữa cơm đèn,
Còn đâu má phấn răng đen hởi chàng.
Nhớ
(Thân tặng Đỗ Quí Dân (HK),
Văn Quý Dũng (VN) và các bạn
đồng cảnh ngộ)
Nhắc làm chi gian khổ Người ơi!
Thân xe thồ manh áo tả tơi.
Em thân quen trở thành khách lạ.
Đưa em về “tổ ấm” tận nơi.
Em, “nhà tôi” đôi bạn tri kỷ.
Tôi, chồng em theo vận nước rơi.
Thăng trầm khổ nhục đã qua rồi.
Tuổi về già, nay được thảnh thơi…
Đoàn Ngọc Nam (HN: 27-7-2013)
Con gà cục tác lá chanh,
Mì gà nhưn thịt tiêu hành thêm thơm.
Nồi đất nấu cơm lửa rơm,
Ruột bầu canh ngọt râu tơm mặn nồng.*
Chiều tà giọt nắng ráng hồng,
Reo vang réo gọi mục đồng thúc trâu.
Cô nàng thôn nữ qua cầu,
Trên vai nặng triểu đôi bầu đường đen.**
Bình minh ló dạng tắt đèn,***
Nông cụ đầy đủ dùng quen sẵn sàng.
Rủ nhau lũ lượt thành đàn,
Cùng nhau cày cuốc chải ban phẳng đồng.
Xe trâu dẫn nước thành công,
Ông cày bà cấy vần công chung tình.
Quê hương xứ sở chúng mình,
Chôn nhau cắt rốn đẹp xinh muôn đời.
*Râu tơm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
**Đường táng Quảng
***Mỗi ngày hai bữa cơm đèn,
Còn đâu má phấn răng đen hởi chàng.
Nhớ
(Thân tặng Đỗ Quí Dân (HK),
Văn Quý Dũng (VN) và các bạn
đồng cảnh ngộ)
Nhắc làm chi gian khổ Người ơi!
Thân xe thồ manh áo tả tơi.
Em thân quen trở thành khách lạ.
Đưa em về “tổ ấm” tận nơi.
Em, “nhà tôi” đôi bạn tri kỷ.
Tôi, chồng em theo vận nước rơi.
Thăng trầm khổ nhục đã qua rồi.
Tuổi về già, nay được thảnh thơi…
Đoàn Ngọc Nam (HN: 27-7-2013)
22. Mưa Bụi
(Mưa Gieo Cải)
Mưa bụi tháng giêng phất phới bay.
Hạt nhỏ buông rơi thấm ướt tay.
Ong bướm tìm hoa thu lấy mật.
Quanh quẩn lượn vòng vạt cải cay.
Lên đồi, sim chín trái ngon ngọt.
Xuống đồi, nhặt gỡ bông cỏ may.
Trời mưa lâm râm mát mát dịu.
Thúc giục nông dân dắt trâu cày.
Mưa Giông
Nóng hầm hầm giữa lúc ban trưa
Nghe cóc kêu thế nào cũng mưa
Mây đen sà thấp quyện theo gió
Sấm nổ chớp lòe cũng không vừa
Hơi đất đầu mùa hăng hắc mũi
Xối xả một trận đả lòng chưa
Mưa một hồi trời lại quang đản
Gà gáy chào mừng chấm dứt mưa
Mưa Giầm
Tháng chín trời mưa, mưa rỉ rã.
Suốt cả ngày đêm rơi tầm tã.
Chim buồn hót tìm nơi trú ẩn.
Tàn cây buông rũ tựa cò ma.
Người ra đường mang tơi, nón lá.
Chợ vắng khách, ăn tạm cho qua.
Chưa tối, mặt trời đi ngủ sớm.
Màn đêm tối thui như mực xạ.
Đoàn Ngọc Nam
(Mưa Gieo Cải)
Mưa bụi tháng giêng phất phới bay.
Hạt nhỏ buông rơi thấm ướt tay.
Ong bướm tìm hoa thu lấy mật.
Quanh quẩn lượn vòng vạt cải cay.
Lên đồi, sim chín trái ngon ngọt.
Xuống đồi, nhặt gỡ bông cỏ may.
Trời mưa lâm râm mát mát dịu.
Thúc giục nông dân dắt trâu cày.
Mưa Giông
Nóng hầm hầm giữa lúc ban trưa
Nghe cóc kêu thế nào cũng mưa
Mây đen sà thấp quyện theo gió
Sấm nổ chớp lòe cũng không vừa
Hơi đất đầu mùa hăng hắc mũi
Xối xả một trận đả lòng chưa
Mưa một hồi trời lại quang đản
Gà gáy chào mừng chấm dứt mưa
Mưa Giầm
Tháng chín trời mưa, mưa rỉ rã.
Suốt cả ngày đêm rơi tầm tã.
Chim buồn hót tìm nơi trú ẩn.
Tàn cây buông rũ tựa cò ma.
Người ra đường mang tơi, nón lá.
Chợ vắng khách, ăn tạm cho qua.
Chưa tối, mặt trời đi ngủ sớm.
Màn đêm tối thui như mực xạ.
Đoàn Ngọc Nam
21. Gò Nổi Mến Yêu
mến yêu quá quê hương Gò Nổi
nước trong ngào ngạt sông Thu Bồn
bao quanh hai nhánh chảy dồn
phù sa bồi đắp ngập cồn bãi dâu
lúa tốt nhờ phân tro cùng nước
được mùa nghĩ tới ông trời hiền
xe trâu cấp nước triền miên
do Ông sứ giã điều nghiên mang về*
lam chiều khói rạ quyện bay cao
cày bừa bám giữ nghề nông tang
mưa thuận gió hòa hân hoan
bông lúa nặng triểu xóm làng mừng reo
đôi bàn chân nhịp theo con ác
tay đưa thoi thôn nữ lẹ làng
áo may thiếp trao cho chàng
tào khang xuống bể lên ngàn thủy chung
đất ba châu hẹp người chen chúc
bờ cỏi mở mang châu Ô Rí
nhìn qua Núi Chúa xanh rì
Xuân Đài nguyên quán sử ghi danh Ngài**
Đoàn Ngọc Nam
*Sứ Giã Phạm Phú Thứ (Đông Bàn/Gò Nổi)
**Tổng Đốc Hoàng Diệu (Xuân Đài/Gò Nổi)
mến yêu quá quê hương Gò Nổi
nước trong ngào ngạt sông Thu Bồn
bao quanh hai nhánh chảy dồn
phù sa bồi đắp ngập cồn bãi dâu
lúa tốt nhờ phân tro cùng nước
được mùa nghĩ tới ông trời hiền
xe trâu cấp nước triền miên
do Ông sứ giã điều nghiên mang về*
lam chiều khói rạ quyện bay cao
cày bừa bám giữ nghề nông tang
mưa thuận gió hòa hân hoan
bông lúa nặng triểu xóm làng mừng reo
đôi bàn chân nhịp theo con ác
tay đưa thoi thôn nữ lẹ làng
áo may thiếp trao cho chàng
tào khang xuống bể lên ngàn thủy chung
đất ba châu hẹp người chen chúc
bờ cỏi mở mang châu Ô Rí
nhìn qua Núi Chúa xanh rì
Xuân Đài nguyên quán sử ghi danh Ngài**
Đoàn Ngọc Nam
*Sứ Giã Phạm Phú Thứ (Đông Bàn/Gò Nổi)
**Tổng Đốc Hoàng Diệu (Xuân Đài/Gò Nổi)
20. Tôi Với Anh
Tôi với anh có cùng giòng máu Việt
Chẳng lẽ hận thù giữ mãi hay sao
Chiến cuộc xãy ra đất nước điêu tàn
Anh rước Nga Tàu tôi cậy Mỹ vào
Vì quyền lợi Họ chơi trò trao đổi
Tôi bó tay anh kiêu hãnh tự hào
Đau thương thay cảnh nồi da xáo thịt
Rốt cuộc thua thiệt dành cho đồng bào
Khi xưa anh miệt thị tôi thằng ngụy
Thân sa cơ tôi nuốt hận nghẹn ngào
Thời trai trẻ nổi trôi theo vận nước
Yêu Quê Hương tôi vẫn như ngày nào
Nay anh thừa nhận tôi là Niên Trưởng*
Có thực lòng hay chiêu dụ hào bao
Thôi cũng được xem như tỏ thiện chí
Nói và hành động đi đôi đừng xạo
Bao giờ thù hận mới xóa sạch đây
Quên đi chiến thắng say men kiêu ngạo
Cờ Tổ Quốc màu vàng hồn Dân Tộc
Đồng bào hân hoan trân quí kính chào
DNN
*Trên chuyến bay VietnamAirline từ SàiGòn
ra Đà Nẵng lúc 9:45 ngày 8 tháng 4 năm 2013.
Tôi đã nghe qua “loa” 2 lần (lúc lên và xuống
máy bay): “Chào mừng NT/ĐNN về thăm Quê
Hương…” và với Anh ngữ: “Welcome captain
Đoàn Ngọc Nam…”
Tôi với anh có cùng giòng máu Việt
Chẳng lẽ hận thù giữ mãi hay sao
Chiến cuộc xãy ra đất nước điêu tàn
Anh rước Nga Tàu tôi cậy Mỹ vào
Vì quyền lợi Họ chơi trò trao đổi
Tôi bó tay anh kiêu hãnh tự hào
Đau thương thay cảnh nồi da xáo thịt
Rốt cuộc thua thiệt dành cho đồng bào
Khi xưa anh miệt thị tôi thằng ngụy
Thân sa cơ tôi nuốt hận nghẹn ngào
Thời trai trẻ nổi trôi theo vận nước
Yêu Quê Hương tôi vẫn như ngày nào
Nay anh thừa nhận tôi là Niên Trưởng*
Có thực lòng hay chiêu dụ hào bao
Thôi cũng được xem như tỏ thiện chí
Nói và hành động đi đôi đừng xạo
Bao giờ thù hận mới xóa sạch đây
Quên đi chiến thắng say men kiêu ngạo
Cờ Tổ Quốc màu vàng hồn Dân Tộc
Đồng bào hân hoan trân quí kính chào
DNN
*Trên chuyến bay VietnamAirline từ SàiGòn
ra Đà Nẵng lúc 9:45 ngày 8 tháng 4 năm 2013.
Tôi đã nghe qua “loa” 2 lần (lúc lên và xuống
máy bay): “Chào mừng NT/ĐNN về thăm Quê
Hương…” và với Anh ngữ: “Welcome captain
Đoàn Ngọc Nam…”
19. Trung Học Đệ Nhị Cấp
Niên khóa 61-62, Trường Trung Học Trần Quí Cáp Hội An Quang Nam, mở rộng thêm 6 lớp Đệ Tam, mà hiện trường chỉ có 4 lớp Đệ Tứ vừa thi tốt nghiệp niên khóa trước. Cho nên học sinh các trường trong tỉnh, vừa đậu Trung Hoc Đệ Nhất Cấp đương nhiên được nhập học miển thi tuyển. Đệ Tam Ban B đông nhất, 3 lớp theo thứ tự B1, B2, B3. Đệ Tam Ban A có 2 lớp, A1, A2 và Ban C duy nhất chỉ có 1 lớp. Vượt qua ngưỡng cửa Trung Học Đệ Nhất Cấp, chúng tôi dường như lớn hẳn lên. Không còn thói hư, tật xấu trêu ghẹo bạn bè trong lớp bằng cách gọi tên cha mẹ: con anh A, con chị B thay vì gọi tên của bạn. Mỗi buổi sáng vào lớp bắt tay chào nhau, tập làm người lớn. Lớp B1 chúng tôi, mấy bạn nhỏ như Đinh Em, Phạm Hữu Phiệt, Đoàn Dục, Phan Minh Nhạn, hăng hái nhất trong cung cách chào hỏi: good morning Mr Nam Mr Đải Mr Lâu… How are you today ? Miss Sa Miss Liên Miss Hoa… Ba cô nữ sinh Dương Thị Sa, Võ Thị Hoa và Trần Ngọc Liên (Diên Hồng qua), theo học Ban B mà thôi.
Thầy Võ Nam, vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm được bổ dụng về trường Trần Quí Cáp. Thầy Hiệu Trưởng Hoàng Trung phân bổ thầy làm Giáo Sư cố vấn lớp B1 chúng tôi và dạy môn vật lý - hóa học. Quê Thầy ở Thăng bình, em chú bác trong họ với Võ Du là học trò của thầy. Thầy là một nhà giáo mô phạm, không bao giờ la rầy, quở phạt một học sinh nào. Thế mà số Thầy lận đận, hết ở tù Quốc Gia lại ở tù Cộng Sản, cuối cùng đi tu ở Đà Lạt và đã viên tịch. Kính mến dâng nén hương lòng, để tỏ lòng tưởng nhớ đến vị giáo sư đạo đức, đầy lòng vị tha. Thầy Cao Văn Tuệ người bắc, vóc dáng tầm cở, giãng dạy cử chỉ khoan thai học sinh dễ hiểu. Môn toán là môn chính qui, trọng yếu hơn các môn khác. Chứng minh quỉ tích rất khó khi còn học Đệ Tứ, lên Đệ Tam áp dụng phép tịnh tiến để tìm ra, không còn mấy khó khăn. Thầy Võ Văn Đồng dạy Quốc Văn lớp Đệ Tứ, nhường cho Thầy Trần Văn Hồng dạy tiếp Quốc Văn và Sử Ký cho chúng tôi. Sang dạy Công Dân Giáo Dục, đào tạo những học sinh thành người hữu dụng mai sau. Quả thật không sai, năm 63 tôi đi trình diện trưng binh, Thầy là Sĩ Quan quyết định phê vào thẻ trưng binh của tôi xếp hạng “chiến đấu”. Thầy Nguyễn Thành Hưng, Ông thầy hào hoa, đẹp trai, chạy xe con ong (vespa) bóng nhoáng đi dạy, trong trường ít có mấy ai bằng. Những bài thư tình bằng tiếng Pháp, thầy giãng giải một cách say mê. Chúng tôi không biết có lãnh hội được cái thâm thúy chút nào không? Chứ chữ mignone không đứa nào mà không nhập tâm, đi vào tiềm thức một cách sâu đậm. Thầy Đổ Văn Thiện, dạy cho chúng tôi tập đọc tò te theo thầy từng chữ tiếng Anh trong cuốn L’ Anglais Vivant 1: this’ s a book, this’ s the dog, that’ s the blackboard…Lớp học giống như lớp mẫu giáo tập đọc tiếng mẹ đẻ, không sai chút nào. Thầy Đặng Văn Bôn dạy Vạn Vật. Thầy giãng bài giọng khó nghe, vì thầy là người Thổ. Thầy thích đánh bạc giải khuây với các bạn đồng nghiệp. Đi dạy học bằng xe đạp sept cents, tay phải cầm guidong, tay trái trông chừng như bỏ vào túi quần. Nên có người tưởng lầm cho thầy phách lối, chỉ vì không còn đủ hai tay. Mộ của thầy nằm tại chùa Lâm Tuyền Hội An, tôi cũng có dịp thắp nhang cho thầy, mỗi lần trở về đây viếng mộ người thân. Thầy Nguyễn Thúc Hội, dạy Địa Lý được vài tuần phải nghỉ ở nhà để trục con “bạch sán trùng” quậy phá thầy. Khi Thầy nằm bệnh, vì lý do đặc biệt gia đình không thể tiếp học sinh đến thăm thầy. Ngày tiển đưa Thầy ở Quận Cam, học sinh Trần Quí Cáp đến thật đông, viếng thăm Thầy lần cuối trong lòng ngậm ngùi thương tiếc. Năm Đệ Tam chơi nhiều hơn học, rồi cũng qua mau. Mùa nghỉ hè đến bắt đầu học thêm, mua trước mấy cuốn sách giáo khoa toán hình học, đại số, vật lý, hóa học… Đem về đọc thử trước, được chừng nào hay chừng nấy, chuẩn bị cho năm họ
Thầy Võ Nam, vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm được bổ dụng về trường Trần Quí Cáp. Thầy Hiệu Trưởng Hoàng Trung phân bổ thầy làm Giáo Sư cố vấn lớp B1 chúng tôi và dạy môn vật lý - hóa học. Quê Thầy ở Thăng bình, em chú bác trong họ với Võ Du là học trò của thầy. Thầy là một nhà giáo mô phạm, không bao giờ la rầy, quở phạt một học sinh nào. Thế mà số Thầy lận đận, hết ở tù Quốc Gia lại ở tù Cộng Sản, cuối cùng đi tu ở Đà Lạt và đã viên tịch. Kính mến dâng nén hương lòng, để tỏ lòng tưởng nhớ đến vị giáo sư đạo đức, đầy lòng vị tha. Thầy Cao Văn Tuệ người bắc, vóc dáng tầm cở, giãng dạy cử chỉ khoan thai học sinh dễ hiểu. Môn toán là môn chính qui, trọng yếu hơn các môn khác. Chứng minh quỉ tích rất khó khi còn học Đệ Tứ, lên Đệ Tam áp dụng phép tịnh tiến để tìm ra, không còn mấy khó khăn. Thầy Võ Văn Đồng dạy Quốc Văn lớp Đệ Tứ, nhường cho Thầy Trần Văn Hồng dạy tiếp Quốc Văn và Sử Ký cho chúng tôi. Sang dạy Công Dân Giáo Dục, đào tạo những học sinh thành người hữu dụng mai sau. Quả thật không sai, năm 63 tôi đi trình diện trưng binh, Thầy là Sĩ Quan quyết định phê vào thẻ trưng binh của tôi xếp hạng “chiến đấu”. Thầy Nguyễn Thành Hưng, Ông thầy hào hoa, đẹp trai, chạy xe con ong (vespa) bóng nhoáng đi dạy, trong trường ít có mấy ai bằng. Những bài thư tình bằng tiếng Pháp, thầy giãng giải một cách say mê. Chúng tôi không biết có lãnh hội được cái thâm thúy chút nào không? Chứ chữ mignone không đứa nào mà không nhập tâm, đi vào tiềm thức một cách sâu đậm. Thầy Đổ Văn Thiện, dạy cho chúng tôi tập đọc tò te theo thầy từng chữ tiếng Anh trong cuốn L’ Anglais Vivant 1: this’ s a book, this’ s the dog, that’ s the blackboard…Lớp học giống như lớp mẫu giáo tập đọc tiếng mẹ đẻ, không sai chút nào. Thầy Đặng Văn Bôn dạy Vạn Vật. Thầy giãng bài giọng khó nghe, vì thầy là người Thổ. Thầy thích đánh bạc giải khuây với các bạn đồng nghiệp. Đi dạy học bằng xe đạp sept cents, tay phải cầm guidong, tay trái trông chừng như bỏ vào túi quần. Nên có người tưởng lầm cho thầy phách lối, chỉ vì không còn đủ hai tay. Mộ của thầy nằm tại chùa Lâm Tuyền Hội An, tôi cũng có dịp thắp nhang cho thầy, mỗi lần trở về đây viếng mộ người thân. Thầy Nguyễn Thúc Hội, dạy Địa Lý được vài tuần phải nghỉ ở nhà để trục con “bạch sán trùng” quậy phá thầy. Khi Thầy nằm bệnh, vì lý do đặc biệt gia đình không thể tiếp học sinh đến thăm thầy. Ngày tiển đưa Thầy ở Quận Cam, học sinh Trần Quí Cáp đến thật đông, viếng thăm Thầy lần cuối trong lòng ngậm ngùi thương tiếc. Năm Đệ Tam chơi nhiều hơn học, rồi cũng qua mau. Mùa nghỉ hè đến bắt đầu học thêm, mua trước mấy cuốn sách giáo khoa toán hình học, đại số, vật lý, hóa học… Đem về đọc thử trước, được chừng nào hay chừng nấy, chuẩn bị cho năm họ
Niên khóa 63 – 64 khai giãng, lớp Đệ Nhất B1 chúng tôi đông quá chừng, học sinh cũ mới sĩ số lên đến 60 học sinh. Nhìn khắp lớp, chỉ thấy một bông hoa lạc rừng gươm, ngồi một mình góc bàn trên cùng. Trần Ngọc Liên chì nhất, tên giống con trai mà là con gái hiền lành, thùy mỵ và “Hoa” đã có anh chàng tên Ngọc bên Diên Hồng săn sóc, kèm cặp nên quyết chí theo Ban B cho tới cuối cùng. Sau đó đi học sư phạm và trở về Trường Trần Quí Cáp quản thủ phòng thí nghiệm. Võ Thị Hoa học rất giỏi từ những lớp dưới, thế mà đậu kỳ 2, nên cô ta chạy sang Ban A là cái vốn gạo bài cho vững tâm. Cô Dương Thị Sa cũng bỏ cuộc chịu thua, không còn lai vãng nơi đây.
Môn Triết Học, nghe đến ngán lắm rồi. Thì giờ đâu có mà đọc để hiểu những Triết Gia muốn nói gì. Tuy vậy cũng lo mua cho được cuốn Triết của LM Cao Văn Luận, đem về nghiền ngẫm cho biết mùi. Bước đầu Thầy Lê Mậu Tâm giãng dạy, nghe ù cả tai. Nào Pascal nói thế nầy, Montesquieux nói thế kia, Darwin đưa ra thuyết, con người từ loài vượn mà ra. Triết lý quá, nhưng làm sao mà nhồi nhét vào đầu óc cho thấm nhuần lý lẽ cao siêu của các Ngài. Đến khi làm bài tập, mặc dù cũng cố gắng lắm đưa vào những câu học thuộc lòng, cho có vẽ triết. Nhưng cũng chỉ là bài văn Nghị Luận thông thường mà thôi. Thầy Lê Ngọc Diêu dạy công dân giáo dục, nào là yêu Tổ Quốc, yêu Đồng Bào. Bổn phận và trách nhiệm của công dân khi đất nước lâm nguy…chuẩn bị cho lớp trai thời loạn, lên đường bảo vệ đất nước. Mỗi lần Thầy vào lớp, thoang thoảng mùi khói thuốc lá cotab thơm lừng. Thầy có thói quen, hết điếu nầy châm điếu nọ, không bao giờ để đứt đuôi. Chỉ có thua Thầy Bão hút thuốc Ruby đến nổi vàng khè hai đầu ngón tay quanh năm, suốt tháng.Thầy Phan Khôi dạy pháp văn và cũng là giáo sư Cố Vấn của lớp. Lời đầu tiên Thầy khuyên cả lớp cố gắng học tập chuyên cần, chấp hành nội quy nghiêm chỉnh, để cuối năm đạt thành tích cao. Một hôm còn chút ít thì giờ, Thầy cắt nghĩa cho chúng tôi hiểu về danh từ “giáo sư”. Nói rằng Ông Nguyễn Văn A, giáo sư. Có nghĩa là ông A là nhà giáo dạy bậc trung học. Giáo sư Nguyễn Văn B, ông nầy là bậc Bác Học, Học Giả… có những phát minh danh tiếng… Sử dụng sai là “hiếp dâm” danh từ. Không nên ngộ nhận, nhầm lẫn cách xưng hô không đúng tư cách. Năm 91 Hội Ái Hữu cựu học sinh TQC ở Đà nẵng tổ chức họp mặt, có mời Thầy đến tham dự thật vui. Sau đó Thầy vẫn đi chiếc đạp từ khi thời còn đi dạy đến thăm tôi. Thật cảm động được Thầy thương, Thầy có nói: đến thăm không có ý “nhờ cậy” mà là chút tình thầy trò, cùng nhau chia xẻ giai đoạn gian lao đã qua. Cám ơn Thầy vô cùng. Thầy Đặng Minh Trai, dạy Anh Văn, Thầy người Huế, trắng trẻo, vui tính. Giờ Thầy dạy học sinh chăm chỉ học tập, vì dù sao đi nữa vốn liến anh ngữ cũng đã khá hơn những năm trước. Thầy Nguyễn Ngọc Anh vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm sử địa, được bổ dụng về trường. Thật là Ông thầy có trí nhớ siêu đẳng. Đến lớp bằng tay không. Dạy địa lý nước Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, vẽ bản đồ tổng quát xong, đi vào chi tiết: cứ vẽ sông núi đến đâu, đọc cho học sinh chép đến đó. Hết vẽ là xong bài học. Sử ký cũng vậy, chép dàn bài và ghi những con số năm tháng, địa danh lên bảng đen xong, bắt đầu giãng. Giãng đến đâu đọc cho học sinh chép đến đó, vanh vách như đọc trong sách vậy. Thầy Đặng Văn Bôn trở lại dạy vạn vật một lần nữa. Cả lớp đã quen Thầy dạy rồi, chăm chỉ học tập, không có đứa nào làm phiền lòng Thầy. Hai môn chính Ban B: Toán (hệ số 5), Lý Hóa (hệ số 4) là môn quyết định đậu rớt. Vì thế bao nhiêu thì giờ cũng không đủ để lo học lý thuyết và làm bài tập. Thầy Lưu Chí Kiên dạy Toán, Ông thầy có đầy kinh nghiệm trong việc giãng dạy nhiều năm. Thầy ở Hội An, nhà sách Nhất Tiếu nghe đâu là người nhà của Thầy. Năm 68 Thầy giữ chức vụ Hiệu Trưởng trường TQC thay thế Thầy Hoàng Trung chuyển về Sài Gòn. Năm 73 được cử làm Chánh Sở Học Chánh Trung Tiểu Học Tỉnh Quảng Nam. Trong chuyến đi công tác vào Sài Gòn, không may gặp tai nạn máy bay, Thầy qua đời để lại sự nghiệp dang dở, niềm thương kính mến của biết bao bạn đồng nghiệp và các em học sinh đã học với thầy. Thầy Tôn Thất Quỵ dạy lý – hóa. Thầy người Huế, trắng trẻo, cao lớn, đẹp trai, vui vẻ, nụ cười luôn luôn nở lộ trên môi. Giãng dạy đâu vào đó, học sinh chăm chú theo dõi và hiểu bài thấu đáo. Năm 72 tình cờ, tôi cùng mấy nhân viên đi dạo quanh khu phố Hòa Bình ở Đà lạt, gặp Thầy tôi đưa tay chào theo kiểu nhà binh. Mấy nhân viên lấy làm nhạc nhiên, hỏi tại sao ông Đại Úy nầy lại chào ông Chuẩn Úy kia? Bộ ổng không biết lễ nghi quân cách chăng? Tôi giải thích: Ông Chuẩn Úy đó là Thầy dạy tôi lớp Đệ Nhất tại trường Trung Học Trần Quí Cáp Hội An đó. Ông theo lệnh tổng động viên, nhập ngũ vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và được thuyên chuyển về dạy Văn Hóa, Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Thật là cuộc gặp gỡ bất ngờ, đầy lưu luyến, sau 8 năm Thầy trò mới gặp lại nhau.
Rồi năm học cuối cùng kết thúc. Ra trường mỗi đứa mỗi nơi. Lớp Đệ Nhất B1 chúng tôi vào trường Y Khoa: Nguyễn Văn Thụy, Võ Trung Đải, Huỳnh Sơn Trà. Thụy và Đải tốt nghiệp Bác Sĩ. Riêng Huỳnh Sơn Trà, thời sinh viên tham gia phong trào tranh đấu ở Huế nổi tiếng. Sau tết Mậu Thân 68, vào bưng theo phía bên kia và bỏ mình trong rừng sâu. Để lại Võ Thị Hoa, bạn học cùng lớp bơ vơ với đứa con gái còn non dại. Đinh Văn Hời tốt nghiệp Kỷ Sư Kiến Trúc, có công thiết kế Kỳ Đài của Trường nay còn đó. Vào nghề giáo có: Trương Như Hải, Lê Đức Thọ, Đổ Đến, Phạm Thành, Đinh Em, Dương Thị Sa và Võ Thị Hoa… Gia nhập lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia, ngạch Biên Tập Viên: Võ Lâu, Lê Quang Tầm, Nguyễn Ái, Đoàn Ngọc Nam, Nguyễn Đức Xứng, Nguyễn Ngọc Lân, Lưu Văn Thiệt… Vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức: Phan Quang Châu, Nguyễn Đình Huế, Đặng Xuân Thu, Phạm Thế Phiệt, Hạ Ngọc Toàn và Hồ Văn Nam…
Ngày nay mỗi đứa mỗi nơi. Còn gặp lại nhau có chăng, trong những lần Hội Ngộ Trần Quí Cáp nơi xứ người, với các bạn đã lìa bỏ đất nước ra đi định cư khắp nơi trên Thế Giới. Riêng các bạn còn ở lại quê nhà, xin hẹn một ngày nào đó chúng ta có dịp tốt, gặp trở lại hàn huyên cho thỏa lòng, sau bao năm xa cách. kể cho nghe những chuyện vui buồn thời còn đi học và những năm chiến tranh nồi da xáo thịt, mà thế hệ của chúng ta gánh chịu, bởi ý thức hệ giữa hai thế lực: khối Tự Do và Cộng Sản áp đặt lên đất nước Việt Nam chúng ta.-
Môn Triết Học, nghe đến ngán lắm rồi. Thì giờ đâu có mà đọc để hiểu những Triết Gia muốn nói gì. Tuy vậy cũng lo mua cho được cuốn Triết của LM Cao Văn Luận, đem về nghiền ngẫm cho biết mùi. Bước đầu Thầy Lê Mậu Tâm giãng dạy, nghe ù cả tai. Nào Pascal nói thế nầy, Montesquieux nói thế kia, Darwin đưa ra thuyết, con người từ loài vượn mà ra. Triết lý quá, nhưng làm sao mà nhồi nhét vào đầu óc cho thấm nhuần lý lẽ cao siêu của các Ngài. Đến khi làm bài tập, mặc dù cũng cố gắng lắm đưa vào những câu học thuộc lòng, cho có vẽ triết. Nhưng cũng chỉ là bài văn Nghị Luận thông thường mà thôi. Thầy Lê Ngọc Diêu dạy công dân giáo dục, nào là yêu Tổ Quốc, yêu Đồng Bào. Bổn phận và trách nhiệm của công dân khi đất nước lâm nguy…chuẩn bị cho lớp trai thời loạn, lên đường bảo vệ đất nước. Mỗi lần Thầy vào lớp, thoang thoảng mùi khói thuốc lá cotab thơm lừng. Thầy có thói quen, hết điếu nầy châm điếu nọ, không bao giờ để đứt đuôi. Chỉ có thua Thầy Bão hút thuốc Ruby đến nổi vàng khè hai đầu ngón tay quanh năm, suốt tháng.Thầy Phan Khôi dạy pháp văn và cũng là giáo sư Cố Vấn của lớp. Lời đầu tiên Thầy khuyên cả lớp cố gắng học tập chuyên cần, chấp hành nội quy nghiêm chỉnh, để cuối năm đạt thành tích cao. Một hôm còn chút ít thì giờ, Thầy cắt nghĩa cho chúng tôi hiểu về danh từ “giáo sư”. Nói rằng Ông Nguyễn Văn A, giáo sư. Có nghĩa là ông A là nhà giáo dạy bậc trung học. Giáo sư Nguyễn Văn B, ông nầy là bậc Bác Học, Học Giả… có những phát minh danh tiếng… Sử dụng sai là “hiếp dâm” danh từ. Không nên ngộ nhận, nhầm lẫn cách xưng hô không đúng tư cách. Năm 91 Hội Ái Hữu cựu học sinh TQC ở Đà nẵng tổ chức họp mặt, có mời Thầy đến tham dự thật vui. Sau đó Thầy vẫn đi chiếc đạp từ khi thời còn đi dạy đến thăm tôi. Thật cảm động được Thầy thương, Thầy có nói: đến thăm không có ý “nhờ cậy” mà là chút tình thầy trò, cùng nhau chia xẻ giai đoạn gian lao đã qua. Cám ơn Thầy vô cùng. Thầy Đặng Minh Trai, dạy Anh Văn, Thầy người Huế, trắng trẻo, vui tính. Giờ Thầy dạy học sinh chăm chỉ học tập, vì dù sao đi nữa vốn liến anh ngữ cũng đã khá hơn những năm trước. Thầy Nguyễn Ngọc Anh vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm sử địa, được bổ dụng về trường. Thật là Ông thầy có trí nhớ siêu đẳng. Đến lớp bằng tay không. Dạy địa lý nước Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, vẽ bản đồ tổng quát xong, đi vào chi tiết: cứ vẽ sông núi đến đâu, đọc cho học sinh chép đến đó. Hết vẽ là xong bài học. Sử ký cũng vậy, chép dàn bài và ghi những con số năm tháng, địa danh lên bảng đen xong, bắt đầu giãng. Giãng đến đâu đọc cho học sinh chép đến đó, vanh vách như đọc trong sách vậy. Thầy Đặng Văn Bôn trở lại dạy vạn vật một lần nữa. Cả lớp đã quen Thầy dạy rồi, chăm chỉ học tập, không có đứa nào làm phiền lòng Thầy. Hai môn chính Ban B: Toán (hệ số 5), Lý Hóa (hệ số 4) là môn quyết định đậu rớt. Vì thế bao nhiêu thì giờ cũng không đủ để lo học lý thuyết và làm bài tập. Thầy Lưu Chí Kiên dạy Toán, Ông thầy có đầy kinh nghiệm trong việc giãng dạy nhiều năm. Thầy ở Hội An, nhà sách Nhất Tiếu nghe đâu là người nhà của Thầy. Năm 68 Thầy giữ chức vụ Hiệu Trưởng trường TQC thay thế Thầy Hoàng Trung chuyển về Sài Gòn. Năm 73 được cử làm Chánh Sở Học Chánh Trung Tiểu Học Tỉnh Quảng Nam. Trong chuyến đi công tác vào Sài Gòn, không may gặp tai nạn máy bay, Thầy qua đời để lại sự nghiệp dang dở, niềm thương kính mến của biết bao bạn đồng nghiệp và các em học sinh đã học với thầy. Thầy Tôn Thất Quỵ dạy lý – hóa. Thầy người Huế, trắng trẻo, cao lớn, đẹp trai, vui vẻ, nụ cười luôn luôn nở lộ trên môi. Giãng dạy đâu vào đó, học sinh chăm chú theo dõi và hiểu bài thấu đáo. Năm 72 tình cờ, tôi cùng mấy nhân viên đi dạo quanh khu phố Hòa Bình ở Đà lạt, gặp Thầy tôi đưa tay chào theo kiểu nhà binh. Mấy nhân viên lấy làm nhạc nhiên, hỏi tại sao ông Đại Úy nầy lại chào ông Chuẩn Úy kia? Bộ ổng không biết lễ nghi quân cách chăng? Tôi giải thích: Ông Chuẩn Úy đó là Thầy dạy tôi lớp Đệ Nhất tại trường Trung Học Trần Quí Cáp Hội An đó. Ông theo lệnh tổng động viên, nhập ngũ vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và được thuyên chuyển về dạy Văn Hóa, Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Thật là cuộc gặp gỡ bất ngờ, đầy lưu luyến, sau 8 năm Thầy trò mới gặp lại nhau.
Rồi năm học cuối cùng kết thúc. Ra trường mỗi đứa mỗi nơi. Lớp Đệ Nhất B1 chúng tôi vào trường Y Khoa: Nguyễn Văn Thụy, Võ Trung Đải, Huỳnh Sơn Trà. Thụy và Đải tốt nghiệp Bác Sĩ. Riêng Huỳnh Sơn Trà, thời sinh viên tham gia phong trào tranh đấu ở Huế nổi tiếng. Sau tết Mậu Thân 68, vào bưng theo phía bên kia và bỏ mình trong rừng sâu. Để lại Võ Thị Hoa, bạn học cùng lớp bơ vơ với đứa con gái còn non dại. Đinh Văn Hời tốt nghiệp Kỷ Sư Kiến Trúc, có công thiết kế Kỳ Đài của Trường nay còn đó. Vào nghề giáo có: Trương Như Hải, Lê Đức Thọ, Đổ Đến, Phạm Thành, Đinh Em, Dương Thị Sa và Võ Thị Hoa… Gia nhập lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia, ngạch Biên Tập Viên: Võ Lâu, Lê Quang Tầm, Nguyễn Ái, Đoàn Ngọc Nam, Nguyễn Đức Xứng, Nguyễn Ngọc Lân, Lưu Văn Thiệt… Vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức: Phan Quang Châu, Nguyễn Đình Huế, Đặng Xuân Thu, Phạm Thế Phiệt, Hạ Ngọc Toàn và Hồ Văn Nam…
Ngày nay mỗi đứa mỗi nơi. Còn gặp lại nhau có chăng, trong những lần Hội Ngộ Trần Quí Cáp nơi xứ người, với các bạn đã lìa bỏ đất nước ra đi định cư khắp nơi trên Thế Giới. Riêng các bạn còn ở lại quê nhà, xin hẹn một ngày nào đó chúng ta có dịp tốt, gặp trở lại hàn huyên cho thỏa lòng, sau bao năm xa cách. kể cho nghe những chuyện vui buồn thời còn đi học và những năm chiến tranh nồi da xáo thịt, mà thế hệ của chúng ta gánh chịu, bởi ý thức hệ giữa hai thế lực: khối Tự Do và Cộng Sản áp đặt lên đất nước Việt Nam chúng ta.-
18. Một Thời Học Sinh
Ngày nay thấy mấy cháu nhỏ ở Mỹ, xài phung phí giấy bút, tiếc vô cùng. Nhớ lại hồi còn nhỏ, khi mới bắt đầu tập viết, lấy lá chuối làm giấy, viết bằng cọ tre vót nhọn, thế mà viết nên chữ ngay ngắn, thẳng hàng. Lớn lên dần, được dùng ngói viết lá tre, chấm mực trong bình, viết trên tập vở giấy tự túc màu nâu đen sì. Thứ giấy chi mà dễ bị rách rã rời khi thấm nước. Đôi khi lo nén nót nét chữ, vấp cộng rơm lợn cợn, không chừng rè ngòibút.
Năm 45 chiến tranh bùng nổ dữ dội. Vùng liên khu 5 đặt trong tình trạng “tiêu thổ kháng chiến”. Gia đình cha mẹ tôi, cũng như mọi gia đình khác, đều phải đi tản cư, nay đây mai đó, không ở nơi nào ổn định, lâu dài trên quá một năm. Cũng vì thế, cậu bé lúc bấy giờ mới lên năm, suốt bảy năm trời, học mãi không lên được một lớp.
Đến khi Pháp và Việt Minh, ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ (20-7-54) chia đôi đất nước. Từ vĩ tuyến 17 trở vào nam, thuộc quyền Quốc Gia kiểm soát. Toàn dân miền nam lần đầu tiên đi bầu Tổng Thống (26-10-55). Khai nguyên chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Vùng Gò Nổi quê tôi vừa mới được hồi sinh. Trường công lập chưa có. Thầy Phan Đức Thông ở Bảo An mở lớp dạy tư. Học trò thất học bấy lâu nay, thầy cho làm bài thi, gồm có toán và chính tả. Căn cứ vào điểm đạt được để xếp vào lớp. Tôi được vào lớp nhất. Giỏi chưa? Tuy vậy, học đâu được vài ba buổi, không những mở mang trí óc, sau nhiều năm lêu lổng. Lại thấy chới với, bởi vì lần đầu tiên nghe thầy giảng dạy, toàn những điều mới lạ, nhất là môn khoa học thường thức: nguyên tắc bình thông nhau, khinh khí cầu, máy chạy bằng hơi nước. . . Nghe như vịt nghe sấm. Ông bà ta nói y chang. Thôi đành phải xin thầy xuống lớp nhì cho yên chuyện.
Vào buổi giao thời, phần đông học trò quá tuổi, cần khai sụt xuống để đi học. Nhờ cái giấy “Chứng Thư Thay Giấy Khai Sanh”, do sổ hộ tịch nơi sinh quán, bị phá hủy bởi những biến cố chiến tranh.
Qua hai năm theo học trường làng, có thầy giảng dạy ở lớp, về nhà nhờ miệt mài quyển Toán Pháp lớp nhì và nhất của tác giả Trần Tiêu. Nên tôi thi đậu vào Trường Trung Học Trần Quí Cáp Hội An, niên khóa 57-58. Thời thầy Tăng Dục làm Hiệu Trưởng. Ông Hiệu Trưởng thật oai vệ. Đi đâu, tay cũng cầm cây ba-toong và dắt theo con chó béc-giê, le cái lưỡi dài thòng.
Học sinh trúng tuyển phân chia thành bốn lớp Đệ Thất, mỗi lớp 50 học sinh. Tôi vào lớp đệ thất 3. Học trò nam nữ học chung lớp. Nữ sinh ngồi mấy dãy bàn bên trên. Dương Thị Sa, Nguyễn Thị Hương, Lê Thị Huệ, ngồi bàn sát bàn nam sinh. LTH thường gọi bạn bè trò nầy, trò nọ. Nghe thật ngồ ngộ, có vẻ xa lạ quá đi thôi.
Dạy lớp đệ thất rất đông cô giáo. Cô Từ Nguyên dạy quốc văn, cô Cẩm Nhung dạy công dân giáo dục, cô Luyện dạy toán cũng là giáo sư hướng dẫn lớp đệ thất 3 chúng tôi. Cô cho bầu lớp trưởng Phan Quang Châu, lớp phó Võ Lâu và tôi trưởng ban thể thao. Ba đứa chúng tôi thân nhau từ đấy và năm nào cũng được cả lớp bầu y như cũ. Bạn Phan Quang Châu (Phan Hoàng Việt) đã ra người thiên cổ. Vĩnh biệt cố Thiếu Tá thiết giáp QL/VNCH. Đã một thời oai hùng ngang dọc, xả thân bảo vệ chế độ Việt Nam Tự Do.
Học sinh lớp đệ thất năm đó, được học 2 sinh ngữ. Sinh ngữ chính Pháp văn. Sinh ngữ phụ: Anh văn, hoặc Hán văn. Các bạn ở các nơi về thành phố còn thủ cựu, nên hay chọn hán văn để học. Thầy Nguyễn Đình Thống bên Diên Hồng qua dạy hán văn. Ông cụ đồ mà chúng tôi đặt tên riêng cho thầy là “Thầy cả thảy”. Bởi vì mỗi đầu câu nói, thầy đệm chữ cả thảy như là thói quen. Khi học chữ hán, tôi sực nhớ câu hát ru con: “Con cu đậu bởi cành mè – Chữ thập chữ tứ lại đè chữ tâm”. Nghe thì nghe vậy chứ biết chi mô. Đến hồi viết được chữ Đức. À té ra là thế. Ý nghĩa thấm thúy làm sao. Và thầy còn cho tập viết chữ hán cùng giải nghĩa sâu sắc những điều Khổng Tử nói (Khổng Tử viết): “Nhân chi sơ tính bổn thiện – Ngọc bất trát bất thành khí, nhân bất học bất tri lý”. . .
Theo học được một năm. Chữ nghĩa của Thánh Hiền dần dà có đi sâu vào tiềm thức, cảm thấy phấn khởi, vui vui. Có buồn chăng, chiều thứ bảy phải ở lại đi học. Trong khi các bạn học anh văn đi chơi, hoặc về quê thăm nhà mất rồi.
Lậy quậy rồi cũng đến kỳ nghỉ hè. Sân trường hoa phượng chớm nở, khoe sắc thắm, báo hiệu giờ chia tay. Lưu bút chuyền cho nhau, ghi vào những câu sáo ngữ thật ngộ nghĩnh, buồn cười.
Năm sau lên Đệ lục. Bộ Quốc Gia Giáo Dục thay đổi chương trình, bỏ sinh ngữ phụ. Khỏe re. Không còn lè kè bút lông – nghiên mực và mài mực xạ dính tèm lem.
Chỉ sau ba tháng hè ngắn ngủi, mà dường như đứa nào cũng lớn lên, vui vẻ, hớn hở. Không còn xa lạ như năm qua. Cô Kim An dạy Pháp văn kiêm giáo sư hướng dẫn lớp. Cô thường kể chuyện vui cuối giờ học. Bửa nọ cô đố cả lớp vẽ “cái địt”. Có ai vẽ được đâu. Rồi cô vừa vẽ trên bảng đen, vừa ra bộ điệu hoạt cảnh: một chàng chỗng mông, một chàng bịt mũi chỉ chỏ. Cả lớp mặc sức cười ồ thỏa mái. Thầy Nguyễn Sum dạy vạn vật. Kỳ thi lục cá nguyệt, thầy ra đề thi nguyên một bài từ đầu đến cuối. Võ Lâu có lớp trước mách nước, chuẩn bị bài tủ làm sẵn, chỉ cần đề thứ và ngày là xong. Bài ve sầu tôi lướt qua, nên nhờ VL nhắc hộ. Bài làm không mấy đầy đủ, thế mà hai bài có số điểm giống nhau. Chắc có lẽ thầy biết mánh. Lần đầu tiên học đại số, đem áp dụng giải bài toán tiểu học: vừa gà vừa chó, bó một bó cho tròn 36 con và 100 cái chân. Hỏi bao nhiêu gà, bao nhiêu chó? Không mấy khó khăn mà học sinh tiểu học giỏi toán, rất hãnh diện biết cách giải.
Sang năm Đệ ngũ, anh chị nào cũng siêng năng gạo bài. Chuẩn bị đầy đủ sách giáo khoa cho năm học mới. Thầy Hồ Đăng Huy dạy vạn vật. Ông thầy có biệt danh: “hệ thần kinh não tủy” và là giáo sư hướng dẫn của lớp. Hôm nào thấy LTH đi chơi với anh C ngoài phố, thế nào vào lớp, thầy cũng xài xễ cho một trận nên thân. Thầy Lâm Sĩ Hồng dạy Sử - Địa. Thầy cho thi từng câu hỏi một. Vừa đọc xong, thầy đập thước xuống bàn, nghe cái cụp. Bắt đầu viết. Nghe đập thước trở lại, ngưng ngay. Nếu còn viết ráng, bị thu bài không tha. Học trò rất thích lối hạch bài của thầy.
Lên lớp Đệ tứ. Cả lớp vui hẳn ra. Năm bản lề, chuẩn bị bước vào đệ nhị cấp. Thi trượt năm nầy là mất trớn luôn. Giáo sư hướng dẫn của lớp thầy Võ Văn Đồng. Thầy dạy môn Quốc văn, nào là truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát. . . Thầy Thân Trọng A dạy toán. Giờ thầy giảng bài cả lớp chăm chú theo dõi. Nên thấu hiểu, nắm vững định lý – hệ luận, điều kiện ắt có và đủ, để chứng minh cách nào hay nhất, ngắn nhất. Vào dịp nghỉ lễ hay Tết tha hồ mà giải bài tập thầy cho. Trở lại trường nộp trả bài cho thầy kiểm soát, lên bảng chứng minh cho cả lớp cùng nhau học tập. Thầy Huỳnh Nhâm dạy âm nhạc cho các lớp đệ tứ. Ngoài phần thi lý thuyết, còn phải thi thực hành: đàn hay hát. Tôi dỡ cả hai. Nên chỉ biết hát bài Quốc Ca cho chắc ăn.
Khi chúng tôi còn học lớp dưới, thấy mấy anh chị học lớp đệ tam đầu tiên của trường, ngồi mỗi người mỗi ghế riêng méc-ca-đi, bề thế quá. Học sinh đệ nhị cấp oai thật! Đến hồi chúng tôi lên được lớp đệ tam như ai. Trở lại ngồi bàn dài như cũ, mất hứng thấy rõ.
Nghỉ xả hơi được một năm. Năm Đệ nhị bài vở tới tấp. Bạn nào cũng lo mà gạo, để khỏi lâm vào cảnh: “Rớt Tú Tài anh đi Trung Sĩ, Em ở nhà. . .” . Quê ơi là quê.
Qua được ải Tú Tài 1. Càng cố gắng nhiều hơn. Đoạt cho được Tú Tài 2 (còn gọi là Tú Tài đôi), đủ một cặp. Chấm dứt đời học sinh.
Từ khi xa lìa mái trường Mẹ thân yêu năm 64. Mãi lo làm việc ở Đà Lạt xa xuôi. Cho đến nửa năm 74, tôi mới được thuyên chuyển về Đà Nẵng. Chưa một lần trở về thăm lại Trường cũ, Thầy xưa. Biến cố 75 xãy ra – mất sạch. Đi tù cộng sản ở trại An Điềm, Quảng Nam. Không ngờ ở đây lại gặp (chỉ có nhìn nhau) thầy Võ Nam làm gạch, thầy Thọ cùng ở đội sản xuất với tôi, sau nầy đổi qua đội rau xanh, phụ trách lấy phân tươi các buồng giam. Thầy Nguyễn Bang nhờ số hênh, làm đội trưởng đội hình sự, tránh được lao động nặng. Có nhiệm vụ canh chừng bọn tù hình sự chạy trốn trại. Còn học sinh Trường Trần Quí Cáp, thôi thì quá đông: Đặng Ngọc Hoàng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Một, Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Ảnh, Lê Đình Kịp, Hứa Tuấn Quang, Phùng Ngọc Nhạn, Nguyễn Thanh Long, Hồ Văn Thanh, Nguyễn Thức, Trương Vũ Khôi. . . Còn nữa và còn nữa không thể nào nhớ cho hết.
Tất cả đã đi vào dĩ vãng. Tìm lại kỷ niệm xưa, một thời cắp sách đến trường, không đâu bằng tham dự Đại Hội cựu Học Sinh, Trường Trung Hoc Trần Quí Cáp Hội An, được tổ chức hằng năm tại miền nam California, Hoa Kỳ. Kính mời Quí Thầy – Cô, cùng các Anh Chị Em sốt sắng trở về đông đủ. Vui lắm đó.-
ĐNN cựu HS/TH/TRẦN QUÍ CÁP/HA (57 – 64)
Thơ
Năm 45 chiến tranh bùng nổ dữ dội. Vùng liên khu 5 đặt trong tình trạng “tiêu thổ kháng chiến”. Gia đình cha mẹ tôi, cũng như mọi gia đình khác, đều phải đi tản cư, nay đây mai đó, không ở nơi nào ổn định, lâu dài trên quá một năm. Cũng vì thế, cậu bé lúc bấy giờ mới lên năm, suốt bảy năm trời, học mãi không lên được một lớp.
Đến khi Pháp và Việt Minh, ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ (20-7-54) chia đôi đất nước. Từ vĩ tuyến 17 trở vào nam, thuộc quyền Quốc Gia kiểm soát. Toàn dân miền nam lần đầu tiên đi bầu Tổng Thống (26-10-55). Khai nguyên chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Vùng Gò Nổi quê tôi vừa mới được hồi sinh. Trường công lập chưa có. Thầy Phan Đức Thông ở Bảo An mở lớp dạy tư. Học trò thất học bấy lâu nay, thầy cho làm bài thi, gồm có toán và chính tả. Căn cứ vào điểm đạt được để xếp vào lớp. Tôi được vào lớp nhất. Giỏi chưa? Tuy vậy, học đâu được vài ba buổi, không những mở mang trí óc, sau nhiều năm lêu lổng. Lại thấy chới với, bởi vì lần đầu tiên nghe thầy giảng dạy, toàn những điều mới lạ, nhất là môn khoa học thường thức: nguyên tắc bình thông nhau, khinh khí cầu, máy chạy bằng hơi nước. . . Nghe như vịt nghe sấm. Ông bà ta nói y chang. Thôi đành phải xin thầy xuống lớp nhì cho yên chuyện.
Vào buổi giao thời, phần đông học trò quá tuổi, cần khai sụt xuống để đi học. Nhờ cái giấy “Chứng Thư Thay Giấy Khai Sanh”, do sổ hộ tịch nơi sinh quán, bị phá hủy bởi những biến cố chiến tranh.
Qua hai năm theo học trường làng, có thầy giảng dạy ở lớp, về nhà nhờ miệt mài quyển Toán Pháp lớp nhì và nhất của tác giả Trần Tiêu. Nên tôi thi đậu vào Trường Trung Học Trần Quí Cáp Hội An, niên khóa 57-58. Thời thầy Tăng Dục làm Hiệu Trưởng. Ông Hiệu Trưởng thật oai vệ. Đi đâu, tay cũng cầm cây ba-toong và dắt theo con chó béc-giê, le cái lưỡi dài thòng.
Học sinh trúng tuyển phân chia thành bốn lớp Đệ Thất, mỗi lớp 50 học sinh. Tôi vào lớp đệ thất 3. Học trò nam nữ học chung lớp. Nữ sinh ngồi mấy dãy bàn bên trên. Dương Thị Sa, Nguyễn Thị Hương, Lê Thị Huệ, ngồi bàn sát bàn nam sinh. LTH thường gọi bạn bè trò nầy, trò nọ. Nghe thật ngồ ngộ, có vẻ xa lạ quá đi thôi.
Dạy lớp đệ thất rất đông cô giáo. Cô Từ Nguyên dạy quốc văn, cô Cẩm Nhung dạy công dân giáo dục, cô Luyện dạy toán cũng là giáo sư hướng dẫn lớp đệ thất 3 chúng tôi. Cô cho bầu lớp trưởng Phan Quang Châu, lớp phó Võ Lâu và tôi trưởng ban thể thao. Ba đứa chúng tôi thân nhau từ đấy và năm nào cũng được cả lớp bầu y như cũ. Bạn Phan Quang Châu (Phan Hoàng Việt) đã ra người thiên cổ. Vĩnh biệt cố Thiếu Tá thiết giáp QL/VNCH. Đã một thời oai hùng ngang dọc, xả thân bảo vệ chế độ Việt Nam Tự Do.
Học sinh lớp đệ thất năm đó, được học 2 sinh ngữ. Sinh ngữ chính Pháp văn. Sinh ngữ phụ: Anh văn, hoặc Hán văn. Các bạn ở các nơi về thành phố còn thủ cựu, nên hay chọn hán văn để học. Thầy Nguyễn Đình Thống bên Diên Hồng qua dạy hán văn. Ông cụ đồ mà chúng tôi đặt tên riêng cho thầy là “Thầy cả thảy”. Bởi vì mỗi đầu câu nói, thầy đệm chữ cả thảy như là thói quen. Khi học chữ hán, tôi sực nhớ câu hát ru con: “Con cu đậu bởi cành mè – Chữ thập chữ tứ lại đè chữ tâm”. Nghe thì nghe vậy chứ biết chi mô. Đến hồi viết được chữ Đức. À té ra là thế. Ý nghĩa thấm thúy làm sao. Và thầy còn cho tập viết chữ hán cùng giải nghĩa sâu sắc những điều Khổng Tử nói (Khổng Tử viết): “Nhân chi sơ tính bổn thiện – Ngọc bất trát bất thành khí, nhân bất học bất tri lý”. . .
Theo học được một năm. Chữ nghĩa của Thánh Hiền dần dà có đi sâu vào tiềm thức, cảm thấy phấn khởi, vui vui. Có buồn chăng, chiều thứ bảy phải ở lại đi học. Trong khi các bạn học anh văn đi chơi, hoặc về quê thăm nhà mất rồi.
Lậy quậy rồi cũng đến kỳ nghỉ hè. Sân trường hoa phượng chớm nở, khoe sắc thắm, báo hiệu giờ chia tay. Lưu bút chuyền cho nhau, ghi vào những câu sáo ngữ thật ngộ nghĩnh, buồn cười.
Năm sau lên Đệ lục. Bộ Quốc Gia Giáo Dục thay đổi chương trình, bỏ sinh ngữ phụ. Khỏe re. Không còn lè kè bút lông – nghiên mực và mài mực xạ dính tèm lem.
Chỉ sau ba tháng hè ngắn ngủi, mà dường như đứa nào cũng lớn lên, vui vẻ, hớn hở. Không còn xa lạ như năm qua. Cô Kim An dạy Pháp văn kiêm giáo sư hướng dẫn lớp. Cô thường kể chuyện vui cuối giờ học. Bửa nọ cô đố cả lớp vẽ “cái địt”. Có ai vẽ được đâu. Rồi cô vừa vẽ trên bảng đen, vừa ra bộ điệu hoạt cảnh: một chàng chỗng mông, một chàng bịt mũi chỉ chỏ. Cả lớp mặc sức cười ồ thỏa mái. Thầy Nguyễn Sum dạy vạn vật. Kỳ thi lục cá nguyệt, thầy ra đề thi nguyên một bài từ đầu đến cuối. Võ Lâu có lớp trước mách nước, chuẩn bị bài tủ làm sẵn, chỉ cần đề thứ và ngày là xong. Bài ve sầu tôi lướt qua, nên nhờ VL nhắc hộ. Bài làm không mấy đầy đủ, thế mà hai bài có số điểm giống nhau. Chắc có lẽ thầy biết mánh. Lần đầu tiên học đại số, đem áp dụng giải bài toán tiểu học: vừa gà vừa chó, bó một bó cho tròn 36 con và 100 cái chân. Hỏi bao nhiêu gà, bao nhiêu chó? Không mấy khó khăn mà học sinh tiểu học giỏi toán, rất hãnh diện biết cách giải.
Sang năm Đệ ngũ, anh chị nào cũng siêng năng gạo bài. Chuẩn bị đầy đủ sách giáo khoa cho năm học mới. Thầy Hồ Đăng Huy dạy vạn vật. Ông thầy có biệt danh: “hệ thần kinh não tủy” và là giáo sư hướng dẫn của lớp. Hôm nào thấy LTH đi chơi với anh C ngoài phố, thế nào vào lớp, thầy cũng xài xễ cho một trận nên thân. Thầy Lâm Sĩ Hồng dạy Sử - Địa. Thầy cho thi từng câu hỏi một. Vừa đọc xong, thầy đập thước xuống bàn, nghe cái cụp. Bắt đầu viết. Nghe đập thước trở lại, ngưng ngay. Nếu còn viết ráng, bị thu bài không tha. Học trò rất thích lối hạch bài của thầy.
Lên lớp Đệ tứ. Cả lớp vui hẳn ra. Năm bản lề, chuẩn bị bước vào đệ nhị cấp. Thi trượt năm nầy là mất trớn luôn. Giáo sư hướng dẫn của lớp thầy Võ Văn Đồng. Thầy dạy môn Quốc văn, nào là truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát. . . Thầy Thân Trọng A dạy toán. Giờ thầy giảng bài cả lớp chăm chú theo dõi. Nên thấu hiểu, nắm vững định lý – hệ luận, điều kiện ắt có và đủ, để chứng minh cách nào hay nhất, ngắn nhất. Vào dịp nghỉ lễ hay Tết tha hồ mà giải bài tập thầy cho. Trở lại trường nộp trả bài cho thầy kiểm soát, lên bảng chứng minh cho cả lớp cùng nhau học tập. Thầy Huỳnh Nhâm dạy âm nhạc cho các lớp đệ tứ. Ngoài phần thi lý thuyết, còn phải thi thực hành: đàn hay hát. Tôi dỡ cả hai. Nên chỉ biết hát bài Quốc Ca cho chắc ăn.
Khi chúng tôi còn học lớp dưới, thấy mấy anh chị học lớp đệ tam đầu tiên của trường, ngồi mỗi người mỗi ghế riêng méc-ca-đi, bề thế quá. Học sinh đệ nhị cấp oai thật! Đến hồi chúng tôi lên được lớp đệ tam như ai. Trở lại ngồi bàn dài như cũ, mất hứng thấy rõ.
Nghỉ xả hơi được một năm. Năm Đệ nhị bài vở tới tấp. Bạn nào cũng lo mà gạo, để khỏi lâm vào cảnh: “Rớt Tú Tài anh đi Trung Sĩ, Em ở nhà. . .” . Quê ơi là quê.
Qua được ải Tú Tài 1. Càng cố gắng nhiều hơn. Đoạt cho được Tú Tài 2 (còn gọi là Tú Tài đôi), đủ một cặp. Chấm dứt đời học sinh.
Từ khi xa lìa mái trường Mẹ thân yêu năm 64. Mãi lo làm việc ở Đà Lạt xa xuôi. Cho đến nửa năm 74, tôi mới được thuyên chuyển về Đà Nẵng. Chưa một lần trở về thăm lại Trường cũ, Thầy xưa. Biến cố 75 xãy ra – mất sạch. Đi tù cộng sản ở trại An Điềm, Quảng Nam. Không ngờ ở đây lại gặp (chỉ có nhìn nhau) thầy Võ Nam làm gạch, thầy Thọ cùng ở đội sản xuất với tôi, sau nầy đổi qua đội rau xanh, phụ trách lấy phân tươi các buồng giam. Thầy Nguyễn Bang nhờ số hênh, làm đội trưởng đội hình sự, tránh được lao động nặng. Có nhiệm vụ canh chừng bọn tù hình sự chạy trốn trại. Còn học sinh Trường Trần Quí Cáp, thôi thì quá đông: Đặng Ngọc Hoàng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Một, Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Ảnh, Lê Đình Kịp, Hứa Tuấn Quang, Phùng Ngọc Nhạn, Nguyễn Thanh Long, Hồ Văn Thanh, Nguyễn Thức, Trương Vũ Khôi. . . Còn nữa và còn nữa không thể nào nhớ cho hết.
Tất cả đã đi vào dĩ vãng. Tìm lại kỷ niệm xưa, một thời cắp sách đến trường, không đâu bằng tham dự Đại Hội cựu Học Sinh, Trường Trung Hoc Trần Quí Cáp Hội An, được tổ chức hằng năm tại miền nam California, Hoa Kỳ. Kính mời Quí Thầy – Cô, cùng các Anh Chị Em sốt sắng trở về đông đủ. Vui lắm đó.-
ĐNN cựu HS/TH/TRẦN QUÍ CÁP/HA (57 – 64)
Thơ
17. Cây Nhà, Rau Vườn
Chúng ta đi đem theo quê hương
Tránh sao khỏi bịn rịn vấn vương
Chôn nhau cắt rốn đành xa cách
Lũy tre làng chạy dọc con mương
Trên đất Mỹ Việt Nam trước mắt
Mai đào ngày Tết tỏa mùi hương
Giàn bông giấy nhà ai cũng có
Nét quân tử bụi trúc phô trương
Vườn sau nhà rau thơm các loại
Ngò gai húng quế đọt ngọn vươn
Cà trắng ớt xanh giống sây trái
Vui thú điền viên nhớ trồng ương
Bưởi vàng mận đỏ màu sắc Việt
Hồn thiên quê Mẹ thật mến thương
Dẫu rằng rau quả không ngon lắm
Tình đậm đà gợi nhớ Quê Hương
ĐOÀN NGỌC NAM
Chúng ta đi đem theo quê hương
Tránh sao khỏi bịn rịn vấn vương
Chôn nhau cắt rốn đành xa cách
Lũy tre làng chạy dọc con mương
Trên đất Mỹ Việt Nam trước mắt
Mai đào ngày Tết tỏa mùi hương
Giàn bông giấy nhà ai cũng có
Nét quân tử bụi trúc phô trương
Vườn sau nhà rau thơm các loại
Ngò gai húng quế đọt ngọn vươn
Cà trắng ớt xanh giống sây trái
Vui thú điền viên nhớ trồng ương
Bưởi vàng mận đỏ màu sắc Việt
Hồn thiên quê Mẹ thật mến thương
Dẫu rằng rau quả không ngon lắm
Tình đậm đà gợi nhớ Quê Hương
ĐOÀN NGỌC NAM
16. Ngôi Nhà Cổ
Bà con quê tôi mô tả quê hương hết sức giản dị, chỉ gói ghém trong ngôn ngữ thiệt tình, thô thiển, mộc mạc mà cũng đủ hình dung ra được mãnh đất trù phú của tổ tiên để lại:
“Bảo An không ngắn không dài,
Bến Đền cụt ngủn, Xuân Đài cù queo.”
Trong đó làng Xuân Đài cù queo của tôi như được che chở, ôm ấp trong tình lân cận thân thiện với các làng bạn. Đông cận Bàn Lãnh, Tây cận Bảo An (Bia bạn hạn Xuân Đài – Bảo An còn ghi dấu tích: “Xuân thổ khai cương lưu cựu tích. Nam thiên lập địa biểu sơ cơ.” Đoàn Đại Tộc XĐ), Nam cận Bến Đền và Bắc cận Kỳ Lam. Làng tôi như chiếc nôi yêu thương, đùm bọc che chở mái nhà đại gia đình cho ba giòng họ chính: Phạm, Đoàn, Huỳnh. Ba ông tiền hiền đã bỏ ra biết bao nhiêu công lao, sức lực để khai khẩn vùng đất hoang vu trở thành vùng đất màu mỡ mà nay thế hệ hậu sinh được thừa hưởng. Công ơn to lớn đó được con cháu đời đời ghi nhớ, lập nhà thờ hương khói, xuân thu nhị kỳ tế lễ theo nghi thức trong gia phả lưu truyền. Quê hương đã cho tôi quá nhiều kỷ niệm thời thơ ấu, trong đó bao bọc nhiều thứ tình: tình bạn hữu, tình gia tộc, tình đồng hương cùng làng xóm, đã ăn sâu vào tâm khảm từ bao giờ. Và mãi đến bây giờ, mỗi lần trở về thăm quê cũ, nhìn lại dấu tích xưa, lòng tôi không khỏi bùi ngùi thương nhớ, luyến tiếc ngôi nhà cổ xưa của ông bà nội để lại trước thời đất nước ly loạn.
Rời khỏi trạm ga Gò Nổi, khách bộ hành đi lên về hướng tây, dọc theo con đường cái của làng, san sát từng khu vườn riêng biệt, nhà cửa khang trang ngăn nắp, đâu vào đó. Mỗi nhà có cỗng ngõ và hàng rào kiên cố. Nhìn quang cảnh biểu hiện một thời thanh bình, thịnh vượng. Qua khỏi ngã tư đình làng, nhìn về phía xa xa ở bên tay phải, có một khu vườn hàng rào hai lớp, bên ngoài hàng rào cây keo mọc sát sít như tranh với nhau từng tí đất để vươn lên, phơi bày từng đọt ngọn nho nhỏ xanh mượt. Bên trong một lớp gai nhánh tre, đan bắt chéo tréo trả, đến nổi con gà con cũng khó bề chui qua lọt. Lại càng dễ nhận ra cái ngõ ngói đồ sộ với hai cây cột trụ gỗ lim to hì hợm chôn sâu vững chắc, đủ sức chịu đựng vừa làm giàn cột chống đở mái ngói, vừa làm điểm tựa cho hai cánh cửa ngõ nặng triểu mỡ ra, đóng vào gài then kín cổng cao tường.
Bước qua ngạch ngõ chắn ngang, như báo hiệu một sự chú ý tránh khỏi vấp té, trước khi đi vào bằng lối đi lót gạch, hai bên hàng chè tàu luôn luôn được cắt xén vuông vứt, thẳng nếp. Trên đó dây tơ hồng mặc sức trườn bò, buông dóng từng mãnh sợi óng ánh quanh năm:
“Dây tơ hồng không ai trồng mà mọc.
Con gái chưa chồng đi dọc đi ngang.”
Lối đi vào nhà thường hay rẽ trái hoặc phải, tránh bức bình phong áng ngữ ngăn chận hướng đi trực chỉ vào nhà. Trước nhà là một sân gạch lớn, về mùa mưa giầm rong rêu đóng thành từng mãnh, lớp nọ chồng lên lớp kia, rất dễ trơn trợt vô cùng. Phải hết sức cẩn thận, chậm rãi khi qua sân gạch, nếu không biết làm thơ chữa thẹn như bà Hồ Xuân Hương ngày xưa:
“Dang tay vói thử trời cao thấp.
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài.”
Tết nguyên đán đến, ai vào nhà ông bà tôi cũng đều trằm trồ khen lấy, khen để hai cây mai vàng kỳ cựu, lúc nào hoa nở cũng đúng tết, rợp một màu vàng thanh nhã, hương thơm ngào ngạt. Chung quanh rào, hàng cây cau mãnh khảnh vươn lên cao vút, đọt ngọn chỉ thiên ở giữa những tàu lá rũ xuống, che chở từng buồng cau sây trái no tròn. Đã có hàng cau, thì đời nào lại không có giàn trầu lá dày ướm vàng, leo quanh thân cây vông hay bờ tường vôi ẩm ướt phía sau ngôi nhà. Lũy tre xanh hướng tây, chạy dài từ phía trước ra mút tận phía sau vườn, tỏa rợp bóng mát cho con đường kiệt rẽ vào xóm trong. Những cây tre mỡ vươn cao, nương tựa gốc tre già chằn chịt, kín mít. Về mùa hè có gió nôm, mo tre rơi rụng khắp mặt đường, tiếng kêu kẽo kẹt bởi nhiều cây tre va chạm vào nhau, nghe vui tai như một khúc nhạc hòa tấu. Chạy dài sát hàng rào mặt hậu, hàng loạt cây mít cao lớn, tàng lá nhánh nhóc sung sức vươn lên, tỏa bóng mát rười rượi. Cứ đến ngày mồng năm tết đoan ngọ trái chín rộ, lấy tay vỗ thử nghe tiếng bình bịch, trầm trầm là có thể ăn ngon được rồi. Dùng đoạn dây dừa cột vào chiếc gióng gánh nước mà dìu trái mít chín từ trên cành cao xuống từ từ, nhè nhẹ, không đời nào làm bể dập. Khiêng rinh trái mít vào nhà, lấy con dao lở bén ngọt xẻ ra làm đôi, làm tư, mũ chả ra tới đâu lấy lá cà lau tới đó sạch sẽ. Nếu là mít ướt, dùng tay gỡ cùi ra bỏ lên cái mâm có sẵn, dùng đủa gắp từng múi chấm tí muối ớt ăn đả đời. Còn mít ráo vừa gở vừa ăn mới thấy thích thú, ngon miệng. Khu vườn nhà sau còn có mấy cây khế, đến mùa trái chín đeo tua tủa đầy cành, từng bầy chim két đánh hơi bay về đua nhau tranh ăn, trái nhằn trái nhã rơi rớt lộp độp. Ngoài ra còn có vườn thơm, xen kẻ trong vườn chuối cũng không kém phần hấp dẫn, cây nhà lá vườn. Thú ăn thơm chín tại chỗ lại càng đắc khách hơn, rủ mấy đứa bạn ra vườn cắt lá chuối trải quanh gốc mít, chọn mấy trái thơm chín rệu, bẻ cái cụp, gọt vỏ bỏ mắt và xẻ ra từng miếng, chấm muối ớt ăn tới khi nào tưa cái lưỡi mới chịu thôi. Vườn chuối che rợp bóng cho cây thơm khỏi cháy nắng đủ loại: chuối mốc, chuối cau, chuối thanh tiêu, chuối sứ… Chuối sứ trái chín ăn không ngon lắm vì có nhiều hột, tuy vậy đa dụng hơn tất cả: như lá chuối dùng để gói bánh tét, bánh ú, bánh ít… trái chuối non nấu canh xương rất hợp, xắt lát ăn với thịt vịt, thịt bò tái chấm mắm gừng ngon hết sẫy, búp chuối giải xắt sợi trộn rau sống ăn mì mới đúng điệu, hợp gu. Trong vườn còn có cam, quít, bòng, chanh, ổi, mãng cầu… tha hồ thưởng thức mùi vị chua, ngọt cây trái bốn mùa đều có đủ. Một vùng đất trống không rợp bóng, được bao quanh hàng rào mành mành không cho bầy gà bươi chải, luống rau thơm, vạc rau muống, vồng cải, hành hẹ, ớt cà…
Quang cảnh thoáng mát, yên tịnh chung quanh bên ngoài có thừa, thì vẽ huyền diệu ấm cúng lại không thể thiếu ở bên trong. Đó là di tích không những biểu hiện sự hiện hữu về vật chất, mà còn có một truyền thống gia phả về tinh thần từ ông bà xưa để lại cho con cháu hậu sinh thừa hưởng. Đứng trước sân ngắm nhìn thẳng lên mái nhà, thấy hàng loạt dãy ngói cong, lợp theo kiểu âm dương chạy trải dài từ trên nóc cao đến tận viền mái hiên thấp lè tè. Mái ngói cũ mềm, meo rong đóng đầy lớp nọ chồng lên lớp kia đen xẩm xì, xám xịt. Như thế đủ biết ngôi nhà hiện hữu lâu đời lắm rồi.
Nhà chính, ba dang hai chái tọa lạc ngay chính giữa, xây mặt về hướng nam. Nhà ngang nằm bên trái, sát nách nhà trên, xây mặt về hướng tây. Kế cận nhà dưới là nhà bếp và lùi ra đằng sau còn có nhà tắm, chuồng heo, chuồng gà vịt. Nhà trên là nơi thờ phụng rất trang nghiêm, chỉ có khách quí mới được tiếp nơi đây, thường ngày ba giang cửa đóng kín, ánh sáng lọt vào nhà mờ mờ, ảo ảo qua khe nhỏ của từng khung cửa xúc xích nhỏ hẹp. Vào nhà qua lối nhỏ giữa hai cánh cửa mỡ song song hé ra. Phải bước qua ngạch cửa chấn ngang, cách mặt đất một khe hở vừa lọt lòng bàn chân. Các cánh cửa có thể mở ra, đóng lại nhờ ở hai lỗ điểm tựa bên trên xà ngang và ngạch ở dưới. Toàn bộ đóng gài bằng cây thăn cài chận gát qua. Nhà trên còn ăn thông ra vườn bằng hai cửa hông và cửa mạch xuống nhà dưới, nhà bếp. Bờ xông vôi xây bao quanh nhà bằng loại đá ong. Mạch hồ dùng vôi giã nhuyển trộn với nước mật, nhựa cây bời lời rất chắc chắn, ăn trợm khó bề đào ngạch chui vào lấy của.
Giàn gỗ bên trong thật là đồ sộ, toàn loại gỗ quí, tuyển lựa tùy theo công dụng: cột kèo, xuyên trính dùng gỗ mít ròng, hoành tử, rui mè dùng gỗ lim, cây đòn đông chọn gỗ chò… Các hàng cột bao giờ cũng đứng trên hòn đá bí tròn trịa, chồng lên hòn đá táng, ôm giữ lấy chân cột làm tăng thêm vẽ đẹp vững chắc. Mỗi loại cột đều có tên riêng, hàng cột con tuy nhỏ mãnh khảnh nhưng cũng đủ sức chống đỡ mái hiên nặng triểu. Hàng cột thứ giữ vững ôm chặt đà cửa, ngạch cửa bảo vệ che chở toàn bộ mặt tiền ngôi nhà. Hàng cột quyết nóc chống đở phần nặng của mái nhà. Hàng cột cái nằm vào hàng dọc trung tâm điểm, to trội hơn tất cả. Trên mỗi đầu cột, xuyên trính kiềng liên hoàn, giữ vững sườn nhà vững chắc bất di, bất dịch.
Chính diện căn trung, phía sau phần nửa căn nhà trưng bày một sàn gỗ, cách mặt đất năm tấc, lót ván bằng phẳng gọi là rầm thượng, giống như cái sân khấu. Mặt hai bên và sau lưng đóng phên lụa kín mít. Mặt trước chừa trống, đóng khung viền quanh, chạm trổ hình con dơi, con bướm rất linh động, tinh xảo. Trên rầm thượng thiết trí một bàn thờ chính, ở đó bài trí một nồi hương thật lớn và nhiều bài vị ông bà quá cố. Mặt trước bàn thờ còn phủ thêm tấm quần bàn thêu hình sơn thủy, qui hạt đủ màu sắc sặc sỡ. Ngoại trừ những ngày giỗ chạp, ba ngày tết, giường thờ luôn luôn buông thả bức mành sáo bằng tre, vẽ hình chữ thọ màu đỏ tươi thắm nằm trên nền vàng có viền đen bao chung quanh. Kèm ngoài bức sáo còn có bức nghi ở trên, thêu hình long phụng kết cườm tua tủa, đính thêm nhiều nút cúc óng ánh, sáng ngời. Nơi hai đầu cột giường thờ, hai câu liển đối trưng bày từng nét chữ được cẩn bằng ốc xa cừ, lấp lánh chiếu sáng trên mặt gỗ đánh láng, bóng nhoáng. Trên cao chính giữa căn trung, một tấm hoành phi với ba chữ: Đức Lưu Phương, thiếp vàng sáng ngời trên nền sơn son rực rỡ, đỏ chói. Một bàn áng đặt ngay chính giữa giường thờ cao ngất, chạm trổ hình phước lộc thọ, áng ngữ tăng thêm phần trang nghiêm thờ phụng bên trong. Trên bàn áng đặt nồi hương, cặp chân đèn, giá kính trong suốt, bình bông bên tay mặt, quả tử bên tay trái. Giang hai bên kê hai bộ phảng gỗ bộ ba, nặng ì nằm gọn gàng trên đôi ngựa gỗ chân đuôi tôm chắc nịch. Đằng trước mỗi bộ phảng còn có bộ bàn tròn ngồi chơi, uống trà, rượu trong những ngày hữu sự. Đi quanh ra phía sau là lồng nhất, lồng nhì, lồng ba… Đó là các buồng khoa làm phòng ngủ, phòng chứa đồ đạt của quí: nồi đồng, mâm thau, chén bát kiểu sành sứ…
Thông qua cửa mạch đi xuống nhà dưới cũng không kém phần quan trọng. Hầu hết mọi sinh hoạt bình thường trong nhà đều ở đây. Nhà dưới cột kèo, xuyên trính có phần đơn giản hơn, gát trính trường để giảm bớt số cột, tạo khoảng trống rộng rãi, thoáng mát thỏa mái nhiều hơn. Chung quanh nhà dừng nhiều tấm phên tre, vô cộng kẹp nẹp rất công phu, đẹp mắt. Cửa ra vào chống lên như mái hiên che được nắng mưa, ban đêm sụp xuống kín đáo, ấm áp trong nhà và còn tiện lợi hơn khi trời mưa bất chợt, khiêng nong lúa vào nhà kịp thời. Bên trong phân chia thành khu riêng biệt: chỗ nầy đặt cái giường thùng có bốn bánh xe gỗ, cao ngang ngực người lớn. Mặt trên là nơi nằm ngủ, bên trong ngăn ra nhiều hộc chứa áo quần, giấy tờ khế ước, vật dụng linh tinh… Cửa mở bên trên có thể lấy ra và đậy lại, khóa bằng cái chốt đẩy ở bên trong xuyên qua cái lỗ hổng. Chỗ kia kê chiếc chõng tre, vạc giường mềm mại nằm nghỉ trưa hóng mát, đánh một giấc ngủ say. Chỗ nọ đặt cối xay lúa, quạt gió đóng bằng gỗ, cối giã gạo và cái giá dựng nong nia, dừng sàng…
Xuống nhà bếp có cái bàn dài dùng để ăn cơm thường nhật, ngày ba bửa. Bàn thật dài trên hai thước, bề ngang hẹp đi rất nhiều, năm tấc trở lại. Toàn bộ sức nặng đứng vững chắc trên cặp chân đuôi tôm thô kịch. Thêm vào đó một cặp ghế ngựa dài đặt kèm hai bên cho đủ bộ. Đằng kia là bếp nấu ăn xây bằng gạch, mặt bằng đủ rộng để nhúm hai bộ ông táo bằng đất sét, nám đen lọ lem. Khi nấu ăn thường đứng, con nít phải đứng trên tảng đá kê bên cạnh, phụ giúp mẹ thổi dùm bếp lửa, đun củi nấu cơm… Trên nóc nhà bồ hóng đóng đầy, từng lớp đen sì mặc dù trên đó có chừa lỗ thông hơi, thoát khói. Dưới bếp nấu là nơi làm ngăn chứa củi, khi thì củi săn hay toàn củi gai tre lượm nhặt ngoài vườn. Trong nhà còn có cối xay bột, lò tráng mì, mùa đông thường ăn bánh xèo, mùa hè ăn mì, bánh bèo… thay đổi theo từng mùa cho hợp với sở thích. Bên ngoài còn có giàn nước lót đá thước cao ráo, sạch sẽ. Chum có nắp đậy dùng đựng nước uống, ảng hoặc hồ đựng nước rửa, bên cạnh móc treo một vài cái gáo dừa nơi cây cọc. Kế cận giàn rửa chén bát không đời nào lại không có hố lùng tươi tốt quanh năm, nhờ nguồn nước thải và bón phân bằng mớ xác chè súc ấm mỗi buổi sáng.
Bây giờ mườn tượng lại ngôi nhà cổ xưa của ông bà, lòng tôi không khỏi thương tiếc bùi ngùi. Trí nhớ tuy đã nhạt nhòa quên lãng, ngôn ngữ không đủ diễn đạt cho hết ý. Nhưng dù sao đi nữa hy vọng ít nhiều cũng nói lên được nổi niềm hoài cổ, nhớ về quá khứ xa xưa ghi sâu nhiều kỷ niệm. Ở đây tôi muốn nói đến công đức to tác của ông bà, đã được nhiều người kể lại cho con cháu lấy đó mà noi theo. Ngoài gia tài đồ sộ về vật chất mà nay đã tiêu tan bởi những biến cố chiến tranh. Duy chỉ còn lại giá trị tinh thần mãi mãi trường cửu, đó là lòng nhân hậu thương người của ông bà được truyền khẩu qua nhiều thế hệ, con cháu lấy làm hãnh diện, thơm lây tiếng tốt của Ông Bà./-
ĐOÀN NGOC NAM
“Bảo An không ngắn không dài,
Bến Đền cụt ngủn, Xuân Đài cù queo.”
Trong đó làng Xuân Đài cù queo của tôi như được che chở, ôm ấp trong tình lân cận thân thiện với các làng bạn. Đông cận Bàn Lãnh, Tây cận Bảo An (Bia bạn hạn Xuân Đài – Bảo An còn ghi dấu tích: “Xuân thổ khai cương lưu cựu tích. Nam thiên lập địa biểu sơ cơ.” Đoàn Đại Tộc XĐ), Nam cận Bến Đền và Bắc cận Kỳ Lam. Làng tôi như chiếc nôi yêu thương, đùm bọc che chở mái nhà đại gia đình cho ba giòng họ chính: Phạm, Đoàn, Huỳnh. Ba ông tiền hiền đã bỏ ra biết bao nhiêu công lao, sức lực để khai khẩn vùng đất hoang vu trở thành vùng đất màu mỡ mà nay thế hệ hậu sinh được thừa hưởng. Công ơn to lớn đó được con cháu đời đời ghi nhớ, lập nhà thờ hương khói, xuân thu nhị kỳ tế lễ theo nghi thức trong gia phả lưu truyền. Quê hương đã cho tôi quá nhiều kỷ niệm thời thơ ấu, trong đó bao bọc nhiều thứ tình: tình bạn hữu, tình gia tộc, tình đồng hương cùng làng xóm, đã ăn sâu vào tâm khảm từ bao giờ. Và mãi đến bây giờ, mỗi lần trở về thăm quê cũ, nhìn lại dấu tích xưa, lòng tôi không khỏi bùi ngùi thương nhớ, luyến tiếc ngôi nhà cổ xưa của ông bà nội để lại trước thời đất nước ly loạn.
Rời khỏi trạm ga Gò Nổi, khách bộ hành đi lên về hướng tây, dọc theo con đường cái của làng, san sát từng khu vườn riêng biệt, nhà cửa khang trang ngăn nắp, đâu vào đó. Mỗi nhà có cỗng ngõ và hàng rào kiên cố. Nhìn quang cảnh biểu hiện một thời thanh bình, thịnh vượng. Qua khỏi ngã tư đình làng, nhìn về phía xa xa ở bên tay phải, có một khu vườn hàng rào hai lớp, bên ngoài hàng rào cây keo mọc sát sít như tranh với nhau từng tí đất để vươn lên, phơi bày từng đọt ngọn nho nhỏ xanh mượt. Bên trong một lớp gai nhánh tre, đan bắt chéo tréo trả, đến nổi con gà con cũng khó bề chui qua lọt. Lại càng dễ nhận ra cái ngõ ngói đồ sộ với hai cây cột trụ gỗ lim to hì hợm chôn sâu vững chắc, đủ sức chịu đựng vừa làm giàn cột chống đở mái ngói, vừa làm điểm tựa cho hai cánh cửa ngõ nặng triểu mỡ ra, đóng vào gài then kín cổng cao tường.
Bước qua ngạch ngõ chắn ngang, như báo hiệu một sự chú ý tránh khỏi vấp té, trước khi đi vào bằng lối đi lót gạch, hai bên hàng chè tàu luôn luôn được cắt xén vuông vứt, thẳng nếp. Trên đó dây tơ hồng mặc sức trườn bò, buông dóng từng mãnh sợi óng ánh quanh năm:
“Dây tơ hồng không ai trồng mà mọc.
Con gái chưa chồng đi dọc đi ngang.”
Lối đi vào nhà thường hay rẽ trái hoặc phải, tránh bức bình phong áng ngữ ngăn chận hướng đi trực chỉ vào nhà. Trước nhà là một sân gạch lớn, về mùa mưa giầm rong rêu đóng thành từng mãnh, lớp nọ chồng lên lớp kia, rất dễ trơn trợt vô cùng. Phải hết sức cẩn thận, chậm rãi khi qua sân gạch, nếu không biết làm thơ chữa thẹn như bà Hồ Xuân Hương ngày xưa:
“Dang tay vói thử trời cao thấp.
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài.”
Tết nguyên đán đến, ai vào nhà ông bà tôi cũng đều trằm trồ khen lấy, khen để hai cây mai vàng kỳ cựu, lúc nào hoa nở cũng đúng tết, rợp một màu vàng thanh nhã, hương thơm ngào ngạt. Chung quanh rào, hàng cây cau mãnh khảnh vươn lên cao vút, đọt ngọn chỉ thiên ở giữa những tàu lá rũ xuống, che chở từng buồng cau sây trái no tròn. Đã có hàng cau, thì đời nào lại không có giàn trầu lá dày ướm vàng, leo quanh thân cây vông hay bờ tường vôi ẩm ướt phía sau ngôi nhà. Lũy tre xanh hướng tây, chạy dài từ phía trước ra mút tận phía sau vườn, tỏa rợp bóng mát cho con đường kiệt rẽ vào xóm trong. Những cây tre mỡ vươn cao, nương tựa gốc tre già chằn chịt, kín mít. Về mùa hè có gió nôm, mo tre rơi rụng khắp mặt đường, tiếng kêu kẽo kẹt bởi nhiều cây tre va chạm vào nhau, nghe vui tai như một khúc nhạc hòa tấu. Chạy dài sát hàng rào mặt hậu, hàng loạt cây mít cao lớn, tàng lá nhánh nhóc sung sức vươn lên, tỏa bóng mát rười rượi. Cứ đến ngày mồng năm tết đoan ngọ trái chín rộ, lấy tay vỗ thử nghe tiếng bình bịch, trầm trầm là có thể ăn ngon được rồi. Dùng đoạn dây dừa cột vào chiếc gióng gánh nước mà dìu trái mít chín từ trên cành cao xuống từ từ, nhè nhẹ, không đời nào làm bể dập. Khiêng rinh trái mít vào nhà, lấy con dao lở bén ngọt xẻ ra làm đôi, làm tư, mũ chả ra tới đâu lấy lá cà lau tới đó sạch sẽ. Nếu là mít ướt, dùng tay gỡ cùi ra bỏ lên cái mâm có sẵn, dùng đủa gắp từng múi chấm tí muối ớt ăn đả đời. Còn mít ráo vừa gở vừa ăn mới thấy thích thú, ngon miệng. Khu vườn nhà sau còn có mấy cây khế, đến mùa trái chín đeo tua tủa đầy cành, từng bầy chim két đánh hơi bay về đua nhau tranh ăn, trái nhằn trái nhã rơi rớt lộp độp. Ngoài ra còn có vườn thơm, xen kẻ trong vườn chuối cũng không kém phần hấp dẫn, cây nhà lá vườn. Thú ăn thơm chín tại chỗ lại càng đắc khách hơn, rủ mấy đứa bạn ra vườn cắt lá chuối trải quanh gốc mít, chọn mấy trái thơm chín rệu, bẻ cái cụp, gọt vỏ bỏ mắt và xẻ ra từng miếng, chấm muối ớt ăn tới khi nào tưa cái lưỡi mới chịu thôi. Vườn chuối che rợp bóng cho cây thơm khỏi cháy nắng đủ loại: chuối mốc, chuối cau, chuối thanh tiêu, chuối sứ… Chuối sứ trái chín ăn không ngon lắm vì có nhiều hột, tuy vậy đa dụng hơn tất cả: như lá chuối dùng để gói bánh tét, bánh ú, bánh ít… trái chuối non nấu canh xương rất hợp, xắt lát ăn với thịt vịt, thịt bò tái chấm mắm gừng ngon hết sẫy, búp chuối giải xắt sợi trộn rau sống ăn mì mới đúng điệu, hợp gu. Trong vườn còn có cam, quít, bòng, chanh, ổi, mãng cầu… tha hồ thưởng thức mùi vị chua, ngọt cây trái bốn mùa đều có đủ. Một vùng đất trống không rợp bóng, được bao quanh hàng rào mành mành không cho bầy gà bươi chải, luống rau thơm, vạc rau muống, vồng cải, hành hẹ, ớt cà…
Quang cảnh thoáng mát, yên tịnh chung quanh bên ngoài có thừa, thì vẽ huyền diệu ấm cúng lại không thể thiếu ở bên trong. Đó là di tích không những biểu hiện sự hiện hữu về vật chất, mà còn có một truyền thống gia phả về tinh thần từ ông bà xưa để lại cho con cháu hậu sinh thừa hưởng. Đứng trước sân ngắm nhìn thẳng lên mái nhà, thấy hàng loạt dãy ngói cong, lợp theo kiểu âm dương chạy trải dài từ trên nóc cao đến tận viền mái hiên thấp lè tè. Mái ngói cũ mềm, meo rong đóng đầy lớp nọ chồng lên lớp kia đen xẩm xì, xám xịt. Như thế đủ biết ngôi nhà hiện hữu lâu đời lắm rồi.
Nhà chính, ba dang hai chái tọa lạc ngay chính giữa, xây mặt về hướng nam. Nhà ngang nằm bên trái, sát nách nhà trên, xây mặt về hướng tây. Kế cận nhà dưới là nhà bếp và lùi ra đằng sau còn có nhà tắm, chuồng heo, chuồng gà vịt. Nhà trên là nơi thờ phụng rất trang nghiêm, chỉ có khách quí mới được tiếp nơi đây, thường ngày ba giang cửa đóng kín, ánh sáng lọt vào nhà mờ mờ, ảo ảo qua khe nhỏ của từng khung cửa xúc xích nhỏ hẹp. Vào nhà qua lối nhỏ giữa hai cánh cửa mỡ song song hé ra. Phải bước qua ngạch cửa chấn ngang, cách mặt đất một khe hở vừa lọt lòng bàn chân. Các cánh cửa có thể mở ra, đóng lại nhờ ở hai lỗ điểm tựa bên trên xà ngang và ngạch ở dưới. Toàn bộ đóng gài bằng cây thăn cài chận gát qua. Nhà trên còn ăn thông ra vườn bằng hai cửa hông và cửa mạch xuống nhà dưới, nhà bếp. Bờ xông vôi xây bao quanh nhà bằng loại đá ong. Mạch hồ dùng vôi giã nhuyển trộn với nước mật, nhựa cây bời lời rất chắc chắn, ăn trợm khó bề đào ngạch chui vào lấy của.
Giàn gỗ bên trong thật là đồ sộ, toàn loại gỗ quí, tuyển lựa tùy theo công dụng: cột kèo, xuyên trính dùng gỗ mít ròng, hoành tử, rui mè dùng gỗ lim, cây đòn đông chọn gỗ chò… Các hàng cột bao giờ cũng đứng trên hòn đá bí tròn trịa, chồng lên hòn đá táng, ôm giữ lấy chân cột làm tăng thêm vẽ đẹp vững chắc. Mỗi loại cột đều có tên riêng, hàng cột con tuy nhỏ mãnh khảnh nhưng cũng đủ sức chống đỡ mái hiên nặng triểu. Hàng cột thứ giữ vững ôm chặt đà cửa, ngạch cửa bảo vệ che chở toàn bộ mặt tiền ngôi nhà. Hàng cột quyết nóc chống đở phần nặng của mái nhà. Hàng cột cái nằm vào hàng dọc trung tâm điểm, to trội hơn tất cả. Trên mỗi đầu cột, xuyên trính kiềng liên hoàn, giữ vững sườn nhà vững chắc bất di, bất dịch.
Chính diện căn trung, phía sau phần nửa căn nhà trưng bày một sàn gỗ, cách mặt đất năm tấc, lót ván bằng phẳng gọi là rầm thượng, giống như cái sân khấu. Mặt hai bên và sau lưng đóng phên lụa kín mít. Mặt trước chừa trống, đóng khung viền quanh, chạm trổ hình con dơi, con bướm rất linh động, tinh xảo. Trên rầm thượng thiết trí một bàn thờ chính, ở đó bài trí một nồi hương thật lớn và nhiều bài vị ông bà quá cố. Mặt trước bàn thờ còn phủ thêm tấm quần bàn thêu hình sơn thủy, qui hạt đủ màu sắc sặc sỡ. Ngoại trừ những ngày giỗ chạp, ba ngày tết, giường thờ luôn luôn buông thả bức mành sáo bằng tre, vẽ hình chữ thọ màu đỏ tươi thắm nằm trên nền vàng có viền đen bao chung quanh. Kèm ngoài bức sáo còn có bức nghi ở trên, thêu hình long phụng kết cườm tua tủa, đính thêm nhiều nút cúc óng ánh, sáng ngời. Nơi hai đầu cột giường thờ, hai câu liển đối trưng bày từng nét chữ được cẩn bằng ốc xa cừ, lấp lánh chiếu sáng trên mặt gỗ đánh láng, bóng nhoáng. Trên cao chính giữa căn trung, một tấm hoành phi với ba chữ: Đức Lưu Phương, thiếp vàng sáng ngời trên nền sơn son rực rỡ, đỏ chói. Một bàn áng đặt ngay chính giữa giường thờ cao ngất, chạm trổ hình phước lộc thọ, áng ngữ tăng thêm phần trang nghiêm thờ phụng bên trong. Trên bàn áng đặt nồi hương, cặp chân đèn, giá kính trong suốt, bình bông bên tay mặt, quả tử bên tay trái. Giang hai bên kê hai bộ phảng gỗ bộ ba, nặng ì nằm gọn gàng trên đôi ngựa gỗ chân đuôi tôm chắc nịch. Đằng trước mỗi bộ phảng còn có bộ bàn tròn ngồi chơi, uống trà, rượu trong những ngày hữu sự. Đi quanh ra phía sau là lồng nhất, lồng nhì, lồng ba… Đó là các buồng khoa làm phòng ngủ, phòng chứa đồ đạt của quí: nồi đồng, mâm thau, chén bát kiểu sành sứ…
Thông qua cửa mạch đi xuống nhà dưới cũng không kém phần quan trọng. Hầu hết mọi sinh hoạt bình thường trong nhà đều ở đây. Nhà dưới cột kèo, xuyên trính có phần đơn giản hơn, gát trính trường để giảm bớt số cột, tạo khoảng trống rộng rãi, thoáng mát thỏa mái nhiều hơn. Chung quanh nhà dừng nhiều tấm phên tre, vô cộng kẹp nẹp rất công phu, đẹp mắt. Cửa ra vào chống lên như mái hiên che được nắng mưa, ban đêm sụp xuống kín đáo, ấm áp trong nhà và còn tiện lợi hơn khi trời mưa bất chợt, khiêng nong lúa vào nhà kịp thời. Bên trong phân chia thành khu riêng biệt: chỗ nầy đặt cái giường thùng có bốn bánh xe gỗ, cao ngang ngực người lớn. Mặt trên là nơi nằm ngủ, bên trong ngăn ra nhiều hộc chứa áo quần, giấy tờ khế ước, vật dụng linh tinh… Cửa mở bên trên có thể lấy ra và đậy lại, khóa bằng cái chốt đẩy ở bên trong xuyên qua cái lỗ hổng. Chỗ kia kê chiếc chõng tre, vạc giường mềm mại nằm nghỉ trưa hóng mát, đánh một giấc ngủ say. Chỗ nọ đặt cối xay lúa, quạt gió đóng bằng gỗ, cối giã gạo và cái giá dựng nong nia, dừng sàng…
Xuống nhà bếp có cái bàn dài dùng để ăn cơm thường nhật, ngày ba bửa. Bàn thật dài trên hai thước, bề ngang hẹp đi rất nhiều, năm tấc trở lại. Toàn bộ sức nặng đứng vững chắc trên cặp chân đuôi tôm thô kịch. Thêm vào đó một cặp ghế ngựa dài đặt kèm hai bên cho đủ bộ. Đằng kia là bếp nấu ăn xây bằng gạch, mặt bằng đủ rộng để nhúm hai bộ ông táo bằng đất sét, nám đen lọ lem. Khi nấu ăn thường đứng, con nít phải đứng trên tảng đá kê bên cạnh, phụ giúp mẹ thổi dùm bếp lửa, đun củi nấu cơm… Trên nóc nhà bồ hóng đóng đầy, từng lớp đen sì mặc dù trên đó có chừa lỗ thông hơi, thoát khói. Dưới bếp nấu là nơi làm ngăn chứa củi, khi thì củi săn hay toàn củi gai tre lượm nhặt ngoài vườn. Trong nhà còn có cối xay bột, lò tráng mì, mùa đông thường ăn bánh xèo, mùa hè ăn mì, bánh bèo… thay đổi theo từng mùa cho hợp với sở thích. Bên ngoài còn có giàn nước lót đá thước cao ráo, sạch sẽ. Chum có nắp đậy dùng đựng nước uống, ảng hoặc hồ đựng nước rửa, bên cạnh móc treo một vài cái gáo dừa nơi cây cọc. Kế cận giàn rửa chén bát không đời nào lại không có hố lùng tươi tốt quanh năm, nhờ nguồn nước thải và bón phân bằng mớ xác chè súc ấm mỗi buổi sáng.
Bây giờ mườn tượng lại ngôi nhà cổ xưa của ông bà, lòng tôi không khỏi thương tiếc bùi ngùi. Trí nhớ tuy đã nhạt nhòa quên lãng, ngôn ngữ không đủ diễn đạt cho hết ý. Nhưng dù sao đi nữa hy vọng ít nhiều cũng nói lên được nổi niềm hoài cổ, nhớ về quá khứ xa xưa ghi sâu nhiều kỷ niệm. Ở đây tôi muốn nói đến công đức to tác của ông bà, đã được nhiều người kể lại cho con cháu lấy đó mà noi theo. Ngoài gia tài đồ sộ về vật chất mà nay đã tiêu tan bởi những biến cố chiến tranh. Duy chỉ còn lại giá trị tinh thần mãi mãi trường cửu, đó là lòng nhân hậu thương người của ông bà được truyền khẩu qua nhiều thế hệ, con cháu lấy làm hãnh diện, thơm lây tiếng tốt của Ông Bà./-
ĐOÀN NGOC NAM
15. Thuốc lá Quảng Nam
Khi ra đường gặp nhau, hoặc được dịp có khách đến thăm chơi, dù thời gian xa cách vừa mới đó, hay đã lâu biền biệt, thiên hạ biểu lộ tấm lòng qua cử chỉ niềm nỡ, tỏ lòng thăm hỏi sức khỏe mạnh giỏi, chuyện nhà gia đạo, vợ chồng con cái làm ăn ra sao? Chỉ chừng đó thôi, sao mà cảm thấy trống vắng, lạnh nhạt quá. Nếu không đồng thời xìa ra mời cho nhau miếng trầu, nhai chóp chép cho vui miệng, tăng thêm phần nồng nàn, keo sơn thắm thiết nhiều hơn. Đành rằng: “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Song bên cạnh đó còn có điếu thuốc hiện hữu, góp phần tạo nên phương tiện xã giao lợi hại đáng kể hơn, khai thông được tình huống bế tắc với nhiều mục đích khác nhau. Cũng tùy từng trường hợp mà điếu thuốc đưa mời có mỗi dụng ý riêng. Hoặc cùng nhau chia xẻ ngọt bùi trong câu chuyện hàn huyên bà con hàng xóm, láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau. Thì chỉ cần bỏ xoạc ra nắm thuốc lá, gát nằm ngang qua miệng cái dĩa đất, cái khay gỗ vuông thường dùng trong nhà hằng ngày, rồi mời khách hút chơi vài điếu thuốc của quê hương mình làm ra. Rất tự nhiên, khách đến chơi tự tay bốc lá thuốc giũ sạch cát bụi, quấn lấy một điếu tùy theo sở thích, nho nhỏ xinh xinh, hay to vù thô kịch mà người ta thường nói chơi, trông giống cái dùi đục của ông thợ mộc quá chừng. Rồi chỉ cần một người quẹt xì xạch, đốt cho được một điếu cháy ngún, bập bẹ ra khói và từ đó đốt mồi cho nhau rất thân tình, mật thiết vui vẻ sum vầy. Ngược lại, khai mào mời nhau điếu thuốc xã giao không ngoài mục đích lợi dụng, khi đó phải tìm cho được loại thuốc bao, bọc giấy gương bóng nhoáng, chẳng hạn như bao thuốc 555, Marlbro. Pall Mall… mà ở đây không có đề cập đến vì nó ngoại lai, xa lạ với người dân hiền hòa, chất phác luôn luôn quí trọng những gì làm ra, và cố gắng gìn giữ cho được cái tinh hoa thâm thúy của quê hương mình không mai một.
Các cụ ngày xưa cho rằng: “Nhất gái một con – Nhì thuốc ngon nửa điếu”. Phải chăng ở đây có điểm gì đặc biệt. Gái một con đủ già giặn, khôn ngoan hơn những cô gái còn khờ dại, ham chơi chưa vào trường đời. Còn thuốc ngon nửa điếu đã đạt đến cực độ mong muốn: khoái trá, chống buồn ngủ, đỡ lạnh, khuây khỏa lạc quan yêu đời... Nửa điếu của phần cuối, chất nhựa cô đọng cho mùi thơm đượm đà, khói thuốc quyện vào nhau đậm đặc. Rít từng hơi cảm thấy đã đời, mơ màng trong mộng ảo lâng lâng, ngà ngà say. Lo được cái ăn, cái mặc và còn bận biệu nghĩ đến lạc thú ở đời cho con người, nên người nông dân Quảng Nam quê ta, chăm lo vun trồng ra cây thuốc lá, phục vụ cho chính mình hay cho mọi người, lúc nào cũng vui vẻ, thản nhiên không một chút so đo tính toán công lao khổ cực, nhọc nhằng.
Các bãi biền, dọc theo hai bên bờ dòng sông quê hương Thu Bồn là vùng đất được lựa chọn để trồng cây thuốc lá mới ngon và sản lượng thu hoạch cao. Ở đó có nhiều yếu tố như: đất tốt màu mỡ, nhờ phù sa tô bồi hằng năm, có dồi dào lượng nước tưới khi cần tới, giữ cho cây thuốc xanh tươi trong thời kỳ sung sức, đạt được sản lượng cùng chất lượng cao. Trồng ra được loại thuốc lá ngon nổi tiếng mới là điều khó, phải tận dụng hết bí quyết chuyên môn một cách rành rẽ, cộng thêm công sức thâm canh, cần mẫn mới lấy được lòng tin tưởng, yêu chuộng của giới sành điệu được lâu dài. Tuy cũng từng đó phương thức, nhưng phải công nhận thuốc lá vùng Lệ Trạch, Bến Đền là thuốc lá ngon nhất, nổi tiếng nhất không đâu bằng. Thuốc lá Cẩm Lệ được chuyển biến thành thuốc rê, rất thông dụng cho người thành phố, và còn đến tận các nơi khác, bán chạy đắt hàng.
Từ đầu mùa đông, người ta gieo hạt chuẩn bị sẵn sàng cấy “con thuốc” cho mùa sắp đến. Hạt giống tròn nhỏ li ti như hạt cải cay, đem gieo thật đều dày đặc trên phần đất vỉa hè nếu nhà nào cao lụt, hoặc trên giàn cao được đổ đất có mái che, tránh các trận mưa lớn làm dập thân cây khi còn non nớt yếu mềm. Khi thấy ngọn con thuốc đơm lên, vượt khỏi lá yếm, người ta nhổ ra để cấy vào bầu. Đó là hàng loạt bầu, khoanh bằng lá chuối sứ thành hình ống, cao hai phân và đường kính một phân rưỡi. Trong ruột mỗi bầu nhận đầy hổn hợp đất cùng phân. Đất phải lấy dưới bụi gốc tre mục mới xốp, phân dùng loại phân tằm đã ải rục, sàng lấy bột thật mịn mới đem dùng. Sắp đặt tất cả bầu sát sít trên tấm liếp trục trịch, và cấy con thuốc vào. Sau khi cấy xong, đặt một dãy liếp trên giàn cao, có mái che để tránh ngập lụt, mưa lớn làm dập ngọn non nớt, và nhất là bị mấy con cóc liếm đọt, quắn khô queo. Thường ngày tưới nước sương sương, đủ để giữ độ ấm cho cây thuốc bén rễ lần hồi, phát tiển tươi tốt mỗi ngày trông thấy rõ.
Sau ngày 23 tháng chạp âm lịch, nhắm chừng hết lụt lớn. Nhà nghề chuyên môn bắt đầu lo dọn đất, xớt dẫy sạch sẽ bói lách cỏ dại, bày lồ lộ một vùng đất màu mỡ, với từng lớp bùn non bồi đắp sau mùa nước lụt. Công việc kế tiếp cuốc cày để vỡ đất, bộng bừa cho nhuyển thục, bang chãi làm cho mặt đất bằng phẳng. Sau cùng, đánh từng rãnh có bề rộng cở 8 tấc, cách mỗi rãnh chừa vồng thoai thoải lúp lúp, bề rộng bằng hay nhỏ hơn rãnh đôi chút cũng được. Rãnh là nơi đặt trồng hàng loạt cây thuốc, vồng là lối đi ra vào để tưới nước, chuyển tải phân tro, gánh thuốc lá cắt về nhà… và chính vồng cũng là số đất dự trử vun tém vào gốc, sau mỗi lần bón thêm phân, giữ cho gốc đượm, chịu được nắng lâu dài. Sau khi đã phân chia thành rãnh vồng, phần đất ở rãnh được cuốc xới trở lại, loại bỏ thật sạch hết rễ cỏ và xăm đập cho đất hết sức bấn mịn, thục nhuyển. Bắt đầu cắm cây tim cách khoảng 8 tấc đều nhau. Tại vị trí mỗi cây tim mố một lỗ, rộng 3 tấc và sâu 2 tấc, đổ vào đó gần đầy phân hoai, dùng phân tằm tốt nhất để có tàn thuốc trắng sau nầy. Phân và đất chung quanh miệng lỗ được trộn đều, khỏa lấp hơi hơi trũng xuống một tí, để nước tưới đọng lại phần gốc được nhiều hơn. Tới đây, đem con thuốc non mỡn xanh mượt đã chuẩn bị từ lâu, tháo bỏ bầu ra, dùng bàn tay móc đất đặt con thuốc vào chính giữa lỗ, ngay hàng thẳng lối trông thật vừa ý. Khi đặt con thuốc xuống đất, không quên vỗ nhẹ mặt đất chung quanh chân cây thuốc cho thật chặt chịa, làm như thế mới giữ gốc không chao ngã khi tưới nước và cũng để ngăn chận, phát hiện kịp thời con trùn con dế, nhụi ủi làm trốc gốc…
Thời gian một tháng đầu, người ta rất bận biệu chăm sóc cây thuốc con thường xuyên. Tưới nước sương sương vào buổi sáng sớm và chiều tối, vì cây thuốc con chưa bắt rễ, dễ chao ngã lỏng gốc chết non. Nào lo bắt sâu từ lúc sáng sớm cũng như đợi chiều tối, lúc nầy loài sâu mới xuất hiện, rọi đèn tìm kiếm cho được những con sâu ở dưới đất bò lên ăn lá hoặc cắn sả ngang thân cây, thiệt hại vô cùng. Khi cây thuốc lá nẫy nở, lớn to bằng cái bát uống nước, rà thêm bột bánh dầu xa xa chung quanh gốc, thúc giục cây thuốc phát triển nhanh, sum sê nhiều lá dày đầy nhựa bên trong. Cũng vào thời kỳ nầy, cây thuốc con hay bị chết nhót, vì lý do già phân hoặc bị côn trùng đục gốc, phải lo dặm lại những cây thuốc hư để được kín hàng trông dễ coi, bảo đảm năng suất khi thu hoạch. Đến khi nào cây thuốc có chừng mươi lá, người ta bẻ tỉa vài ba lá nằm sát gốc, mỡ lối thoáng mát thông gió cây thuốc khỏi nục, hầm hơi… Mớ thuốc lá nầy đem về rải trong nong phơi lúa hay ngay trên sân gạch phơi khô, gọi là “thuốc rải”, thuốc rải lá nhỏ và mõng chất nhựa chưa có, nên khi hút lạt nhách, dỡ là lẽ tất nhiên. Nhưng là phần ưu tiên dành cho nhà trồng thuốc, loại ngon nên hình không dám đụng tới, để dành bán được giá cao, thành thử mới có câu: “thợ rèn ăn dao lụôc” là như thế. Đến khi cây thuốc nẫy nở lớn ra to bằng miệng thúng, người ta túm gọn các lá thuốc chụm lại, dùng ghim tre xuyên thủng qua từng lá và cắm xuống đất. Dụng ý giữ cho các lá thuốc khỏi bị dập trong lúc vô thêm phân và tém vun đất vào gốc, xong việc rút cây ghim ra, trả tự do cho cây thuốc bình thường trở lại. Kể từ đây, cần tưới nước thường xuyên để chất đạm trong phân thấm ra, cây thuốc hấp thụ được sung mãn cho lá lớn và dày, chứa đầy nhựa rờ tay vào rít rịt. Mọi nổ lực dồn vào công tưới nước hàng đầu. Từng cặp nam nữ khỏe mạnh với đôi chân dẻo dai, bờ vai chai lì bền sức, mới chịu đựng lâu dài bên đôi gàu gánh đầy ngập nước vừa mới múc ở giếng cạn, chạy nhịp nhàng vào từng hàng thuốc, nghiêng miệng gàu đổ xòa tưới ướt đẩm cả một vùng mát rượi. Khi cây thuốc lên cao ngang đầu gối, bẹ lá sum sê, cây nọ giáp lá cây kia là lúc cần chần đọt cho cây thuốc “tức” nẫy nhiều nhánh con. Người ta lặt bỏ bớt mầm yếu, chỉ chừa lại vài ba mầm mạnh nhất. Những nhánh thuốc nầy là phần chính, nên nhà chuyên môn dồn hết mọi sở trường canh tác vào lúc nầy để đạt thành quả mong muốn, sau nhiều ngày công lao vất vả, khó nhọc. Phải tận dụng vào các yếu tố chính, mà cây thuốc cần hấp thụ: đạm chất của phân tro, nguồn nước tưới và ánh sáng của nắng ấm cuối xuân, chuyển sang qua hạ. Đợt thâu hoạch đầu tiên là các lá thuốc chung quanh gốc sau khi chần đọt, lá to nhất ngã màu hơi hơi sẫm vàng, nhiểu mặt và nồng nặc mùi nhựa thuốc. Toàn bộ lá thuốc dưới gốc trảy hết, gánh về nhà xâu thành từng xâu gọi là “thuốc lồng ống” đầu mùa. Sau đó vô thêm phân, rà thêm bột bánh dầu và cuốc sả hàng, bang chải hết phần đất của vồng xuống rãnh, tưới nước theo định kỳ giữ độ ẩm ướt, không để hốc khô khan, làm mất năng suất. Thuốc lá từ đây cắt về gọi là “thuốc cơi”. Thuốc cơi có nhiều loại: cơi nhất, mỗi cây thuốc cắt được 2 hoặc 3 nhánh, cơi nhì số nhánh tăng lên gấp đôi, và có khi cắt được cơi ba, số nhánh càng tăng lên hơn rất nhiều.
Thuốc lá thu hoạch về, còn cần phải qua nhiều giai đoạn biến chế. Hoặc làm thành thuốc lá xâu giữ nguyên lá, hoặc làm thành thuốc rê (thuốc xắt). Với loại thuốc xâu, thì dùng cây “lòi” được làm bằng tre chẻ nhỏ, vót trơn tròn hột xoài, chiều dài 2 thước, hai đầu mứt nhọn và dún lại chia ra làm hai. Người ta xâu thuốc lồng ống, nơi đầu cộng theo bề ngang của cuống lá, các lá thuốc được thúc sát sít gần nhau. Còn thuốc cơi, trước hết dùng con dao nhíp tiện nhánh thuốc, chẻ tánh bỏ đi một nửa để dễ xâu lại như thuốc lồng ống. Tất cả dây thuốc xâu xong, cột vào cây róng, đem gát trên giàn trong khu trại trống trải phơi hóng gió, tránh nắng làm cháy hóp, khô dòn… Khi thấy lá thuốc khô rồi, mới đem ra ngoài trời hong qua và lấy sương cho lá thuốc mềm dịu, vút sửa từng lá xòe ra thẳng nếp. Mỗi dây thuốc như thế, người ta bẻ gấp thành 4 cở dính liền với nhau và cột lại trở thành “xấp thuốc”. Người ta lấy thùng bằng gỗ, trống miệng và không đáy để nhận thuốc vào, trở đầu nhau để đầu cộng xây ra hai bên hông. Thùng thuốc đầy được ép chặt nhờ dùng sức đòn bẫy ép xuống, thành một khối dẽ dặt, gọn ghẽ vuông vứt trông rất đẹp mắt. Thuốc ép xong, còn được bao bọc bên ngoài bằng lớp giấy xi măng và mo cau, thêm nhiều tấm nẹp bằng tre, để bó lại thành bó thuốc chắt nịch nhờ hai nụt lạt bó hai đầu. Từng bó thuốc cần phơi khô thêm phần cộng ngoài trời nắng, vì trước đây phơi trong trại chưa khô thấu, sâu mọt có thể phát sinh, gây thiệt hại. Với loại thuốc rê, người ta tước bỏ phần cộng lớn của lá thuốc lúc còn tươi, sắp chồng các lá thuốc thành một xấp, cuốn cho thật chặt thành một cuộn tròn. Tất cả chất thành một đống trong nhà, ủ lại vài ba ngày cho đến khi nào thấy lá thuốc ngã qua màu vàng, mới đem ra xắt thành sợi thật nhỏ. Bàn xắt thuốc rê kết hợp bằng một tấm gỗ thật nặng, dùng làm đế. Tra dựng đứng vào đế một tấm gỗ khác, trên đó có khoét một lỗ tròn. Đặt từng cuốn thuốc qua lỗ, tay cầm cán dao thái nhấn xuống dỡ lên liên hồi nhịp nhàng, từng sợi thuốc rơi rải đều đặn, theo sự điều hòa khéo tay của người thợ, làm việc không biết mệt mõi… Thuốc sợi xắt ra, trãi canh trên tấm vĩ đan bằng tre, bưng ra phơi trực tiếp ngoài trời nắng. Rồi cũng lấy sương cho sợi thuốc dịu mềm, phân cở và bắt thành “bánh thuốc rê” hay “cây thuốc rê”, tùy theo cách gọi có khác, nhưng đều được ưa chuộng như nhau. Thuốc rê có loại giữ nguyên màu vàng nguyên thủy tự nhiên, trông cũng hấp dẫn lắm chứ. Nhưng còn có loại được tẩm cho sậm màu và thêm độ nồng thơm nhiều hơn, còn tùy thuộc vào giới tiêu thụ đặt hàng, mà nhà sản xuất thỏa mãn cho vừa lòng nhau.
Đã đề cập đến thuốc lá Quảng Nam, mà không xuyên qua đó, đi sâu vào đôi chút bản chất người nông dân của quê hương, có lẽ mất đi cơ hội. Vốn đã quá giản dị từ lối ăn mặc, thậm chí đến cách uống, lại càng thấy đơn sơ đạm bạc nhiều hơn, không ngoài nồi nước chè. Phải uống cho được bát nước chè tươi nóng hổi, hớp từng ngụm, nuốt ừng ực mới thấy đã cơn khát. Và hút thuốc, một nhu cầu không thể thiếu trong sinh hoạt hằng ngày. Kích thích tố của khói thuốc làm quên đi cơn mưa sa, gió lạnh. Tăng thêm phần hăng say làm việc không mệt mõi, nhờ có điếu thuốc giải khuây: “xưa bày nay bắt chước”, người ta thường nói với nhau như vậy đó. Thời trước trồng và hút thế nào, thì nay nối nghiệp mà làm theo, không để mai một, mất gốc. Ông bà ngày xưa hút thuốc nguyên lá, vẫn sống lâu trăm tuổi, không thấy ung thư, sưng phổi chi cả, vì trong đó không có pha chế hóa chất độc hại, như các loại thuốc cao sang của hãng nầy, hãng nọ. Nếu có ai đó, đem biếu cho người nông dân một bao thuốc và một xấp thuốc lá, lẽ dĩ nhiên xấp thuốc được người nông dân vui vẻ nhận lấy, vì cho đấy chính là cái quí của quê hương, có giá trị cao đẹp về mặt tình cảm, gắn bó với nhau thật tình nhiều hơn. Họ tìm trong đó cái say vô hại, cảm khoái theo làn hơi khói thuốc của quê hương mình, một cách tin tưởng và đầy hãnh diện. Điều đó nói lên được bản chất tự tin, cần kiệm, không xa hoa phung phí một cách vô ích. Cũng không để rơi vào ảnh hưởng xấu, gạc ra mọi chi phối thúc giục đòi hỏi đua đòi quá đáng. Không để mất bản tính tự chủ cao quí, lương tâm bẩm sinh trong trắng bị vẩn đục. Ngăn ngừa và loại trừ mọi sự cám dỗ sa đọa, để khỏi lệ thuộc vào đồng tiền, một yếu tố cần, nhưng quá đặt nặng sẽ trở thành mù quáng, hành xử cạnh tranh với nhau mất hết tình nghĩa trong cuộc sống hằng ngày. Vẫn biết rằng: “trung ngôn thì nghịch nhĩ”. Nhưng khi tranh luận thì rất thẳng thắn, phê bình trực tiếp một cách vô tư, không vị nể, bày tỏ thái độ dứt khoát để tránh hiểu lầm, khi cần góp ý xây dựng một vấn đề mắc mứu, cần phải nói ra sự thật. Trong tinh thần đó, không chủ tâm lợi dụng ai, và cũng không đời nào chịu thua để bị lợi dụng. Thương quá quê hương Quảng Nam ơi! Quê hương của Tiền Nhân giàu lòng nhân bản và tấm lòng đôn hậu, hiền hòa./-
Các cụ ngày xưa cho rằng: “Nhất gái một con – Nhì thuốc ngon nửa điếu”. Phải chăng ở đây có điểm gì đặc biệt. Gái một con đủ già giặn, khôn ngoan hơn những cô gái còn khờ dại, ham chơi chưa vào trường đời. Còn thuốc ngon nửa điếu đã đạt đến cực độ mong muốn: khoái trá, chống buồn ngủ, đỡ lạnh, khuây khỏa lạc quan yêu đời... Nửa điếu của phần cuối, chất nhựa cô đọng cho mùi thơm đượm đà, khói thuốc quyện vào nhau đậm đặc. Rít từng hơi cảm thấy đã đời, mơ màng trong mộng ảo lâng lâng, ngà ngà say. Lo được cái ăn, cái mặc và còn bận biệu nghĩ đến lạc thú ở đời cho con người, nên người nông dân Quảng Nam quê ta, chăm lo vun trồng ra cây thuốc lá, phục vụ cho chính mình hay cho mọi người, lúc nào cũng vui vẻ, thản nhiên không một chút so đo tính toán công lao khổ cực, nhọc nhằng.
Các bãi biền, dọc theo hai bên bờ dòng sông quê hương Thu Bồn là vùng đất được lựa chọn để trồng cây thuốc lá mới ngon và sản lượng thu hoạch cao. Ở đó có nhiều yếu tố như: đất tốt màu mỡ, nhờ phù sa tô bồi hằng năm, có dồi dào lượng nước tưới khi cần tới, giữ cho cây thuốc xanh tươi trong thời kỳ sung sức, đạt được sản lượng cùng chất lượng cao. Trồng ra được loại thuốc lá ngon nổi tiếng mới là điều khó, phải tận dụng hết bí quyết chuyên môn một cách rành rẽ, cộng thêm công sức thâm canh, cần mẫn mới lấy được lòng tin tưởng, yêu chuộng của giới sành điệu được lâu dài. Tuy cũng từng đó phương thức, nhưng phải công nhận thuốc lá vùng Lệ Trạch, Bến Đền là thuốc lá ngon nhất, nổi tiếng nhất không đâu bằng. Thuốc lá Cẩm Lệ được chuyển biến thành thuốc rê, rất thông dụng cho người thành phố, và còn đến tận các nơi khác, bán chạy đắt hàng.
Từ đầu mùa đông, người ta gieo hạt chuẩn bị sẵn sàng cấy “con thuốc” cho mùa sắp đến. Hạt giống tròn nhỏ li ti như hạt cải cay, đem gieo thật đều dày đặc trên phần đất vỉa hè nếu nhà nào cao lụt, hoặc trên giàn cao được đổ đất có mái che, tránh các trận mưa lớn làm dập thân cây khi còn non nớt yếu mềm. Khi thấy ngọn con thuốc đơm lên, vượt khỏi lá yếm, người ta nhổ ra để cấy vào bầu. Đó là hàng loạt bầu, khoanh bằng lá chuối sứ thành hình ống, cao hai phân và đường kính một phân rưỡi. Trong ruột mỗi bầu nhận đầy hổn hợp đất cùng phân. Đất phải lấy dưới bụi gốc tre mục mới xốp, phân dùng loại phân tằm đã ải rục, sàng lấy bột thật mịn mới đem dùng. Sắp đặt tất cả bầu sát sít trên tấm liếp trục trịch, và cấy con thuốc vào. Sau khi cấy xong, đặt một dãy liếp trên giàn cao, có mái che để tránh ngập lụt, mưa lớn làm dập ngọn non nớt, và nhất là bị mấy con cóc liếm đọt, quắn khô queo. Thường ngày tưới nước sương sương, đủ để giữ độ ấm cho cây thuốc bén rễ lần hồi, phát tiển tươi tốt mỗi ngày trông thấy rõ.
Sau ngày 23 tháng chạp âm lịch, nhắm chừng hết lụt lớn. Nhà nghề chuyên môn bắt đầu lo dọn đất, xớt dẫy sạch sẽ bói lách cỏ dại, bày lồ lộ một vùng đất màu mỡ, với từng lớp bùn non bồi đắp sau mùa nước lụt. Công việc kế tiếp cuốc cày để vỡ đất, bộng bừa cho nhuyển thục, bang chãi làm cho mặt đất bằng phẳng. Sau cùng, đánh từng rãnh có bề rộng cở 8 tấc, cách mỗi rãnh chừa vồng thoai thoải lúp lúp, bề rộng bằng hay nhỏ hơn rãnh đôi chút cũng được. Rãnh là nơi đặt trồng hàng loạt cây thuốc, vồng là lối đi ra vào để tưới nước, chuyển tải phân tro, gánh thuốc lá cắt về nhà… và chính vồng cũng là số đất dự trử vun tém vào gốc, sau mỗi lần bón thêm phân, giữ cho gốc đượm, chịu được nắng lâu dài. Sau khi đã phân chia thành rãnh vồng, phần đất ở rãnh được cuốc xới trở lại, loại bỏ thật sạch hết rễ cỏ và xăm đập cho đất hết sức bấn mịn, thục nhuyển. Bắt đầu cắm cây tim cách khoảng 8 tấc đều nhau. Tại vị trí mỗi cây tim mố một lỗ, rộng 3 tấc và sâu 2 tấc, đổ vào đó gần đầy phân hoai, dùng phân tằm tốt nhất để có tàn thuốc trắng sau nầy. Phân và đất chung quanh miệng lỗ được trộn đều, khỏa lấp hơi hơi trũng xuống một tí, để nước tưới đọng lại phần gốc được nhiều hơn. Tới đây, đem con thuốc non mỡn xanh mượt đã chuẩn bị từ lâu, tháo bỏ bầu ra, dùng bàn tay móc đất đặt con thuốc vào chính giữa lỗ, ngay hàng thẳng lối trông thật vừa ý. Khi đặt con thuốc xuống đất, không quên vỗ nhẹ mặt đất chung quanh chân cây thuốc cho thật chặt chịa, làm như thế mới giữ gốc không chao ngã khi tưới nước và cũng để ngăn chận, phát hiện kịp thời con trùn con dế, nhụi ủi làm trốc gốc…
Thời gian một tháng đầu, người ta rất bận biệu chăm sóc cây thuốc con thường xuyên. Tưới nước sương sương vào buổi sáng sớm và chiều tối, vì cây thuốc con chưa bắt rễ, dễ chao ngã lỏng gốc chết non. Nào lo bắt sâu từ lúc sáng sớm cũng như đợi chiều tối, lúc nầy loài sâu mới xuất hiện, rọi đèn tìm kiếm cho được những con sâu ở dưới đất bò lên ăn lá hoặc cắn sả ngang thân cây, thiệt hại vô cùng. Khi cây thuốc lá nẫy nở, lớn to bằng cái bát uống nước, rà thêm bột bánh dầu xa xa chung quanh gốc, thúc giục cây thuốc phát triển nhanh, sum sê nhiều lá dày đầy nhựa bên trong. Cũng vào thời kỳ nầy, cây thuốc con hay bị chết nhót, vì lý do già phân hoặc bị côn trùng đục gốc, phải lo dặm lại những cây thuốc hư để được kín hàng trông dễ coi, bảo đảm năng suất khi thu hoạch. Đến khi nào cây thuốc có chừng mươi lá, người ta bẻ tỉa vài ba lá nằm sát gốc, mỡ lối thoáng mát thông gió cây thuốc khỏi nục, hầm hơi… Mớ thuốc lá nầy đem về rải trong nong phơi lúa hay ngay trên sân gạch phơi khô, gọi là “thuốc rải”, thuốc rải lá nhỏ và mõng chất nhựa chưa có, nên khi hút lạt nhách, dỡ là lẽ tất nhiên. Nhưng là phần ưu tiên dành cho nhà trồng thuốc, loại ngon nên hình không dám đụng tới, để dành bán được giá cao, thành thử mới có câu: “thợ rèn ăn dao lụôc” là như thế. Đến khi cây thuốc nẫy nở lớn ra to bằng miệng thúng, người ta túm gọn các lá thuốc chụm lại, dùng ghim tre xuyên thủng qua từng lá và cắm xuống đất. Dụng ý giữ cho các lá thuốc khỏi bị dập trong lúc vô thêm phân và tém vun đất vào gốc, xong việc rút cây ghim ra, trả tự do cho cây thuốc bình thường trở lại. Kể từ đây, cần tưới nước thường xuyên để chất đạm trong phân thấm ra, cây thuốc hấp thụ được sung mãn cho lá lớn và dày, chứa đầy nhựa rờ tay vào rít rịt. Mọi nổ lực dồn vào công tưới nước hàng đầu. Từng cặp nam nữ khỏe mạnh với đôi chân dẻo dai, bờ vai chai lì bền sức, mới chịu đựng lâu dài bên đôi gàu gánh đầy ngập nước vừa mới múc ở giếng cạn, chạy nhịp nhàng vào từng hàng thuốc, nghiêng miệng gàu đổ xòa tưới ướt đẩm cả một vùng mát rượi. Khi cây thuốc lên cao ngang đầu gối, bẹ lá sum sê, cây nọ giáp lá cây kia là lúc cần chần đọt cho cây thuốc “tức” nẫy nhiều nhánh con. Người ta lặt bỏ bớt mầm yếu, chỉ chừa lại vài ba mầm mạnh nhất. Những nhánh thuốc nầy là phần chính, nên nhà chuyên môn dồn hết mọi sở trường canh tác vào lúc nầy để đạt thành quả mong muốn, sau nhiều ngày công lao vất vả, khó nhọc. Phải tận dụng vào các yếu tố chính, mà cây thuốc cần hấp thụ: đạm chất của phân tro, nguồn nước tưới và ánh sáng của nắng ấm cuối xuân, chuyển sang qua hạ. Đợt thâu hoạch đầu tiên là các lá thuốc chung quanh gốc sau khi chần đọt, lá to nhất ngã màu hơi hơi sẫm vàng, nhiểu mặt và nồng nặc mùi nhựa thuốc. Toàn bộ lá thuốc dưới gốc trảy hết, gánh về nhà xâu thành từng xâu gọi là “thuốc lồng ống” đầu mùa. Sau đó vô thêm phân, rà thêm bột bánh dầu và cuốc sả hàng, bang chải hết phần đất của vồng xuống rãnh, tưới nước theo định kỳ giữ độ ẩm ướt, không để hốc khô khan, làm mất năng suất. Thuốc lá từ đây cắt về gọi là “thuốc cơi”. Thuốc cơi có nhiều loại: cơi nhất, mỗi cây thuốc cắt được 2 hoặc 3 nhánh, cơi nhì số nhánh tăng lên gấp đôi, và có khi cắt được cơi ba, số nhánh càng tăng lên hơn rất nhiều.
Thuốc lá thu hoạch về, còn cần phải qua nhiều giai đoạn biến chế. Hoặc làm thành thuốc lá xâu giữ nguyên lá, hoặc làm thành thuốc rê (thuốc xắt). Với loại thuốc xâu, thì dùng cây “lòi” được làm bằng tre chẻ nhỏ, vót trơn tròn hột xoài, chiều dài 2 thước, hai đầu mứt nhọn và dún lại chia ra làm hai. Người ta xâu thuốc lồng ống, nơi đầu cộng theo bề ngang của cuống lá, các lá thuốc được thúc sát sít gần nhau. Còn thuốc cơi, trước hết dùng con dao nhíp tiện nhánh thuốc, chẻ tánh bỏ đi một nửa để dễ xâu lại như thuốc lồng ống. Tất cả dây thuốc xâu xong, cột vào cây róng, đem gát trên giàn trong khu trại trống trải phơi hóng gió, tránh nắng làm cháy hóp, khô dòn… Khi thấy lá thuốc khô rồi, mới đem ra ngoài trời hong qua và lấy sương cho lá thuốc mềm dịu, vút sửa từng lá xòe ra thẳng nếp. Mỗi dây thuốc như thế, người ta bẻ gấp thành 4 cở dính liền với nhau và cột lại trở thành “xấp thuốc”. Người ta lấy thùng bằng gỗ, trống miệng và không đáy để nhận thuốc vào, trở đầu nhau để đầu cộng xây ra hai bên hông. Thùng thuốc đầy được ép chặt nhờ dùng sức đòn bẫy ép xuống, thành một khối dẽ dặt, gọn ghẽ vuông vứt trông rất đẹp mắt. Thuốc ép xong, còn được bao bọc bên ngoài bằng lớp giấy xi măng và mo cau, thêm nhiều tấm nẹp bằng tre, để bó lại thành bó thuốc chắt nịch nhờ hai nụt lạt bó hai đầu. Từng bó thuốc cần phơi khô thêm phần cộng ngoài trời nắng, vì trước đây phơi trong trại chưa khô thấu, sâu mọt có thể phát sinh, gây thiệt hại. Với loại thuốc rê, người ta tước bỏ phần cộng lớn của lá thuốc lúc còn tươi, sắp chồng các lá thuốc thành một xấp, cuốn cho thật chặt thành một cuộn tròn. Tất cả chất thành một đống trong nhà, ủ lại vài ba ngày cho đến khi nào thấy lá thuốc ngã qua màu vàng, mới đem ra xắt thành sợi thật nhỏ. Bàn xắt thuốc rê kết hợp bằng một tấm gỗ thật nặng, dùng làm đế. Tra dựng đứng vào đế một tấm gỗ khác, trên đó có khoét một lỗ tròn. Đặt từng cuốn thuốc qua lỗ, tay cầm cán dao thái nhấn xuống dỡ lên liên hồi nhịp nhàng, từng sợi thuốc rơi rải đều đặn, theo sự điều hòa khéo tay của người thợ, làm việc không biết mệt mõi… Thuốc sợi xắt ra, trãi canh trên tấm vĩ đan bằng tre, bưng ra phơi trực tiếp ngoài trời nắng. Rồi cũng lấy sương cho sợi thuốc dịu mềm, phân cở và bắt thành “bánh thuốc rê” hay “cây thuốc rê”, tùy theo cách gọi có khác, nhưng đều được ưa chuộng như nhau. Thuốc rê có loại giữ nguyên màu vàng nguyên thủy tự nhiên, trông cũng hấp dẫn lắm chứ. Nhưng còn có loại được tẩm cho sậm màu và thêm độ nồng thơm nhiều hơn, còn tùy thuộc vào giới tiêu thụ đặt hàng, mà nhà sản xuất thỏa mãn cho vừa lòng nhau.
Đã đề cập đến thuốc lá Quảng Nam, mà không xuyên qua đó, đi sâu vào đôi chút bản chất người nông dân của quê hương, có lẽ mất đi cơ hội. Vốn đã quá giản dị từ lối ăn mặc, thậm chí đến cách uống, lại càng thấy đơn sơ đạm bạc nhiều hơn, không ngoài nồi nước chè. Phải uống cho được bát nước chè tươi nóng hổi, hớp từng ngụm, nuốt ừng ực mới thấy đã cơn khát. Và hút thuốc, một nhu cầu không thể thiếu trong sinh hoạt hằng ngày. Kích thích tố của khói thuốc làm quên đi cơn mưa sa, gió lạnh. Tăng thêm phần hăng say làm việc không mệt mõi, nhờ có điếu thuốc giải khuây: “xưa bày nay bắt chước”, người ta thường nói với nhau như vậy đó. Thời trước trồng và hút thế nào, thì nay nối nghiệp mà làm theo, không để mai một, mất gốc. Ông bà ngày xưa hút thuốc nguyên lá, vẫn sống lâu trăm tuổi, không thấy ung thư, sưng phổi chi cả, vì trong đó không có pha chế hóa chất độc hại, như các loại thuốc cao sang của hãng nầy, hãng nọ. Nếu có ai đó, đem biếu cho người nông dân một bao thuốc và một xấp thuốc lá, lẽ dĩ nhiên xấp thuốc được người nông dân vui vẻ nhận lấy, vì cho đấy chính là cái quí của quê hương, có giá trị cao đẹp về mặt tình cảm, gắn bó với nhau thật tình nhiều hơn. Họ tìm trong đó cái say vô hại, cảm khoái theo làn hơi khói thuốc của quê hương mình, một cách tin tưởng và đầy hãnh diện. Điều đó nói lên được bản chất tự tin, cần kiệm, không xa hoa phung phí một cách vô ích. Cũng không để rơi vào ảnh hưởng xấu, gạc ra mọi chi phối thúc giục đòi hỏi đua đòi quá đáng. Không để mất bản tính tự chủ cao quí, lương tâm bẩm sinh trong trắng bị vẩn đục. Ngăn ngừa và loại trừ mọi sự cám dỗ sa đọa, để khỏi lệ thuộc vào đồng tiền, một yếu tố cần, nhưng quá đặt nặng sẽ trở thành mù quáng, hành xử cạnh tranh với nhau mất hết tình nghĩa trong cuộc sống hằng ngày. Vẫn biết rằng: “trung ngôn thì nghịch nhĩ”. Nhưng khi tranh luận thì rất thẳng thắn, phê bình trực tiếp một cách vô tư, không vị nể, bày tỏ thái độ dứt khoát để tránh hiểu lầm, khi cần góp ý xây dựng một vấn đề mắc mứu, cần phải nói ra sự thật. Trong tinh thần đó, không chủ tâm lợi dụng ai, và cũng không đời nào chịu thua để bị lợi dụng. Thương quá quê hương Quảng Nam ơi! Quê hương của Tiền Nhân giàu lòng nhân bản và tấm lòng đôn hậu, hiền hòa./-
14. Con Chim Mía &Táng Đường Quê Hương
Ông bà ta thường nói: “Lúa thóc ở đâu – Bồ câu theo đó”.
Quả thực vậy, ở đâu có đồng lúa chín vàng, tức thì thấy xuất hiện từng bầy chim bay lượn khắp đó đây. Đó là loài chim du thực, sinh con đẻ cháu thì ở tận núi xanh mà sinh sống kiếm ăn lại xuống miền đồng nội, trong những vụ mùa lúa chín. Người nông dân đặt tên cho chúng nó là con chim gì đây?
Đất Gò Nổi được tạo hóa ưu đải, tạo dựng thành vùng đất phù sa màu mỡ. Đồng lúa và ruộng mía được người nông dân gieo trồng khắp mọi nơi. Ruộng điền thì cấy lúa, ruộng thổ thì trồng mía để nấu đường và cũng là nơi nương tựa của từng bầy chim mía ngủ đêm, kiếm ăn. Hai loại nông sản nầy san sát bên nhau, được trải dài khắp vùng, từ cực tây Tư Phú đến cực đông An Trường. Bởi vậy, mỗi khi nhớ đến con chim mía, tôi không bao giờ quên táng đường của quê hương. Hai món đặc sản nầy luôn luôn đi đôi với nhau, như trái mít non và con cá chuồn vậy:
“Ai về nhắn với bạn nguồn,
mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên”.
Vùng Gò Nổi quê tôi có gì hấp dẫn bà con nông dân ở đây? Đó phải chăng là nơi chôn nhau cắt rốn, được nối liền tình nghĩa họ hàng, xóm làng qua bao nhiêu thế hệ. Sự dứt bỏ ra đi khỏi quê hương, đất tổ quê cha là một niềm đau xót, rây rức trong lòng của mọi người nông dân ở đây. Nguyện vọng thô thiển và mộc mạc của họ là được sống và chết trên mãnh đất của quê hương. Họ không quản ngại gian nan khổ cực, giải nắng giầm sương quanh năm suốt tháng, chăm lo vun trồng cho đồng lúa tươi tốt, chín vàng nặng hạt và đồng mía bao la, cây mập lóng dài.
Thời xưa, trong một năm người ta chỉ làm hai mùa lúa chính, mà giống lúa lại dài hạn, đến sáu tháng mới chín vàng, no tròn hạt thóc nặng triểu. Mùa lúa cấy thì gặt vào tháng ba và lúa gieo gặt vào tháng mười âm lịch. Nhờ trời mưa thuận gió hòa, mùa gặt tháng ba thu hoạch có phần khấm khá. Trái lại, mùa tháng mười thường hay thất thu, vì thời tiết thất thường, mưa to lụt lớn: “Ông tha mà bà chẳng tha, không qua lụt hai mươi ba tháng mười”. Ngoài khó khăn trở ngại về thời tiết, người nông dân còn phải lo đối phó với nạn sâu rầy, ăn vàng lá lúa lúc đương thời non mạ và với lũ chuột đồng cắn sả hàng loạt cây lúa mới bắt đầu trổ lòng đòng. Đến khi thấy đồng lúa chín vàng, tưởng chừng đâu lúa thóc sắp sửa vô bồ, lại thấy xuất hiện lũ chim ác nghiệt, từng bầy hàng ngàn, hàng vạn con men theo dòng sông từ miền rừng núi bay về miền đồng nội, để tha hồ ăn hại phá hoại mùa màng. Đám ruộng lúa nào không may gặp bầy chim hạ sà xuống, chỉ một thời gian ngắn thôi, cũng đủ tiêu điều. Chúng nó vừa ăn vội vàng, vừa kêu ríu ra, ríu rít om sòm cả một vùng trời. Người nông dân cũng không chịu thua những con chim tinh ma nầy. Cánh đồng lúa chín vàng, vang vọng đó đây tiếng khua đuổi: quơ quờ quợ… Cứ bị đuổi chỗ nầy, chúng lại bay sang chỗ khác. Vì thế, để giúp sức cho con người, hàng loạt con bù nhìn mới có cơ hội xuất mặt, lộ diện. Bù nhìn bằng rơm, mang tơi rách, đội nón cời, tay cầm roi a dua xua đuổi những con chim ranh mảnh, khi được giựt dây…
Ban ngày bị bao vây xua đuổi thường xuyên, không lẽ những chú chim nầy chịu bay vòng vòng trên bầu trời được mãi hay sao? Ruộng mía bây giờ là sào huyệt, nơi đậu dừng chân nghỉ cánh của bọn chúng. Hơn nửa trong thời gian ngắn lưu lại kiếm ăn, ban tối ruộng mía cũng là vùng đất tạm dung, ngủ đêm mà thôi, chứ không phải là nơi sinh sống vĩnh viển của chúng nó. Cũng vì thế, người ta áp đặt cho chúng nó cái tên: “con chim mía”. Chim mía thuộc loại nhỏ con, cũng giống như chim ổ già, se sẻ, dồng dộc, chim ri, chim sâu… Chim mía không bao giờ thấy làm tổ miền đồng bằng. Con trống, con mái rất khó phân biệt, màu lông xam xám, rằn lác đác, mõ nhọn, chân mãnh, mình thon và yếu ớt.
Ngoài cách xua đuổi, người ta còn tìm cách nầy hay cách nọ để bắt cho được chúng nó, giảm đi một phần thiệt hại đáng kể. Thổi ống đồng cũng là một cách. Trong những đêm trời mưa bảo, người ta mang theo đèn pin, ống đồng và những hạt đạn tròn nho nhỏ được nặn bằng đất sét rất cứng, vì có trộn chút ít muối sống đem phơi khô. Những con chim ngủ trên ngọn cây mía, co ro vì mưa bảo là mồi ngon, lần lượt rơi rớt lộp độp. Lối bắt chim mía theo kiểu thổi ống đồng chỉ có tính cách tiêu khiển mua vui. Đại qui mô hơn là rập chim mía. Cứ vào những buổi chiều chập choạng tối, người đi rập chim mía chuyên môn, dò xem tụ điểm của bầy chim ở đâu, gió thổi về hướng nào để nương theo chiều gió, tránh ít khua động làm đàn chim hoảng sợ. Nắm được yếu điểm, kết quả rập rất mỹ mãn, không đời nào để lưới trống rỗng bao giờ. Tấm lưới rập chim mía được đan bằng sợi gai (lá cây gai làm bánh ít lá gai, rất ngon) bề ngang có khi trên mười mét, bề đứng cũng không dưới năm mét, lỗ lưới rất nhỏ chim không thể chui lọt và bên dưới còn có bụng rốn, dồn chim lại khi mắt bẫy. Móc vào mỗi cạnh bên của tấm lưới bằng hai cây sào tre đực, trở thành bộ lưới rập chim mía. Người ta chọn vào những đêm tối trời, có mưa to gió lớn là thời điểm thuận lợi nhất để đi rập chim mía. Họ chia nhau: một số người lo căng tay lưới tại vị trí đã chọn sẵn ở đầu ngọn gió, còn lại một số người khác nương theo chiều gió thổi, len lỏi lội vào các đám mía lân cận san sát liền nhau, khua đuổi nhè nhẹ cho bầy chim di chuyển dần dà đến chỗ bày tay lưới chực sẵn. Tài nghệ là đừng bao giờ làm: NỔ, có nghĩa là làm cho bầy chim hoảng sợ, cất cánh bay cao. Khi đã đến đích cuối cùng, chỉ cần đồng loạt la thật to: Quợ, quợ, quợ… Cả bầy chim vừa cất cánh bay ra, đồng thời bẫy lưới đánh sập xuống, tóm gọn cả bầy, tha hồ mà bắt cho thật đầy giỏ.
Công việc bắt được những con chim mía, nghĩ cũng nhất cử mà lưỡng tiện. Thứ nhất, tiêu diệt một phần không phải là ít loài chim ăn hại, phá hoại thật nhiều. Thứ hai, những con chim mía cũng khá béo mập, xương mềm, đem um dầu mà lai rai trong những ngày mưa lạnh ở nông thôn cũng khá thú vị. Hấp dẫn hơn nữa, khi những con chim mía lọt ra thị thành, vào tận các nhà hàng sang trọng, biến chế thành món nhậu chim mía rô ti, chim mía chiên dòn trong bụng có độn thêm hạt đậu phụng rang, trưng bày trên dĩa xà lách, kèm thêm cà chua, hành tây xắt mõng thì thật là ngon tuyệt. Hết mùa lúa chín, người ta không còn thấy những bầy chim mía lai vãng đó đây. Một phần còn sót lại, chúng rủ nhau bay ngược trở lại nguồn, để rồi tiếp tục đẻ trứng, nuôi con và chờ đến mùa lúa chín sang năm sẽ trở lại.
Nói về con chim mía xong rồi, đến đây thiết tưởng cũng nên đề cập đến ruộng mía có liên quan đến đời sống người nông dân, chân lấm tay bùn. Ngoài nông sản chính lúa thóc, nông sản phụ đường mía cũng là nhu yếu phẩm đámg kể, giúp cho đời sống người nông dân sung túc hơn. Vì thế, đất để trồng mía được chọn lựa kỷ lưỡng hơn đất trồng bắp, khoai lang, đậu mè…
Giống mía trồng để nấu đường thường được gọi là mía ta, thân cây mọc thẳng, cao độ ba mét trở lại, màu da cây mía tím đà hay vàng sậm, lóng dài, vỏ mõng và thân cây chứa bọng nước ngọt lịm. Các loại mía mưng, thân cây thường lớn hơn mía ta, cũng đủ màu da, người ta thường trồng trong vườn để ăn chơi vì ít nước và nhặt lóng. Vào khoảng tháng giêng, tháng hai âm lịch là mùa trồng mía tốt nhất, khí hậu mát mẻ, đất khô ráo, ngọn mía trồng mau nẫy mầm. Ruộng thổ được cày lên và phơi nắng một thời gian cho đất ải, bở xốp… sau đó đem trâu bộng, bừa cho đất nhỏ cục và sạch cỏ dại. Tiếp theo rải phân tro dồi dào trước khi bắt đầu trồng ngọn mía. Con trâu đi trước rọc hàng, những người đi sau chỉ việc cắm ngọn mía giống xuống đất, cứ hai hàng cày thì cắm một hàng mía. Đặt ngọn mía nằm ngang, phần đầu hơi chếch lên trời một tí, để khi nẫy mầm không lộn ngược. Hàng cày đi sau sẽ lấp đất phủ kín ngọn mía vừa mới cắm xuống. Một con trâu rọc hàng cũng phải mất đi từ bốn đến năm người phụ, mới kịp đặt trồng ngọn mía. Thời gian sau, khi cây mía mọc lên cao khỏi đầu gối, bắt đầu làm cỏ và vun tém đất vào từng gốc buội mía, một hai lần và từ đó bỏ thẳng cho đến ngày thu hoạch, lau phát mía. Ruộng mía trồng lần đầu, thời gian đến một năm gọi là mía tơ. Mía tơ thân cây mượt, nước nhiều, đường nấu được thanh dịu và tinh khiết. Ruộng mía sau khi lau phát lần đầu, giữ gốc cũ cày bừa vô phân trở lại gọi là mía gốc. Mía gốc lấy đường không được tốt như lứa mía tơ, nhưng đở tốn kém công sức như lần chuẩn bị trồng mía tơ nhiều hơn.
Mùa lau phát mía gốc vào tháng mười một hay tháng chạp ta, còn loại mía tơ phải đợi đến tháng hai hay tháng ba âm lịch, trong tiết thanh minh đồng loạt rập ràng dựng chòi đạp mía, nấu đường. Mùa lau mía ở nhà quê thật là vui nhộn nhịp. Tại đám mía, từng toán trai tráng tay cầm dao bầu, đua nhau phơ hết tận gốc những cây mía đầy nước ngọt lịm, sẵn sàng chuẩn bị từng bó để có người phụ trách, gánh về chòi đạp. Trên đường về, chuyên chở tới tấp những gánh mía nặng triểu kẽo kẹt trên vai bác nông phu, từng xe rác lá mía khô kéo về choáng hết lối đi của người đi bộ. Khách gần xa ghé vào đám mía, xin một vài cây để ăn giải khát là thường tình, người dân quê sống có tình cảm lắm chứ! Của ngày mùa mà. Bọn con nít nhiều khi làm biếng, ưa ăn của sẵn, vào chòi đạp để xin ăn cho gần, ăn quen xin tới xin lui, nên có khi bị từ chối sinh ra bất mãng, trù rủa vô cớ, bọn chúng có biết đâu của một đồng, công một lượng đó mà:
“Tau xin cây mía không cho,
Tau về tau vái ông lò bà lè,
Sụp chão đổ chè, trâu què che gãy.
Bà con bay, lên núi hốt dòi về mà ăn”.
Thế mà, có ai lại ghét bỏ bọn trẻ con bao giờ đâu! Mía không cho, lại cho uống nước chè hai, đường chắt, đường cầu mới thật là lạ chứ! Chỉ vì trẻ con bao giờ cũng được thương.
Làng nào thấy có ruộng mía, nơi đó có dựng chòi đạp mía, nấu đường. Chòi đạp mía được cất dựng thô sơ. Đó là cái chòi vòm hình tròn, sườn bằng tre lợp tranh che mưa nắng tạm thời. Nơi đây đặt một bộ che gồm hai khối hình trụ bằng gỗ lim thật nặng, đường kính khoảng năm tấc, chiều cao một thước rưởi. Ông bà che quây ngược chiều với nhau, nhờ bộ răng ăn khớp ở phần bên trên. Giữ cho bộ che đứng vững nhờ bộ giàn: trên đè, dưới giữ. Phần bộng bên dưới có đường khe dẫn nước mía chảy ra. Con trâu mang ách đi vòng quanh làm cho bộ che quây tròn thường xuyên, đều đều, tiếng kêu kẽo kẹt, rộn rã… Người chụm che lần lượt đưa vào bộ che, từng hai cây mía xuyên qua bàn lùa để tránh nguy hiểm. Những cây mía được ép qua che, hai ba lần mới thải ra ngoài, trở thành bã mía cùng với rác lá mía dùng để đun lò nấu đường. Lò nấu đường cũng được đào ngay bên cạnh chòi đạp mía cho tiện. Lò đào sâu xuống đất một thước, gồm có hai phần: phía trước là cửa lò, sâu xuống rộng rãi để dễ đưa từng bó rác lá mía vào đốt nấu. Phần sau là phần đặt ba chiếc chảo bằng gang cở to nhất, hai chiếc đặt ở phía trước gần cửa lò và chiếc còn lại đặt gần lỗ lù.
Thoạt đầu, nước mía ép được đem đổ đầy vào ba chiếc chảo trên lò, cho vào đó một ít vôi bột để gạn lọc chất dơ bẩn và đường được thanh nước. Khi nước mía vừa sôi, dùng gáo bằng nửa trái bầu khô, múc ra chứa vào thùng lóng đóng bằng gỗ thật to. Nước mía lúc nầy gọi là nước chè hai, uống ngon và mát lắm. Sau khi lọc sạch chất dơ bẩn, nước chè hai vợi múc qua chảo trở lại, để tiếp tục nấu thành đường. Ba chảo nước chè hai, nấu một thời gian cao lại còn hai chảo và cuối cùng còn lại một chảo. Lúc nầy người thợ nấu đường phải vợi đều tay liên hồi, không thì nước đường dễ trào ra ngoài. Khi chảo đường đến độ sa cánh dơi mà ném vào đó một xâu khoai lang củ nhỏ, cho nó thấm đường teo lại, ăn ngon khỏi phải chê, hay thả vào cái bánh tráng nướng, vớt lẹ ra ngon cũng không kém. Đường sa cánh dơi đem đổ vào cái bẹ chuối túm hai đầu gọi là đường xối, đổ vào cái bát uống nước, trên lớp mặt rải hạt mè rang gọi là đường non. Bát đường non làm quà tặng chỗ thân tình, ngày đầu mùa tình nghĩa.
Nghề nấu đường ở quê tôi, bao gồm các loại đường: đường hạ (đường nước) hay đường cát (đường trong mún rút mật) và thông dụng nhất là đường táng, một thứ đường thật là quen thuộc với mọi người dân xứ Quảng, không một ai mà không có nhiều lần ăn qua, thưởng thức mùi vị ngọt đậm đà, ngon và bổ của loại đường thổ sản, địa phương của mình. Muốn có được những táng đường, dụng cụ rất giản tiện: Một cái thùng rót đóng bằng gỗ cây mít, niềng bằng những dây tre chẻ nhỏ và bện lại với nhau, thùng còn có thanh ngang dùng để bưng khi rót đường vào chén, qua cái phểu trổ trên miệng thùng. Một bộ chén bằng đất, loại có thể nói xấu nhất và trẹt lét, đó là bộ khuông để rót đường táng. Bộ chén nầy được sắp thành bốn hàng dọc ngay ngắn trên một tấm ván. Trước khi rót đường vào chén, người ta không quên dùng cây cộng chuối, chấm nước muối thoa vào bên trong thành chén để dễ gỡ ra khi đường đã nguội.
Khi chảo đường tới nước, người thợ múc hết đường đổ vào thùng rót. Đợi một thời gian ngắn cho đường vừa hơi nguội, dùng chày bằng gỗ quậy từ từ, nhè nhẹ cho đường đông đặc sánh lại thành cát, mới bắt đầu rót vào từng chén đã sắp đặt sẵn sàng. Khi đi qua hết một lượt, người ta không quên đi trở lại, rót mỗi chén thêm một tí đường để mặt táng đường nhô phồng lên, nứt rạng mới có mỹ thuật. Có điều cũng kỳ lạ, táng đường được rót ra từ những cái chén trẹt lét mà tên gọi là “bát đường”, chứ không ai gọi chén đường bao giờ. Đường rót xong, chờ cho nguội cứng lại, cầm lên xoay nhẹ một cái lấy ra táng đường. Cứ hai bát đường úp mặt lại với nhau gọi là một cặp, đem quấn rơm khô bao quanh. Tất cả chất vào đôi bầu đan bằng tre của bạn hàng ngồi chờ chực sẵn, gánh đi rao bán khắp mọi nơi: chợ búa, xóm làng…
Đường táng là một món ăn rất thông dụng ở nhà quê, cầm một táng đường vừa lọt trong lòng bàn tay, đập mạnh một cái nghe cái “cụp” vào cây cột nhà, táng đường bể thành những miếng nhỏ, đem cục đường ăn với miếng bánh tráng nướng, miếng gừng tươi hay với khóm mít vừa mới hái ngoài vườn, cũng đở dạ, ngon miệng. Hay đem đường táng cạo thành bột dùng ăn đậu hủ cũng đậm đà, hoặc trộn vào bột nếp, bột đậu xanh rang mà in thành bánh in cũng được việc. Ở thôn quê, món cháo ngọt nấu bằng đậu đen và nếp mà không dùng đường táng thì chưa đúng điệu. Đường táng còn dùng để đổ bánh tổ mùi vị mới thanh dịu, hợp gu. Bánh tổ mà dùng loại đường cát trắng, coi bộ chỉ đẹp bên ngoài, chứ tranh cái cốt cách chất lượng bên trong, thì thua xa đường táng là cái chắc.
Ngày nay hồi tưởng lại, tôi nhớ quê hương qua con chim mía và táng đường. Một đặc sản của quê hương Quảng Nam độc đáo đã ăn sâu vào tiềm thức, mãi mãi không bao giờ phai mờ. Tuy vậy, con “chim mía” cũng không lấy gì làm hấp dẫn cho mấy, khi chúng nó chỉ là một món ăn đơn thuần. Trái lại hình ảnh chúng nó là những con chim có tổ, có nguồn để trở về - điều đó mới đáng nhớ. Còn “táng đường” của quê hương luôn luôn khiêm nhượng, mãi mãi vẫn giữ được phẩm chất nguyên thủy của nó: đậm đà, chắc nuội mà bất cứ người nào cũng đều ưa chuộng. Và nhất là anh em bạn tù, không phân biệt Bắc Trung Nam cũng đều khen ngon - ngọt đủ đô.-
Đoàn Ngọc Nam
Quả thực vậy, ở đâu có đồng lúa chín vàng, tức thì thấy xuất hiện từng bầy chim bay lượn khắp đó đây. Đó là loài chim du thực, sinh con đẻ cháu thì ở tận núi xanh mà sinh sống kiếm ăn lại xuống miền đồng nội, trong những vụ mùa lúa chín. Người nông dân đặt tên cho chúng nó là con chim gì đây?
Đất Gò Nổi được tạo hóa ưu đải, tạo dựng thành vùng đất phù sa màu mỡ. Đồng lúa và ruộng mía được người nông dân gieo trồng khắp mọi nơi. Ruộng điền thì cấy lúa, ruộng thổ thì trồng mía để nấu đường và cũng là nơi nương tựa của từng bầy chim mía ngủ đêm, kiếm ăn. Hai loại nông sản nầy san sát bên nhau, được trải dài khắp vùng, từ cực tây Tư Phú đến cực đông An Trường. Bởi vậy, mỗi khi nhớ đến con chim mía, tôi không bao giờ quên táng đường của quê hương. Hai món đặc sản nầy luôn luôn đi đôi với nhau, như trái mít non và con cá chuồn vậy:
“Ai về nhắn với bạn nguồn,
mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên”.
Vùng Gò Nổi quê tôi có gì hấp dẫn bà con nông dân ở đây? Đó phải chăng là nơi chôn nhau cắt rốn, được nối liền tình nghĩa họ hàng, xóm làng qua bao nhiêu thế hệ. Sự dứt bỏ ra đi khỏi quê hương, đất tổ quê cha là một niềm đau xót, rây rức trong lòng của mọi người nông dân ở đây. Nguyện vọng thô thiển và mộc mạc của họ là được sống và chết trên mãnh đất của quê hương. Họ không quản ngại gian nan khổ cực, giải nắng giầm sương quanh năm suốt tháng, chăm lo vun trồng cho đồng lúa tươi tốt, chín vàng nặng hạt và đồng mía bao la, cây mập lóng dài.
Thời xưa, trong một năm người ta chỉ làm hai mùa lúa chính, mà giống lúa lại dài hạn, đến sáu tháng mới chín vàng, no tròn hạt thóc nặng triểu. Mùa lúa cấy thì gặt vào tháng ba và lúa gieo gặt vào tháng mười âm lịch. Nhờ trời mưa thuận gió hòa, mùa gặt tháng ba thu hoạch có phần khấm khá. Trái lại, mùa tháng mười thường hay thất thu, vì thời tiết thất thường, mưa to lụt lớn: “Ông tha mà bà chẳng tha, không qua lụt hai mươi ba tháng mười”. Ngoài khó khăn trở ngại về thời tiết, người nông dân còn phải lo đối phó với nạn sâu rầy, ăn vàng lá lúa lúc đương thời non mạ và với lũ chuột đồng cắn sả hàng loạt cây lúa mới bắt đầu trổ lòng đòng. Đến khi thấy đồng lúa chín vàng, tưởng chừng đâu lúa thóc sắp sửa vô bồ, lại thấy xuất hiện lũ chim ác nghiệt, từng bầy hàng ngàn, hàng vạn con men theo dòng sông từ miền rừng núi bay về miền đồng nội, để tha hồ ăn hại phá hoại mùa màng. Đám ruộng lúa nào không may gặp bầy chim hạ sà xuống, chỉ một thời gian ngắn thôi, cũng đủ tiêu điều. Chúng nó vừa ăn vội vàng, vừa kêu ríu ra, ríu rít om sòm cả một vùng trời. Người nông dân cũng không chịu thua những con chim tinh ma nầy. Cánh đồng lúa chín vàng, vang vọng đó đây tiếng khua đuổi: quơ quờ quợ… Cứ bị đuổi chỗ nầy, chúng lại bay sang chỗ khác. Vì thế, để giúp sức cho con người, hàng loạt con bù nhìn mới có cơ hội xuất mặt, lộ diện. Bù nhìn bằng rơm, mang tơi rách, đội nón cời, tay cầm roi a dua xua đuổi những con chim ranh mảnh, khi được giựt dây…
Ban ngày bị bao vây xua đuổi thường xuyên, không lẽ những chú chim nầy chịu bay vòng vòng trên bầu trời được mãi hay sao? Ruộng mía bây giờ là sào huyệt, nơi đậu dừng chân nghỉ cánh của bọn chúng. Hơn nửa trong thời gian ngắn lưu lại kiếm ăn, ban tối ruộng mía cũng là vùng đất tạm dung, ngủ đêm mà thôi, chứ không phải là nơi sinh sống vĩnh viển của chúng nó. Cũng vì thế, người ta áp đặt cho chúng nó cái tên: “con chim mía”. Chim mía thuộc loại nhỏ con, cũng giống như chim ổ già, se sẻ, dồng dộc, chim ri, chim sâu… Chim mía không bao giờ thấy làm tổ miền đồng bằng. Con trống, con mái rất khó phân biệt, màu lông xam xám, rằn lác đác, mõ nhọn, chân mãnh, mình thon và yếu ớt.
Ngoài cách xua đuổi, người ta còn tìm cách nầy hay cách nọ để bắt cho được chúng nó, giảm đi một phần thiệt hại đáng kể. Thổi ống đồng cũng là một cách. Trong những đêm trời mưa bảo, người ta mang theo đèn pin, ống đồng và những hạt đạn tròn nho nhỏ được nặn bằng đất sét rất cứng, vì có trộn chút ít muối sống đem phơi khô. Những con chim ngủ trên ngọn cây mía, co ro vì mưa bảo là mồi ngon, lần lượt rơi rớt lộp độp. Lối bắt chim mía theo kiểu thổi ống đồng chỉ có tính cách tiêu khiển mua vui. Đại qui mô hơn là rập chim mía. Cứ vào những buổi chiều chập choạng tối, người đi rập chim mía chuyên môn, dò xem tụ điểm của bầy chim ở đâu, gió thổi về hướng nào để nương theo chiều gió, tránh ít khua động làm đàn chim hoảng sợ. Nắm được yếu điểm, kết quả rập rất mỹ mãn, không đời nào để lưới trống rỗng bao giờ. Tấm lưới rập chim mía được đan bằng sợi gai (lá cây gai làm bánh ít lá gai, rất ngon) bề ngang có khi trên mười mét, bề đứng cũng không dưới năm mét, lỗ lưới rất nhỏ chim không thể chui lọt và bên dưới còn có bụng rốn, dồn chim lại khi mắt bẫy. Móc vào mỗi cạnh bên của tấm lưới bằng hai cây sào tre đực, trở thành bộ lưới rập chim mía. Người ta chọn vào những đêm tối trời, có mưa to gió lớn là thời điểm thuận lợi nhất để đi rập chim mía. Họ chia nhau: một số người lo căng tay lưới tại vị trí đã chọn sẵn ở đầu ngọn gió, còn lại một số người khác nương theo chiều gió thổi, len lỏi lội vào các đám mía lân cận san sát liền nhau, khua đuổi nhè nhẹ cho bầy chim di chuyển dần dà đến chỗ bày tay lưới chực sẵn. Tài nghệ là đừng bao giờ làm: NỔ, có nghĩa là làm cho bầy chim hoảng sợ, cất cánh bay cao. Khi đã đến đích cuối cùng, chỉ cần đồng loạt la thật to: Quợ, quợ, quợ… Cả bầy chim vừa cất cánh bay ra, đồng thời bẫy lưới đánh sập xuống, tóm gọn cả bầy, tha hồ mà bắt cho thật đầy giỏ.
Công việc bắt được những con chim mía, nghĩ cũng nhất cử mà lưỡng tiện. Thứ nhất, tiêu diệt một phần không phải là ít loài chim ăn hại, phá hoại thật nhiều. Thứ hai, những con chim mía cũng khá béo mập, xương mềm, đem um dầu mà lai rai trong những ngày mưa lạnh ở nông thôn cũng khá thú vị. Hấp dẫn hơn nữa, khi những con chim mía lọt ra thị thành, vào tận các nhà hàng sang trọng, biến chế thành món nhậu chim mía rô ti, chim mía chiên dòn trong bụng có độn thêm hạt đậu phụng rang, trưng bày trên dĩa xà lách, kèm thêm cà chua, hành tây xắt mõng thì thật là ngon tuyệt. Hết mùa lúa chín, người ta không còn thấy những bầy chim mía lai vãng đó đây. Một phần còn sót lại, chúng rủ nhau bay ngược trở lại nguồn, để rồi tiếp tục đẻ trứng, nuôi con và chờ đến mùa lúa chín sang năm sẽ trở lại.
Nói về con chim mía xong rồi, đến đây thiết tưởng cũng nên đề cập đến ruộng mía có liên quan đến đời sống người nông dân, chân lấm tay bùn. Ngoài nông sản chính lúa thóc, nông sản phụ đường mía cũng là nhu yếu phẩm đámg kể, giúp cho đời sống người nông dân sung túc hơn. Vì thế, đất để trồng mía được chọn lựa kỷ lưỡng hơn đất trồng bắp, khoai lang, đậu mè…
Giống mía trồng để nấu đường thường được gọi là mía ta, thân cây mọc thẳng, cao độ ba mét trở lại, màu da cây mía tím đà hay vàng sậm, lóng dài, vỏ mõng và thân cây chứa bọng nước ngọt lịm. Các loại mía mưng, thân cây thường lớn hơn mía ta, cũng đủ màu da, người ta thường trồng trong vườn để ăn chơi vì ít nước và nhặt lóng. Vào khoảng tháng giêng, tháng hai âm lịch là mùa trồng mía tốt nhất, khí hậu mát mẻ, đất khô ráo, ngọn mía trồng mau nẫy mầm. Ruộng thổ được cày lên và phơi nắng một thời gian cho đất ải, bở xốp… sau đó đem trâu bộng, bừa cho đất nhỏ cục và sạch cỏ dại. Tiếp theo rải phân tro dồi dào trước khi bắt đầu trồng ngọn mía. Con trâu đi trước rọc hàng, những người đi sau chỉ việc cắm ngọn mía giống xuống đất, cứ hai hàng cày thì cắm một hàng mía. Đặt ngọn mía nằm ngang, phần đầu hơi chếch lên trời một tí, để khi nẫy mầm không lộn ngược. Hàng cày đi sau sẽ lấp đất phủ kín ngọn mía vừa mới cắm xuống. Một con trâu rọc hàng cũng phải mất đi từ bốn đến năm người phụ, mới kịp đặt trồng ngọn mía. Thời gian sau, khi cây mía mọc lên cao khỏi đầu gối, bắt đầu làm cỏ và vun tém đất vào từng gốc buội mía, một hai lần và từ đó bỏ thẳng cho đến ngày thu hoạch, lau phát mía. Ruộng mía trồng lần đầu, thời gian đến một năm gọi là mía tơ. Mía tơ thân cây mượt, nước nhiều, đường nấu được thanh dịu và tinh khiết. Ruộng mía sau khi lau phát lần đầu, giữ gốc cũ cày bừa vô phân trở lại gọi là mía gốc. Mía gốc lấy đường không được tốt như lứa mía tơ, nhưng đở tốn kém công sức như lần chuẩn bị trồng mía tơ nhiều hơn.
Mùa lau phát mía gốc vào tháng mười một hay tháng chạp ta, còn loại mía tơ phải đợi đến tháng hai hay tháng ba âm lịch, trong tiết thanh minh đồng loạt rập ràng dựng chòi đạp mía, nấu đường. Mùa lau mía ở nhà quê thật là vui nhộn nhịp. Tại đám mía, từng toán trai tráng tay cầm dao bầu, đua nhau phơ hết tận gốc những cây mía đầy nước ngọt lịm, sẵn sàng chuẩn bị từng bó để có người phụ trách, gánh về chòi đạp. Trên đường về, chuyên chở tới tấp những gánh mía nặng triểu kẽo kẹt trên vai bác nông phu, từng xe rác lá mía khô kéo về choáng hết lối đi của người đi bộ. Khách gần xa ghé vào đám mía, xin một vài cây để ăn giải khát là thường tình, người dân quê sống có tình cảm lắm chứ! Của ngày mùa mà. Bọn con nít nhiều khi làm biếng, ưa ăn của sẵn, vào chòi đạp để xin ăn cho gần, ăn quen xin tới xin lui, nên có khi bị từ chối sinh ra bất mãng, trù rủa vô cớ, bọn chúng có biết đâu của một đồng, công một lượng đó mà:
“Tau xin cây mía không cho,
Tau về tau vái ông lò bà lè,
Sụp chão đổ chè, trâu què che gãy.
Bà con bay, lên núi hốt dòi về mà ăn”.
Thế mà, có ai lại ghét bỏ bọn trẻ con bao giờ đâu! Mía không cho, lại cho uống nước chè hai, đường chắt, đường cầu mới thật là lạ chứ! Chỉ vì trẻ con bao giờ cũng được thương.
Làng nào thấy có ruộng mía, nơi đó có dựng chòi đạp mía, nấu đường. Chòi đạp mía được cất dựng thô sơ. Đó là cái chòi vòm hình tròn, sườn bằng tre lợp tranh che mưa nắng tạm thời. Nơi đây đặt một bộ che gồm hai khối hình trụ bằng gỗ lim thật nặng, đường kính khoảng năm tấc, chiều cao một thước rưởi. Ông bà che quây ngược chiều với nhau, nhờ bộ răng ăn khớp ở phần bên trên. Giữ cho bộ che đứng vững nhờ bộ giàn: trên đè, dưới giữ. Phần bộng bên dưới có đường khe dẫn nước mía chảy ra. Con trâu mang ách đi vòng quanh làm cho bộ che quây tròn thường xuyên, đều đều, tiếng kêu kẽo kẹt, rộn rã… Người chụm che lần lượt đưa vào bộ che, từng hai cây mía xuyên qua bàn lùa để tránh nguy hiểm. Những cây mía được ép qua che, hai ba lần mới thải ra ngoài, trở thành bã mía cùng với rác lá mía dùng để đun lò nấu đường. Lò nấu đường cũng được đào ngay bên cạnh chòi đạp mía cho tiện. Lò đào sâu xuống đất một thước, gồm có hai phần: phía trước là cửa lò, sâu xuống rộng rãi để dễ đưa từng bó rác lá mía vào đốt nấu. Phần sau là phần đặt ba chiếc chảo bằng gang cở to nhất, hai chiếc đặt ở phía trước gần cửa lò và chiếc còn lại đặt gần lỗ lù.
Thoạt đầu, nước mía ép được đem đổ đầy vào ba chiếc chảo trên lò, cho vào đó một ít vôi bột để gạn lọc chất dơ bẩn và đường được thanh nước. Khi nước mía vừa sôi, dùng gáo bằng nửa trái bầu khô, múc ra chứa vào thùng lóng đóng bằng gỗ thật to. Nước mía lúc nầy gọi là nước chè hai, uống ngon và mát lắm. Sau khi lọc sạch chất dơ bẩn, nước chè hai vợi múc qua chảo trở lại, để tiếp tục nấu thành đường. Ba chảo nước chè hai, nấu một thời gian cao lại còn hai chảo và cuối cùng còn lại một chảo. Lúc nầy người thợ nấu đường phải vợi đều tay liên hồi, không thì nước đường dễ trào ra ngoài. Khi chảo đường đến độ sa cánh dơi mà ném vào đó một xâu khoai lang củ nhỏ, cho nó thấm đường teo lại, ăn ngon khỏi phải chê, hay thả vào cái bánh tráng nướng, vớt lẹ ra ngon cũng không kém. Đường sa cánh dơi đem đổ vào cái bẹ chuối túm hai đầu gọi là đường xối, đổ vào cái bát uống nước, trên lớp mặt rải hạt mè rang gọi là đường non. Bát đường non làm quà tặng chỗ thân tình, ngày đầu mùa tình nghĩa.
Nghề nấu đường ở quê tôi, bao gồm các loại đường: đường hạ (đường nước) hay đường cát (đường trong mún rút mật) và thông dụng nhất là đường táng, một thứ đường thật là quen thuộc với mọi người dân xứ Quảng, không một ai mà không có nhiều lần ăn qua, thưởng thức mùi vị ngọt đậm đà, ngon và bổ của loại đường thổ sản, địa phương của mình. Muốn có được những táng đường, dụng cụ rất giản tiện: Một cái thùng rót đóng bằng gỗ cây mít, niềng bằng những dây tre chẻ nhỏ và bện lại với nhau, thùng còn có thanh ngang dùng để bưng khi rót đường vào chén, qua cái phểu trổ trên miệng thùng. Một bộ chén bằng đất, loại có thể nói xấu nhất và trẹt lét, đó là bộ khuông để rót đường táng. Bộ chén nầy được sắp thành bốn hàng dọc ngay ngắn trên một tấm ván. Trước khi rót đường vào chén, người ta không quên dùng cây cộng chuối, chấm nước muối thoa vào bên trong thành chén để dễ gỡ ra khi đường đã nguội.
Khi chảo đường tới nước, người thợ múc hết đường đổ vào thùng rót. Đợi một thời gian ngắn cho đường vừa hơi nguội, dùng chày bằng gỗ quậy từ từ, nhè nhẹ cho đường đông đặc sánh lại thành cát, mới bắt đầu rót vào từng chén đã sắp đặt sẵn sàng. Khi đi qua hết một lượt, người ta không quên đi trở lại, rót mỗi chén thêm một tí đường để mặt táng đường nhô phồng lên, nứt rạng mới có mỹ thuật. Có điều cũng kỳ lạ, táng đường được rót ra từ những cái chén trẹt lét mà tên gọi là “bát đường”, chứ không ai gọi chén đường bao giờ. Đường rót xong, chờ cho nguội cứng lại, cầm lên xoay nhẹ một cái lấy ra táng đường. Cứ hai bát đường úp mặt lại với nhau gọi là một cặp, đem quấn rơm khô bao quanh. Tất cả chất vào đôi bầu đan bằng tre của bạn hàng ngồi chờ chực sẵn, gánh đi rao bán khắp mọi nơi: chợ búa, xóm làng…
Đường táng là một món ăn rất thông dụng ở nhà quê, cầm một táng đường vừa lọt trong lòng bàn tay, đập mạnh một cái nghe cái “cụp” vào cây cột nhà, táng đường bể thành những miếng nhỏ, đem cục đường ăn với miếng bánh tráng nướng, miếng gừng tươi hay với khóm mít vừa mới hái ngoài vườn, cũng đở dạ, ngon miệng. Hay đem đường táng cạo thành bột dùng ăn đậu hủ cũng đậm đà, hoặc trộn vào bột nếp, bột đậu xanh rang mà in thành bánh in cũng được việc. Ở thôn quê, món cháo ngọt nấu bằng đậu đen và nếp mà không dùng đường táng thì chưa đúng điệu. Đường táng còn dùng để đổ bánh tổ mùi vị mới thanh dịu, hợp gu. Bánh tổ mà dùng loại đường cát trắng, coi bộ chỉ đẹp bên ngoài, chứ tranh cái cốt cách chất lượng bên trong, thì thua xa đường táng là cái chắc.
Ngày nay hồi tưởng lại, tôi nhớ quê hương qua con chim mía và táng đường. Một đặc sản của quê hương Quảng Nam độc đáo đã ăn sâu vào tiềm thức, mãi mãi không bao giờ phai mờ. Tuy vậy, con “chim mía” cũng không lấy gì làm hấp dẫn cho mấy, khi chúng nó chỉ là một món ăn đơn thuần. Trái lại hình ảnh chúng nó là những con chim có tổ, có nguồn để trở về - điều đó mới đáng nhớ. Còn “táng đường” của quê hương luôn luôn khiêm nhượng, mãi mãi vẫn giữ được phẩm chất nguyên thủy của nó: đậm đà, chắc nuội mà bất cứ người nào cũng đều ưa chuộng. Và nhất là anh em bạn tù, không phân biệt Bắc Trung Nam cũng đều khen ngon - ngọt đủ đô.-
Đoàn Ngọc Nam
13. Lò Vôi Cẩm Hà
Quảng Nam quê ta, thời tiết chuyển biến theo từng mùa rất dễ phân biệt. Hai mùa mưa nắng gây ảnh hưởng đến đời sống con người không phải ít. Mùa đông thì mưa tầm tả đến mấy tháng liền, mưa chi đến nổi người nông dân phải gọi mưa thúi đất, không làm ăn được chi cả. Rồi mùa hạ đến nắng chang chang, oi bức rất khó chịu, thậm chí đặt lưng nằm lên phảng gỗ ngủ trưa cũng không yên, nóng ngảy nhót. Người ta nói: “Nắng tháng tám, nám trái bưởi” đó mà. Đồng lõa với cái khắc nghiệt đó, ngọn gió hướng tây được gọi là gió nôm, thổi từ Lào qua mang theo hơi nóng hăng hắt, thiêu đốt đồng lúa, cỏ cây cháy rụi, khô queo. Không như ngọn gió nờm (nồm) thổi từ biển Cửa Đại lên rất mát mẻ, dễ chịu vô cùng. Thế mà đối với những kẻ yêu nhau, dù cho thời tiết có thế nào đi nữa cũng không quan tâm, coi như không có việc gì xãy ra, mượn cớ ngọn gió nói gần, nói xa để ướm thử lòng nhau:
“Gió nôm thổi xuống lò vôi,
Ai đồn Ta (với) Bạn xứng đôi vợ chồng.”
Thế thì, lò vôi được nhắc đến ở đâu? Tại sao lại thổi xuống lò vôi, không phải lò gạch, lò gốm... Phải chăng ở đây muốn nhắc đến Sự Tích Trầu Cau, mà trong đó có yếu tố vôi không thể thiếu, để kết hợp giữa trầu, cau và vôi thành màu đỏ thắm thiết mặn nồng, tình nghĩa keo sơn vợ chồng. Nơi đây chính thị là Lò Vôi Cẩm Hà, nằm cách Hội An khoảng chừng ba cây số về hướng tây, trên đường đi lên Vĩnh Điện, gặp quốc lộ số 1. Nhớ lại thời còn đi học Trường Trần Quí Cáp Hội An, bọn học trò chúng tôi mỗi lần đạp xe ngang qua lò vôi, không làm sao tránh khỏi từng ngụm khói đen nghịt, ngun ngút phun ra, cháy khét lẹt, làm sặc sụa nghẹt thở không sao chịu nổi. Chung quanh vùng nầy tập trung nhiều lò vôi tư gia, lò nầy cách lò kia không xa lắm, nằm rải rác hai bên đường tỉnh lộ. Từ đó người ta có thể kêu vói nói chuyện tầm phào với nhau, hát hò đối đáp hoặc trổ tài ra câu đối để giải đáp hữu lý, hợp tình, tạo nên tình hàng xóm láng giềng vui vẻ làm ăn, quên đi công việc khó khăn mệt nhọc. Nghề nghiệp riêng rẻ từng gia đình, đàn bà trẻ con thường lãnh nhiệm vụ phụ giúp thổi bệ, đốt lò. Công việc của họ được các bà nhớ đến rất nhiều mỗi lần têm vôi ăn trầu và những nhà khá giả xây được nhà ngói khang trang, đẹp đẽ biết nguồn vôi do đâu mà có.
Quan sát hình thức một lò vôi thấy thật quá đơn sơ. Trơ trọi một chòi tranh thấp lè tè, che mưa nắng một ụ đất nằm chình ình ngay chính giữa, gọi là lò hầm vôi và được xây bằng gạch chưa nung với đất sét thật dẽo, tạo thành một khối đặc có đường kính 3 mét và chiều cao 5 phân. Mặt bằng bên trên lõm xuống, trũng lòng chão, nơi đây chứa vun lum lúp một đống vật liệu gồm có vỏ hến và than củi trộn vào vừa đủ số lượng làm vật xúc tác cho sự cháy bùng. Bên cạnh lò trang bị một quạt gió, đạp bằng chân thổi từng luồng dưỡng khí qua ống dẫn hơi vào trung tâm của lò, nhờ đó sự đốt cháy nung nóng được liên tục. Đến khi nào ngọn lửa không còn thấy cháy bốc lên, người ta mới ngưng hầm đốt. Bây giờ chất sừng bên ngoài vỏ hến hoàn toàn tiêu hủy, để lộ ra mô xốp trắng ngần, đụng vào dễ bể nát, đó là vôi được hầm xong. Chờ cho lò nguội lạnh, người ta mới tách riêng phần vôi trắng tinh, mướt mịn ra, đem sú nước dùng để ăn trầu. Phần còn lại xấu hơn dùng vào việc quét tường, xây bờ xông nhà cửa, hàng rào... Công việc xem qua chỉ giản dị như thế. Nhưng vật liệu tích trử, vun thành từng đống cao có ngọn ngoài trời, trông thấy không khỏi kinh ngạc. Đó là một công trình chuẩn bị lâu dài, gom góp cho đủ số lượng dễ gì một sớm, một chiều có ngay được. Thời xưa chưa có xi măng, chỉ có dùng vôi để xây nhà cửa, tường rào, thành quách mà cũng vững vàng, bền chắt. Trước khi đem ra dùng, cần có một thời gian ủ rộng khá lâu để cho vôi khô nở đều, sau đó kêu trai tráng đến nhà giã vôi ngày đêm liên miên mới dùng được. Cảnh trai tráng hát hò khoan vui nhộn hòa nhịp với tiếng chày nện xuống, nhấc lên làm vui lây hàng xóm lân cận quá chừng. Hồ xây muốn được chắt chắn hơn, người ta còn gia thêm nước mật hoặc nước nhựa cây bời lời, trước khi trộn cát vào để có vửa hồ hoàn hảo. Nhắc đến cây bời lời, không thế nào quên một thời niên thiếu với thú chơi bắn súng trãy, đạn hạt bời lời, mà ở quê mình mới có thú vui tự tạo do vật dụng có sẵn trong thiên nhiên mà làm nên.
Nghĩ lại ông bà ta ngày xưa đã có nhiều óc sáng tạo, từ ích lợi nầy nãy sinh hữu dụng khác. Ý định khởi đầu cào hến ăn ruột, rồi từ đó tận dụng vỏ hầm ra vôi, một nhu cầu thiết thực đem lại nơi ăn, chốn ở cho con người thoải mái nhiều hơn. Đặc hải sản hến được phần đông mọi người ưa thích, từ miền đồng quê cho đến thành thị. Tuy rằng không phải món cao lương mỹ vị, nhưng có mùi vị đậm đà hương đồng cỏ nội. Nhắc đến là thấy nhớ quê hương, nhớ rõ ràng từng khúc sông, bên lở bên bồi. Mà bên bồi mới là nơi loài hến sinh sản nhiều nhất. Không biết con hến sinh sản qua ngã nào? Trứng hay là con, chưa từng thấy hến con trong bụng mẹ như loài ốc, mà cũng chả thấy trứng rời, trứng chùm bao giờ. Thế mà vô số kể, cào xúc mãi vẫn có để mà bắt. Ở nhà quê, vào mùa nước cạn chỉ cần mang theo cái rổ são và chiếc mũng rái là đủ đồ nghề rồi. Cứ việc lặn xuống nước, cào xúc phần lớp mặt có cả hến trong cát cho thật đầy rổ rồi nâng lên khỏi mặt nước đồng thời lắc são, gạn lọc lấy một mớ hến vàng hùm, thấy bắt ham. Từ con lớn hết cở to bằng hạt đậu ngự, cho đến con nhỏ xíu như hạt đậu đen cũng không tha. Đem hến về nhà, chà xát cọ rửa thật sạch sẽ, chờ cho nồi nước sôi bùng lên, bỏ vào tí muối, đổ mớ hến vào và đậy nắp vung lại. Khi nào thấy nước sôi trở lại, dùng đôi đủa bếp đánh đều cho hến hả miệng, tróc vỏ. Đổ hến ra rổ, hứng lấy nước cốt màu đục ngầu, sanh sánh, vị ngọt tự nhiên rất ngon miệng. Đải lấy phần ruột và ướp hành tiêu nước mắm, chuẩn bị cho từng món ăn tùy theo sở thích của từng người. Món ruột hến xào, xúc bánh tráng nướng lai rai trong khi chờ đợi ăn bửa cháo hến nóng, nấu bằng gạo lúa mới đầu mùa thật ngon tuyệt. Thông dụng và thực tế hơn, không có nồi canh nào ngon, ý vị hơn nồi canh hến nấu với lá rau bùi ngọt, rau muống xắt nhỏ và chang vào chút nước mắm có dằm trái ớt tươi chìa vôi. Món canh tuy đơn sơ, nhưng đầy đủ đạm chất, ăn vào mát dạ, dễ tiêu vô hại.
Cũng nhờ làng Kim Bồng có nghề cào hến với dụng cụ qui mô hơn, mà người Phố Hội mới được ăn hến quanh năm và làng Cẩm Hà mua được nhiều vỏ hến để làm nghề hầm vôi. Người ta tích trử thật tài tình, ngay cả trong những ngày mưa sa, bão táp lụt lội vẫn thấy gánh hến rao bán khắp mọi ngã đường. Buổi sáng ăn khoai lang Tiên Đỏa với hến nước thành thói quen, đã ngon miệng mà còn rẻ tiền và trong bửa cơm thường ngày, không có bát canh hến đặt cạnh tô mắm xổi dưa cà, thấy còn thiếu cái gì đó hương vị Hội An.
Như chúng ta đã biết, khi hầm vôi người ta dùng đến than củi gọi là than hoa. Nguồn than ở đây do người miền rừng núi cung cấp. Ai có vào rừng sâu mới tường tận, thấy đích thực cuộc đời vất vả, nhọc nhằn, khổ cực của người tiều phu đi đốt than. Hành trang mang theo không ngoài đôi giỏ gánh than cũ kỷ, cái rựa mòn khuyết theo với thời gian năm tháng và mo cơm nguội để dành ăn lót dạ. Chiều tối mờ mịt trở về với gánh than nặng tiểu trên vai không cân xứng với tấm thân ốm yếu gầy còm, áo quần tả tơi rách rưới, mặt mũi lọ lem nhơ nhớp.
Sau cuộc đổi đời năm 75, hình ảnh bề ngoài người tù cải tạo, bắt buộc đi lao động đốt than đem về chạy máy nước, thổi bệ lò rèn cũng giống y chan người tiều phu đốt than không hơn, không kém. Suy ngẫm lại khúc hát Mẹ ru năm xưa, không khỏi ngậm ngùi, xót thương cho thân phận kẻ thất thế, sa cơ:
“Chim Quyên xuống đất ăn trùn,
Anh Hùng lỡ vận lên nguồn đốt than.”
(Ghi thêm: Chim quyên là loại chim chỉ ăn trái chín cây, không bao giờ ăn loại côn trùng như: dế, cào cào, châu chấu, sâu bọ… và nhất là đời nào lại ăn con trùn sống nơi bùn lầy dơ bẩn. Bởi vậy, chúng ta lại còn có câu hát ru con nữa, ấm áp tình nghĩa vợ chồng, ăn đời ở kiếp với nhau: “Chim quyên ăn trái nhãn lồng; Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.”)
ĐOÀN NGỌC NAM
“Gió nôm thổi xuống lò vôi,
Ai đồn Ta (với) Bạn xứng đôi vợ chồng.”
Thế thì, lò vôi được nhắc đến ở đâu? Tại sao lại thổi xuống lò vôi, không phải lò gạch, lò gốm... Phải chăng ở đây muốn nhắc đến Sự Tích Trầu Cau, mà trong đó có yếu tố vôi không thể thiếu, để kết hợp giữa trầu, cau và vôi thành màu đỏ thắm thiết mặn nồng, tình nghĩa keo sơn vợ chồng. Nơi đây chính thị là Lò Vôi Cẩm Hà, nằm cách Hội An khoảng chừng ba cây số về hướng tây, trên đường đi lên Vĩnh Điện, gặp quốc lộ số 1. Nhớ lại thời còn đi học Trường Trần Quí Cáp Hội An, bọn học trò chúng tôi mỗi lần đạp xe ngang qua lò vôi, không làm sao tránh khỏi từng ngụm khói đen nghịt, ngun ngút phun ra, cháy khét lẹt, làm sặc sụa nghẹt thở không sao chịu nổi. Chung quanh vùng nầy tập trung nhiều lò vôi tư gia, lò nầy cách lò kia không xa lắm, nằm rải rác hai bên đường tỉnh lộ. Từ đó người ta có thể kêu vói nói chuyện tầm phào với nhau, hát hò đối đáp hoặc trổ tài ra câu đối để giải đáp hữu lý, hợp tình, tạo nên tình hàng xóm láng giềng vui vẻ làm ăn, quên đi công việc khó khăn mệt nhọc. Nghề nghiệp riêng rẻ từng gia đình, đàn bà trẻ con thường lãnh nhiệm vụ phụ giúp thổi bệ, đốt lò. Công việc của họ được các bà nhớ đến rất nhiều mỗi lần têm vôi ăn trầu và những nhà khá giả xây được nhà ngói khang trang, đẹp đẽ biết nguồn vôi do đâu mà có.
Quan sát hình thức một lò vôi thấy thật quá đơn sơ. Trơ trọi một chòi tranh thấp lè tè, che mưa nắng một ụ đất nằm chình ình ngay chính giữa, gọi là lò hầm vôi và được xây bằng gạch chưa nung với đất sét thật dẽo, tạo thành một khối đặc có đường kính 3 mét và chiều cao 5 phân. Mặt bằng bên trên lõm xuống, trũng lòng chão, nơi đây chứa vun lum lúp một đống vật liệu gồm có vỏ hến và than củi trộn vào vừa đủ số lượng làm vật xúc tác cho sự cháy bùng. Bên cạnh lò trang bị một quạt gió, đạp bằng chân thổi từng luồng dưỡng khí qua ống dẫn hơi vào trung tâm của lò, nhờ đó sự đốt cháy nung nóng được liên tục. Đến khi nào ngọn lửa không còn thấy cháy bốc lên, người ta mới ngưng hầm đốt. Bây giờ chất sừng bên ngoài vỏ hến hoàn toàn tiêu hủy, để lộ ra mô xốp trắng ngần, đụng vào dễ bể nát, đó là vôi được hầm xong. Chờ cho lò nguội lạnh, người ta mới tách riêng phần vôi trắng tinh, mướt mịn ra, đem sú nước dùng để ăn trầu. Phần còn lại xấu hơn dùng vào việc quét tường, xây bờ xông nhà cửa, hàng rào... Công việc xem qua chỉ giản dị như thế. Nhưng vật liệu tích trử, vun thành từng đống cao có ngọn ngoài trời, trông thấy không khỏi kinh ngạc. Đó là một công trình chuẩn bị lâu dài, gom góp cho đủ số lượng dễ gì một sớm, một chiều có ngay được. Thời xưa chưa có xi măng, chỉ có dùng vôi để xây nhà cửa, tường rào, thành quách mà cũng vững vàng, bền chắt. Trước khi đem ra dùng, cần có một thời gian ủ rộng khá lâu để cho vôi khô nở đều, sau đó kêu trai tráng đến nhà giã vôi ngày đêm liên miên mới dùng được. Cảnh trai tráng hát hò khoan vui nhộn hòa nhịp với tiếng chày nện xuống, nhấc lên làm vui lây hàng xóm lân cận quá chừng. Hồ xây muốn được chắt chắn hơn, người ta còn gia thêm nước mật hoặc nước nhựa cây bời lời, trước khi trộn cát vào để có vửa hồ hoàn hảo. Nhắc đến cây bời lời, không thế nào quên một thời niên thiếu với thú chơi bắn súng trãy, đạn hạt bời lời, mà ở quê mình mới có thú vui tự tạo do vật dụng có sẵn trong thiên nhiên mà làm nên.
Nghĩ lại ông bà ta ngày xưa đã có nhiều óc sáng tạo, từ ích lợi nầy nãy sinh hữu dụng khác. Ý định khởi đầu cào hến ăn ruột, rồi từ đó tận dụng vỏ hầm ra vôi, một nhu cầu thiết thực đem lại nơi ăn, chốn ở cho con người thoải mái nhiều hơn. Đặc hải sản hến được phần đông mọi người ưa thích, từ miền đồng quê cho đến thành thị. Tuy rằng không phải món cao lương mỹ vị, nhưng có mùi vị đậm đà hương đồng cỏ nội. Nhắc đến là thấy nhớ quê hương, nhớ rõ ràng từng khúc sông, bên lở bên bồi. Mà bên bồi mới là nơi loài hến sinh sản nhiều nhất. Không biết con hến sinh sản qua ngã nào? Trứng hay là con, chưa từng thấy hến con trong bụng mẹ như loài ốc, mà cũng chả thấy trứng rời, trứng chùm bao giờ. Thế mà vô số kể, cào xúc mãi vẫn có để mà bắt. Ở nhà quê, vào mùa nước cạn chỉ cần mang theo cái rổ são và chiếc mũng rái là đủ đồ nghề rồi. Cứ việc lặn xuống nước, cào xúc phần lớp mặt có cả hến trong cát cho thật đầy rổ rồi nâng lên khỏi mặt nước đồng thời lắc são, gạn lọc lấy một mớ hến vàng hùm, thấy bắt ham. Từ con lớn hết cở to bằng hạt đậu ngự, cho đến con nhỏ xíu như hạt đậu đen cũng không tha. Đem hến về nhà, chà xát cọ rửa thật sạch sẽ, chờ cho nồi nước sôi bùng lên, bỏ vào tí muối, đổ mớ hến vào và đậy nắp vung lại. Khi nào thấy nước sôi trở lại, dùng đôi đủa bếp đánh đều cho hến hả miệng, tróc vỏ. Đổ hến ra rổ, hứng lấy nước cốt màu đục ngầu, sanh sánh, vị ngọt tự nhiên rất ngon miệng. Đải lấy phần ruột và ướp hành tiêu nước mắm, chuẩn bị cho từng món ăn tùy theo sở thích của từng người. Món ruột hến xào, xúc bánh tráng nướng lai rai trong khi chờ đợi ăn bửa cháo hến nóng, nấu bằng gạo lúa mới đầu mùa thật ngon tuyệt. Thông dụng và thực tế hơn, không có nồi canh nào ngon, ý vị hơn nồi canh hến nấu với lá rau bùi ngọt, rau muống xắt nhỏ và chang vào chút nước mắm có dằm trái ớt tươi chìa vôi. Món canh tuy đơn sơ, nhưng đầy đủ đạm chất, ăn vào mát dạ, dễ tiêu vô hại.
Cũng nhờ làng Kim Bồng có nghề cào hến với dụng cụ qui mô hơn, mà người Phố Hội mới được ăn hến quanh năm và làng Cẩm Hà mua được nhiều vỏ hến để làm nghề hầm vôi. Người ta tích trử thật tài tình, ngay cả trong những ngày mưa sa, bão táp lụt lội vẫn thấy gánh hến rao bán khắp mọi ngã đường. Buổi sáng ăn khoai lang Tiên Đỏa với hến nước thành thói quen, đã ngon miệng mà còn rẻ tiền và trong bửa cơm thường ngày, không có bát canh hến đặt cạnh tô mắm xổi dưa cà, thấy còn thiếu cái gì đó hương vị Hội An.
Như chúng ta đã biết, khi hầm vôi người ta dùng đến than củi gọi là than hoa. Nguồn than ở đây do người miền rừng núi cung cấp. Ai có vào rừng sâu mới tường tận, thấy đích thực cuộc đời vất vả, nhọc nhằn, khổ cực của người tiều phu đi đốt than. Hành trang mang theo không ngoài đôi giỏ gánh than cũ kỷ, cái rựa mòn khuyết theo với thời gian năm tháng và mo cơm nguội để dành ăn lót dạ. Chiều tối mờ mịt trở về với gánh than nặng tiểu trên vai không cân xứng với tấm thân ốm yếu gầy còm, áo quần tả tơi rách rưới, mặt mũi lọ lem nhơ nhớp.
Sau cuộc đổi đời năm 75, hình ảnh bề ngoài người tù cải tạo, bắt buộc đi lao động đốt than đem về chạy máy nước, thổi bệ lò rèn cũng giống y chan người tiều phu đốt than không hơn, không kém. Suy ngẫm lại khúc hát Mẹ ru năm xưa, không khỏi ngậm ngùi, xót thương cho thân phận kẻ thất thế, sa cơ:
“Chim Quyên xuống đất ăn trùn,
Anh Hùng lỡ vận lên nguồn đốt than.”
(Ghi thêm: Chim quyên là loại chim chỉ ăn trái chín cây, không bao giờ ăn loại côn trùng như: dế, cào cào, châu chấu, sâu bọ… và nhất là đời nào lại ăn con trùn sống nơi bùn lầy dơ bẩn. Bởi vậy, chúng ta lại còn có câu hát ru con nữa, ấm áp tình nghĩa vợ chồng, ăn đời ở kiếp với nhau: “Chim quyên ăn trái nhãn lồng; Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.”)
ĐOÀN NGỌC NAM
12. chiếc xe máy cũ
Vào thời điểm quân phát xít Nhật đầu hàng phe Đồng Minh, nên thực dân Pháp có cơ hội trở lại đất nước Ta. Việt Minh lợi dụng tinh thần yêu nước của toàn dân, cướp lấy chính quyền, phát động chiến dịch vườn không nhà trống, “tiêu thổ kháng chiến”. Gia đình tôi cũng như bao nhiêu gia đình khác, phải di tản lên miền rừng núi để lánh nạn. Năm đó, tôi mới lên năm, theo cha mẹ cùng các chị em chạy lánh giặc lẩn quẩn ở các vùng trong tỉnh Quảng Nam. Cha mẹ tôi không khỏi xót xa, bịn rịn trước giờ phút ra đi. Chia tay từ giã họ hàng, xóm làng thân thuộc đã thắt chặt từ lâu. Gia đình tôi cùng với gia đình chú Tôn, chú Hạnh, chú Hân bao thuê một chiếc ghe bầu thật lớn, dồn hết số hành trang nhu cầu cần thiết như: áo quần, mền chiếu, chén bát, nồi niêu đem theo cùng. Ghe nhổ sào vào lúc trời chập choạng tối, tại Bến Đường làng Bảo An. Chiếc ghe nặng khẳm, được mấy người khỏe mạnh thay phiên nhau, chèo ngược dòng sông Thu Bồn mấy ngày đêm mới đến Bình Kiều. Trong cuộc hành trình, con thuyền phải vượt qua nhiều thác nước, trong đó thác Cổ Cò sóng cuồn cuộn chảy xiết, gành đá nhấp nhô khó khăn vượt qua khỏi. Đôi chỗ nước cạn, nên mấy người lớn phải xăn quần lội xuống nước, đẩy ghe ì ạch mới chịu trồi lên. Con thuyền trở lại bình thường, từ từ đi vào vùng rừng núi hoang vu hiu quạnh, buồn tênh. Xa xa, trên đỉnh núi cao dựng đứng sừng sững, khỉ, vượn buông tiếng hú vọng lại nghe mà não nề, rợn cả người. Dưới dòng, nước lờ đờ chậm trôi, màu xanh thăm thẳm theo chân núi ngoằn ngoèo tạo nên một vùng non nước tỉnh mịch, quạnh hiu. Tâm trạng của những người ly hương lánh nạn, không khác mấy cô con gái miền xuôi, đi lấy chồng miền ngược là mấy:
“Ngó lên hòn kẽm đá dừng,
Thương cha nhớ mẹ quá chừng Bạn ơi!
Thương cha nhớ mẹ thì về,
Nhược bằng thương cảnh nhớ quê thì đừng.”
Sau nầy, hồi đi tản cư giặc Tây, câu hát được người đời sửa đổi cho thích hợp với hoàn hiện tại: “Ngó lên hòn kẽm đá dừng, thương cha nhớ mẹ quá chừng Người ơi! Thương cha nhớ mẹ thì về, còn như thương Pháp nhớ Đê thì đừng”.
Đến làng Bình Kiều, ghe cập vào bãi cát trắng xóa, mọi người ê ẩm, ể ỏi bước lên bờ, lần mò đi vào một vùng hoang vắng, hiu quạnh, cây rừng mọc dày đặc, thoang thoảng mùi ẩm khí nặng nề. Nói là làng chứ đâu có đồng ruộng, bờ ao, lũy tre làng bao quanh ôm ấp mái nhà thân yêu như ở quê nhà. Người Kinh sống ở đây thưa thớt, thỉnh thoảng mới thấy lác đác một vài mái nhà của người địa phương. Người thượng du, đàn ông đóng khố, cà răng, căn tai... đàn bà mặc xà rông, đi chân không, răng đen lởm chởm cái còn cái mất... Từng đoàn cứ thẳng hàng một đi ra làng, trên lưng mang gùi đầy ấp nấm cối, nấm rơm, măn khô... để đổi lấy muối sống, cá chuồn khô... của người kinh đem lên mua bán.
Ngay ngày hôm sau, mọi người sẵn sàng rựa mác, búa riều đốn phá cây rừng, cắt tranh, phát sậy để lo làm nhà ở. Chú Hạnh, một người thợ tre giỏi, đốc thúc mọi người không bao lâu đã cất xong một trại dệt vải và khu nhà ở đâu vào đó. Nhìn bàn tay ai nấy cũng đều bọng nước, bóc lở, rác đau điếng. Khởi đầu công việc làm ăn, ngày ngày tiếng chuyện trò bên khung cửi xa quay, phần nào cũng vơi đi nổi nhớ nhung quê nhà. Không bao lâu, lần lượt kẻ trước người sau ngã bệnh sốt rét rừng, rồi chuyển sang bị ghẻ lở đến nổi không còn ai gắng gượng ngồi dậy nổi, đau nằm liệt giường liệt chiếu. Cho nên trại dệt đành bỏ ngõ, không người canh cửi đưa thoi. Cuối cùng cũng đành bỏ dở dang kế hoạch định sẵn làm ăn lâu dài.
Không thể chống đở vùng rừng thiên nước độc, từng gia đình tự động đi tìm nơi khác sinh sống. Cha tôi đau thương hàn đến độ đi không nổi, da bọc lấy xương. Mẹ tôi phải đưa người xuống làng Cà Tang, ngày đêm nằm trên giường bất động, thậm chí kiến phủ đầy người cũng không hề hay biết. Vì thế gia đình tôi lại phải di chuyển tiếp đến làng Phú Gia. Ở đây có bệnh viện, cứu chữa cha tôi thoát chết, rồi bệnh sốt rét phát sinh, vì uống quá nhiều ký ninh vàng và chích thuốc chế biến của ông Đốc Võng, dùng ký ninh trộn nước lọc nên sinh ra bệnh ghẻ ruồi, phải dùng đến thuốc bù chét có màu đen dẽo quánh, giống thuốc dán để uống, cho nên răng ông rụng quá sớm, già đi trước tuổi rất nhiều.
Đời sống càng ngày càng thêm khổ cực, cơm ăn không đủ no, mặc dù có ghế độn sắn khoai. Thêm vào đó bệnh sốt rét dai dẳng, cứ đúng cử lại nổi lên, hết nóng rồi lại lạnh, run cầm cập, ợ ợ ngáp ngáp như người lên cơn ghiền. Nhân chuyến về thăm bác tôi, cũng là mục đích dò la tin tức tìm đường sinh sống, cha tôi quyết định đem gia đình về làng Hoán Mỹ. Tá túc nơi ngôi nhà ngói rộng lớn của Ông Bà Cửu Đoan, ông bà ngoại các anh Đà, Đông, Đa. Có lần Tây trên đòn Ái Nghĩa xuống làng, cha tôi sợ quá, đường cùng dỡ nắp Quan Tài dưỡng già của Ông, nằm trốn trong đó. Nhà bác tôi ở phía sau hàng rào ông bà ngoại, mỗi lần nhà có nấu cháo hến, hến xào xúc bánh tráng nướng, thế nào bác tôi cũng kêu cha con chúng tôi qua ăn cho được. Anh em chúng tôi được một bửa khoái khẩu, đứa nào cũng toát mồ hôi vì cháo nóng thêm ớt cay nồng. Chẳng bao lâu lại phải đi nữa, xuống Giáo Trung, rồi Giáo Oái. Ở đây, ngoài nghề dệt vải, gia đình tôi còn làm thêm nghề nhuộm. Dùng loại dây rừng có màu vàng tìm được ở Bình Khiều, chặt thành lát mõng đem sắc lấy nước, nhuộm áo quần hay vải cây thành màu vàng. Sau đó đem phủ bùn non lấy ở bờ ao, phơi thật khô giặt xả sạch sẽ trở thành màu đen lánh không bao giờ phai màu.
Cuộc sống yên lành không được bao lâu, năm 49 giặc Pháp lại mở chiến dịch bố ráp gắt gao hơn, đồn bót thiết lập nhiều hơn, nên gia đình tôi lại phải chạy ngược trở lên làng Phú Hanh, lúc bấy giờ thuộc vùng tự do. Tuy tránh được đối diện với giặc, lại bị máy bay oanh tạc thường xuyên, có ngày phải chạy xuống hầm ẩn núp đến hai ba lần. Trong tình cảnh đó, lại thêm nạn hạn hán kéo dài nhiều năm, mùa màng mất trắng và tình hình kiểm soát đi lại có phần dễ giải hơn, gia đình tôi có dịp hồi cư.
Trở về cảnh cũ nay đã khác xưa, Làng mạc trở thành rừng núi, có cả tiếng gà rừng cất tiếng gáy đó đây. Khu nhà tôi bị giặc chiếm đóng, xây đồn bót, đào giao thông hào, đắp phòng tuyến, rào chông tre cọc sắt, gài mìn bẫy tràn lan. Đó là đồn Xuân Đài, một trong các đồn vùng Gò Nổi như đồn Vân Ly, Cẩm Lậu và Phú Bông. Cha tôi xuống phố mua được bộ đồ nghề hớt tóc, dùng làm phương tiện sinh sống ban đầu. Lúc bấy giờ ông độc quyền hớt tóc cho bà con trong làng và các vùng lân cận, nên đời sống có phần thư thả hơn thời tản cư rất nhiều. Rồi ông lại thấy nhu cầu may vá cũng cần thiết, nên lặn lội xuống phố một lần nữa, mua được một bàn máy may hiệu singer. Gặp khó khăn khi chở máy may ra khỏi thành phố phải có giấy phép, may đâu có anh Tùng rễ của tôi lúc bấy giờ làm công an ở Hội An giúp đỡ nên mọi việc cũng được êm xuôi. Thế rồi trong một đêm đồn Xuân Đài cùng khu hành chánh Khu Phù Kỳ bị Việt Minh tấn công đánh chiếm, toàn bộ binh lính trấn đồn đều bị bắt, chỉ có Ông Phan Vỹ Trưởng khu hành chánh trốn thoát được, nhờ ông có tài trí mưu lược. Một thời gian không lâu, đồn Xuân Đài giặc Pháp chiếm đóng trở lại, lần nầy nhiều lô cốt, giao thông hào được đúc bằng bê tông cốt sắt rất kiên cố, hàng rào kẽm gai ba bốn lớp bao quanh trong gài mìn bẫy dày đặc. Nổi lo sợ cứ triền miên từng đêm, từng đêm ánh hỏa châu soi sáng, tiếng nổ moóc chê trong đồn bắn ra cùng tiếng nổ đại bác từ Vĩnh Điện, Ái Nghĩa bắn đổ về hằng đêm. Trong lần tái chiếm lại đồn, hai bên đánh nhau tranh giành chiếm đường xe lửa từ sáng đến chiều, súng nổ đạn bay xéo xéo, vù vù rất khủng khiếp. Cuối cùng đoàn xe thiết giáp cũng vượt qua đường xe lửa, cùng đoàn binh lính hộ tống đi hai bên. Khi lùng qua nhà tôi, lục soát thấy cha tôi và ba em nhỏ nằm co ro, thim thíp dưới hố chuối sau nhà. Ê, việt minh, hai tên lính Ả Rập và Lê Dương đưa mũi súng đen ngòm về phía chúng tôi, đồng thời xông tới kéo cha tôi lôi đi. Chúng tôi mất cha, òa lên khóc sướt mướt, nức nở... còn mẹ giờ đây đương lặn lội bước lên từng xác chết ở cầu Bốn Thước của đường xe lửa trong trận đánh vừa qua, quẩy con heo xuống chợ Phú Bông để bán, kiếm thêm chút tiền phòng hờ chi tiêu cho gia đình trong những ngày sắp tới.
Cho đến năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ ra đời, hòa bình lập lại, không còn sợ hãi như thời chiến tranh. Bà con làng tôi lần lượt kẻ trước người sau, hồi cư về càng ngày càng đông. Chỉ sau một năm dọn dẹp kẽm gai, ban lấp hầm hố, đắp đường, dựng nhà, ruộng vườn của ai thuộc về người đó, xóm làng trở lại như xưa. Mọi sinh hoạt đương trên đà phát triển, đời sống tinh thần lẫn vật chất đầy đủ, thỏa mái vô cùng. Ở nhà quê đã có xe máy xuất hiện. Nhưng rất hiếm, ít ai có xe trong nhà. Phần đông thuê xe để tập đi, chiếc xe đạp mà gọi là xe máy thật là nhà quê. Tôi cũng như mấy đứa bạn rủ nhau đi bộ từ Xuân Đài lên Bảo An hơn hai cây số thuê xe để tập, phải chờ đợi thật lâu mới tới phiên mình, toàn là loại xe trành cà giựt cà tan, cốt yếu ít có trật sên, ngon lành lắm rồi. Đặc biệt chiếc xe máy cở nhỏ và thấp, thuê cho được nó phải chờ đợi người ta trả mới tới phiên mình. Mỗi lần thuê được xe, đạp đi chưa được mấy vòng, đã hết giờ. Thế là phải trả xe lại cho chủ và lết bộ trở về nhà, nhiều khi còn mang về vết trầy đầu gối, sướt cùi chỏ là thường tình.
Tôi thường ao ước, giá như nhà mình có được chiếc xe máy, dù có cũ xấu cở nào đi nửa cũng quí. Ngờ đâu, niềm mơ ước đó không bao lâu đã thành sự thật. Bởi vì cha tôi đã dọ hỏi ông Hương Thiêm ở Kỳ Lam từ lâu, này lại cho được chiếc xe máy cũ của ông ta. Thời đó mua với giá sáu trăm đồng, tương đương mười lăm ang gạo, cũng không dễ làm ra. Nó qua đây từ thời lâu lắm rồi, từ thời Pháp thuộc, cổ lổ sĩ nhất. Tôi thường nghe người ta gọi xe xết xân, đường kính bánh xe bảy trăm ly. Bộ sườn cao dỗng, các ống tuýp đúc liền với nhau, không có đầu nối, thô kịch và nặng trì. Gõ thử vào ống nghe cụp cụp, chắc nịch. Cái ghi đông cánh yến trầy tróc đen sì, nhỗng lên để lộ cặp boi nhê bằng nhựa khô cứng, nức nẻ. Nhìn cái yên xe cũ rích bằng da bò khô cứng và nhăn nheo không mấy thích thú, vừa lòng, thêm vào đó bộ sên líp dãn hết cở, nhông răng mòn cụt nhỏ xíu, không còn xử dụng được bao lâu. Bàn đạp chỉ là hai chột sắt nhọn hoắc trơ trụi, bi đạn mất hết từ bao giờ. Ngoài ra còn đèo sau yên, cái boóc ba ga bằng sắt to hì hợm, xấu xí làm sao.
Đem xe về nhà tràn đầy niềm vui, sung sướng, hớn hở không còn chi sánh bằng. Ngay lập tức tôi xôn xáo dắt xe ra đường cái đi thử, say mê đạp xe lòn lách qua các ngõ hẽm, đường dốc gồ ghề, mương rảnh cản trở, quên thời gian trưa tối, nắng mưa cũng xem thường. Chiếc xe như được hồi sinh, được tôi săn sóc lau chùi thường xuyên, chứ trước đây nó nằm xó hè, không được người ta quan tâm coi quí như bây giờ. Đúng là “cũ người mới ta”. Sau đó, nó được tôi đưa lên Phú Thuận và giao cho Ông Anh Rễ tân trang. Phủ cho nó một màu sơn mới, màu xanh mát mắt đầy hy vọng. Nhưng khó khăn thay, không thể nào thay đổi hình dạng nguyên thủy, mà chỉ có thể phụ thêm vào một số phụ tùng thời trang tương đối, cải tiến cho nó trở thành dáng dấp dễ coi hơn... Một thời gian sau, phong trào đi xe đạp trở nên phổ thông, mẫu mã mới ra đời, luôn luôn cải tiến được người ta ưa chuộng nhiều hơn. Nào xe đờ mi, xe đầm có gắn đèn trước đèn sau và thêm chuông reo, coi bộ được giới trẻ thích thú thi đua mua sắm. Loại xe mới còn có thêm gạt đờ bu, gạt đờ sên, chạy xe không còn sợ lấm bùn từ lưng lên tới đầu khi trời mưa đổ xuống và rách tưa lai quần.
Thế rồi chiếc xe máy cũ của tôi, đem bán lại cho người hàng xóm. Người ta dùng nó chở đường mật, cung cấp cho các lò nấu rượu, rất thích hợp với chức năng của nó, hơn là theo tôi xuống tỉnh, học bậc trung học. Sau nầy tôi được đi xe đạp thời trang, xe Honda 67, xe Jeep và xe hơi Hoa Kỳ. Nhưng tìm lại cái cảm giác sung sướng đầu đời, không bao giờ có được. Một kỷ niệm nhớ dai, nhớ mãi và đời nào phai mờ trong ký ức tuổi thơ.-
ĐOÀN NGỌC NAM
“Ngó lên hòn kẽm đá dừng,
Thương cha nhớ mẹ quá chừng Bạn ơi!
Thương cha nhớ mẹ thì về,
Nhược bằng thương cảnh nhớ quê thì đừng.”
Sau nầy, hồi đi tản cư giặc Tây, câu hát được người đời sửa đổi cho thích hợp với hoàn hiện tại: “Ngó lên hòn kẽm đá dừng, thương cha nhớ mẹ quá chừng Người ơi! Thương cha nhớ mẹ thì về, còn như thương Pháp nhớ Đê thì đừng”.
Đến làng Bình Kiều, ghe cập vào bãi cát trắng xóa, mọi người ê ẩm, ể ỏi bước lên bờ, lần mò đi vào một vùng hoang vắng, hiu quạnh, cây rừng mọc dày đặc, thoang thoảng mùi ẩm khí nặng nề. Nói là làng chứ đâu có đồng ruộng, bờ ao, lũy tre làng bao quanh ôm ấp mái nhà thân yêu như ở quê nhà. Người Kinh sống ở đây thưa thớt, thỉnh thoảng mới thấy lác đác một vài mái nhà của người địa phương. Người thượng du, đàn ông đóng khố, cà răng, căn tai... đàn bà mặc xà rông, đi chân không, răng đen lởm chởm cái còn cái mất... Từng đoàn cứ thẳng hàng một đi ra làng, trên lưng mang gùi đầy ấp nấm cối, nấm rơm, măn khô... để đổi lấy muối sống, cá chuồn khô... của người kinh đem lên mua bán.
Ngay ngày hôm sau, mọi người sẵn sàng rựa mác, búa riều đốn phá cây rừng, cắt tranh, phát sậy để lo làm nhà ở. Chú Hạnh, một người thợ tre giỏi, đốc thúc mọi người không bao lâu đã cất xong một trại dệt vải và khu nhà ở đâu vào đó. Nhìn bàn tay ai nấy cũng đều bọng nước, bóc lở, rác đau điếng. Khởi đầu công việc làm ăn, ngày ngày tiếng chuyện trò bên khung cửi xa quay, phần nào cũng vơi đi nổi nhớ nhung quê nhà. Không bao lâu, lần lượt kẻ trước người sau ngã bệnh sốt rét rừng, rồi chuyển sang bị ghẻ lở đến nổi không còn ai gắng gượng ngồi dậy nổi, đau nằm liệt giường liệt chiếu. Cho nên trại dệt đành bỏ ngõ, không người canh cửi đưa thoi. Cuối cùng cũng đành bỏ dở dang kế hoạch định sẵn làm ăn lâu dài.
Không thể chống đở vùng rừng thiên nước độc, từng gia đình tự động đi tìm nơi khác sinh sống. Cha tôi đau thương hàn đến độ đi không nổi, da bọc lấy xương. Mẹ tôi phải đưa người xuống làng Cà Tang, ngày đêm nằm trên giường bất động, thậm chí kiến phủ đầy người cũng không hề hay biết. Vì thế gia đình tôi lại phải di chuyển tiếp đến làng Phú Gia. Ở đây có bệnh viện, cứu chữa cha tôi thoát chết, rồi bệnh sốt rét phát sinh, vì uống quá nhiều ký ninh vàng và chích thuốc chế biến của ông Đốc Võng, dùng ký ninh trộn nước lọc nên sinh ra bệnh ghẻ ruồi, phải dùng đến thuốc bù chét có màu đen dẽo quánh, giống thuốc dán để uống, cho nên răng ông rụng quá sớm, già đi trước tuổi rất nhiều.
Đời sống càng ngày càng thêm khổ cực, cơm ăn không đủ no, mặc dù có ghế độn sắn khoai. Thêm vào đó bệnh sốt rét dai dẳng, cứ đúng cử lại nổi lên, hết nóng rồi lại lạnh, run cầm cập, ợ ợ ngáp ngáp như người lên cơn ghiền. Nhân chuyến về thăm bác tôi, cũng là mục đích dò la tin tức tìm đường sinh sống, cha tôi quyết định đem gia đình về làng Hoán Mỹ. Tá túc nơi ngôi nhà ngói rộng lớn của Ông Bà Cửu Đoan, ông bà ngoại các anh Đà, Đông, Đa. Có lần Tây trên đòn Ái Nghĩa xuống làng, cha tôi sợ quá, đường cùng dỡ nắp Quan Tài dưỡng già của Ông, nằm trốn trong đó. Nhà bác tôi ở phía sau hàng rào ông bà ngoại, mỗi lần nhà có nấu cháo hến, hến xào xúc bánh tráng nướng, thế nào bác tôi cũng kêu cha con chúng tôi qua ăn cho được. Anh em chúng tôi được một bửa khoái khẩu, đứa nào cũng toát mồ hôi vì cháo nóng thêm ớt cay nồng. Chẳng bao lâu lại phải đi nữa, xuống Giáo Trung, rồi Giáo Oái. Ở đây, ngoài nghề dệt vải, gia đình tôi còn làm thêm nghề nhuộm. Dùng loại dây rừng có màu vàng tìm được ở Bình Khiều, chặt thành lát mõng đem sắc lấy nước, nhuộm áo quần hay vải cây thành màu vàng. Sau đó đem phủ bùn non lấy ở bờ ao, phơi thật khô giặt xả sạch sẽ trở thành màu đen lánh không bao giờ phai màu.
Cuộc sống yên lành không được bao lâu, năm 49 giặc Pháp lại mở chiến dịch bố ráp gắt gao hơn, đồn bót thiết lập nhiều hơn, nên gia đình tôi lại phải chạy ngược trở lên làng Phú Hanh, lúc bấy giờ thuộc vùng tự do. Tuy tránh được đối diện với giặc, lại bị máy bay oanh tạc thường xuyên, có ngày phải chạy xuống hầm ẩn núp đến hai ba lần. Trong tình cảnh đó, lại thêm nạn hạn hán kéo dài nhiều năm, mùa màng mất trắng và tình hình kiểm soát đi lại có phần dễ giải hơn, gia đình tôi có dịp hồi cư.
Trở về cảnh cũ nay đã khác xưa, Làng mạc trở thành rừng núi, có cả tiếng gà rừng cất tiếng gáy đó đây. Khu nhà tôi bị giặc chiếm đóng, xây đồn bót, đào giao thông hào, đắp phòng tuyến, rào chông tre cọc sắt, gài mìn bẫy tràn lan. Đó là đồn Xuân Đài, một trong các đồn vùng Gò Nổi như đồn Vân Ly, Cẩm Lậu và Phú Bông. Cha tôi xuống phố mua được bộ đồ nghề hớt tóc, dùng làm phương tiện sinh sống ban đầu. Lúc bấy giờ ông độc quyền hớt tóc cho bà con trong làng và các vùng lân cận, nên đời sống có phần thư thả hơn thời tản cư rất nhiều. Rồi ông lại thấy nhu cầu may vá cũng cần thiết, nên lặn lội xuống phố một lần nữa, mua được một bàn máy may hiệu singer. Gặp khó khăn khi chở máy may ra khỏi thành phố phải có giấy phép, may đâu có anh Tùng rễ của tôi lúc bấy giờ làm công an ở Hội An giúp đỡ nên mọi việc cũng được êm xuôi. Thế rồi trong một đêm đồn Xuân Đài cùng khu hành chánh Khu Phù Kỳ bị Việt Minh tấn công đánh chiếm, toàn bộ binh lính trấn đồn đều bị bắt, chỉ có Ông Phan Vỹ Trưởng khu hành chánh trốn thoát được, nhờ ông có tài trí mưu lược. Một thời gian không lâu, đồn Xuân Đài giặc Pháp chiếm đóng trở lại, lần nầy nhiều lô cốt, giao thông hào được đúc bằng bê tông cốt sắt rất kiên cố, hàng rào kẽm gai ba bốn lớp bao quanh trong gài mìn bẫy dày đặc. Nổi lo sợ cứ triền miên từng đêm, từng đêm ánh hỏa châu soi sáng, tiếng nổ moóc chê trong đồn bắn ra cùng tiếng nổ đại bác từ Vĩnh Điện, Ái Nghĩa bắn đổ về hằng đêm. Trong lần tái chiếm lại đồn, hai bên đánh nhau tranh giành chiếm đường xe lửa từ sáng đến chiều, súng nổ đạn bay xéo xéo, vù vù rất khủng khiếp. Cuối cùng đoàn xe thiết giáp cũng vượt qua đường xe lửa, cùng đoàn binh lính hộ tống đi hai bên. Khi lùng qua nhà tôi, lục soát thấy cha tôi và ba em nhỏ nằm co ro, thim thíp dưới hố chuối sau nhà. Ê, việt minh, hai tên lính Ả Rập và Lê Dương đưa mũi súng đen ngòm về phía chúng tôi, đồng thời xông tới kéo cha tôi lôi đi. Chúng tôi mất cha, òa lên khóc sướt mướt, nức nở... còn mẹ giờ đây đương lặn lội bước lên từng xác chết ở cầu Bốn Thước của đường xe lửa trong trận đánh vừa qua, quẩy con heo xuống chợ Phú Bông để bán, kiếm thêm chút tiền phòng hờ chi tiêu cho gia đình trong những ngày sắp tới.
Cho đến năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ ra đời, hòa bình lập lại, không còn sợ hãi như thời chiến tranh. Bà con làng tôi lần lượt kẻ trước người sau, hồi cư về càng ngày càng đông. Chỉ sau một năm dọn dẹp kẽm gai, ban lấp hầm hố, đắp đường, dựng nhà, ruộng vườn của ai thuộc về người đó, xóm làng trở lại như xưa. Mọi sinh hoạt đương trên đà phát triển, đời sống tinh thần lẫn vật chất đầy đủ, thỏa mái vô cùng. Ở nhà quê đã có xe máy xuất hiện. Nhưng rất hiếm, ít ai có xe trong nhà. Phần đông thuê xe để tập đi, chiếc xe đạp mà gọi là xe máy thật là nhà quê. Tôi cũng như mấy đứa bạn rủ nhau đi bộ từ Xuân Đài lên Bảo An hơn hai cây số thuê xe để tập, phải chờ đợi thật lâu mới tới phiên mình, toàn là loại xe trành cà giựt cà tan, cốt yếu ít có trật sên, ngon lành lắm rồi. Đặc biệt chiếc xe máy cở nhỏ và thấp, thuê cho được nó phải chờ đợi người ta trả mới tới phiên mình. Mỗi lần thuê được xe, đạp đi chưa được mấy vòng, đã hết giờ. Thế là phải trả xe lại cho chủ và lết bộ trở về nhà, nhiều khi còn mang về vết trầy đầu gối, sướt cùi chỏ là thường tình.
Tôi thường ao ước, giá như nhà mình có được chiếc xe máy, dù có cũ xấu cở nào đi nửa cũng quí. Ngờ đâu, niềm mơ ước đó không bao lâu đã thành sự thật. Bởi vì cha tôi đã dọ hỏi ông Hương Thiêm ở Kỳ Lam từ lâu, này lại cho được chiếc xe máy cũ của ông ta. Thời đó mua với giá sáu trăm đồng, tương đương mười lăm ang gạo, cũng không dễ làm ra. Nó qua đây từ thời lâu lắm rồi, từ thời Pháp thuộc, cổ lổ sĩ nhất. Tôi thường nghe người ta gọi xe xết xân, đường kính bánh xe bảy trăm ly. Bộ sườn cao dỗng, các ống tuýp đúc liền với nhau, không có đầu nối, thô kịch và nặng trì. Gõ thử vào ống nghe cụp cụp, chắc nịch. Cái ghi đông cánh yến trầy tróc đen sì, nhỗng lên để lộ cặp boi nhê bằng nhựa khô cứng, nức nẻ. Nhìn cái yên xe cũ rích bằng da bò khô cứng và nhăn nheo không mấy thích thú, vừa lòng, thêm vào đó bộ sên líp dãn hết cở, nhông răng mòn cụt nhỏ xíu, không còn xử dụng được bao lâu. Bàn đạp chỉ là hai chột sắt nhọn hoắc trơ trụi, bi đạn mất hết từ bao giờ. Ngoài ra còn đèo sau yên, cái boóc ba ga bằng sắt to hì hợm, xấu xí làm sao.
Đem xe về nhà tràn đầy niềm vui, sung sướng, hớn hở không còn chi sánh bằng. Ngay lập tức tôi xôn xáo dắt xe ra đường cái đi thử, say mê đạp xe lòn lách qua các ngõ hẽm, đường dốc gồ ghề, mương rảnh cản trở, quên thời gian trưa tối, nắng mưa cũng xem thường. Chiếc xe như được hồi sinh, được tôi săn sóc lau chùi thường xuyên, chứ trước đây nó nằm xó hè, không được người ta quan tâm coi quí như bây giờ. Đúng là “cũ người mới ta”. Sau đó, nó được tôi đưa lên Phú Thuận và giao cho Ông Anh Rễ tân trang. Phủ cho nó một màu sơn mới, màu xanh mát mắt đầy hy vọng. Nhưng khó khăn thay, không thể nào thay đổi hình dạng nguyên thủy, mà chỉ có thể phụ thêm vào một số phụ tùng thời trang tương đối, cải tiến cho nó trở thành dáng dấp dễ coi hơn... Một thời gian sau, phong trào đi xe đạp trở nên phổ thông, mẫu mã mới ra đời, luôn luôn cải tiến được người ta ưa chuộng nhiều hơn. Nào xe đờ mi, xe đầm có gắn đèn trước đèn sau và thêm chuông reo, coi bộ được giới trẻ thích thú thi đua mua sắm. Loại xe mới còn có thêm gạt đờ bu, gạt đờ sên, chạy xe không còn sợ lấm bùn từ lưng lên tới đầu khi trời mưa đổ xuống và rách tưa lai quần.
Thế rồi chiếc xe máy cũ của tôi, đem bán lại cho người hàng xóm. Người ta dùng nó chở đường mật, cung cấp cho các lò nấu rượu, rất thích hợp với chức năng của nó, hơn là theo tôi xuống tỉnh, học bậc trung học. Sau nầy tôi được đi xe đạp thời trang, xe Honda 67, xe Jeep và xe hơi Hoa Kỳ. Nhưng tìm lại cái cảm giác sung sướng đầu đời, không bao giờ có được. Một kỷ niệm nhớ dai, nhớ mãi và đời nào phai mờ trong ký ức tuổi thơ.-
ĐOÀN NGỌC NAM
11. cá bống cát
Thức ăn, ăn kèm với cơm đối với bà con dân miền quê, không có món nào qua mặt được món cá. Cơm mà ăn với cá, ăn hoài ăn mãi không đời nào thấy ớn và ngán cả: “cơm với cá như má với con”. Thật là một sự so sánh thâm hậu, thể hiện tình mẫu tử cao đẹp sáng ngời. Lòng mẹ bao la, công ơn có khác gì như dòng nước trong nguồn chảy ra, nuôi dưỡng và đùm bọc từ khi còn trong trứng nước, cho đến khi khôn lớn trưởng thành.
Dòng sông Thu Bồn cho người dân xứ Quảng, không biết bao nhiêu loại cá nước ngọt. Nào cá trôi, ca gáy, cá măng, cá chình, cá hanh, cá ngạnh, cá mương, cá chạt và cá bống cát… Mỗi loại cá có mùi vị ngon đặc biệt khác nhau. Tuy nhiên, món cá ngon đậm đà nhất phải nhắc đến ở đây là món cá bống cát kho khô trong bửa cơm đạm bạc miền quê.
Trong truyện Tấm Cám, con cá bống mú của Tấm cũng có thể là con cá bống cát ở đây chăng? Con cá bống mú được Tấm nuôi, săn sóc chu đáo cẩn thận, dưới đáy giếng sâu. Nó rất khôn ngoan mỗi khi Tấm gọi lên cho ăn: “bớ mú, trồi lên tau cho ăn nào”, ngay lập tức mú nổi lên quậy đuôi mừng rỡ và đớp mồi trông rất ngoạn mục. Mặc dù Tấm dấu tận đáy giếng sâu, cũng không thoát khỏi bàn tay ác độc của mẹ con người dì ghẽ rình rập hại chết, vứt bỏ phía sau hè chết khô, chỉ còn trơ bộ xương. Thương tình, Tấm nhặt lắy đem chôn cất chu đáo gần nơi buội chuối sau vườn. Sau hóa kiếp thành con chim chèo bẽo, nhắc nhở săn sóc cho vị Hoàng Tử mà Tấm xứng đáng kết duyên: “Chèo bẽo chèo, chèo bẽo chẹt. Giặt áo chồng tau cho sạch. Phơi cây sào đừng phơi hàng rào. Rách áo chồng tau...”
Loại cá bống cát thường hay tụ về sinh sống trong vùng nước vịnh, nông cạn và phẳng lặng. Thân cá tròn, múp đầu múp đuôi, con lớn hết cở chỉ bằng cán chày giã ớt tiêu là cùng. Da có màu sẩm đen ở phần lưng và màu vàng lợt ở phần bụng. Mình cá che chở một lớp vãy nhỏ li ti, dính bóm vào sát da. Vi lưng và hai bên hông đều nhỏ, mềm mại. Cá di chuyển lần bò sát mặt cát, chậm rãi nhẹ nhàng, không khua động chạy rạch nước như cá mương, cá chày, cá đối... Vì sinh sống trong lòng sông, có chỗ cát màu vàng, màu đen nên màu da cá cũng chịu ảnh hưởng của vùng tụ ở. Nhưng dù có màu gì đi nữa, chúng nó cũng được gọi cái tên: cá bống cát, vừa giản dị vừa gợi hình biết bao.
Trẻ con vùng quê, thường tìm đến gần khui cầu xe lửa Chiêm Sơn, vui chơi và trổ tài bắt cá bống con. Chúng nó là mục tiêu để bọn trẻ đạt thành tích, cậu nào bắt được nhiều nhất. Cứ lặn bò sát mặt cát và nhè nhẹ áp hai bàn tay đến chỗ trũng dấu chân người hay trâu bò, thì thế nào cũng bắt được nó nằm ngay tại đó. Nhưng thường là những con cá còn nhỏ xíu, chỉ to bằng mút đầu đũa con, khờ dại rất dễ thương. Trái lại, bạn vạn nhà nghề đánh bắt cá mới đáng kể. Vào mùa nước cạn khoảng từ tháng hai đến tháng bảy âm lịch, người ta dùng nhiều tấm mành sáo để khoanh vùng rộng lớn cập theo bờ sông. Tại mỗi chỗ nhô ra hình chữ V, người ta đặt tại đây một cái đuộc dựng đứng có miệng hom, để cá vào thì được, ngăn chận không cho trở ra. Mỗi ngày hai ba lần, dở đuộc lên, úp trút bắt lấy cá một cách dễ dàng. Ngoài ra, người ta còn dùng cách bủa câu để bắt cá bống. Bơi ghe dọc theo bờ sông, thả một dãy lưởi câu có móc mồi trùn là đà sát mặt cát. Cá đi tìm mồi, ăn vào dính cứng: “cá cắn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lồng biết thuở nào ra”. Cá bủa câu, con nào con nấy múp rụp no tròn, có con kỳ cựu to bằng cán chày giã tiêu, trông thấy bắt ham và bán được giá cao cho những người ghiền ăn cá bống cát. Có điều, cá bống cát bắt được có số lượng ít, không được dồi dào như các loại cá khác, mà người miền quê thường quan niệm: “cơm làm ruộng, cá làm nghề”. Ăn thả dàng.
Bạn vạn đem cá đi bán còn tươi xanh, bưng kẹp nách một rổ nhỏ và chỉ cần rao khe khẻ, nho nhỏ: “ai mua cá bống mua…” thế mà cũng đắt hàng, vì khách quen đã chực sẵn thừ lâu. Cá bống cát kho khô ăn bắt cơm lắm. Thịt cá khô cứng, thơm ngon, béo bùi và mặn mòi. Đem cá chặt vi, đánh vãy, bỏ ruột và giữ lại cái gan nhỏ xíu hay buồng trứng ngon lắm đấy. Ướp cá cho thấm, thêm gia vị hành tiêu, nghệ tươi và không quên khử dầu phụng trước khi kho. Để lửa nhỏ liu riu, rim từ từ đến khi nào rặc nước, bốc mùi thơm bắt thèm. Cá bống cát kho rim, ăn cơm gạo lúa mới giã trắng, ngon hết chỗ chê, ăn no đầy bụng mà miệng vẫn còn muốn ăn. Bởi vậy các bà mẹ quê khi thấy bầy con ăn ngon miệng, vui vẻ ngợi khen: “có cá khá cơm”, quả thật không sai chút nào. Đặc biệt hơn, những người sành ăn cá bống, không đời nào vứt bỏ cái gan, nó vừa béo vừa bùi và còn bổ là khác. Cho nên có câu chuyện liên quan đến cái gan cá bống, đã hóa giải được từ cái ác ra cái thiện. Câu chuyên như thế nầy:
Ngày xửa ngày xưa, một nhà giàu kia sau khi cưới được một nàng dâu về nhà, bà mẹ chồng tha hồ hành hạ theo mối thù truyền kiếp: “mẹ chồng đối với nàng dâu, hai cô ca sĩ thương đâu bao giờ”. Suốt ngày bắt nàng dâu làm việc vất vả, lam lủ cực khổ, có khác nào kẻ ăn người ở trong nhà. Hằng ngày, ngoài việc nâng khăn sửa trắp cho chồng, còn phải lo phụng dưỡng cho bà ta đủ mọi điều. Kêu đâu có đó, thưa dạ luôn miệng, mời cơm dâng nước ba lần: sớm, trưa, tối đầy đủ. Buổi sáng thức dậy thật sớm pha nước nóng cho bà ta rửa mặt, chân tay… Tối lại treo mùng, quạt muỗi cho mẹ chồng ngủ. Bổn phận làm dâu mọi điều đều phải tuân theo mệnh lệnh mẹ chồng. Công việc phải chu đáo, từ việc nhỏ đến lớn, không dám để một tí nào sơ suốt. Ấy thế, bà mẹ chồng có thương xót nàng dâu chút nào đâu. Vạch lá tìm sâu là bản tính thâm căn, xấu xa, ích kỷ của bà ta. Tức nước vỡ bờ, nàng dâu chịu đựng hết nổi. Nàng nẫy sinh ý nghĩ oán ghét, thù hận mẹ chồng, tìm mọi cách để trả thù cho bằng được mới hả dạ. Nàng bèn đi khắp mọi nơi, dọ hỏi vấn kế rất nhiều người, làm cách nào cho bà ta không còn ở trên thế gian nầy. Đi tìm mãi cũng chẳng gặp được người nào chịu giúp cho nàng. Cuối cùng vì quá mệt lã, nàng ta ghé vào quán nước để nghỉ chân và ăn lót dạ. Không ngờ trong lúc trò chuyện giải khuây với mọi người. Một ông già có gương mặt đạo mạo, phương phi, mái tóc bạc phơ, bộ râu dài tới rốn xuất hiện hiến kế, đem niềm vui đến cho nàng. Ông già ra vẽ điềm đạm, tỏ ra hiểu biết tâm sự của nàng trong lúc nầy, chậm rãi đưa ra lời khuyên dễ dàng thực hiện ý định. Con về tìm gan cá bống cho mẹ chồng ăn thật nhiều, càng nhiều bao nhiêu mẹ chồng càng mau chết bấy nhiêu. Về nhà, nàng dâu bèn mọi giá dạo khắp các chợ để mua cho được thật nhiều cá bống lấy gan. Ngặt ở chỗ, gan cá bống quá nhỏ không to như gan cá mập, cá nhám, cá voi... lấy được không mấy khó khăn. Gom góp cho đủ số lượng để thực hiện ý định không phải là dễ. Tuy vậy, bà mẹ chồng cũng được nếm đủ mùi vị, từ cái ngon gan cá bống nấu canh với lá hẹ, cho tới món gan cá bống kho rim, cứng, bùi, béo ngậy... Mỗi ngày đều đủ ba bửa ăn thường xuyên nàng dâu cung phụng đầy đủ.
Sau một thời gian khá lâu, không thấy bà mẹ chồng thay đổi gì cả. Chết đâu không thấy, trái lại mỗi ngày da thịt hồng hào trắng mịn ra, mập mạp hơn khi xưa rất nhiều. Thấy thế, nàng dâu đi tìm ông già một lần nữa, trông mau cho được gặp để hỏi cho ra lẽ. Lần nầy ông già lại khuyên nàng nên kiên nhẩn, chịu khó nhiều hơn thì kết quả mới mau đem lại. Được nàng dâu lo cho mẹ chồng tận tụy, cho nên mẹ chồng ăn được, ngủ được, sức khỏe càng ngày càng thêm mạnh khỏe hơn xưa rất nhiều...
Bỗng một hôm, sau bửa cơm chiều khi mọi người trong nhà đã đi ngủ cả. Duy chỉ còn một mình nàng dâu, ngồi bên ngọn đèn dầu le lói, cặm cụi mổ bụng từng con cá bống nhỏ xíu để lấy gan, chuẩn bị bửa ăn sáng ngày mai cho mẹ chồng. Bắt gặp nàng dâu đang tận tụy với công việc như thế, bà mẹ chồng không khỏi xúc động và tỏ ra hối hận tự trách mình: Té ra mình được như ngày nay, ấy là nhờ đứa con dâu hết lòng hiếu thảo mà mình không hề hay biết. Thật bậy quá chừng, ta lấy làm hối hận đã xử tệ với nàng, mà nàng không hề oán ghét chút nào. Từ đấy bà mẹ chồng đem lòng thương yêu nàng dâu nhiều hơn, chín bỏ làm mười, mẹ mẹ, con con ngọt xớt suốt ngày. Mỗi khi có khách viếng thăm nhà, mẹ chồng không quên khoe với mọi người, nàng dâu ngoan hiền hiếu thảo nhất của bà. Còn phần nàng dâu, không khỏi mừng thầm: may cho mình gặp được ông già đạo đức, nhân từ đã hóa giải nghiệp chướng, không chừng đã mang họa vào thân. Và từ đó trở đi, không còn nghe tiếng nặng, tiếng nhẹ, la rầy, quở mắng trong nhà nữa. Tiếng cười giòn nở rộ trên môi mọi người, không khí đầm ấm, vui vẻ hạnh phúc dưới cùng một mái nhà thân yêu.
Xem thế, nàng dâu kia nhờ gặp được ông già đạo đức, có tấm lòng nhân từ đã hướng dẫn nàng dâu thi hành thủ đoạn từ cái ác hóa ra cái thiện, từ chỗ ghét gỏng trở thành thương yêu. Suy rộng ra, trong thế gian nầy chúng ta nên đối xử với nhau dựa trên lý lẻ công bằng, không hiềm khích, ganh tị, chèn ép lẩn nhau, thì thế nào cũng nhận được sự hài hòa trong cuộc sống, một tâm hồn thanh thản, vui vẻ lạc quan yêu đời.-
Dòng sông Thu Bồn cho người dân xứ Quảng, không biết bao nhiêu loại cá nước ngọt. Nào cá trôi, ca gáy, cá măng, cá chình, cá hanh, cá ngạnh, cá mương, cá chạt và cá bống cát… Mỗi loại cá có mùi vị ngon đặc biệt khác nhau. Tuy nhiên, món cá ngon đậm đà nhất phải nhắc đến ở đây là món cá bống cát kho khô trong bửa cơm đạm bạc miền quê.
Trong truyện Tấm Cám, con cá bống mú của Tấm cũng có thể là con cá bống cát ở đây chăng? Con cá bống mú được Tấm nuôi, săn sóc chu đáo cẩn thận, dưới đáy giếng sâu. Nó rất khôn ngoan mỗi khi Tấm gọi lên cho ăn: “bớ mú, trồi lên tau cho ăn nào”, ngay lập tức mú nổi lên quậy đuôi mừng rỡ và đớp mồi trông rất ngoạn mục. Mặc dù Tấm dấu tận đáy giếng sâu, cũng không thoát khỏi bàn tay ác độc của mẹ con người dì ghẽ rình rập hại chết, vứt bỏ phía sau hè chết khô, chỉ còn trơ bộ xương. Thương tình, Tấm nhặt lắy đem chôn cất chu đáo gần nơi buội chuối sau vườn. Sau hóa kiếp thành con chim chèo bẽo, nhắc nhở săn sóc cho vị Hoàng Tử mà Tấm xứng đáng kết duyên: “Chèo bẽo chèo, chèo bẽo chẹt. Giặt áo chồng tau cho sạch. Phơi cây sào đừng phơi hàng rào. Rách áo chồng tau...”
Loại cá bống cát thường hay tụ về sinh sống trong vùng nước vịnh, nông cạn và phẳng lặng. Thân cá tròn, múp đầu múp đuôi, con lớn hết cở chỉ bằng cán chày giã ớt tiêu là cùng. Da có màu sẩm đen ở phần lưng và màu vàng lợt ở phần bụng. Mình cá che chở một lớp vãy nhỏ li ti, dính bóm vào sát da. Vi lưng và hai bên hông đều nhỏ, mềm mại. Cá di chuyển lần bò sát mặt cát, chậm rãi nhẹ nhàng, không khua động chạy rạch nước như cá mương, cá chày, cá đối... Vì sinh sống trong lòng sông, có chỗ cát màu vàng, màu đen nên màu da cá cũng chịu ảnh hưởng của vùng tụ ở. Nhưng dù có màu gì đi nữa, chúng nó cũng được gọi cái tên: cá bống cát, vừa giản dị vừa gợi hình biết bao.
Trẻ con vùng quê, thường tìm đến gần khui cầu xe lửa Chiêm Sơn, vui chơi và trổ tài bắt cá bống con. Chúng nó là mục tiêu để bọn trẻ đạt thành tích, cậu nào bắt được nhiều nhất. Cứ lặn bò sát mặt cát và nhè nhẹ áp hai bàn tay đến chỗ trũng dấu chân người hay trâu bò, thì thế nào cũng bắt được nó nằm ngay tại đó. Nhưng thường là những con cá còn nhỏ xíu, chỉ to bằng mút đầu đũa con, khờ dại rất dễ thương. Trái lại, bạn vạn nhà nghề đánh bắt cá mới đáng kể. Vào mùa nước cạn khoảng từ tháng hai đến tháng bảy âm lịch, người ta dùng nhiều tấm mành sáo để khoanh vùng rộng lớn cập theo bờ sông. Tại mỗi chỗ nhô ra hình chữ V, người ta đặt tại đây một cái đuộc dựng đứng có miệng hom, để cá vào thì được, ngăn chận không cho trở ra. Mỗi ngày hai ba lần, dở đuộc lên, úp trút bắt lấy cá một cách dễ dàng. Ngoài ra, người ta còn dùng cách bủa câu để bắt cá bống. Bơi ghe dọc theo bờ sông, thả một dãy lưởi câu có móc mồi trùn là đà sát mặt cát. Cá đi tìm mồi, ăn vào dính cứng: “cá cắn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lồng biết thuở nào ra”. Cá bủa câu, con nào con nấy múp rụp no tròn, có con kỳ cựu to bằng cán chày giã tiêu, trông thấy bắt ham và bán được giá cao cho những người ghiền ăn cá bống cát. Có điều, cá bống cát bắt được có số lượng ít, không được dồi dào như các loại cá khác, mà người miền quê thường quan niệm: “cơm làm ruộng, cá làm nghề”. Ăn thả dàng.
Bạn vạn đem cá đi bán còn tươi xanh, bưng kẹp nách một rổ nhỏ và chỉ cần rao khe khẻ, nho nhỏ: “ai mua cá bống mua…” thế mà cũng đắt hàng, vì khách quen đã chực sẵn thừ lâu. Cá bống cát kho khô ăn bắt cơm lắm. Thịt cá khô cứng, thơm ngon, béo bùi và mặn mòi. Đem cá chặt vi, đánh vãy, bỏ ruột và giữ lại cái gan nhỏ xíu hay buồng trứng ngon lắm đấy. Ướp cá cho thấm, thêm gia vị hành tiêu, nghệ tươi và không quên khử dầu phụng trước khi kho. Để lửa nhỏ liu riu, rim từ từ đến khi nào rặc nước, bốc mùi thơm bắt thèm. Cá bống cát kho rim, ăn cơm gạo lúa mới giã trắng, ngon hết chỗ chê, ăn no đầy bụng mà miệng vẫn còn muốn ăn. Bởi vậy các bà mẹ quê khi thấy bầy con ăn ngon miệng, vui vẻ ngợi khen: “có cá khá cơm”, quả thật không sai chút nào. Đặc biệt hơn, những người sành ăn cá bống, không đời nào vứt bỏ cái gan, nó vừa béo vừa bùi và còn bổ là khác. Cho nên có câu chuyện liên quan đến cái gan cá bống, đã hóa giải được từ cái ác ra cái thiện. Câu chuyên như thế nầy:
Ngày xửa ngày xưa, một nhà giàu kia sau khi cưới được một nàng dâu về nhà, bà mẹ chồng tha hồ hành hạ theo mối thù truyền kiếp: “mẹ chồng đối với nàng dâu, hai cô ca sĩ thương đâu bao giờ”. Suốt ngày bắt nàng dâu làm việc vất vả, lam lủ cực khổ, có khác nào kẻ ăn người ở trong nhà. Hằng ngày, ngoài việc nâng khăn sửa trắp cho chồng, còn phải lo phụng dưỡng cho bà ta đủ mọi điều. Kêu đâu có đó, thưa dạ luôn miệng, mời cơm dâng nước ba lần: sớm, trưa, tối đầy đủ. Buổi sáng thức dậy thật sớm pha nước nóng cho bà ta rửa mặt, chân tay… Tối lại treo mùng, quạt muỗi cho mẹ chồng ngủ. Bổn phận làm dâu mọi điều đều phải tuân theo mệnh lệnh mẹ chồng. Công việc phải chu đáo, từ việc nhỏ đến lớn, không dám để một tí nào sơ suốt. Ấy thế, bà mẹ chồng có thương xót nàng dâu chút nào đâu. Vạch lá tìm sâu là bản tính thâm căn, xấu xa, ích kỷ của bà ta. Tức nước vỡ bờ, nàng dâu chịu đựng hết nổi. Nàng nẫy sinh ý nghĩ oán ghét, thù hận mẹ chồng, tìm mọi cách để trả thù cho bằng được mới hả dạ. Nàng bèn đi khắp mọi nơi, dọ hỏi vấn kế rất nhiều người, làm cách nào cho bà ta không còn ở trên thế gian nầy. Đi tìm mãi cũng chẳng gặp được người nào chịu giúp cho nàng. Cuối cùng vì quá mệt lã, nàng ta ghé vào quán nước để nghỉ chân và ăn lót dạ. Không ngờ trong lúc trò chuyện giải khuây với mọi người. Một ông già có gương mặt đạo mạo, phương phi, mái tóc bạc phơ, bộ râu dài tới rốn xuất hiện hiến kế, đem niềm vui đến cho nàng. Ông già ra vẽ điềm đạm, tỏ ra hiểu biết tâm sự của nàng trong lúc nầy, chậm rãi đưa ra lời khuyên dễ dàng thực hiện ý định. Con về tìm gan cá bống cho mẹ chồng ăn thật nhiều, càng nhiều bao nhiêu mẹ chồng càng mau chết bấy nhiêu. Về nhà, nàng dâu bèn mọi giá dạo khắp các chợ để mua cho được thật nhiều cá bống lấy gan. Ngặt ở chỗ, gan cá bống quá nhỏ không to như gan cá mập, cá nhám, cá voi... lấy được không mấy khó khăn. Gom góp cho đủ số lượng để thực hiện ý định không phải là dễ. Tuy vậy, bà mẹ chồng cũng được nếm đủ mùi vị, từ cái ngon gan cá bống nấu canh với lá hẹ, cho tới món gan cá bống kho rim, cứng, bùi, béo ngậy... Mỗi ngày đều đủ ba bửa ăn thường xuyên nàng dâu cung phụng đầy đủ.
Sau một thời gian khá lâu, không thấy bà mẹ chồng thay đổi gì cả. Chết đâu không thấy, trái lại mỗi ngày da thịt hồng hào trắng mịn ra, mập mạp hơn khi xưa rất nhiều. Thấy thế, nàng dâu đi tìm ông già một lần nữa, trông mau cho được gặp để hỏi cho ra lẽ. Lần nầy ông già lại khuyên nàng nên kiên nhẩn, chịu khó nhiều hơn thì kết quả mới mau đem lại. Được nàng dâu lo cho mẹ chồng tận tụy, cho nên mẹ chồng ăn được, ngủ được, sức khỏe càng ngày càng thêm mạnh khỏe hơn xưa rất nhiều...
Bỗng một hôm, sau bửa cơm chiều khi mọi người trong nhà đã đi ngủ cả. Duy chỉ còn một mình nàng dâu, ngồi bên ngọn đèn dầu le lói, cặm cụi mổ bụng từng con cá bống nhỏ xíu để lấy gan, chuẩn bị bửa ăn sáng ngày mai cho mẹ chồng. Bắt gặp nàng dâu đang tận tụy với công việc như thế, bà mẹ chồng không khỏi xúc động và tỏ ra hối hận tự trách mình: Té ra mình được như ngày nay, ấy là nhờ đứa con dâu hết lòng hiếu thảo mà mình không hề hay biết. Thật bậy quá chừng, ta lấy làm hối hận đã xử tệ với nàng, mà nàng không hề oán ghét chút nào. Từ đấy bà mẹ chồng đem lòng thương yêu nàng dâu nhiều hơn, chín bỏ làm mười, mẹ mẹ, con con ngọt xớt suốt ngày. Mỗi khi có khách viếng thăm nhà, mẹ chồng không quên khoe với mọi người, nàng dâu ngoan hiền hiếu thảo nhất của bà. Còn phần nàng dâu, không khỏi mừng thầm: may cho mình gặp được ông già đạo đức, nhân từ đã hóa giải nghiệp chướng, không chừng đã mang họa vào thân. Và từ đó trở đi, không còn nghe tiếng nặng, tiếng nhẹ, la rầy, quở mắng trong nhà nữa. Tiếng cười giòn nở rộ trên môi mọi người, không khí đầm ấm, vui vẻ hạnh phúc dưới cùng một mái nhà thân yêu.
Xem thế, nàng dâu kia nhờ gặp được ông già đạo đức, có tấm lòng nhân từ đã hướng dẫn nàng dâu thi hành thủ đoạn từ cái ác hóa ra cái thiện, từ chỗ ghét gỏng trở thành thương yêu. Suy rộng ra, trong thế gian nầy chúng ta nên đối xử với nhau dựa trên lý lẻ công bằng, không hiềm khích, ganh tị, chèn ép lẩn nhau, thì thế nào cũng nhận được sự hài hòa trong cuộc sống, một tâm hồn thanh thản, vui vẻ lạc quan yêu đời.-
10. Nghề dệt cổ truyền Quê Tôi
Ai đã có lần ghé qua vùng quê Bảo An Xuân Đài, thì thế nào cũng được nghe câu hát “chua” đầy ẩn ý mỉa mai, mà thực ra không phải như vậy:
Tiếng đồn con gái Bảo An,
khéo mua vải sợi về đan mành mành”.
Mãnh vải có đến nổi sưa như tấm mành mành, mà người ta dùng để ngăn chận bầy gà nhãy vào bươi chải vồng cải, luống rau hay không? Không đâu! Đó là lối khen tặng hơn là chê bai. Các cô gái thợ dệt ở làng Bảo An khéo tay lắm đó. Mặt vải khi vừa mới dệt sưa rích. Nhưng sau khi đem hồ và nghè đập, sợi chỉ sẽ mềm ra nhuyển mượt trông rất đẹp mắt. Khách mà lựa chọn thấy vừa ý liền, không còn do dự chút nào. Vào thời xưa kia, nghề dệt vải và lụa ở quê tôi thuộc phạm vi trong một gia đình riêng rẻ, lẻ loi. Nghề dệt được truyền lại từ đời nầy qua đời nọ. Làm sao quên được hình ảnh thân yêu, khi mọi người quây quần cùng nhau làm việc dưới cùng một mái nhà đầm ấm sum vầy: Cha ngồi bên xa quây vải, cần mẫn quây sợi vào ống. Mẹ trên khung cửi nhịp nhàng đưa thoi, hòa hợp cùng với tiếng kêu cót két của con ác. Chị thì suốt chỉ không ngừng tay. Và em giúp mẹ nhặt chiếc thoi rơi, đôi khi còn chạy vào bếp lấy thanh củi cháy, cho cha mồi điếu thuốc. Thật là một hình ảnh sinh động trong một gia đình đầm ấm, sum vầy. Nơi đây hoài bảo của người viết, không ngoài mục đích truy nhớ đến công ơn của Tổ Tiên, đã giàu công truyền dạy nghề dệt cổ truyền ở quê mình. Các vùng đất tốt, thịt hay cát pha vùng Quảng Huế, Phú Bò, Bảo An, Bàn Lãnh, Đông Bàn…thường thấy người ta gieo trồng cây bông vải. Cây bông vải là một loại cây kỷ nghệ, trồng để lấy sợi dệt vải, đáp ứng nhu cầu may mặc cho con người: mát da về mùa hạ, giữ ấm về mùa đông lạnh lẽo, gió bấc mưa phùn, lụt lội triền đến mấy tháng liền.
Mùa xuân khí hậu mát mẻ, rất thích hợp cho cây bông vải phát triển đơm bông kết trái, để đến đầu mùa hạ trái nở rộ, phơi màu trắng xóa trên các cánh đồng rộng thênh thang. Chuẩn bị cho mùa gieo cây bông rất chu đáo: cày bừa cho đất nhuyển thục, sạch sẽ cỏ dại và sau đó mới rải phân tro đầy đủ. Sau đó người ta bắt đầu lên thành từng luống, chừa rãnh để thoát nước giữ cho cây bông không bị chết ngập. Hạt giống để gieo cũng lo chuẩn bị trước, ngâm nước nóng hâm hẩm qua đêm, ngày hôm sau vớt ra cho vào tro chà xát để tách rời từng hạt, không dính chùm với nhau dễ dàng vải đều trên mặt đất. Một tuần lễ sau cây bông con mọc nhô lên, lúc ban đầu có hai lá yếm trông xinh xắn như chiếc dù nhỏ xíu. Đợi cho cây bông con lớn đôi chút, người ta nhổ tỉa bớt, chừa cây nọ cách cây kia xa nhau 3 tấc. Sau vài ba lần săn sóc cuốc cỏ, tém đất vun gốc, từ từ cây bông dần dà lớn lên, nẫy sinh nhiều nhánh con và cao không quá đầu gối bắt đầu ra hoa, nhìn vào đám cây bông cũng đủ màu sắc: trắng, vàng, tím, rất đẹp mắt, không thua kém loại hoa trồng kiểng bao nhiêu. Khi hoa tàn rụi, trái bông non lộ ra bên trong cuống, lần hồi lớn dần lên và lớn hết cở to bằng quả cau điếc. Sát cuống là đài hoa có bốn tai ôm sát trái bông, đến khi già bốn tép bông nở tung ra phơi bày một màu trắng tinh, mượt mà, mềm mại. Đến mùa hái bông, người ta ra đồng từ tờ mờ sáng tinh sương, khi đó đài bông còn ướt, không bị gãy dính vào múi bông rất khó gỡ ra khi lặt bông. Cây bông ra trái từng đợt, trái nào nở người ta mới hái, mỗi lần vài ba trái, lần cuối cùng trái nhỏ dần và lúc nầy thân cây cũng tàn rụi, thu nhặt gánh về phơi khô dùng làm củi, nấu bếp cũng hữu dụng.
Bông trái thu về, gỡ lấy múi bông ra khỏi đài và đem phơi nắng cho thật khô. Dùng xa cán để loại bỏ hết hạt, trước khi qua giai đoạn làm tơi gọi là bắn bông. Người ta dùng một cành cung, làm bằng gỗ thật dẻo căng bởi sợi dây cung tre vót tròn, hai đầu dún lại để cột vào hai đầu cành cung. Công việc bắn bông làm như thế nầy: bỏ một số lượng bông vừa đủ lên mặt bàn, tay trái cầm cành cung đưa dí dây cung vào mớ bông đó, tay phải cầm một thẻ tre mõng đánh bật vào dây cung liên hồi, nghe bưng bực, bưng bực… khi nào thấy nhã bông đã toe toét, phồng lên như có thể bay lên được mới thôi. Ngắt lấy một ít bông bắn xong, bỏ trải dài trên mặt bàn, đặt lên đó chiếc đủa làm nòng và xe tròn thành con cúi mập nõn nà. Có được con cúi sẽ kéo thành sợi qua chiếc xa kéo vải. Đế xa gồm hai thanh gỗ ghép hình chữ T, chỗ giao điểm dựng lên một trụ đứng cao 4 tấc, nơi đây gắn một vành xa có thể quây chạy vòng tròn. Đầu chân chữ T cũng dựng lên một trụ khác bề cao 2 tấc, trên đầu trụ lắp một trục nằm ngang, trục nầy quây tròn được nhờ bộ phận dây trân, nối chuyền từ vành xa tới rãnh mương của trục. Đầu trục còn lại cắm vào đoạn kèo dù, đầu nhọn đưa ra bên ngoài gọi là con quay. Từ đầu con quay, người ta vê con cúi lấy ra mối chỉ và tra vào đầu con quay, bắt đầu kéo vải. Dùng tay phải quây vành xa, đồng thời trục con quay cũng quây theo, tay trái cầm con cúi từ từ kéo ra, dài tới đâu trục con quay đánh săn tới đó. Khi đã kéo ra hết tầm tay, đưa cánh tay lên cao và quây vào trục thành hình búp chuối, đầu nhọn bên ngoài. Cứ thế mà kéo ra quây vào, hết con cúi nầy nối con cúi khác cho đến khi đầy một búp chỉ no tròn.
Tiếng đồn con gái Bảo An,
khéo mua vải sợi về đan mành mành”.
Mãnh vải có đến nổi sưa như tấm mành mành, mà người ta dùng để ngăn chận bầy gà nhãy vào bươi chải vồng cải, luống rau hay không? Không đâu! Đó là lối khen tặng hơn là chê bai. Các cô gái thợ dệt ở làng Bảo An khéo tay lắm đó. Mặt vải khi vừa mới dệt sưa rích. Nhưng sau khi đem hồ và nghè đập, sợi chỉ sẽ mềm ra nhuyển mượt trông rất đẹp mắt. Khách mà lựa chọn thấy vừa ý liền, không còn do dự chút nào. Vào thời xưa kia, nghề dệt vải và lụa ở quê tôi thuộc phạm vi trong một gia đình riêng rẻ, lẻ loi. Nghề dệt được truyền lại từ đời nầy qua đời nọ. Làm sao quên được hình ảnh thân yêu, khi mọi người quây quần cùng nhau làm việc dưới cùng một mái nhà đầm ấm sum vầy: Cha ngồi bên xa quây vải, cần mẫn quây sợi vào ống. Mẹ trên khung cửi nhịp nhàng đưa thoi, hòa hợp cùng với tiếng kêu cót két của con ác. Chị thì suốt chỉ không ngừng tay. Và em giúp mẹ nhặt chiếc thoi rơi, đôi khi còn chạy vào bếp lấy thanh củi cháy, cho cha mồi điếu thuốc. Thật là một hình ảnh sinh động trong một gia đình đầm ấm, sum vầy. Nơi đây hoài bảo của người viết, không ngoài mục đích truy nhớ đến công ơn của Tổ Tiên, đã giàu công truyền dạy nghề dệt cổ truyền ở quê mình. Các vùng đất tốt, thịt hay cát pha vùng Quảng Huế, Phú Bò, Bảo An, Bàn Lãnh, Đông Bàn…thường thấy người ta gieo trồng cây bông vải. Cây bông vải là một loại cây kỷ nghệ, trồng để lấy sợi dệt vải, đáp ứng nhu cầu may mặc cho con người: mát da về mùa hạ, giữ ấm về mùa đông lạnh lẽo, gió bấc mưa phùn, lụt lội triền đến mấy tháng liền.
Mùa xuân khí hậu mát mẻ, rất thích hợp cho cây bông vải phát triển đơm bông kết trái, để đến đầu mùa hạ trái nở rộ, phơi màu trắng xóa trên các cánh đồng rộng thênh thang. Chuẩn bị cho mùa gieo cây bông rất chu đáo: cày bừa cho đất nhuyển thục, sạch sẽ cỏ dại và sau đó mới rải phân tro đầy đủ. Sau đó người ta bắt đầu lên thành từng luống, chừa rãnh để thoát nước giữ cho cây bông không bị chết ngập. Hạt giống để gieo cũng lo chuẩn bị trước, ngâm nước nóng hâm hẩm qua đêm, ngày hôm sau vớt ra cho vào tro chà xát để tách rời từng hạt, không dính chùm với nhau dễ dàng vải đều trên mặt đất. Một tuần lễ sau cây bông con mọc nhô lên, lúc ban đầu có hai lá yếm trông xinh xắn như chiếc dù nhỏ xíu. Đợi cho cây bông con lớn đôi chút, người ta nhổ tỉa bớt, chừa cây nọ cách cây kia xa nhau 3 tấc. Sau vài ba lần săn sóc cuốc cỏ, tém đất vun gốc, từ từ cây bông dần dà lớn lên, nẫy sinh nhiều nhánh con và cao không quá đầu gối bắt đầu ra hoa, nhìn vào đám cây bông cũng đủ màu sắc: trắng, vàng, tím, rất đẹp mắt, không thua kém loại hoa trồng kiểng bao nhiêu. Khi hoa tàn rụi, trái bông non lộ ra bên trong cuống, lần hồi lớn dần lên và lớn hết cở to bằng quả cau điếc. Sát cuống là đài hoa có bốn tai ôm sát trái bông, đến khi già bốn tép bông nở tung ra phơi bày một màu trắng tinh, mượt mà, mềm mại. Đến mùa hái bông, người ta ra đồng từ tờ mờ sáng tinh sương, khi đó đài bông còn ướt, không bị gãy dính vào múi bông rất khó gỡ ra khi lặt bông. Cây bông ra trái từng đợt, trái nào nở người ta mới hái, mỗi lần vài ba trái, lần cuối cùng trái nhỏ dần và lúc nầy thân cây cũng tàn rụi, thu nhặt gánh về phơi khô dùng làm củi, nấu bếp cũng hữu dụng.
Bông trái thu về, gỡ lấy múi bông ra khỏi đài và đem phơi nắng cho thật khô. Dùng xa cán để loại bỏ hết hạt, trước khi qua giai đoạn làm tơi gọi là bắn bông. Người ta dùng một cành cung, làm bằng gỗ thật dẻo căng bởi sợi dây cung tre vót tròn, hai đầu dún lại để cột vào hai đầu cành cung. Công việc bắn bông làm như thế nầy: bỏ một số lượng bông vừa đủ lên mặt bàn, tay trái cầm cành cung đưa dí dây cung vào mớ bông đó, tay phải cầm một thẻ tre mõng đánh bật vào dây cung liên hồi, nghe bưng bực, bưng bực… khi nào thấy nhã bông đã toe toét, phồng lên như có thể bay lên được mới thôi. Ngắt lấy một ít bông bắn xong, bỏ trải dài trên mặt bàn, đặt lên đó chiếc đủa làm nòng và xe tròn thành con cúi mập nõn nà. Có được con cúi sẽ kéo thành sợi qua chiếc xa kéo vải. Đế xa gồm hai thanh gỗ ghép hình chữ T, chỗ giao điểm dựng lên một trụ đứng cao 4 tấc, nơi đây gắn một vành xa có thể quây chạy vòng tròn. Đầu chân chữ T cũng dựng lên một trụ khác bề cao 2 tấc, trên đầu trụ lắp một trục nằm ngang, trục nầy quây tròn được nhờ bộ phận dây trân, nối chuyền từ vành xa tới rãnh mương của trục. Đầu trục còn lại cắm vào đoạn kèo dù, đầu nhọn đưa ra bên ngoài gọi là con quay. Từ đầu con quay, người ta vê con cúi lấy ra mối chỉ và tra vào đầu con quay, bắt đầu kéo vải. Dùng tay phải quây vành xa, đồng thời trục con quay cũng quây theo, tay trái cầm con cúi từ từ kéo ra, dài tới đâu trục con quay đánh săn tới đó. Khi đã kéo ra hết tầm tay, đưa cánh tay lên cao và quây vào trục thành hình búp chuối, đầu nhọn bên ngoài. Cứ thế mà kéo ra quây vào, hết con cúi nầy nối con cúi khác cho đến khi đầy một búp chỉ no tròn.
Công việc kéo vải, thường dành phần cho trẻ con, hay đàn bà con gái. Tuy vậy, phải có tay nghề giỏi, mới kéo được sợi chỉ trơn tru nhỏ đều hân hấn, bán chạy đắt hàng. Có được búp chỉ rồi đem sang thành chẻ vải, gọi là vải bạch còn bở lắm, phải được ngâm nước lạnh một hai đêm (nước ngâm vải thối lắm). Sau đó giặt xả sạch sẽ, trải từng chẻ vải ra và rắt cơm gạo trắng đã ngâm nước vào, bỏ mớ chẻ vải đó lên miếng đá bằng phẳng, dùng đôi bàn chân đạp nghiền cơm nát bấn, thấm săn quánh vào sợi chỉ trở nên bền chắt hơn. Đến đây người ta lồng hai cánh tay vào chẻ vải, giựt giựt cho từng sợi vải rời ra, rồi đem móc vào cây sào phơi khô ngoài trời nắng. Chẻ vải khô rồi đem cài vào cuồn, đặt lên chiếc quạng và từ đó dùng xa quay để quây thành ống vải múp rụp, hai đầu không bằng nhau, làm như thế khi đặt ống vải thẳng đứng, sợi chỉ kéo lên trơn tru dễ dàng. Khi đủ số lượng ống vải cần thiết, tiếp theo là công việc mắc cửi. Vị trí mắc cửi phải có độ dài 10 – 15 – 20 thước, người ta thường mắc cửi ngoài trời hơn là trong nhà không đủ chiều dài. Ở đầu nầy người ta đặt một bàn cọc, có một số cây cọc con cần thiết, đóng thành hai dãy song song, cây nọ cách cây kia 1 tấc. Các cây cọc đó dùng để giữ cho các ống vải khỏi bị nhào ngã, khi mắc cửi. Bên trên bàn cọc đặt một cây quyết bắt ngang trên cao vừa tầm người vớ, cây quyết có nhiều lỗ khoen do sợi mây cám xỏ ngoằn ngoèo, uốn cong mà thành. Bên cạnh bàn cọc xa khoảng 5 tấc, đặt thêm một bàn lược có một hàng dọc cây chực con đều nhau cách khoảng 8 phân, bàn lược giữ chặt nhờ hai cây cọc đóng ở hai đầu. Ngang hàng bàn lược nầy đóng thêm hai cây chực thầy thật to và trơn tru, dùng để móc chùm canh chỉ vào đó khi bắt nhịp, cài lông mốt âm dương. Đầu đàng kia, tùy theo khoảng cách ấn định, đặt thêm một bàn lược nữa, giống như bàn lược trước và cũng phải giữ cố định bất di dịch. Khởi sự công việc mắc cửi, người thợ chính lần lượt kéo hai sợi chỉ canh từ ống vải lên, một sợi ở hàng cọc phía trước và một sợi ở hàng cọc phía sau nối lại với nhau, xỏ qua một lỗ cây quyết. Sau khi nối xong các mối chỉ như thế, đem tất cả móc vào cây chực con đầu tiên ở bên phải của bàn lược, tiếp tục kéo chùm chỉ dài ra, trao cho người phụ kéo dài đến bàn lược đầu đàng kia, cũng khởi đầu móc vào bên phải. Khi thấy người phụ mắc xong, người thợ chính tiếp tục móc chùm chỉ vào cây chực con kế tiếp và cũng trao cho người phụ làm công việc như trên, cho đến khi nào hết tất cả các cây chực con trên bàn lược. Tới đây dùng mực hay lá mướp vò nát, bôi vào canh chỉ tại tất cả cây chực con, việc đánh dấu nầy sẽ giúp cho người thợ dệt biết chừng đủ độ dài của cây vải sau nầy (dấu nầy nằm bên biên khổ vải). Đến đây là lúc bắt nhịp đi trở lại, gài âm dương. Người thợ chính dùng ngón tay trỏ phải lần lượt bắt ngoéo tréo các sợi canh chỉ, từ phải qua trái, đem móc vào cây chực thầy đóng ở bên cạnh, kéo chùm canh chỉ đi trở lại theo hình số 8 hở, không để nhập lộn vào đường đi tới, nhờ có cây chực thầy đóng ở phía sau phân tách ra. Tất cả những lần đi trở lại, nên nhớ móc ngược chiều với lần đi tới. Công việc lặp đi lặp lại cho đến khi nào đủ số canh chỉ cho khổ vải (khoảng 5 tấc) và chấm dứt ở cây chực con đầu tiên. Mỗi lần móc qua cây chực thầy, người thợ móc trải dài từ dưới lên trên, nhờ thế sẽ dễ dàng xỏ khổ sau nầy. Khi nào thấy đủ khổ vải rồi, người ta lấy chùm canh chỉ ở cây chực con đầu tiên ra, lồng vào cây tiến rồi tra vào một chiếc xa quây có cuồn thật lớn, lần lượt quây hết phần canh chỉ vừa mắc xong vào xa, khóa thăng gài để đó chuẩn bị xỏ chỉ vào khổ. Dựng một cái khổ thẳng đứng gần cây chực thầy, bắt đầu cắt sợi chỉ ra, xỏ từng sợi chỉ qua khe khổ liền nhau nhờ cái lông nhím, và nối lại với nhau, lồng vào cây nẹp bằng tre để giữ lại. Xâu chỉ xong nhỗ cây chực thầy phía trước, thay cây chực thầy phía sau bằng miếng nẹp khác gọi là cái tiến, giữ phần âm dương. Đem cây nẹp gài vào trục cửi, trải đều mặt canh chỉ ra trên trục và đặt lên bộ giàn quây khác, bắt đầu công việc chải cửi.
Người thợ cũng dùng cái lông nhím, để tách rời các sợi chỉ dính chùm lại với nhau, vừa chải vừa đẩy cái khổ di chuyển đi trước, theo sau cây tiến trong suốt thời gian chải cửi. Chải xong đoạn nào quây trục quấn vào, vì hai bên triên thường hay bị dùn nên chi người ta phải dùng lá đa hay lá mù u phơi khô, xấp gấp đôi để lót chằng, giữ cho trục cửi thẳng đều. Tiếp theo chuẩn bị bắt go. Bộ go gồm hai lá, mỗi lá go được làm bằng hai thanh tre nhỏ dài lối chừng 7 tấc, và sợi chỉ go thật dài dùng để thắt vào thẻ tre thành những dãy khoen, có độ dài 10 phân, đặt cho hai dãy khoen nầy giao nhau 6 phân (đây là độ hả để chiếc thoi chui lọt qua). Xen kẻ cách khoảng những khoen 10 phân, còn có những khoen 7 phân, những khoen nầy có từng đôi nối chuyền với nhau và không dùng xỏ sợi chỉ qua, như thế khi treo lá go lên có độ dài 14 phân. Treo bộ go vào cái giá và đặt sát trục cửi để bắt go. Hai người ngồi đối diện nhau, ở giữa là truc cửi và bộ go. Khởi sự, người ngồi bên trục cửi cắt đứt các đầu mối chỉ, tách riêng hai phần canh chỉ âm dương ra nhờ cây tiến đã đặt từ trước. Người ngồi phía bộ go, dùng ngón tay trỏ phải, móc qua hai khoen go dưới và trên của lá go phía trước, chờ tiếp nhận một sợi chỉ ở phần âm từ bên trái của trục cửi, do người kia đưa cho. Kế tiếp người bắt go cũng làm như vậy ở lá go phía sau, bắt lấy một sợi chỉ ở phần dương. Cứ như thế lần hồi cho đến hết sợi canh chỉ cuối cùng. Sau khi bắt go xong, xỏ lại từng mối chỉ qua khe của cái khổ trở lại, nối các mối chỉ lại với nhau, chờ đưa lên khung cửi để dệt thành vải.
Khung cửi dệt có hình dáng như chiếc giường chiếc, đóng bằng gỗ cây mít tốt nhất, hai cặp chân trước cao hơn hai cặp chân sau. Ở về vị trí 1/3 phía trước của cặp thanh, dựng lên hai cây trụ cao 5 tấc, trên đầu cặp trụ nầy bắt qua một cây đòn trơn tru, để đở mặt canh giăng qua. Một hệ thống xy lanh ở phía trước nối liền với dãy khổ nhờ cặp giăng. Nhờ có hệ thống nầy mà dãy khổ có thể di động, nâng lên và dập xuống theo sự điều khiển của người thợ dệt. Phần trước khung cửi đặt trục cửi có thể quây được, phần sau cũng là chỗ ngồi dệt, gần chỗ ngồi về phía trước mặt có trục quấng vải dệt ra. Ngay chỗ ngồi, dưới chân có hai bàn đạp, có thể chuyển động tại đầu gót chân, tựa vào cây nòng sắt xỏ xuyên qua. Đầu mũi của hai bàn đạp có khoan lỗ sẵn, nối chuyền bằng 4 sợi dây lên bộ go. Trên đầu người ngồi, lắp ở đó một con ác bằng gỗ, có thể mổ xuống và ngất lên, theo nhịp đạp của hai bàn chân và cũng nối chuyền bằng 4 sợi dây từ bộ go lên đầu và đuôi con ác. Người ta mang trục cửi đặt lên khung, kéo khổ canh căng qua đòn đở thẳng tới trục quấng, tra chiếc khổ vào dãy khổ, và móc bộ go vào chân bàn đạp thẳng đến con ác, tuần tự như sau: Phần dưới lá go phía trước móc chuyền đến bàn đạp bên phải, phần trên móc chuyền đến đầu mõ con ác. Phần dưới lá go phía sau móc chuyền đến bàn đạp bên trái, phần trên móc chuyền đến đuôi con ác. Đến đây căng néo bộ go cho thật thẳng để độ hả nhịp mới được chính xác, không bị vướng sợi canh chỉ khi dệt. Khi bắt đầu dệt, người thợ dùng bàn tay trái chống đở dãy khổ lên, tay phải cầm chiếc thoi, đạp bàn chân phải xuống, tức thì lá go phía trước kéo tất cả phần âm xuống, lúc nầy con ác chỗng đuôi lên, kéo theo phần dương của lá go phía sau lên, tạo ra độ hả nhịp để chiếc thoi được phóng qua từ tay phải, tay trái bắt lấy thoi đồng thời tay phải diều cho dãy khổ dập xuống. Tiếp theo tay phải chống đở dãy khổ, tay trái giữ lấy chiếc thoi, đạp bàn chân trái xuống, lá go phía sau kéo phần âm xuống, con ác ngất mõ lên, lá go phía trước kéo theo phần dương lên, tay trái phóng thoi qua trở lại, tay phải bắt lấy thoi, đồng thời tay trái diều cho dãy khổ dập xuống. Các động tác cứ thế mà lặp đi lặp lại, theo sự điều hợp nhịp nhàng giữa chân, tay và mắt của người thợ dệt, ròng rã suốt ngày đêm. Ngoài ra cũng còn vài công việc phụ như: cái suốt chỉ phải ngâm vào nước, vớt ra vắt cho ráo mới tra vào chiếc thoi để dệt, thỉnh thoảng còn dùng gùi vải ướt, thoa đều lên mặt khổ vải đang dệt, giữ cho mặt vải khỏi bị sượng nhăn nheo, và bên dưới còn có cặp giăng hình cung luôn luôn gài vào. Cây vải tháo ra từ trục, người ta còn phải phun hồ và cuộn tròn vào cây trục, xong rồi đặt trục vải lên miếng đá bằng phẳng, hai vợ chồng ngồi ở hai bên, mỗi người trên tay cầm chày, vừa đập vừa lăn tròn đều tay, tạo nên mặt vải dày mịn, mượt mà… Hàng vải dệt ra giữ nguyên màu trắng, hoặc nhuộm thành màu đen hay đà còn tùy thuộc vào giới tiêu thụ ưa thích. Cũng có thể dệt thành vải sọc dọc, rằn ca rô cũng không mấy khó khăn, bằng cách đặt xen kẻ ống chỉ màu vào giữa ống chỉ trắng, trong lúc mắc cửi và thay đổi chiếc thoi có suốt chỉ khác màu. Vải dệt như trên ở quê tôi gọi là vải ta, mặc rất mát dễ rút mồ hôi, khi làm việc nơi đồng án, ruộng nương… Nhưng có điều bở lắm, mau rách và cũng không được đẹp cho mấy.
Khung cửi dệt có hình dáng như chiếc giường chiếc, đóng bằng gỗ cây mít tốt nhất, hai cặp chân trước cao hơn hai cặp chân sau. Ở về vị trí 1/3 phía trước của cặp thanh, dựng lên hai cây trụ cao 5 tấc, trên đầu cặp trụ nầy bắt qua một cây đòn trơn tru, để đở mặt canh giăng qua. Một hệ thống xy lanh ở phía trước nối liền với dãy khổ nhờ cặp giăng. Nhờ có hệ thống nầy mà dãy khổ có thể di động, nâng lên và dập xuống theo sự điều khiển của người thợ dệt. Phần trước khung cửi đặt trục cửi có thể quây được, phần sau cũng là chỗ ngồi dệt, gần chỗ ngồi về phía trước mặt có trục quấng vải dệt ra. Ngay chỗ ngồi, dưới chân có hai bàn đạp, có thể chuyển động tại đầu gót chân, tựa vào cây nòng sắt xỏ xuyên qua. Đầu mũi của hai bàn đạp có khoan lỗ sẵn, nối chuyền bằng 4 sợi dây lên bộ go. Trên đầu người ngồi, lắp ở đó một con ác bằng gỗ, có thể mổ xuống và ngất lên, theo nhịp đạp của hai bàn chân và cũng nối chuyền bằng 4 sợi dây từ bộ go lên đầu và đuôi con ác. Người ta mang trục cửi đặt lên khung, kéo khổ canh căng qua đòn đở thẳng tới trục quấng, tra chiếc khổ vào dãy khổ, và móc bộ go vào chân bàn đạp thẳng đến con ác, tuần tự như sau: Phần dưới lá go phía trước móc chuyền đến bàn đạp bên phải, phần trên móc chuyền đến đầu mõ con ác. Phần dưới lá go phía sau móc chuyền đến bàn đạp bên trái, phần trên móc chuyền đến đuôi con ác. Đến đây căng néo bộ go cho thật thẳng để độ hả nhịp mới được chính xác, không bị vướng sợi canh chỉ khi dệt. Khi bắt đầu dệt, người thợ dùng bàn tay trái chống đở dãy khổ lên, tay phải cầm chiếc thoi, đạp bàn chân phải xuống, tức thì lá go phía trước kéo tất cả phần âm xuống, lúc nầy con ác chỗng đuôi lên, kéo theo phần dương của lá go phía sau lên, tạo ra độ hả nhịp để chiếc thoi được phóng qua từ tay phải, tay trái bắt lấy thoi đồng thời tay phải diều cho dãy khổ dập xuống. Tiếp theo tay phải chống đở dãy khổ, tay trái giữ lấy chiếc thoi, đạp bàn chân trái xuống, lá go phía sau kéo phần âm xuống, con ác ngất mõ lên, lá go phía trước kéo theo phần dương lên, tay trái phóng thoi qua trở lại, tay phải bắt lấy thoi, đồng thời tay trái diều cho dãy khổ dập xuống. Các động tác cứ thế mà lặp đi lặp lại, theo sự điều hợp nhịp nhàng giữa chân, tay và mắt của người thợ dệt, ròng rã suốt ngày đêm. Ngoài ra cũng còn vài công việc phụ như: cái suốt chỉ phải ngâm vào nước, vớt ra vắt cho ráo mới tra vào chiếc thoi để dệt, thỉnh thoảng còn dùng gùi vải ướt, thoa đều lên mặt khổ vải đang dệt, giữ cho mặt vải khỏi bị sượng nhăn nheo, và bên dưới còn có cặp giăng hình cung luôn luôn gài vào. Cây vải tháo ra từ trục, người ta còn phải phun hồ và cuộn tròn vào cây trục, xong rồi đặt trục vải lên miếng đá bằng phẳng, hai vợ chồng ngồi ở hai bên, mỗi người trên tay cầm chày, vừa đập vừa lăn tròn đều tay, tạo nên mặt vải dày mịn, mượt mà… Hàng vải dệt ra giữ nguyên màu trắng, hoặc nhuộm thành màu đen hay đà còn tùy thuộc vào giới tiêu thụ ưa thích. Cũng có thể dệt thành vải sọc dọc, rằn ca rô cũng không mấy khó khăn, bằng cách đặt xen kẻ ống chỉ màu vào giữa ống chỉ trắng, trong lúc mắc cửi và thay đổi chiếc thoi có suốt chỉ khác màu. Vải dệt như trên ở quê tôi gọi là vải ta, mặc rất mát dễ rút mồ hôi, khi làm việc nơi đồng án, ruộng nương… Nhưng có điều bở lắm, mau rách và cũng không được đẹp cho mấy.
Và đến đây xin mời trở về quê tôi qua hàng tơ lụa, có giá trị bền chắt nhiều hơn: “Sắc bùa là sắc bùa âu, năm ni năm mới trồng dâu để tằm. Sắc bùa là sắc bùa nằm, năm ni năm mới nuôi tằm ươm tơ. Sắc bùa… “. Đó là câu mỡ đầu chúc đầu xuân ngày tết, mà đoàn sắc bùa đi đến từng nhà, chúc cho gia chủ trúng mí tằm, làm ăn phát đạt thịnh vượng. Bởi vì nghề trồng dâu nuôi tằm ở thôn quê, nếu gặp thời vận thì có thể tạo thêm trâu bò, sửa sang nhà cửa khang trang, đẹp đẽ hơn: “Làm ruộng ba năm, không bằng trúng tằm một mí”. Nghề “để” tằm có lợi dữ như thế đó!
Vùng đất trồng cây dâu thích hợp nhất, thường dọc theo hai bên bờ sông. Các biền dâu Quảng Đợi, Giao Thủy, Mỹ Lược, Bến Đền…ngọn cao vút, lá xanh non mượt là nguồn làm thức ăn nuôi tằm thích hợp nhất. Hể nhà nông nào có nhà cửa rộng rãi, thoáng mát thì có thể dựng buồng nuôi tằm. Buồng nuôi tằm bao gồm một cái đuổi, đóng bằng gốc tre hay bằng gỗ, hình thức chỉ là cái kệ có nhiều tầng. Mỗi tầng đơn sơ chỉ võn vẹn hai cây thanh ngang và hai cây thanh dọc, nâng đở từng chiếc nong tằm trên đó. Bao che quanh đuổi bằng cái mùng vải thật rộng lớn, nhằm mục đích ngăn chận bầy ruồi lằn ưa sà vào cắn chích, gây bệnh cho con tằm có những chấm đen, sau nầy không làm được kén tốt. Gây giống bằng cách, người ta chọn lựa toàn những con kén giống cứng no tròn, bỏ vào giỏ dâu, gài nắp cẩn thận đem cất giữ nơi cao ráo, mát mẻ. Kén giống sau 3 ngày sẽ lộn thành nhộng, múp đầu múp đuôi. Đời sống của nhộng trong vòng 7 ngày sẽ hóa thành bướm. Bướm dùng miệng cắn quanh một vòng tròn ở đầu kén, để chui ra ngoài. Đây cũng là một đặc điểm sinh tồn tự nhiên, chứ thực ra cái kén rất dai và bền vô cùng, dùng con dao bén ngọt mà cắt vỏ cũng khó đứt. Bướm sinh ra màu trắng ngà, thân mình đầy lông măng và dính đầy phấn. Chúng nó có đôi cánh nhỏ, không bay được, chỉ bò quanh quẩn trong cái trẹt, nhịp nhịp đôi cánh xê dịch gần xa để tìm nhau đực cái thụ tinh. Khi nào thấy bướm cái đã đạt được mục đích, người ta lựa riêng bướm cái ra, đem bỏ vào cái trẹt có lót giấy mềm mõng dễ hút nước, thường dùng giấy viết chữ nho tốt nhất. Bầy bướm cái bò lui, bò tới hay lòng vòng đẻ từng dãy trứng dính liền với nhau trên mặt giấy. Người ta cuộn tròn mặt có trứng vào bên trong, cột dây lại và treo trên trần nhà, đề phòng chuột, thằn lằn phá hại. Bảy ngày sau, trứng bướm nở ra tằm con nhỏ li ti, màu đen xam xám, mình mẫy có nhiều lông con nho nhỏ. Dùng cái lông gà quét phủi hết tằm con vào chiếc nia, bắt đầu săn sóc trông nom từng giờ, cả ngày lẩn đêm. Lúc đầu tằm chỉ ăn được lá dâu non, xắt nhỏ như sợi thuốc rê, mỗi lần cho ăn người ta rải đều lá dâu xắt phủ kín lên mình tằm, bắt được mùi lá dâu, tằm con đua nhau ăn rất nhanh, xong rồi nằm nghỉ và lại ngẩn đầu lên chờ ăn đợt kế tiếp… Mỗi ngày cần làm phân cho tằm 2 lần, bằng cách cuốn lớp mặt có cả tằm lẫn một ít lá dâu lấy ra, chừa lại phần phân hạt tròn nhỏ xíu cùng lá dâu thừa bên dưới. Dùng chiếc nia khác mà sang tằm qua, tiếp tục cho ăn đến ngày thứ 4, tằm không ăn nữa và ngủ liền trong 24 giờ. Đây là thời kỳ tằm con thay da và rụng hết lông con. Tằm thức dậy, tiếp tục cho ăn lá dâu xắt lớn hơn, trong vòng 7 ngày nữa, tằm lại ngủ trở lại 24 giờ. Thời kỳ nầy gọi là tằm ăn mốt, con tằm lớn dần to bằng ruột cây viết chì. Tằm ăn hai thức dậy, có thể ăn nguyên lá dâu, cho ăn tiếp tục 2 ngày ½ nữa, tằm lại ngủ trở lại cũng 24 giờ. Tằm ăn ba, bây giờ tằm ăn được lá dâu già hơn, cho ăn như thế trong vòng 3 ngày nữa, tằm lại thôi ăn và ngủ tiếp 24 giờ. Sau thời kỳ ăn ba, cho tằm ăn cả cộng dâu cũng được. Nhìn vào nong tằm, thấy chúng nó ăn rất nhanh và khỏe, ghé tai gần nong tằm nghe được rõ ràng tiếng tằm ăn rào rạo. Bởi lẽ đó, nhà nuôi tằm thường trầm trồ, khen lấy khen để: “ăn như tằm ăn lên”. Sướng mắt quá! Mỗi lần lên tuổi, tằm lớn lên thấy rất rõ, biến dần màu trắng ngà, người ta phải phân chia, sang ra thành nhiều nong, tránh được tình trạng nục, chật chội làm tằm chậm lớn và sinh bệnh. Lúc nầy là lúc nhà nuôi tằm bận rộn nhất, nào lo chạy hái cho đủ số lá dâu cung ứng, suốt trong 7 ngày ròng rã của giai đoạn chót: “trăm dâu, đổ đầu tằm”, nào lo cậy mượn hàng xóm chuẩn bị làm bủa, và nhất là thao thức trông chờ thành quả, mí tằm không phải đem đổ đi vì mắc bệnh. Vất vả như thế, cho nên người ta mới nói rằng: “làm ruộng ăn cơm nằm, làm tằm ăn cơn đứng”. Trước hai ngày chín rộ, nhìn vào nong tằm thấy lác đác có một ít con tằm chớm ướm vàng, gọi là Tin (báo hiệu). Đến ngày cuối cùng, tất cả nong tằm chín ửng vàng, óng ánh chất tơ bên trong bụng vàng khè. Cả loạt lớn đều một lứa, to bằng cây bút chì và dài lối 3 phân tây. Tằm chín sẽ làm ra cái kén trên tấm bủa. Người ta dùng hom dâu hay cây rang núi phơi khô giũ sạch lá, đem sắp thành hai lớp bỏ ngang bao bọc một lớp bỏ dọc ở giữa. Thêm vào đó còn có nhiều cây róng dọc cột nẹp lại với nhau, giữ cho tấm bủa được cứng cáp. Bủa còn có một đòn khiêng ở giữa, để dễ di chuyển vì cũng khá nặng. Đặt tấm bủa nằm nghiêng 45 độ, ngoài trời hanh nắng nhờ có cặp nạng chống ở hai đầu. Người ta đem số tằm chín rải đều lên trên mặt của bủa, tằm bắt đầu nhả tơ xấu ra trước để gầy tổ bên ngoài và tiếp tục nhả tơ tốt làm tổ cho đến khi hết tơ trong bụng là xong tổ kén. Đôi khi trời nắng nóng quá, người ta phải di chuyển tấm bủa vào chỗ có bóng mát, tránh tình trạng tằm chết vì cháy nắng, ngược lại về chiều trời mát phải dùng nồi lửa than vùi tro, đặt phía dưới tấm bủa gây thêm hơi nóng, thúc giục con tằm làm kén mau hơn. Suốt ngày canh chừng lũ chèo bẽo, chim khách hay bầy gà thừa cơ sà xuống ăn càng. Chiều tối, khi nào thấy tằm trên bủa làm kén đến con cuối cùng, người ta xúm nhau khiêng hết các tấm bủa về nhà, nhặt gỡ lấy từng cái kén ra, bỏ dồn tất cả vào cái nong đặt trên cặp ghế ngựa dài, ngay giữa nhà. Bạn hàng đi mua kén (còn gọi đi hốt kén) xem xét lựa chọn loại kén nặng nhẹ, dày mõng, tốt xấu mà trả giá cao thấp tùy theo từng loại. Kén hốt về phải đợi sau 3 ngày, tằm lộn thành nhộng, mới đem ươm lấy tơ, và còn được ăn con nhộng tươi ngon lành.
Muốn dệt lụa cần phải có tơ, công việc cũng không đơn giản đâu? Trước khi ươm tơ, công việc đầu tiên là kéo thao càng, thao kiệt. Đó là loại tơ xấu con tằm nhã ra trước tiên, lớp trong ¾ là loại tơ tốt nhất, óng ánh màu vàng tươi, hơi hơi đỏ tuyệt đẹp. Một hỏa lò đắp nổi đun vừa nóng hẩm nồi nước, khiến cho những cái kén nhã tơ ra dễ dàng. Bên cạnh lò đóng một cây cọc mà trên đầu có gắn một trục chỉ, làm tục quay kéo từng sợi chỉ thao đi qua. Tay phải người thợ cầm đôi đủa canh, tìm vớt lên một vài mối chỉ của cái kén rồi kéo lên móc vòng qua trục chỉ, tay trái dùng hai ngón trỏ và cái nắm lấy mối chỉ lôi lên từ từ, bỏ vào chiếc mũng trẹt, lớp nọ chồng lên lớp kia. Đôi đủa canh luôn luôn canh chừng, không cho cái kén chạy lên khỏi mặt nước và dính chùm lại với nhau. Cứ thế mà kéo hết phần xấu bên ngoài ra, đến lớp tốt dừng lại vớt ra ngoài, chuẩn bị cho phần việc ươm tơ. Phần sợi kéo ra từ lớp bên ngoài, sợi cứng thô kịch gọi là thao càng, dùng để dệt trủ đứng cá trong mùa nước lụt. Phần sợi kế tiếp có phần mềm hơn, màu vàng nhạt gọi là thao kiệt, loại sợi nầy dệt thành hàng thông dụng, may quần đùi áo cánh, bền hết sức. Sau nầy còn dùng dệt hàng tuýt xo, may âu phục cũng thịnh hành một thời. Lò ươm tơ đặt ngay trong nhà ở, hay căn trại cất riêng tùy theo thuận tiện của mỗi gia đình. Lò đắp nổi bằng đất sét trộn rơm khô, bao bọc cái nồi ươm bằng đất thật to, miệng rộng đến 5 tấc. Cửa lò đắp loe ra, nhô lên cao để giảm hơi lửa nóng và nhất là tránh khói cho người thợ ngồi ươm tơ. Một chiếc xa ươm đặt sát bên lò, đóng bằng gỗ hình thức như cái củi đựng chén bát, xa ươm có hệ thống lan đều sợi tơ trên cuồn xa, nhờ có trục hình trụ đường kính 10 phân bề cao 15 phân dựng đứng, quây tròn cùng một lúc với trục bằng sợi dây trân nối chuyền. Cuồn xa được gắn từ trục nằm ngang, có 5 cánh xa chữ T cố định và một cánh chữ T có thể tháo ra được, khi cần tháo nén tơ ra khỏi cuồn. Đầu trục có gắn tay quây để quây cuồn xa chạy vòng tròn liên hồi. Cung cấp đủ số kén cho một lò ươm, phải cần vài ba người kéo sợi thao từ trước, chuẩn bị đầy đủ cho một lò ươm. Một người đàn bà ngồi trên chiếc ghế vuông thấp, trên tay cầm đôi đủa canh, bắt lên 3 mối tơ (mỗi mối tơ do vài ba con kén nhã sợi tơ nhập lại) xỏ qua 3 cái lỗ có hình dạng như đồng tiền, tiện bằng gỗ, nằm trên hệ thống xa ươm, sát bên trên miệng nồi ươm. Tiếp đến nối chuyền đến khoen lỗ cây lan can của hệ thống, thẳng tới cuồn xa. Một người con trai xử dụng cả hai bàn tay, đánh tới, kéo lui trên tay quây để cuồn xa quây tròn đều đều một tốc độ, 3 mối tơ chạy lên và lan đều trên cuồn thành 3 nén tơ. Quang cảnh thật vui nhộn với tiếng xa ươm nghe rè rè, xình xịch, hòa lẫn với tiếng hát hò khoan, đượm tình quê hương trong cảnh thanh bình, thịnh vượng. Đến trưa hay chiều tối mới xả một lần, vớt nhộng ra và thay nước mới. Ở miền quê món nhộng chiên mặn ăn với cơm rất thông dụng, quen thuộc mọi nhà, và món nhộng trộn với búp chuối sứ xắt nhỏ, hay tép bòng, xúc bánh tráng nướng là món thổ sản địa phương, ăn ngon miệng và mát dạ, mọi người đều ưa thich. Một số con nhộng lẫn trong mớ tằm nín, không tróc lớp vỏ bọc bên ngoài, bu dính chùm trong mớ xác xả, đem nấu bỏ muối mặn cho teo lại, các bà, các cô gỡ ra từng con, ăn ghiền còn hơn lể ốc gạo rất nhiều. Sợi tơ ươm ra cũng dệt giống như dệt vải. Nhưng là loại hàng sang trọng, màu vàng nhạt láng mượt rất thanh nhã, trông rất đẹp mắt và bền chắt lắm đó. Tuy nhiên, hàng tơ lụa không mấy thông dụng ở vùng thôn quê, vì thuộc loại hàng sang, đắt tiền, nên chỉ bán được cho giới giàu có, hoặc bán ra nước ngoài thu lợi nhuận nhiều hơn.
Ngày nay trên quê hương, không còn thấy một chiếc khung cửi cổ điển thô sơ nào nữa, nghề dệt cổ truyền mất hẵn. Thay vào đó, hàng loạt khung cửi máy ra đời, chiếm mọi ưu thế. Hàng vải, lụa, dệt ra vừa nhanh lại vừa đẹp và bền chắt dài lâu. Thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi của giới tiêu thụ, và được ưa chuộng nhiều hơn. Còn đâu hình ảnh sinh hoạt linh động triều mến ngày xưa: từ khi thấy người ta gieo trồng cây bông vải, cho tới khi dệt thành cây vải đem may mặc, và cách thức người ta trồng dâu nuôi tằm, cho đến ươm tơ, dệt lụa. Tất cả đã lùi về quá khứ xa vời. Ôi! Chỉ còn lại kỷ niệm trong ký ức nhạt nhòa, và luyến tiếc một thời xa xưa trong tiềm thức thuộc về dĩ vãng mà thôi./-
Đoàn Ngọc Nam
Vùng đất trồng cây dâu thích hợp nhất, thường dọc theo hai bên bờ sông. Các biền dâu Quảng Đợi, Giao Thủy, Mỹ Lược, Bến Đền…ngọn cao vút, lá xanh non mượt là nguồn làm thức ăn nuôi tằm thích hợp nhất. Hể nhà nông nào có nhà cửa rộng rãi, thoáng mát thì có thể dựng buồng nuôi tằm. Buồng nuôi tằm bao gồm một cái đuổi, đóng bằng gốc tre hay bằng gỗ, hình thức chỉ là cái kệ có nhiều tầng. Mỗi tầng đơn sơ chỉ võn vẹn hai cây thanh ngang và hai cây thanh dọc, nâng đở từng chiếc nong tằm trên đó. Bao che quanh đuổi bằng cái mùng vải thật rộng lớn, nhằm mục đích ngăn chận bầy ruồi lằn ưa sà vào cắn chích, gây bệnh cho con tằm có những chấm đen, sau nầy không làm được kén tốt. Gây giống bằng cách, người ta chọn lựa toàn những con kén giống cứng no tròn, bỏ vào giỏ dâu, gài nắp cẩn thận đem cất giữ nơi cao ráo, mát mẻ. Kén giống sau 3 ngày sẽ lộn thành nhộng, múp đầu múp đuôi. Đời sống của nhộng trong vòng 7 ngày sẽ hóa thành bướm. Bướm dùng miệng cắn quanh một vòng tròn ở đầu kén, để chui ra ngoài. Đây cũng là một đặc điểm sinh tồn tự nhiên, chứ thực ra cái kén rất dai và bền vô cùng, dùng con dao bén ngọt mà cắt vỏ cũng khó đứt. Bướm sinh ra màu trắng ngà, thân mình đầy lông măng và dính đầy phấn. Chúng nó có đôi cánh nhỏ, không bay được, chỉ bò quanh quẩn trong cái trẹt, nhịp nhịp đôi cánh xê dịch gần xa để tìm nhau đực cái thụ tinh. Khi nào thấy bướm cái đã đạt được mục đích, người ta lựa riêng bướm cái ra, đem bỏ vào cái trẹt có lót giấy mềm mõng dễ hút nước, thường dùng giấy viết chữ nho tốt nhất. Bầy bướm cái bò lui, bò tới hay lòng vòng đẻ từng dãy trứng dính liền với nhau trên mặt giấy. Người ta cuộn tròn mặt có trứng vào bên trong, cột dây lại và treo trên trần nhà, đề phòng chuột, thằn lằn phá hại. Bảy ngày sau, trứng bướm nở ra tằm con nhỏ li ti, màu đen xam xám, mình mẫy có nhiều lông con nho nhỏ. Dùng cái lông gà quét phủi hết tằm con vào chiếc nia, bắt đầu săn sóc trông nom từng giờ, cả ngày lẩn đêm. Lúc đầu tằm chỉ ăn được lá dâu non, xắt nhỏ như sợi thuốc rê, mỗi lần cho ăn người ta rải đều lá dâu xắt phủ kín lên mình tằm, bắt được mùi lá dâu, tằm con đua nhau ăn rất nhanh, xong rồi nằm nghỉ và lại ngẩn đầu lên chờ ăn đợt kế tiếp… Mỗi ngày cần làm phân cho tằm 2 lần, bằng cách cuốn lớp mặt có cả tằm lẫn một ít lá dâu lấy ra, chừa lại phần phân hạt tròn nhỏ xíu cùng lá dâu thừa bên dưới. Dùng chiếc nia khác mà sang tằm qua, tiếp tục cho ăn đến ngày thứ 4, tằm không ăn nữa và ngủ liền trong 24 giờ. Đây là thời kỳ tằm con thay da và rụng hết lông con. Tằm thức dậy, tiếp tục cho ăn lá dâu xắt lớn hơn, trong vòng 7 ngày nữa, tằm lại ngủ trở lại 24 giờ. Thời kỳ nầy gọi là tằm ăn mốt, con tằm lớn dần to bằng ruột cây viết chì. Tằm ăn hai thức dậy, có thể ăn nguyên lá dâu, cho ăn tiếp tục 2 ngày ½ nữa, tằm lại ngủ trở lại cũng 24 giờ. Tằm ăn ba, bây giờ tằm ăn được lá dâu già hơn, cho ăn như thế trong vòng 3 ngày nữa, tằm lại thôi ăn và ngủ tiếp 24 giờ. Sau thời kỳ ăn ba, cho tằm ăn cả cộng dâu cũng được. Nhìn vào nong tằm, thấy chúng nó ăn rất nhanh và khỏe, ghé tai gần nong tằm nghe được rõ ràng tiếng tằm ăn rào rạo. Bởi lẽ đó, nhà nuôi tằm thường trầm trồ, khen lấy khen để: “ăn như tằm ăn lên”. Sướng mắt quá! Mỗi lần lên tuổi, tằm lớn lên thấy rất rõ, biến dần màu trắng ngà, người ta phải phân chia, sang ra thành nhiều nong, tránh được tình trạng nục, chật chội làm tằm chậm lớn và sinh bệnh. Lúc nầy là lúc nhà nuôi tằm bận rộn nhất, nào lo chạy hái cho đủ số lá dâu cung ứng, suốt trong 7 ngày ròng rã của giai đoạn chót: “trăm dâu, đổ đầu tằm”, nào lo cậy mượn hàng xóm chuẩn bị làm bủa, và nhất là thao thức trông chờ thành quả, mí tằm không phải đem đổ đi vì mắc bệnh. Vất vả như thế, cho nên người ta mới nói rằng: “làm ruộng ăn cơm nằm, làm tằm ăn cơn đứng”. Trước hai ngày chín rộ, nhìn vào nong tằm thấy lác đác có một ít con tằm chớm ướm vàng, gọi là Tin (báo hiệu). Đến ngày cuối cùng, tất cả nong tằm chín ửng vàng, óng ánh chất tơ bên trong bụng vàng khè. Cả loạt lớn đều một lứa, to bằng cây bút chì và dài lối 3 phân tây. Tằm chín sẽ làm ra cái kén trên tấm bủa. Người ta dùng hom dâu hay cây rang núi phơi khô giũ sạch lá, đem sắp thành hai lớp bỏ ngang bao bọc một lớp bỏ dọc ở giữa. Thêm vào đó còn có nhiều cây róng dọc cột nẹp lại với nhau, giữ cho tấm bủa được cứng cáp. Bủa còn có một đòn khiêng ở giữa, để dễ di chuyển vì cũng khá nặng. Đặt tấm bủa nằm nghiêng 45 độ, ngoài trời hanh nắng nhờ có cặp nạng chống ở hai đầu. Người ta đem số tằm chín rải đều lên trên mặt của bủa, tằm bắt đầu nhả tơ xấu ra trước để gầy tổ bên ngoài và tiếp tục nhả tơ tốt làm tổ cho đến khi hết tơ trong bụng là xong tổ kén. Đôi khi trời nắng nóng quá, người ta phải di chuyển tấm bủa vào chỗ có bóng mát, tránh tình trạng tằm chết vì cháy nắng, ngược lại về chiều trời mát phải dùng nồi lửa than vùi tro, đặt phía dưới tấm bủa gây thêm hơi nóng, thúc giục con tằm làm kén mau hơn. Suốt ngày canh chừng lũ chèo bẽo, chim khách hay bầy gà thừa cơ sà xuống ăn càng. Chiều tối, khi nào thấy tằm trên bủa làm kén đến con cuối cùng, người ta xúm nhau khiêng hết các tấm bủa về nhà, nhặt gỡ lấy từng cái kén ra, bỏ dồn tất cả vào cái nong đặt trên cặp ghế ngựa dài, ngay giữa nhà. Bạn hàng đi mua kén (còn gọi đi hốt kén) xem xét lựa chọn loại kén nặng nhẹ, dày mõng, tốt xấu mà trả giá cao thấp tùy theo từng loại. Kén hốt về phải đợi sau 3 ngày, tằm lộn thành nhộng, mới đem ươm lấy tơ, và còn được ăn con nhộng tươi ngon lành.
Muốn dệt lụa cần phải có tơ, công việc cũng không đơn giản đâu? Trước khi ươm tơ, công việc đầu tiên là kéo thao càng, thao kiệt. Đó là loại tơ xấu con tằm nhã ra trước tiên, lớp trong ¾ là loại tơ tốt nhất, óng ánh màu vàng tươi, hơi hơi đỏ tuyệt đẹp. Một hỏa lò đắp nổi đun vừa nóng hẩm nồi nước, khiến cho những cái kén nhã tơ ra dễ dàng. Bên cạnh lò đóng một cây cọc mà trên đầu có gắn một trục chỉ, làm tục quay kéo từng sợi chỉ thao đi qua. Tay phải người thợ cầm đôi đủa canh, tìm vớt lên một vài mối chỉ của cái kén rồi kéo lên móc vòng qua trục chỉ, tay trái dùng hai ngón trỏ và cái nắm lấy mối chỉ lôi lên từ từ, bỏ vào chiếc mũng trẹt, lớp nọ chồng lên lớp kia. Đôi đủa canh luôn luôn canh chừng, không cho cái kén chạy lên khỏi mặt nước và dính chùm lại với nhau. Cứ thế mà kéo hết phần xấu bên ngoài ra, đến lớp tốt dừng lại vớt ra ngoài, chuẩn bị cho phần việc ươm tơ. Phần sợi kéo ra từ lớp bên ngoài, sợi cứng thô kịch gọi là thao càng, dùng để dệt trủ đứng cá trong mùa nước lụt. Phần sợi kế tiếp có phần mềm hơn, màu vàng nhạt gọi là thao kiệt, loại sợi nầy dệt thành hàng thông dụng, may quần đùi áo cánh, bền hết sức. Sau nầy còn dùng dệt hàng tuýt xo, may âu phục cũng thịnh hành một thời. Lò ươm tơ đặt ngay trong nhà ở, hay căn trại cất riêng tùy theo thuận tiện của mỗi gia đình. Lò đắp nổi bằng đất sét trộn rơm khô, bao bọc cái nồi ươm bằng đất thật to, miệng rộng đến 5 tấc. Cửa lò đắp loe ra, nhô lên cao để giảm hơi lửa nóng và nhất là tránh khói cho người thợ ngồi ươm tơ. Một chiếc xa ươm đặt sát bên lò, đóng bằng gỗ hình thức như cái củi đựng chén bát, xa ươm có hệ thống lan đều sợi tơ trên cuồn xa, nhờ có trục hình trụ đường kính 10 phân bề cao 15 phân dựng đứng, quây tròn cùng một lúc với trục bằng sợi dây trân nối chuyền. Cuồn xa được gắn từ trục nằm ngang, có 5 cánh xa chữ T cố định và một cánh chữ T có thể tháo ra được, khi cần tháo nén tơ ra khỏi cuồn. Đầu trục có gắn tay quây để quây cuồn xa chạy vòng tròn liên hồi. Cung cấp đủ số kén cho một lò ươm, phải cần vài ba người kéo sợi thao từ trước, chuẩn bị đầy đủ cho một lò ươm. Một người đàn bà ngồi trên chiếc ghế vuông thấp, trên tay cầm đôi đủa canh, bắt lên 3 mối tơ (mỗi mối tơ do vài ba con kén nhã sợi tơ nhập lại) xỏ qua 3 cái lỗ có hình dạng như đồng tiền, tiện bằng gỗ, nằm trên hệ thống xa ươm, sát bên trên miệng nồi ươm. Tiếp đến nối chuyền đến khoen lỗ cây lan can của hệ thống, thẳng tới cuồn xa. Một người con trai xử dụng cả hai bàn tay, đánh tới, kéo lui trên tay quây để cuồn xa quây tròn đều đều một tốc độ, 3 mối tơ chạy lên và lan đều trên cuồn thành 3 nén tơ. Quang cảnh thật vui nhộn với tiếng xa ươm nghe rè rè, xình xịch, hòa lẫn với tiếng hát hò khoan, đượm tình quê hương trong cảnh thanh bình, thịnh vượng. Đến trưa hay chiều tối mới xả một lần, vớt nhộng ra và thay nước mới. Ở miền quê món nhộng chiên mặn ăn với cơm rất thông dụng, quen thuộc mọi nhà, và món nhộng trộn với búp chuối sứ xắt nhỏ, hay tép bòng, xúc bánh tráng nướng là món thổ sản địa phương, ăn ngon miệng và mát dạ, mọi người đều ưa thich. Một số con nhộng lẫn trong mớ tằm nín, không tróc lớp vỏ bọc bên ngoài, bu dính chùm trong mớ xác xả, đem nấu bỏ muối mặn cho teo lại, các bà, các cô gỡ ra từng con, ăn ghiền còn hơn lể ốc gạo rất nhiều. Sợi tơ ươm ra cũng dệt giống như dệt vải. Nhưng là loại hàng sang trọng, màu vàng nhạt láng mượt rất thanh nhã, trông rất đẹp mắt và bền chắt lắm đó. Tuy nhiên, hàng tơ lụa không mấy thông dụng ở vùng thôn quê, vì thuộc loại hàng sang, đắt tiền, nên chỉ bán được cho giới giàu có, hoặc bán ra nước ngoài thu lợi nhuận nhiều hơn.
Ngày nay trên quê hương, không còn thấy một chiếc khung cửi cổ điển thô sơ nào nữa, nghề dệt cổ truyền mất hẵn. Thay vào đó, hàng loạt khung cửi máy ra đời, chiếm mọi ưu thế. Hàng vải, lụa, dệt ra vừa nhanh lại vừa đẹp và bền chắt dài lâu. Thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi của giới tiêu thụ, và được ưa chuộng nhiều hơn. Còn đâu hình ảnh sinh hoạt linh động triều mến ngày xưa: từ khi thấy người ta gieo trồng cây bông vải, cho tới khi dệt thành cây vải đem may mặc, và cách thức người ta trồng dâu nuôi tằm, cho đến ươm tơ, dệt lụa. Tất cả đã lùi về quá khứ xa vời. Ôi! Chỉ còn lại kỷ niệm trong ký ức nhạt nhòa, và luyến tiếc một thời xa xưa trong tiềm thức thuộc về dĩ vãng mà thôi./-
Đoàn Ngọc Nam
9. Thân GÁI 12 Bến Nước
Ngày xưa, xưa lắm rồi. Xã hội Việt Nam ta, chịu ảnh hưởng nền văn hóa nho học. Sự giao thiệp thân mật giữa trai gái rất hạn chế và còn bị cấm đoán khắt khe. Con gái lớn lên không được học hành, mà chỉ lẩn quẩn trong nhà chăm lo nội trợ bếp núc, thêu thùa trong những giờ rảnh rổi…
Cũng vì thấm nhuần đạo lý trọng nam khinh nữ, nam nữ thọ thọ bất thân, nên Lục Vân Tiên không ngần ngại khoát tay từ chối nàng KIều Nguyệt Nga, khi nàng vội vàng xuống xe lạy tạ ơn cứu mạng:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái ta là phận trai.
Tiểu thơ con cái nhà ai…”.
Đến khi trưởng thành, ngay đến việc hệ trọng nhất, lấy chồng cho chính bản thân mình, cũng đều thuộc quyền định đoạt của cha mẹ. Đứa con có hiếu là tuyệt đối biết vâng lời. Bởi vì quan niệm xưa cho rằng, cha mẹ là những người từng trải, có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống. Sự lựa chọn đôi lứa cho con lúc nào cũng hoàn hảo, ít khi sai lầm. Nhất là đôi bên suôi gia phải tương xứng, môn đăng hộ đối. Đứa con gái dù bằng lòng hay không, cũng chỉ biết trả lời võn vẹn ngắn ngủn: “Cha mẹ đặt đâu, con ngồi ở đó”, áo mặc sao qua khỏi đầu.
Trong sự an phận, không khỏi phó mặc cho số mệnh, được tới đâu hay tới đó: “Thân gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu mong ước được sao.”.
Vậy thì, trong mười hai bến nước, bến nào đục bến nào lại trong. Mỗi bến nước ở đây biểu hiện một tầng lớp trong xã hội. Có người cao sang có chức phận, cũng có người nghèo khổ, áo rách khố ôm, cơm không đủ no ngày hai bửa. Xã hội phong kiến nẫy sinh nhiều bất công, bên trọng bên khinh. Phân chia ra ba tầng lớp, mỗi tầng lớp bao gồm bốn bậc theo thứ tự ưu tiên như sau:
Sĩ – Nông – Công – Thương
Nho – Y – Lý – Bốc
Ngư – Tiều – Canh – Mục
Bến nước thứ nhất, thời bấy giờ kẻ sĩ được đề cao, đặt lên hàng đầu. Đó là giai cấp thống trị, quyền cao chức trọng, hàng thứ dân tôn sùng, kính nể. Bến nước trong nhất ở giai cấp nầy khó mà nghĩ đến, mấy ai lọt vào: “Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt. Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên. Có giang sơn sĩ đã có tên. Từ Chu Hán vốn sĩ là quí…”.
Bến nước thứ hai, tượng trưng giai cấp giàu sang. Đó là những nhà địa chủ, phú hộ, trong nhà có trai bạn, con sen, chị vú để sai khiến giúp việc. Ruộng vườn cò bay thẳng cánh, tha hồ cho tá điền mướn, làm rẽ tới mùa người ta tự động đem lúa thóc đến cho mình. Cuộc sống quả thật sung sướng, không thua sút giai cấp quan lại bao nhiêu. Nhiều khi giai cấp nầy cũng tự mãn, lấy làm hãnh diện có thể chi phối lay chuyển thời thế: “ Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ.”.
Bến nước thứ ba, cũng được xã hội đề cao, coi trọng. Đó là giới chủ nhân ông cai thợ, hay hạng thợ thuyền có tay nghề chuyên môn tinh xảo. Dù không có ruộng đồng như giới địa chủ, phú nông, cũng tạo nên sự nghiệp như ai, đem lại đời sống khá giả: “Ruộng bề bề, không bằng có nghề trong tay” và: “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”.
Bến nước thứ tư, bao gồm giới đại thương gia hoặc người có đầu óc kinh doanh. Họ nắm vững được thị trường, dám bỏ vốn ra đầu tư, không sợ thua lổ, cũng dễ dàng tạo nên sự nghiệp vững chắc: “Có phước làm quan, có gan làm giàu”. Càng ngày ngành thương nghiệp càng phát triển, giao thương mở rộng, đem lại phát đạt mau hơn ngành nông nghiệp hay công nghiệp. Xu hướng dồn vào thương nghiệp nhiều hơn, chỉ vì có quan niệm: “Phi thương bất phú”.
Bước sang giai cấp trung lưu, bao gồm giới trí thức, có ăn học. Nhưng kém may mắn, thi cử không đổ đạt để ra làm quan. Họ trở thành ông Thầy Đồ dạy học, ông Thầy Thuốc Bắc, ông Thầy Địa Lý và ông Thầy Bói Tướng Số.
Bến nước thứ năm, đó là hình ảnh Ông Đồ đã nhiều lần khăn gói lều chõng đi thi, nhưng đều thất bại. Trở về làng dạy học, ăn cơm nhà, nương nhờ vợ con. Dù biết thế, các bà, các cô nuôi hy vọng ở tương lai sẽ có bóng mát cho mình nương tựa: “Chẳng tham ruộng cả ao đìa, tham vì cây bút cái nghiên ông Đồ.”. Đôi khi một mình làm lụng quanh năm, lo cho chồng con từ cái ăn đến cái mặc, đến nổi kiệt sức nên chỉ biết nhắn gởi tâm sự của mình đến với mọi người: “Ai ơi chớ lấy học trò, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.”. Mặc dù biết thế, hy vọng cũng có một ngày nào đó đẹp trời, chàng đạt bảng vàng, vinh qui bái Tổ. Khi đó mặc sức nở mặt, nở mày vui biết mấy: “Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau”.
Bến nước thứ sáu, tuy rằng không đổ đạt thành danh, ông tú ông cử, vẫn có sẵn vốn liếng học thức. Đem sự hiểu biết qua sách vở Thánh Hiền, chuyển qua nghiên cứu về ngành thuốc bắc, trở thành ông thầy thuốc có lương tâm, được mọi người trọng dụng, rước mời sự thể: “Lương y như từ mẫu”.
Bến nước thứ bảy, cũng là những ai không có duyên phận vinh hiển, chuyển qua khoa địa lý, mách giúp cho người đời sửa sai thành nên. Trong cuộc sống con người không ai lại không có quan niệm: “Sống cái nhà, già cái mồ”. Ông thầy địa lý sẽ chỉ cho làm nhà phải xây mặt về hướng nào, để làm ăn giàu có, chứ không phải nhất thiết phụ thuộc vào câu nói thông thường: “Nhà hướng nam, không làm cũng có ăn”. Cho đến khi trở về cát bụi, mồ mả cũng phải coi hướng cho tốt, cầu mong mả kết, con cháu thành danh, phát giàu thịnh vượng.
Bến nước thứ tám, ông Thầy Bói chỉ giúp cho người ta những sự việc đã qua, hiện tại và tương lai. Việc làm của thầy coi bộ cũng thư thả, nhẹ nhàng. Tuy không bằng các nghề khác, nhưng cũng đủ qua ngày. Có điều chẳng may gặp ai đó không mê tín, tin dị đoan, cho việc coi bói là vẽ vời thêu dệt, chứ làm gì có thật: “Bói ra ma, quét nhà ra rác”.
Giai cấp hạ lưu, bao người bốn hạng người, hành nghề tay làm nhai, cuộc đời nghèo khổ. Đời sống của họ chịu ảnh hưởng sự khống chế, chi phối bởi hai giai cấp trên.
Bến nước thứ chín, người làm nghề chài lưới, đánh bắt cá. Nhà ở, tài sản chỉ là chiếc ghe nhỏ chật hẹp, di chuyển nay đây mai đó trên dòng sông. Lợi tức hết sức khiêm nhượng, bởi vì không được thường xuyên, nhất là về mùa mưa lụt gió bão, thì chỉ có việc nằm nhà nhịn ăn. Có đâu được hưởng phước như cụ Nguyễn Khuyến, câu cá uống rượu và làm thơ một cách nhàng rỗi, thảnh thơi: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Một chiếc thuyền con bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí. Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo…”.
Bến nước thứ mười, hình ảnh người Tiều Phu, làm sao mà có đời sống sung sướng được. Suốt ngày vào rừng sâu, uống phải nước độc, không kể nhiều khi còn bị thú dữ tấn công đến thiệt tính mạng. Cuối ngày, trên đôi vai gầy còm nặng triểu gánh củi to bợ, lần mò trên đoạn đường quanh co khúc khuỷu trở về nhà. Cảnh thê lương, cô đơn thảm nảo đã gây xúc cảm, chạnh lòng bà Huyện Thanh Quan, vào một buổi chiều qua đèo ngang: “ Lom khom dưới núi tiều vài chú. Lác lác bên sông rợ mấy nhà…”.
Bến nước thứ mười một, người nông dân chân lấm tay bùn, làm việc lam lủ suốt cả ngày nơi đồng ruộng, nương khoai. Thế mà không khỏi thoát cảnh thiếu thốn, thiếu trước hụt sau. Buổi sáng thức dậy trước khi gà gáy tan, chiều tối trở về nhà khi màng đêm phủ xuống mờ mịt: “Mỗi ngày hai bửa cơm đèn, còn đâu má phấn răng đen hỡi chàng?”. Ấy thế, trong phút giây hạnh phúc an phận, người nông dân cũng tìm ra được niềm vui. Nhất là cảnh đồng quê về vụ mùa, cày cấy tấp nập: “Trên đồng cạn dưới đồng sâu, chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.”. Họ lại còn siêng năng, cần mẫn chăm lo làm ăn, tận dụng từng mãnh đất nho nhỏ góc bụi, lối bờ để gieo trồng thêm hoa màu: “ Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang, bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.”.
Bến nước cuối cùng, thứ mười hai. Chú mục đồng suốt ngày ngao du nơi đồng cỏ, chăn giữ con trâu, đàn bò. Nắng mưa cũng không sá gì, khổ cực không biết than thở cùng ai. Cảnh buồn tẻ nơi cô thôn bà HTQ ghi lại hình ảnh vào một buổi chiều tàn đầy cảm xúc: “Gác mái ngư ông về viễn phố. Gõ sừng mục tử tại cô thôn.”. Mà không sao, chăn trâu cũng có cái thú riêng của nó, ai dám bảo là khổ cực: “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ, tay cầm roi vung vít tứ tung…”
Ngày nay nam nữ được bình quyền. Sự lệ thuộc vào gia đình không còn nặng nề như xưa kia. Trai gái được tự do hơn, giao thiệp qua lại quen nhau từ trước, mở lối rộng rãi. Để rồi từ đó tiến tới xây dựng đời sống lứa đôi được hạnh phúc, thắm thiết nhiều hơn. Nhưng hạnh phúc có được trọn vẹn không, đó là điều mà mỗi tổ ấm nên thỏa mãn với thực tại, chấp nhận có sự an bài nào đó, và vui vẻ lạc quan yêu đời trong hạnh phúc tầm tay./-
Cũng vì thấm nhuần đạo lý trọng nam khinh nữ, nam nữ thọ thọ bất thân, nên Lục Vân Tiên không ngần ngại khoát tay từ chối nàng KIều Nguyệt Nga, khi nàng vội vàng xuống xe lạy tạ ơn cứu mạng:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái ta là phận trai.
Tiểu thơ con cái nhà ai…”.
Đến khi trưởng thành, ngay đến việc hệ trọng nhất, lấy chồng cho chính bản thân mình, cũng đều thuộc quyền định đoạt của cha mẹ. Đứa con có hiếu là tuyệt đối biết vâng lời. Bởi vì quan niệm xưa cho rằng, cha mẹ là những người từng trải, có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống. Sự lựa chọn đôi lứa cho con lúc nào cũng hoàn hảo, ít khi sai lầm. Nhất là đôi bên suôi gia phải tương xứng, môn đăng hộ đối. Đứa con gái dù bằng lòng hay không, cũng chỉ biết trả lời võn vẹn ngắn ngủn: “Cha mẹ đặt đâu, con ngồi ở đó”, áo mặc sao qua khỏi đầu.
Trong sự an phận, không khỏi phó mặc cho số mệnh, được tới đâu hay tới đó: “Thân gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu mong ước được sao.”.
Vậy thì, trong mười hai bến nước, bến nào đục bến nào lại trong. Mỗi bến nước ở đây biểu hiện một tầng lớp trong xã hội. Có người cao sang có chức phận, cũng có người nghèo khổ, áo rách khố ôm, cơm không đủ no ngày hai bửa. Xã hội phong kiến nẫy sinh nhiều bất công, bên trọng bên khinh. Phân chia ra ba tầng lớp, mỗi tầng lớp bao gồm bốn bậc theo thứ tự ưu tiên như sau:
Sĩ – Nông – Công – Thương
Nho – Y – Lý – Bốc
Ngư – Tiều – Canh – Mục
Bến nước thứ nhất, thời bấy giờ kẻ sĩ được đề cao, đặt lên hàng đầu. Đó là giai cấp thống trị, quyền cao chức trọng, hàng thứ dân tôn sùng, kính nể. Bến nước trong nhất ở giai cấp nầy khó mà nghĩ đến, mấy ai lọt vào: “Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt. Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên. Có giang sơn sĩ đã có tên. Từ Chu Hán vốn sĩ là quí…”.
Bến nước thứ hai, tượng trưng giai cấp giàu sang. Đó là những nhà địa chủ, phú hộ, trong nhà có trai bạn, con sen, chị vú để sai khiến giúp việc. Ruộng vườn cò bay thẳng cánh, tha hồ cho tá điền mướn, làm rẽ tới mùa người ta tự động đem lúa thóc đến cho mình. Cuộc sống quả thật sung sướng, không thua sút giai cấp quan lại bao nhiêu. Nhiều khi giai cấp nầy cũng tự mãn, lấy làm hãnh diện có thể chi phối lay chuyển thời thế: “ Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ.”.
Bến nước thứ ba, cũng được xã hội đề cao, coi trọng. Đó là giới chủ nhân ông cai thợ, hay hạng thợ thuyền có tay nghề chuyên môn tinh xảo. Dù không có ruộng đồng như giới địa chủ, phú nông, cũng tạo nên sự nghiệp như ai, đem lại đời sống khá giả: “Ruộng bề bề, không bằng có nghề trong tay” và: “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”.
Bến nước thứ tư, bao gồm giới đại thương gia hoặc người có đầu óc kinh doanh. Họ nắm vững được thị trường, dám bỏ vốn ra đầu tư, không sợ thua lổ, cũng dễ dàng tạo nên sự nghiệp vững chắc: “Có phước làm quan, có gan làm giàu”. Càng ngày ngành thương nghiệp càng phát triển, giao thương mở rộng, đem lại phát đạt mau hơn ngành nông nghiệp hay công nghiệp. Xu hướng dồn vào thương nghiệp nhiều hơn, chỉ vì có quan niệm: “Phi thương bất phú”.
Bước sang giai cấp trung lưu, bao gồm giới trí thức, có ăn học. Nhưng kém may mắn, thi cử không đổ đạt để ra làm quan. Họ trở thành ông Thầy Đồ dạy học, ông Thầy Thuốc Bắc, ông Thầy Địa Lý và ông Thầy Bói Tướng Số.
Bến nước thứ năm, đó là hình ảnh Ông Đồ đã nhiều lần khăn gói lều chõng đi thi, nhưng đều thất bại. Trở về làng dạy học, ăn cơm nhà, nương nhờ vợ con. Dù biết thế, các bà, các cô nuôi hy vọng ở tương lai sẽ có bóng mát cho mình nương tựa: “Chẳng tham ruộng cả ao đìa, tham vì cây bút cái nghiên ông Đồ.”. Đôi khi một mình làm lụng quanh năm, lo cho chồng con từ cái ăn đến cái mặc, đến nổi kiệt sức nên chỉ biết nhắn gởi tâm sự của mình đến với mọi người: “Ai ơi chớ lấy học trò, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.”. Mặc dù biết thế, hy vọng cũng có một ngày nào đó đẹp trời, chàng đạt bảng vàng, vinh qui bái Tổ. Khi đó mặc sức nở mặt, nở mày vui biết mấy: “Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau”.
Bến nước thứ sáu, tuy rằng không đổ đạt thành danh, ông tú ông cử, vẫn có sẵn vốn liếng học thức. Đem sự hiểu biết qua sách vở Thánh Hiền, chuyển qua nghiên cứu về ngành thuốc bắc, trở thành ông thầy thuốc có lương tâm, được mọi người trọng dụng, rước mời sự thể: “Lương y như từ mẫu”.
Bến nước thứ bảy, cũng là những ai không có duyên phận vinh hiển, chuyển qua khoa địa lý, mách giúp cho người đời sửa sai thành nên. Trong cuộc sống con người không ai lại không có quan niệm: “Sống cái nhà, già cái mồ”. Ông thầy địa lý sẽ chỉ cho làm nhà phải xây mặt về hướng nào, để làm ăn giàu có, chứ không phải nhất thiết phụ thuộc vào câu nói thông thường: “Nhà hướng nam, không làm cũng có ăn”. Cho đến khi trở về cát bụi, mồ mả cũng phải coi hướng cho tốt, cầu mong mả kết, con cháu thành danh, phát giàu thịnh vượng.
Bến nước thứ tám, ông Thầy Bói chỉ giúp cho người ta những sự việc đã qua, hiện tại và tương lai. Việc làm của thầy coi bộ cũng thư thả, nhẹ nhàng. Tuy không bằng các nghề khác, nhưng cũng đủ qua ngày. Có điều chẳng may gặp ai đó không mê tín, tin dị đoan, cho việc coi bói là vẽ vời thêu dệt, chứ làm gì có thật: “Bói ra ma, quét nhà ra rác”.
Giai cấp hạ lưu, bao người bốn hạng người, hành nghề tay làm nhai, cuộc đời nghèo khổ. Đời sống của họ chịu ảnh hưởng sự khống chế, chi phối bởi hai giai cấp trên.
Bến nước thứ chín, người làm nghề chài lưới, đánh bắt cá. Nhà ở, tài sản chỉ là chiếc ghe nhỏ chật hẹp, di chuyển nay đây mai đó trên dòng sông. Lợi tức hết sức khiêm nhượng, bởi vì không được thường xuyên, nhất là về mùa mưa lụt gió bão, thì chỉ có việc nằm nhà nhịn ăn. Có đâu được hưởng phước như cụ Nguyễn Khuyến, câu cá uống rượu và làm thơ một cách nhàng rỗi, thảnh thơi: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Một chiếc thuyền con bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí. Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo…”.
Bến nước thứ mười, hình ảnh người Tiều Phu, làm sao mà có đời sống sung sướng được. Suốt ngày vào rừng sâu, uống phải nước độc, không kể nhiều khi còn bị thú dữ tấn công đến thiệt tính mạng. Cuối ngày, trên đôi vai gầy còm nặng triểu gánh củi to bợ, lần mò trên đoạn đường quanh co khúc khuỷu trở về nhà. Cảnh thê lương, cô đơn thảm nảo đã gây xúc cảm, chạnh lòng bà Huyện Thanh Quan, vào một buổi chiều qua đèo ngang: “ Lom khom dưới núi tiều vài chú. Lác lác bên sông rợ mấy nhà…”.
Bến nước thứ mười một, người nông dân chân lấm tay bùn, làm việc lam lủ suốt cả ngày nơi đồng ruộng, nương khoai. Thế mà không khỏi thoát cảnh thiếu thốn, thiếu trước hụt sau. Buổi sáng thức dậy trước khi gà gáy tan, chiều tối trở về nhà khi màng đêm phủ xuống mờ mịt: “Mỗi ngày hai bửa cơm đèn, còn đâu má phấn răng đen hỡi chàng?”. Ấy thế, trong phút giây hạnh phúc an phận, người nông dân cũng tìm ra được niềm vui. Nhất là cảnh đồng quê về vụ mùa, cày cấy tấp nập: “Trên đồng cạn dưới đồng sâu, chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.”. Họ lại còn siêng năng, cần mẫn chăm lo làm ăn, tận dụng từng mãnh đất nho nhỏ góc bụi, lối bờ để gieo trồng thêm hoa màu: “ Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang, bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.”.
Bến nước cuối cùng, thứ mười hai. Chú mục đồng suốt ngày ngao du nơi đồng cỏ, chăn giữ con trâu, đàn bò. Nắng mưa cũng không sá gì, khổ cực không biết than thở cùng ai. Cảnh buồn tẻ nơi cô thôn bà HTQ ghi lại hình ảnh vào một buổi chiều tàn đầy cảm xúc: “Gác mái ngư ông về viễn phố. Gõ sừng mục tử tại cô thôn.”. Mà không sao, chăn trâu cũng có cái thú riêng của nó, ai dám bảo là khổ cực: “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ, tay cầm roi vung vít tứ tung…”
Ngày nay nam nữ được bình quyền. Sự lệ thuộc vào gia đình không còn nặng nề như xưa kia. Trai gái được tự do hơn, giao thiệp qua lại quen nhau từ trước, mở lối rộng rãi. Để rồi từ đó tiến tới xây dựng đời sống lứa đôi được hạnh phúc, thắm thiết nhiều hơn. Nhưng hạnh phúc có được trọn vẹn không, đó là điều mà mỗi tổ ấm nên thỏa mãn với thực tại, chấp nhận có sự an bài nào đó, và vui vẻ lạc quan yêu đời trong hạnh phúc tầm tay./-
8. Lực Bất Tòng Tâm
(1)
Lực hết tâm còn cũng như không
Nói suông đi đôi thùng trống rỗng
Già minh mẩn sáng suốt hao mòn
Dấn thân lấy tiếng chỉ hoài công
Lớp trước tàn hậu sinh nối gót
Chớ ôm đồm vỡ mộng viển vông
Trao trọng trách hướng về giới trẻ
Tạo vẻ vang dân Việt Lạc Hồng
(2)
Tâm nhiệt huyết mỗi người đều có
Việc thành bại vì bởi nguyên do
Tuổi vào đời sinh thời sung sức
Đường công danh tự dưng ai cho
Sự nghiệp nên cần tài cùng đức
Không gặp thời chốc lát hóa tro
Phận tuổi già còn đâu sức lực
Tre tàn măng mọc hậu sinh lo
Đoàn Ngọc Nam
Lực hết tâm còn cũng như không
Nói suông đi đôi thùng trống rỗng
Già minh mẩn sáng suốt hao mòn
Dấn thân lấy tiếng chỉ hoài công
Lớp trước tàn hậu sinh nối gót
Chớ ôm đồm vỡ mộng viển vông
Trao trọng trách hướng về giới trẻ
Tạo vẻ vang dân Việt Lạc Hồng
(2)
Tâm nhiệt huyết mỗi người đều có
Việc thành bại vì bởi nguyên do
Tuổi vào đời sinh thời sung sức
Đường công danh tự dưng ai cho
Sự nghiệp nên cần tài cùng đức
Không gặp thời chốc lát hóa tro
Phận tuổi già còn đâu sức lực
Tre tàn măng mọc hậu sinh lo
Đoàn Ngọc Nam
7. Xuân Hải Ngoại
Sáng sớm đầu năm ngắm cánh đào
Sắc hoa tím nhạt đẹp biết bao
Líu lo chim hót mừng nắng mới
Nàng xuân trước ngõ rước mời vào
Quê người sắm Tết không gì thiếu
Tình nghĩa làm quà của biếu trao
Xe hoa hội chợ người tấp nập
Đồng hương hớn hở vẫy tay chào
Sáng sớm đầu năm ngắm cánh đào
Sắc hoa tím nhạt đẹp biết bao
Líu lo chim hót mừng nắng mới
Nàng xuân trước ngõ rước mời vào
Quê người sắm Tết không gì thiếu
Tình nghĩa làm quà của biếu trao
Xe hoa hội chợ người tấp nập
Đồng hương hớn hở vẫy tay chào
6. Năm Mới Chúc Đ.H.
Quảng Nam - Đà Nẵng
Chúng ta ra đi xa quê hương
Năm mới chúc bà con tha phương
Con cháu học giỏi theo truyền thống
Thành công nhớ nước quyết lên đường
Sinh hoạt dòng chính mau hội nhập
Ngành nghề đỗ đạt được tuyên dương
“Ngũ Phụng Tề Phi” xưa hãnh diện
Quốc cộng phân ranh vững lập trường
ĐOÀN NGỌC NAM
Quảng Nam - Đà Nẵng
Chúng ta ra đi xa quê hương
Năm mới chúc bà con tha phương
Con cháu học giỏi theo truyền thống
Thành công nhớ nước quyết lên đường
Sinh hoạt dòng chính mau hội nhập
Ngành nghề đỗ đạt được tuyên dương
“Ngũ Phụng Tề Phi” xưa hãnh diện
Quốc cộng phân ranh vững lập trường
ĐOÀN NGỌC NAM
5. Xuân Hạ Thu Đông
4. Trăng Đất Khách
Ngàn năm trăng vẫn bóng trăng này Cỏi tạm đi về cảnh nước mây Đất khách mênh manh sầu diệu vợi Trời quê mù mịt nhớ thương đầy Tro tàn bếp lạnh chiều thu giá Trăng ngậm sương khuya vóc liễu gầy Gối mộng u hoài mơ cố quận Giật mình trở giấc mắt cay cay THANH VÂN Họa: Trăng Nơi Đây Nơi đây vẫn mãi bóng trăng này Hằng Nga ẩn hiện cỏi trời mây Quê Người giá lạnh sầu viễn xứ Chốn cũ người xưa nhớ nhung đầy Mây thu lơ lửng chiều sương lạnh Trăng lên soi sáng dáng liễu gầy Đêm dài trăn trở nằm thao thức Chợt tĩnh đâm ra hai mắt cay Đoàn Ngọc Nam |