VƯƠNG TRÙNG DƯƠNG
4. Phan Khôi & Sĩ Khí Người cầm Bút
Vương Trùng Dương
Trong bài viết của nhà văn Xuân Đỗ: “Nhìn lại các danh sĩ, danh nhân Quảng Nam mà đặc biệt là “Tứ Kiệt Quảng Nam” (Phan Châu Trinh, Trần Quí Cáp, Trần Cao Vân, Huỳnh Thúc Kháng), thì Phan Khôi có khuôn mặt đặc thù mang nhiều nét ưu tư khắc khổ... Một kẻ sĩ khí tiết, nghèo không than, bại không nản, bị coi thường không giận, bị xử oan không oán, bị chèn ép không bi phẫn, sống an nhiên tự tại, quyết không khuất phục uy quyền, không đầu hàng trước cái ác, không về phe cái xấu, không thích chốn quan trường, chẳng bon chen nơi thị tứ, mà chỉ đem sở trường, sở học chăm làm cái gì đó làm di sản cho lớp hậu sinh”.
Những lời bày tỏ của anh Xuân Đỗ cũng giống như cái nhìn của nhiều kẻ hậu sinh trên mảnh đất “cày lên sỏi đá” nhưng tự hào, hãnh diện với về các bậc tiền bối đã để lại tấm gương cao đẹp cho quê hương.
*
Sông Vu Gia bắt nguồn từ vùng núi ở phía Tây Nam của tỉnh Quảng Nam. Phần thượng nguồn ở Phước Sơn được gọi là Đăk Mi, sông chảy theo hướng Nam lên Bắc. Khi qua địa bàn phía Đông huyện Nam Giang, sông được gọi là sông Cái. Tại đây, nó nhận một chi lưu lớn ở phía Tây (tả ngạn), đó là sông Giằng. Bắt đầu khi chảy sang huyện Đại Lộc, sông được gọi là Vu Gia và có dòng chảy theo hướng Đông Tây. Sông Vu Gia chảy đến địa phận xã Đại Hòa ở phía Tây Đại Lộc thì tách ra làm hai dòng, một là sông Yên chảy lên phía Bắc hội lưu với sông Cầu Đỏ, một đi về phía Nam hội lưu với sông Thu Bồn.
Gò Nổi được bao bọc bởi sông Thu Bồn và sông Vu Gia gặp nhau rồi tách làm hai nhánh sông tạo thành vùng đất bồi phì nhiêu, trước kia thuộc tổng Đa Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn. Gò Nổi rộng khoảng vài chục cây số vuông, gồm có các làng Tư Phú, Bảo An, La Kham, Xuân Đài, Trường Giang, Đông Bàn, Phú Bông. Đây là vùng đất đã mang lại niềm tự hào cho quê hương Quảng Nam vì đã sản sinh ra những nhân vật gắn liền với lịch sử dân tộc như Hoàng Diệu, Trần Cao Vân, Phạm Phú Thứ, Phan Thành Tài, Lê Đình Dương... cùng nhiều vị khoa bảng nổi tiếng.
Nơi chốn đó, Phan Khôi, bút hiệu Chương Dân đã dấn thân vào nghề báo từ tuổi thanh xuân cho đến tuổi thất thập, ông vẫn giữ được hào khí của người cầm bút trong vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm. Ông còn là nhà văn, nhà lý luận sâu sắc và đóng góp trong phong trào thơ mới, điển hình với bài Tình Già vào đầu thập niên 30. Ngoài ra, ông còn có bút hiệu Tú Sơn (Tout Seul) qua dòng thơ trào phúng trên Phụ Nữ Thời Đàm; bút hiệu Thông Reo, ban đầu ký chung với Đào Trinh Nhất và Diệp Văn Ký trên tờ Thần Chung, sau đó ông giữ luôn mục “Câu Chuyện Hàng Ngày” nầy.
* Dòng Đời
Phan Khôi sinh năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, thân sinh ra ông là Phan Trân (1862-1935), đỗ phó bảng năm 1891, làm Tri Phủ ở Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Khi làm quan, là nhà nho yêu nước, thấy hình ảnh lộng hành của Công Sứ Pháp nên ông từ quan về dạy học ở quê nhà. Thân mẫu của Phan Khôi là con gái Hoàng Diệu, nguyên Tổng Đốc Hà Nội, quê ở Xuân Đài. Tổng Đốc Hoàng Diệu anh dũng tuẩn tiết khi thành Hà Nội bị lọt vào tay Henri Riviere năm 1882.
Theo dòng thời gian, cuộc đời của Phan Khôi từ nhỏ đến khi lui về quy ẩn ở quê nhà, trước đây, có vài điều nhầm lẫn vì ông vừa là học sinh, vừa là thầy giáo cùng một thời điểm. Trong quyển Nhớ Cha Tôi – Phan Khôi, nhà xuất bản Đà Nẵng, 2001 của bà Phan Thị Mỹ Khanh, trích dẫn lại đôi dòng tóm lược về ông:
“Sinh ra trong một gia đình khoa bảng, nề nếp, bên nội cũng như bên ngoại, mặc dầu mồ côi mẹ và là con một, cha tôi không ham chơi bời như một số cậu ấm cùng trang lứa, mà chỉ lo chí thú học hành. Từ ngày mới lên năm, sáu tuổi, cha tôi tỏ ra thông minh, học đâu nhớ đó...
Năm cha tôi được bảy tuổi thì chẳng may bà nội tôi lâm bệnh rồi qua đời, ông nội tôi phần vì buồn phiền, phần thì phải lo toan thu xếp việc nhà, không còn tâm trí kềm cập cha tôi thường xuyên như trước dược. Tuy nhiên với tấm lòng ham học sẵn có, cha tôi vẫn ôn lại bài vở cũ và mày mò tự học thêm, gặp chữ nào khó thì xin ông nội giảng giải.
Ngày ông tôi phải vào Diên Khánh nhậm chức Tri Huyện, gia đình lại thiếu vắng bà nội nên lâm vào cảnh đơn chiếc. Ông tôi bèn thu xếp gởi cha tôi về bên ngoại ở Xuân Đài... Nhưng chỉ được thời gian độ một năm, bảy tháng, cha tôi không thấy thích thú gì việc học hành ở nhà cậu nữa... Sẵn dịp ông tôi từ Diên Khánh về thăm nhà, cha tôi xin ông chuyển cho mình học nơi khác. Sau khi cân nhắc kỹ, ông tôi quyết định đưa cha tôi về thôn Thái La, làng Bất Nhị, gởi gấm cho cụ tú Trần Quý Cáp đang mở trường học tại nhà...
Cha tôi chịu ảnh hưởng nhiều của cụ Trần về mặt tư tưởng. Về học tập, do được cụ Trần hết lòng dạy dỗ trong một thời gian khá dài nên cha tôi tiến bộ rõ rệt. Đến năm 15, 16 tuổi, khi chuyển qua cac trường Huấn, trường Đốc, kỳ sát hạch nào của ông cũng chiếm hàng đầu, được tiếng là sĩ tử thông minh của đất Gò Nổi...
Học giỏi như vậy, nhưng năm Bính Ngọ (1906) ông 19 tuổi, lều chõng ra kinh đô Huế dự thi khoa thi Hương do Nam triều tổ chức, ông chỉ đỗ tú tài...
... Năm 1907, cha tôi được phong trào Duy Tân Quảng Nam giới thiệu đi học tiếng Pháp tại trường Đông Kinh Nghĩa Thục Hà Nội... Đến Hà Nội, cha tôi được nhà trường nhận vào học một lớp tiếng Pháp do ông Nguyễn Bá Học phụ trách... Nhà trường còn bố trí cho cha tôi dạy một số giờ chữ Hán những buổi không có lớp tiếng Pháp. Ngoài ra, ông còn viết bài, sửa bài cho tờ Đăng Cổ Tùng Báo.
Công việc dạy và học đương yên ổn thì trường Đông Kinh Nghĩa Thục và tờ Đăng Cổ Tùng Báo bị nhà cầm quyền Pháp đóng cửa, những vị sáng lập bị mật thám xét hỏi. Ông Nguyễn Bá Học rủ cha tôi chạy về Nam Định, tạm lánh nhà ông để tiếp tục học tiếng Pháp đang dở dang. Nhưng ở đây vẫn không yên, ông Nguyễn Bá Học bị mật thám Nam Định theo dõi, gọi tới gọi lui thẩm vấn nhiều lần. Cha tôi buộc phải rời nhà ông Học, tìm đường quay về Quảng Nam...
Vào khoảng năm 1909, cha tôi ra Huế xin vào lớp nhì trường Pellerin để tiếp tục học tiếng Pháp... Ban giám hiệu thấy cha tôi đã 22 tuổi mà ham học nên nhận đơn, nhưng buộc phải qua cuộc sát hạchmới cho vào lớp nhì, học chung với học trò trên 10 tuổi. Hai tháng đầu, ông bị xếp hạng bét lớp, nhưng từ tháng thứ ba trở đi, ông vượt lên đứng đầu trước sự ngạc nhiên của thầy giáo và đám bạn nhỏ. Nhưng chưa kết thúc năm học thì ông phải về quê thọ tang bà cố tôi, sau đó ở nhà luôn...
Thời gian nầy (1910) thực dân Pháp và Nam triều mở một đợt vây bắt bớ vì chúng thấy phong trào Duy Tân vẫn còn âm ỉ, và hơn nữa, Đảng Việt Nam Quang Phụcï Hộicủa cụ Phan Bội Châu đang bắt đầu nhen nhóm. Một hôm, cha tôi nhận được trát của phủ Điện Bàn đòi xuống hầu, nhưng ông vừa tới nơi thì bị tống giam vào nhà lao tỉnh, sau vài hôm lại bị giải giao về nhà tù Hội An, giam chung với các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyên và nhiều nhân sĩ đã bị bắt trước đó vài hôm...
... Năm 1913, mãn hạn tù. Ông nội tôi hối thúc việc cưới vợ, coi đó là biện pháp giữ chân con trai tốt nhất... Cưới vợ rồi, cha tôi mở lớp dạy chữ Hán và chữ Quốc Ngữ tại nhà, được học trò xa gần đến học rất đông, vì ông có cải tiến lối giảng dạy dễ hiểu hơn so với các thầy đồ xưa...
... Vào khoảng giữa năm 1916, cha tôi ra Hà Nội lần thứ hai với một quyết tâm cao hơn bao giờ hết, để thực hiện cho nguyện vọng ấp ủ bấy lâu là làm báo, viết văn, dù cho khó khăn đến mấy cũng phải vượt qua... Lên Hà Nội, cha tôi gặp Nguyễn Bá Trạc là người cùng quê và là bạn học cũ quen biết. Ông Nguyễn đã từng tham gia phong trào Đông Du, qua Nhật rồi trở về, được Pháp sử dụng, sau bổ nhiệm làm Tổng Đốc Thanh Hóa. Nguyễn Bá Trạc giới thiệu cha tôi vào làm báo Nam Phong do Phạm Quỳnh chủ bút....
Nhưng dần dần, ông nhận ra rằng báo Nam Phong chỉ là công cụ mị dân do người Pháp chủ trương... ông lại vào Sài Gòn viết cho tờ Lục Tỉnh Tân Văn.
Năm 1920, ông trở ra Hà Nội viết cho tờ Thực Nghiệp Dân Báo và tạp chí Hữu Thanh... Năm 1922, cha tôi lại trở vào Sài Gòn do vài bạn đồng nghiệp nhắn gọi, nhưng vào đó, ông chỉ viết bài gởi đăng báo như một cộng tác viên, chứ không có chủ báo nào nhận ông làm... Rồi nhân có một vụ việc gì đó xảy ra ở thành phố, ông bị mật thám tình nghi, đe dọa, phải chạy xuống Cà Mau tạm trú tại nhà một người quen thân làm chủ đồn điền tại đây.
Thời gian ở ẩn ăn không ngồi rồi này khá lâu, mất đến gần 3 năm, nhưng cha tôi biết tận dụng nó để làm việc có ích là tiếp tục học tiếng Pháp bằng cách trao đổi thư từ, bài tập qua đường bưu điện với một nhà báo Pháp Dejiean de la Bâtrie...
Đầu năm 1925, hết đợt lận đận, cha tôi trở lên Sài Gòn cộng tác cùng một lúc với ba tờ báo lớn là Thần Chung, Đông Pháp Thời Báo, đồng thời gởi bài cho Đông Tây Tuần Báo, văn học tạp chí ở Hà Nội.
Từ năm 1925 đến 1928, trong ba năm ấy, ông viết liên tục, rất sung túc... Giới trí thức tư sản Sài Gòn thì tới lui tìm gặp ông để bàn việc ra báo... Trong số những người đến tiếp xúc mời ông cộng tác, ông thấy bà Nguyễn Đức Nhuận là người có thật tâm nhất nên nhận lời... tuần báo lấy tên là Phụ Nữ Tân Văn... Bà đứng tên người sáng lập, cha tôi làm chủ bút... sau đó, vào hạ tuần tháng 5 năm 1933, chúng rút giấy phép, ra lệnh đóng cửa tòa soạn. Tờ Phụ Nữ Tân Văn cuối cùng chia tay với bạn đọc cũng là kỷ niệm ngày báo được tròn 4 tuổi...
... Cha tôi ở nhà khoảng một tuần, lại trở ra Hà Nội, nhận làm chủ bút báo Phụ Nữ Thời Đàm của ông Nguyễn Văn Đa. Ông nầy ra tuần báo Phụ Nữ Thời Đàm với ý đồ thay chân cho Phụ Nữ Tân Văn vừa bị đóng cửa, nhưng do tài chánh eo hẹp, tờ báo kém về hình thức lẫn nội dung, chỉ tồn tại được một năm phải đình bản.
Thôi làm cho Phụ Nữ Thời Đàm, ông quay về Huế, làm chủ bút báo Tràng An của ông Bùi Huy Tín, chủ nhà in Đắc Lập. Trên mặt báo Tràng An, thỉnh thoảng có đăng bài động đến chính quyền cai trị... nên bị Chánh mật thám Trung Kỳ Sogny nhiều lần hạch sách, đe dọa. Cuối cùng hắn dùng thủ đoạn thu hồi giấy nhập khẩu giấy in báo của nhà in Đắc Lập, tờ Tràng An không còn giấy để in, đành phải tự động đóng cửa.
Cha tôi lại mất việc. Ông tạm thời dạy Việt văn cho trường Trung học tư thục Hồ Đắc Hàm ở Huế, đồng thời viết bài cho Hà Nội Báo và xuất bản cuốn Chương Dân Thi Thoại vào đầu năm 1936...
Vào giữa năm 1936, cha tôi xin giấy phép đứng tên sáng lập tờ Sông Hương tại Huế... Tòa soạn do ông đảm đương là chính, cộng với sự trợ giúp của hai anh tôi và một vài nguời bà con. Tuần báo nầy chỉ sống được 8, 9 tháng thì phải tự đóng cửa do tài chánh mất cân đối, vốn dự bị lại cạn kiệt.
Cuối năm 1927, cha tôi vào Sài Gòn dạy Việt văn và Hán văn cho trường Trung học tư thục Chấn Thanh của ông Phan Bá Lân, đồng thời cộng tác với báo Tao Đàn. Thời gian nầy ông sáng tác tiểu thuyết đầu tay Trở Vỏ Lửa Ra và bán bản quyền cho nhà xuất bản Phổ Thông (1939)...
Cuối năm 1941, do thời cuộc, trường Chấn Thanh đóng cửa và dời về Đà Nẵng với quy mô nhỏ hơn, và báo chí cũng hết thời thịnh vượng, cha tôi quyết định trở về quê... Năm 1942, ông đã góp phần cùng mẹ và anh tôi sữa lại cái nhà ngang bằng tranh hư hỏng và dột nát...”
Thời gian từ 1941 đến 1945, Phan Khôi tạm gác bút.
Dòng họ Phan là một trong các dòng họ nổi tiếng ở Quảng Nam. Năm 1913, Phan Khôi lập gia đình với con gái ông cử Lương Thúc Ký (1873-1947), đỗ cử nhân cùng thời với Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh, Nguyễn Đình Tuyến... từng làm Hậu Bổ tỉnh Bình Thuận, Tri Huyện ở Tuy Phong, Giáo Thọ ở Tuy An, tác giả quyển Quốc Ngạn...
Ông bà Phan Khôi có sáu người con (hai trai, bốn gái), con cả là Phan Thao (1915-1960), cán bộ cao cấp trong Ủy Ban Trung Bộ, đại biểu Quốc Hội tỉnh Quảng Nam năm 1946, Chủ Nhiệm báo Cứu Quốc và bốn người con gái là Hựu Khanh, Bang Khanh, Mỹ Khanh, Tiểu Khanh. (Giữa Phan Khôi & Phan Thao đã bất đồng chính kiến quan điểm chính trị. Trong bài viết của Lại Nguyên Aân: “Theo lời kể lại, người con trai của ông khi đó là một cán bộ đảng, đã không dám đến dự đám tang cha mà chỉ cải trang làm một người tình cờ, dắt xe đạp đi trên vỉa hè trong lúc đám tang đi dưới lòng đường”.
Năm 1936, thời gian làm tờ Tràng An ở Huế, ông lấy thêm bà vợ hai người Hà Nội, có với nhau ba mặt con. Rời Huế, ông đưa người vợ kế về Quảng Nam, hai bà sống với nhau rất hòa thuận ở quê nhà, năm 1955 ông đưa vợ con ra đoàn tụ cùng ông tại Hà Nội.
Về quan hệ thân tộc, em gái ông là vợ nhà văn Sở Cuồng Lê Dư. Ông bà Lê Dư có các người con gái: bà Hằng Huân (vợ tướng Nguyễn Sơn), bà Hằng Phấn (vợ nhà văn Hoàng Văn Chí, tác giả Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc), bà Hằng Phương (vợ nhà văn Vũ Ngọc Phan). Em họ là Phan Bôi Hoàng Hữu Nam (1911-1949), Thứ Trưởng bộ Nội Vụ trong Chính Phủ Liên Hiệp. Ông Biện Chín, tên thật là Phan Định, chú ruột Phan Khôi, có hai người con là Phan Bôi, Phan Thanh (1908-1939). Phan Thanh cũng hoạt động trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ cùng với Đặng Thái Mai và Võ Nguyên Giáp.
* Nhân Văn – Giai Phẩm
Phan Khôi được hấp thụ tinh thần yêu nước của các vị thầy từ nhỏ, ông ghét chính sách cai trị của thực dân Pháp nên tham gia vào phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân... Đứng trước hoàn cảnh ly loạn của đất nước, ông đã tham gia trong phong trào kháng Pháp của Việt Minh nhưng tính cương trực, dũng cảm của bậc sĩ phu yêu nước, ông đã mạnh dạn lên án những sai lầm dù nguy hiểm cho bản thân.
Trong quyển Văn Thi Sĩ Tiền Chiến, Nguyễn Vỹ đã viết về ông:
“Năm 1945, Việt Minh nắm chính quyền. Ngay buổi đầu, ông đã bực tức về những hành động quá tàn bạo của chính quyền địa phương đối với nhân dân trong tỉnh. Đến khi họ định đập phá nhà thờ cụ Hoàng Diệu thì Phan Khôi phản đối quyết liệt. Nếu lúc bấy giờ không có thân thế mạnh mẽ thì có lẽ Phan Khôi đã bị thủ tiêu rồi, như trường hợp của những nhà văn có tinh thần quốc gia và yêu chuộng tự do, công lý như Khái hưng, Lan Khai...
... Phan Khôi lén nhờ người cầm thư ra Hà Nội, định che chở cho cụ. Nhưng ở Hà Nội, Phan Khôi vẫn bị công an Việt Minh theo dõi từng bước và họ giao ông cho chính em họ của ông là Phan Bôi, tức Hoàng Hữu Nam, ThứTrưởng bộ Nội Vụ, quản thúc.
Vì tính cương trực, không muốn để mất tự do hành động của mình, ông không chịu ở nhà Phan Bôi, mà tự ý đến nhà Khái Hưng, tại trụ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng, phố Quan Thánh. Việt Minh đến bắt Khái Hưng tại nơi đây, và bắt luôn Phan Khôi. Khái Hưng thì họ đưa về làng quê quán để rồi cán bộ địa phương thủ tiêu trong một đêm tối trên một bờ đê trong làng. Còn Phan Khôi thì bị đưa lên chiến khu Việt Bắc... và được giao công tác phiên dịch sách chữ Hán.
Suốt chín năm kháng chiến ở Việt Bắc, Phan Khôi, một nhà văn độc lập, không đảng phái, không quỵ lụy ai, không phục tùng sức mạnh nào, chỉ phụng sự cho công lý, tự do, dân chủ. Phan Khôi vẫn công kích chế độ Cộng Sản, mặc dầu ông triệt để ủng hộ cuộc kháng chiến của toàn dân chống Pháp”.
Công tác phiên dịch Hán văn và Pháp văn sang tiếng Việt cũng nhẹ nhàng, vì tuổi cao và có thân thế, Phan Khôi được ưu đãi hơn các văn nghệ sĩ khác nhưng ông không dựa vào đó để tiếm chức, lạm quyền mà dần đà khám phá ra nhiều hành vi độc đoán nên bất mãn. Năm 1951 ông làm bài thơ ví cuộc kháng chiến như hoa hồng và ví Việt Minh như gai. Ông nói lên tâm trạng của người vì yêu kháng chiến mà phải chấp nhận đi theo con đường phục vụ cho Việt Minh.
Bài thơ “Hồng Gai” như sau:
“Hồng nào hồng chẳng có gai
Miễn đừng là thứ hồng dài không hoa,
Là hồng thì phải có hoa,
Không hoa chỉ có gai mà ai chơi ?
Ta yêu hồng lắm hồng ơi !
Có gai mà cũng có mùi hương thơm”.
Sống lâu ngày nơi núi rừng Việt Bắc, dù khổ cực, bất mãn nhưng không có ai dám thổ lộ tâm sự bi đát đó, chỉ có Phan Khôi bộc lộ những dòng thơ vào năm 1952:
“Tuổi già thêm bệnh hoạn
Kháng chiến thấy thừa ta
Mối sầu như tóc bạc
Cứ cắt lại dài ra”.
Cuối năm 1954, Phan Khôi trở về Hà Nội cùng với đa số các văn nghệ sĩ khác. Vì không có nhà cửa ở Hà Nội nên Hội Văn Nghệ dành cho ông căn phòng ở tầng ba của trụ sởcủa Hội, ông vẫn tiếp tục công việc phiên dịch.
Năm 1956, sau khi Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, bài thơ Nhất Định Thắng của Trần Dần dài gần 400 câu như quả bom tung ra trong làng báo Hà Nội. Ngày 29-8-1956, Giai Phẩm Mùa Thu xuất hiện. Theo Hoàng Văn Chí trong Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc: “Trong tập nầy cụ Phan Khôi giáng một chùy trí mạng vào đầu giai cấp lãnh đạo. Bài của cụ nhan đề là Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ. Bài nầy đã làm nhân dân Hà Nội xôn xao. Có người viết trên báo Thời Mới, ví bài của cụ Phan như một “quả bom tạ” thả ngay giữa Hà Nội. Có người thốt lên rằng chín mười năm nay mới nghe thấy một tiếng nói “sang sảng” của cụ Phan...”
Vì nhận thấy “giai phẩm” có tính cách văn học nên Phan Khôiđứng ra làm Chủ Nhiệm tờ Nhân Văn cùng Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy... muốn quảng bá rộng rãi hơn tiếng vọng của tờ báo, tạo ngọn lửa đấu tranh giữa thủ đô Hà Nội.
Ngày 15-9-1956, tờ Nhân Văn ra đời, nhà thơ Phan Khôi, chủ nhiệm chủ bút, giới sinh viên hưởng ứng tiếng nói đấu tranh với tờ Đất Mới và tuần báo Trăm Hoa của Nguyễn Bính cũng nhập cuộc, và tờ Văn cũng thay đổi thái độ cho đến bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi xuất hiện, Đảng bắt Hội Văn Nghệ đình bản tờ Văn.
Đảng và giới lãnh đạo văn nghệ ra tay đàn áp tạo thành vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, đày đọa giới trí thức và những người cầm bút đối kháng vào chốn lao tù và sống cuộc đời lầm than trải dài qua vài thập niên.
Theo họa sĩ Trần Duy, thư ký tòa soạn báo Nhân Văn cho biết: “Nếu muốn nhìn lại thì theo tôi, cần nhìn lại từ những ngày đầu tháng 3 năm 1955, thời gian mà Trần Dần, Hoàng Cầm, Tử Phác, Hoàng Yến ở Phòng Văn Nghệ Quân Đội chủ trương phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Trong lúc ấy thì Xuân Trường trên báo Nhân Dân, Xuân Diệu trong hai số báo Văn Nghệ (Tháng 2, 1955) lại tung hô hết lời khen tập thơ này. Ông Phan Khôi nói với tôi: “Không ai cấm người làm thơ dở. Nhưng cái không may là người làm thơ dở lại làm người lãnh đạo!”
Nắng Chiều của Phan Khôi là tác phẩm cuối đời, thể hiện hào khí bất khuất của người cầm bút, đấu tranh cho tự do và lẽ phải.
Sáng ngày 16 tháng Giêng năm 1959, Phan Khôi vĩnh biệt cõi trần tại căn nhà ở phố Thuốc Bắc, Hà Nội, hưởng thọ 73 tuổi.
Đám tang của ông thật lặng lẽ, u buồn vì không khí ngột ngạt của vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm còn bủa vây trên bầu trời Hà Nội.
*
Về văn, trong Nhà Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan ra đời năm 1942 đã viết về Phan Khôi ở phần đầu: “Phan Khôi là một trong những nhà văn xuất sắc nhất trong phái nho học”. Và kết luận: “Trong văn giới Việt Nam, dù thuộc về phái già hay phái trẻ, tuy có nhiều người không đồng ý kiến với Phan Khôi, nhưng ai ai cũng phải công nhận ông là một tay kiện tướng”.
Về báo, trong quyển Nghề Viết Báo của Tế Xuyên đã nhận định:
“Léon Daudet, cây bút sắc bén của tờ báo hữu khuynh L’ Action Francaise đã nói rằng: Kẻ viết báo tài tình là những người bút chiến giỏi.
Phan Khôi xứng đáng là nhà bút chiến giỏi như lời Léon Daudet đã nói. Ông còn để lại trong lịch sử lịch sử báo chí nước nhà lắm trận bút chiến náo động”.
Phan Khôi đã tham gia trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, với tài năng, tuổi già và có thân nhân trong guồng máy lãnh đạo, ông được ưu đãi nhưng khí phách, nhân cách của nhà văn, nhà báo ý thức trách nhiệm với quê hương, dân tộc, không thể cam chịu trước cảnh độc tài và bất công, nên dấn thân đấu tranh đến cùng. Hình ảnh kiện tướng Phan Khôi, một lần nữa, được đi vào trong lịch sử báo chí và văn học Việt Nam.
Sự nghiệp cầm bút của Phan Khôi nổi bật về báo chí và các bài lý luận sắc bén. Tác Phẩm tiêu biểu: - Bàn Về Tế Giao (1918) - Tình Già (thơ mới - 1932) - Chương Dân Thi Thoại (chuyện thơ, 1936) – Trở Vỏ Lửa Ra (tiểu thuyết, 1939) – Tìm Tòi Trong Tiếng Việt (1950) - Việt Ngữ Nghiên Cứu (1955) - Dịch Lỗ Tấn (từ 1955 đến 1957) - Ngẫu Cảm (thơ chữ Hán) - Viếng Mộ Oâng Lê Chất (thơ chữ Hán) - Ông Năm chuột (truyện ngắn)
Truyện ngắn bằng Hán văn: Mộng Trung Mộng, Hoạn Hải Ba Đào.
Ngoài ra, bản dịch Kinh Thánh năm 1925 cho Giáo Hội Tin Lành của ông cũng được đánh giá rất cao trong thời kỳ phát triển văn chương Việt Nam.
*
Trải qua bao thăng trầm trong suốt quãng đời phiêu bạt, bút chiến, đụng độ với nhau... và nhất là thời điểm “tranh tối tranh sáng” sau ngày CS thống trị miền Bắc, Phan Khôi đả kích chế độ CS, những tên bồi bút tìm mọi thủ đoạn để triệt hạ. Rất nhiều giai thoại về Phan Khôi. Bài viết của GS Trần Gia Phụng đã ghi lại nhiều giai thoại ngay khi ông còn sống. Những câu chuyện thực trong cuộc đời ông, vừa táo bạo, vừa dí dỏm, nên được truyền miệng nhiều lần thành những giai thọai dân gian. Sống dưới chế độ CS, Phan Khôi cũng ưa “cãi lý” mà không sợ bị CS trù dập. Tượng trưng cho lối “cãi lý” Phan Khôi.
Nhìn lại hiện tình đất nước hiện tại, nhờ hệ thống internet được phổ biến rộng rãi, những cây bút trẻ, những bloggers... yêu chuộng tự do, bình đẳng; bất bình trước sự “hèn với giặc, ác với dân” đang xảy ra đã dũng cảm gióng lên tiếng nói mà Phan Khôi dấn thân vào 6 thập niên về trước. Hình ảnh Phan Khôi & sĩ khí người cầm bút như ngọn đuốc soi đường.
Vương Trùng Dương
Bài viết nhân ngày mất Phan Khôi trước đây được bổ túc thêm.
Vương Trùng Dương
Trong bài viết của nhà văn Xuân Đỗ: “Nhìn lại các danh sĩ, danh nhân Quảng Nam mà đặc biệt là “Tứ Kiệt Quảng Nam” (Phan Châu Trinh, Trần Quí Cáp, Trần Cao Vân, Huỳnh Thúc Kháng), thì Phan Khôi có khuôn mặt đặc thù mang nhiều nét ưu tư khắc khổ... Một kẻ sĩ khí tiết, nghèo không than, bại không nản, bị coi thường không giận, bị xử oan không oán, bị chèn ép không bi phẫn, sống an nhiên tự tại, quyết không khuất phục uy quyền, không đầu hàng trước cái ác, không về phe cái xấu, không thích chốn quan trường, chẳng bon chen nơi thị tứ, mà chỉ đem sở trường, sở học chăm làm cái gì đó làm di sản cho lớp hậu sinh”.
Những lời bày tỏ của anh Xuân Đỗ cũng giống như cái nhìn của nhiều kẻ hậu sinh trên mảnh đất “cày lên sỏi đá” nhưng tự hào, hãnh diện với về các bậc tiền bối đã để lại tấm gương cao đẹp cho quê hương.
*
Sông Vu Gia bắt nguồn từ vùng núi ở phía Tây Nam của tỉnh Quảng Nam. Phần thượng nguồn ở Phước Sơn được gọi là Đăk Mi, sông chảy theo hướng Nam lên Bắc. Khi qua địa bàn phía Đông huyện Nam Giang, sông được gọi là sông Cái. Tại đây, nó nhận một chi lưu lớn ở phía Tây (tả ngạn), đó là sông Giằng. Bắt đầu khi chảy sang huyện Đại Lộc, sông được gọi là Vu Gia và có dòng chảy theo hướng Đông Tây. Sông Vu Gia chảy đến địa phận xã Đại Hòa ở phía Tây Đại Lộc thì tách ra làm hai dòng, một là sông Yên chảy lên phía Bắc hội lưu với sông Cầu Đỏ, một đi về phía Nam hội lưu với sông Thu Bồn.
Gò Nổi được bao bọc bởi sông Thu Bồn và sông Vu Gia gặp nhau rồi tách làm hai nhánh sông tạo thành vùng đất bồi phì nhiêu, trước kia thuộc tổng Đa Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn. Gò Nổi rộng khoảng vài chục cây số vuông, gồm có các làng Tư Phú, Bảo An, La Kham, Xuân Đài, Trường Giang, Đông Bàn, Phú Bông. Đây là vùng đất đã mang lại niềm tự hào cho quê hương Quảng Nam vì đã sản sinh ra những nhân vật gắn liền với lịch sử dân tộc như Hoàng Diệu, Trần Cao Vân, Phạm Phú Thứ, Phan Thành Tài, Lê Đình Dương... cùng nhiều vị khoa bảng nổi tiếng.
Nơi chốn đó, Phan Khôi, bút hiệu Chương Dân đã dấn thân vào nghề báo từ tuổi thanh xuân cho đến tuổi thất thập, ông vẫn giữ được hào khí của người cầm bút trong vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm. Ông còn là nhà văn, nhà lý luận sâu sắc và đóng góp trong phong trào thơ mới, điển hình với bài Tình Già vào đầu thập niên 30. Ngoài ra, ông còn có bút hiệu Tú Sơn (Tout Seul) qua dòng thơ trào phúng trên Phụ Nữ Thời Đàm; bút hiệu Thông Reo, ban đầu ký chung với Đào Trinh Nhất và Diệp Văn Ký trên tờ Thần Chung, sau đó ông giữ luôn mục “Câu Chuyện Hàng Ngày” nầy.
* Dòng Đời
Phan Khôi sinh năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, thân sinh ra ông là Phan Trân (1862-1935), đỗ phó bảng năm 1891, làm Tri Phủ ở Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Khi làm quan, là nhà nho yêu nước, thấy hình ảnh lộng hành của Công Sứ Pháp nên ông từ quan về dạy học ở quê nhà. Thân mẫu của Phan Khôi là con gái Hoàng Diệu, nguyên Tổng Đốc Hà Nội, quê ở Xuân Đài. Tổng Đốc Hoàng Diệu anh dũng tuẩn tiết khi thành Hà Nội bị lọt vào tay Henri Riviere năm 1882.
Theo dòng thời gian, cuộc đời của Phan Khôi từ nhỏ đến khi lui về quy ẩn ở quê nhà, trước đây, có vài điều nhầm lẫn vì ông vừa là học sinh, vừa là thầy giáo cùng một thời điểm. Trong quyển Nhớ Cha Tôi – Phan Khôi, nhà xuất bản Đà Nẵng, 2001 của bà Phan Thị Mỹ Khanh, trích dẫn lại đôi dòng tóm lược về ông:
“Sinh ra trong một gia đình khoa bảng, nề nếp, bên nội cũng như bên ngoại, mặc dầu mồ côi mẹ và là con một, cha tôi không ham chơi bời như một số cậu ấm cùng trang lứa, mà chỉ lo chí thú học hành. Từ ngày mới lên năm, sáu tuổi, cha tôi tỏ ra thông minh, học đâu nhớ đó...
Năm cha tôi được bảy tuổi thì chẳng may bà nội tôi lâm bệnh rồi qua đời, ông nội tôi phần vì buồn phiền, phần thì phải lo toan thu xếp việc nhà, không còn tâm trí kềm cập cha tôi thường xuyên như trước dược. Tuy nhiên với tấm lòng ham học sẵn có, cha tôi vẫn ôn lại bài vở cũ và mày mò tự học thêm, gặp chữ nào khó thì xin ông nội giảng giải.
Ngày ông tôi phải vào Diên Khánh nhậm chức Tri Huyện, gia đình lại thiếu vắng bà nội nên lâm vào cảnh đơn chiếc. Ông tôi bèn thu xếp gởi cha tôi về bên ngoại ở Xuân Đài... Nhưng chỉ được thời gian độ một năm, bảy tháng, cha tôi không thấy thích thú gì việc học hành ở nhà cậu nữa... Sẵn dịp ông tôi từ Diên Khánh về thăm nhà, cha tôi xin ông chuyển cho mình học nơi khác. Sau khi cân nhắc kỹ, ông tôi quyết định đưa cha tôi về thôn Thái La, làng Bất Nhị, gởi gấm cho cụ tú Trần Quý Cáp đang mở trường học tại nhà...
Cha tôi chịu ảnh hưởng nhiều của cụ Trần về mặt tư tưởng. Về học tập, do được cụ Trần hết lòng dạy dỗ trong một thời gian khá dài nên cha tôi tiến bộ rõ rệt. Đến năm 15, 16 tuổi, khi chuyển qua cac trường Huấn, trường Đốc, kỳ sát hạch nào của ông cũng chiếm hàng đầu, được tiếng là sĩ tử thông minh của đất Gò Nổi...
Học giỏi như vậy, nhưng năm Bính Ngọ (1906) ông 19 tuổi, lều chõng ra kinh đô Huế dự thi khoa thi Hương do Nam triều tổ chức, ông chỉ đỗ tú tài...
... Năm 1907, cha tôi được phong trào Duy Tân Quảng Nam giới thiệu đi học tiếng Pháp tại trường Đông Kinh Nghĩa Thục Hà Nội... Đến Hà Nội, cha tôi được nhà trường nhận vào học một lớp tiếng Pháp do ông Nguyễn Bá Học phụ trách... Nhà trường còn bố trí cho cha tôi dạy một số giờ chữ Hán những buổi không có lớp tiếng Pháp. Ngoài ra, ông còn viết bài, sửa bài cho tờ Đăng Cổ Tùng Báo.
Công việc dạy và học đương yên ổn thì trường Đông Kinh Nghĩa Thục và tờ Đăng Cổ Tùng Báo bị nhà cầm quyền Pháp đóng cửa, những vị sáng lập bị mật thám xét hỏi. Ông Nguyễn Bá Học rủ cha tôi chạy về Nam Định, tạm lánh nhà ông để tiếp tục học tiếng Pháp đang dở dang. Nhưng ở đây vẫn không yên, ông Nguyễn Bá Học bị mật thám Nam Định theo dõi, gọi tới gọi lui thẩm vấn nhiều lần. Cha tôi buộc phải rời nhà ông Học, tìm đường quay về Quảng Nam...
Vào khoảng năm 1909, cha tôi ra Huế xin vào lớp nhì trường Pellerin để tiếp tục học tiếng Pháp... Ban giám hiệu thấy cha tôi đã 22 tuổi mà ham học nên nhận đơn, nhưng buộc phải qua cuộc sát hạchmới cho vào lớp nhì, học chung với học trò trên 10 tuổi. Hai tháng đầu, ông bị xếp hạng bét lớp, nhưng từ tháng thứ ba trở đi, ông vượt lên đứng đầu trước sự ngạc nhiên của thầy giáo và đám bạn nhỏ. Nhưng chưa kết thúc năm học thì ông phải về quê thọ tang bà cố tôi, sau đó ở nhà luôn...
Thời gian nầy (1910) thực dân Pháp và Nam triều mở một đợt vây bắt bớ vì chúng thấy phong trào Duy Tân vẫn còn âm ỉ, và hơn nữa, Đảng Việt Nam Quang Phụcï Hộicủa cụ Phan Bội Châu đang bắt đầu nhen nhóm. Một hôm, cha tôi nhận được trát của phủ Điện Bàn đòi xuống hầu, nhưng ông vừa tới nơi thì bị tống giam vào nhà lao tỉnh, sau vài hôm lại bị giải giao về nhà tù Hội An, giam chung với các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyên và nhiều nhân sĩ đã bị bắt trước đó vài hôm...
... Năm 1913, mãn hạn tù. Ông nội tôi hối thúc việc cưới vợ, coi đó là biện pháp giữ chân con trai tốt nhất... Cưới vợ rồi, cha tôi mở lớp dạy chữ Hán và chữ Quốc Ngữ tại nhà, được học trò xa gần đến học rất đông, vì ông có cải tiến lối giảng dạy dễ hiểu hơn so với các thầy đồ xưa...
... Vào khoảng giữa năm 1916, cha tôi ra Hà Nội lần thứ hai với một quyết tâm cao hơn bao giờ hết, để thực hiện cho nguyện vọng ấp ủ bấy lâu là làm báo, viết văn, dù cho khó khăn đến mấy cũng phải vượt qua... Lên Hà Nội, cha tôi gặp Nguyễn Bá Trạc là người cùng quê và là bạn học cũ quen biết. Ông Nguyễn đã từng tham gia phong trào Đông Du, qua Nhật rồi trở về, được Pháp sử dụng, sau bổ nhiệm làm Tổng Đốc Thanh Hóa. Nguyễn Bá Trạc giới thiệu cha tôi vào làm báo Nam Phong do Phạm Quỳnh chủ bút....
Nhưng dần dần, ông nhận ra rằng báo Nam Phong chỉ là công cụ mị dân do người Pháp chủ trương... ông lại vào Sài Gòn viết cho tờ Lục Tỉnh Tân Văn.
Năm 1920, ông trở ra Hà Nội viết cho tờ Thực Nghiệp Dân Báo và tạp chí Hữu Thanh... Năm 1922, cha tôi lại trở vào Sài Gòn do vài bạn đồng nghiệp nhắn gọi, nhưng vào đó, ông chỉ viết bài gởi đăng báo như một cộng tác viên, chứ không có chủ báo nào nhận ông làm... Rồi nhân có một vụ việc gì đó xảy ra ở thành phố, ông bị mật thám tình nghi, đe dọa, phải chạy xuống Cà Mau tạm trú tại nhà một người quen thân làm chủ đồn điền tại đây.
Thời gian ở ẩn ăn không ngồi rồi này khá lâu, mất đến gần 3 năm, nhưng cha tôi biết tận dụng nó để làm việc có ích là tiếp tục học tiếng Pháp bằng cách trao đổi thư từ, bài tập qua đường bưu điện với một nhà báo Pháp Dejiean de la Bâtrie...
Đầu năm 1925, hết đợt lận đận, cha tôi trở lên Sài Gòn cộng tác cùng một lúc với ba tờ báo lớn là Thần Chung, Đông Pháp Thời Báo, đồng thời gởi bài cho Đông Tây Tuần Báo, văn học tạp chí ở Hà Nội.
Từ năm 1925 đến 1928, trong ba năm ấy, ông viết liên tục, rất sung túc... Giới trí thức tư sản Sài Gòn thì tới lui tìm gặp ông để bàn việc ra báo... Trong số những người đến tiếp xúc mời ông cộng tác, ông thấy bà Nguyễn Đức Nhuận là người có thật tâm nhất nên nhận lời... tuần báo lấy tên là Phụ Nữ Tân Văn... Bà đứng tên người sáng lập, cha tôi làm chủ bút... sau đó, vào hạ tuần tháng 5 năm 1933, chúng rút giấy phép, ra lệnh đóng cửa tòa soạn. Tờ Phụ Nữ Tân Văn cuối cùng chia tay với bạn đọc cũng là kỷ niệm ngày báo được tròn 4 tuổi...
... Cha tôi ở nhà khoảng một tuần, lại trở ra Hà Nội, nhận làm chủ bút báo Phụ Nữ Thời Đàm của ông Nguyễn Văn Đa. Ông nầy ra tuần báo Phụ Nữ Thời Đàm với ý đồ thay chân cho Phụ Nữ Tân Văn vừa bị đóng cửa, nhưng do tài chánh eo hẹp, tờ báo kém về hình thức lẫn nội dung, chỉ tồn tại được một năm phải đình bản.
Thôi làm cho Phụ Nữ Thời Đàm, ông quay về Huế, làm chủ bút báo Tràng An của ông Bùi Huy Tín, chủ nhà in Đắc Lập. Trên mặt báo Tràng An, thỉnh thoảng có đăng bài động đến chính quyền cai trị... nên bị Chánh mật thám Trung Kỳ Sogny nhiều lần hạch sách, đe dọa. Cuối cùng hắn dùng thủ đoạn thu hồi giấy nhập khẩu giấy in báo của nhà in Đắc Lập, tờ Tràng An không còn giấy để in, đành phải tự động đóng cửa.
Cha tôi lại mất việc. Ông tạm thời dạy Việt văn cho trường Trung học tư thục Hồ Đắc Hàm ở Huế, đồng thời viết bài cho Hà Nội Báo và xuất bản cuốn Chương Dân Thi Thoại vào đầu năm 1936...
Vào giữa năm 1936, cha tôi xin giấy phép đứng tên sáng lập tờ Sông Hương tại Huế... Tòa soạn do ông đảm đương là chính, cộng với sự trợ giúp của hai anh tôi và một vài nguời bà con. Tuần báo nầy chỉ sống được 8, 9 tháng thì phải tự đóng cửa do tài chánh mất cân đối, vốn dự bị lại cạn kiệt.
Cuối năm 1927, cha tôi vào Sài Gòn dạy Việt văn và Hán văn cho trường Trung học tư thục Chấn Thanh của ông Phan Bá Lân, đồng thời cộng tác với báo Tao Đàn. Thời gian nầy ông sáng tác tiểu thuyết đầu tay Trở Vỏ Lửa Ra và bán bản quyền cho nhà xuất bản Phổ Thông (1939)...
Cuối năm 1941, do thời cuộc, trường Chấn Thanh đóng cửa và dời về Đà Nẵng với quy mô nhỏ hơn, và báo chí cũng hết thời thịnh vượng, cha tôi quyết định trở về quê... Năm 1942, ông đã góp phần cùng mẹ và anh tôi sữa lại cái nhà ngang bằng tranh hư hỏng và dột nát...”
Thời gian từ 1941 đến 1945, Phan Khôi tạm gác bút.
Dòng họ Phan là một trong các dòng họ nổi tiếng ở Quảng Nam. Năm 1913, Phan Khôi lập gia đình với con gái ông cử Lương Thúc Ký (1873-1947), đỗ cử nhân cùng thời với Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh, Nguyễn Đình Tuyến... từng làm Hậu Bổ tỉnh Bình Thuận, Tri Huyện ở Tuy Phong, Giáo Thọ ở Tuy An, tác giả quyển Quốc Ngạn...
Ông bà Phan Khôi có sáu người con (hai trai, bốn gái), con cả là Phan Thao (1915-1960), cán bộ cao cấp trong Ủy Ban Trung Bộ, đại biểu Quốc Hội tỉnh Quảng Nam năm 1946, Chủ Nhiệm báo Cứu Quốc và bốn người con gái là Hựu Khanh, Bang Khanh, Mỹ Khanh, Tiểu Khanh. (Giữa Phan Khôi & Phan Thao đã bất đồng chính kiến quan điểm chính trị. Trong bài viết của Lại Nguyên Aân: “Theo lời kể lại, người con trai của ông khi đó là một cán bộ đảng, đã không dám đến dự đám tang cha mà chỉ cải trang làm một người tình cờ, dắt xe đạp đi trên vỉa hè trong lúc đám tang đi dưới lòng đường”.
Năm 1936, thời gian làm tờ Tràng An ở Huế, ông lấy thêm bà vợ hai người Hà Nội, có với nhau ba mặt con. Rời Huế, ông đưa người vợ kế về Quảng Nam, hai bà sống với nhau rất hòa thuận ở quê nhà, năm 1955 ông đưa vợ con ra đoàn tụ cùng ông tại Hà Nội.
Về quan hệ thân tộc, em gái ông là vợ nhà văn Sở Cuồng Lê Dư. Ông bà Lê Dư có các người con gái: bà Hằng Huân (vợ tướng Nguyễn Sơn), bà Hằng Phấn (vợ nhà văn Hoàng Văn Chí, tác giả Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc), bà Hằng Phương (vợ nhà văn Vũ Ngọc Phan). Em họ là Phan Bôi Hoàng Hữu Nam (1911-1949), Thứ Trưởng bộ Nội Vụ trong Chính Phủ Liên Hiệp. Ông Biện Chín, tên thật là Phan Định, chú ruột Phan Khôi, có hai người con là Phan Bôi, Phan Thanh (1908-1939). Phan Thanh cũng hoạt động trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ cùng với Đặng Thái Mai và Võ Nguyên Giáp.
* Nhân Văn – Giai Phẩm
Phan Khôi được hấp thụ tinh thần yêu nước của các vị thầy từ nhỏ, ông ghét chính sách cai trị của thực dân Pháp nên tham gia vào phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân... Đứng trước hoàn cảnh ly loạn của đất nước, ông đã tham gia trong phong trào kháng Pháp của Việt Minh nhưng tính cương trực, dũng cảm của bậc sĩ phu yêu nước, ông đã mạnh dạn lên án những sai lầm dù nguy hiểm cho bản thân.
Trong quyển Văn Thi Sĩ Tiền Chiến, Nguyễn Vỹ đã viết về ông:
“Năm 1945, Việt Minh nắm chính quyền. Ngay buổi đầu, ông đã bực tức về những hành động quá tàn bạo của chính quyền địa phương đối với nhân dân trong tỉnh. Đến khi họ định đập phá nhà thờ cụ Hoàng Diệu thì Phan Khôi phản đối quyết liệt. Nếu lúc bấy giờ không có thân thế mạnh mẽ thì có lẽ Phan Khôi đã bị thủ tiêu rồi, như trường hợp của những nhà văn có tinh thần quốc gia và yêu chuộng tự do, công lý như Khái hưng, Lan Khai...
... Phan Khôi lén nhờ người cầm thư ra Hà Nội, định che chở cho cụ. Nhưng ở Hà Nội, Phan Khôi vẫn bị công an Việt Minh theo dõi từng bước và họ giao ông cho chính em họ của ông là Phan Bôi, tức Hoàng Hữu Nam, ThứTrưởng bộ Nội Vụ, quản thúc.
Vì tính cương trực, không muốn để mất tự do hành động của mình, ông không chịu ở nhà Phan Bôi, mà tự ý đến nhà Khái Hưng, tại trụ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng, phố Quan Thánh. Việt Minh đến bắt Khái Hưng tại nơi đây, và bắt luôn Phan Khôi. Khái Hưng thì họ đưa về làng quê quán để rồi cán bộ địa phương thủ tiêu trong một đêm tối trên một bờ đê trong làng. Còn Phan Khôi thì bị đưa lên chiến khu Việt Bắc... và được giao công tác phiên dịch sách chữ Hán.
Suốt chín năm kháng chiến ở Việt Bắc, Phan Khôi, một nhà văn độc lập, không đảng phái, không quỵ lụy ai, không phục tùng sức mạnh nào, chỉ phụng sự cho công lý, tự do, dân chủ. Phan Khôi vẫn công kích chế độ Cộng Sản, mặc dầu ông triệt để ủng hộ cuộc kháng chiến của toàn dân chống Pháp”.
Công tác phiên dịch Hán văn và Pháp văn sang tiếng Việt cũng nhẹ nhàng, vì tuổi cao và có thân thế, Phan Khôi được ưu đãi hơn các văn nghệ sĩ khác nhưng ông không dựa vào đó để tiếm chức, lạm quyền mà dần đà khám phá ra nhiều hành vi độc đoán nên bất mãn. Năm 1951 ông làm bài thơ ví cuộc kháng chiến như hoa hồng và ví Việt Minh như gai. Ông nói lên tâm trạng của người vì yêu kháng chiến mà phải chấp nhận đi theo con đường phục vụ cho Việt Minh.
Bài thơ “Hồng Gai” như sau:
“Hồng nào hồng chẳng có gai
Miễn đừng là thứ hồng dài không hoa,
Là hồng thì phải có hoa,
Không hoa chỉ có gai mà ai chơi ?
Ta yêu hồng lắm hồng ơi !
Có gai mà cũng có mùi hương thơm”.
Sống lâu ngày nơi núi rừng Việt Bắc, dù khổ cực, bất mãn nhưng không có ai dám thổ lộ tâm sự bi đát đó, chỉ có Phan Khôi bộc lộ những dòng thơ vào năm 1952:
“Tuổi già thêm bệnh hoạn
Kháng chiến thấy thừa ta
Mối sầu như tóc bạc
Cứ cắt lại dài ra”.
Cuối năm 1954, Phan Khôi trở về Hà Nội cùng với đa số các văn nghệ sĩ khác. Vì không có nhà cửa ở Hà Nội nên Hội Văn Nghệ dành cho ông căn phòng ở tầng ba của trụ sởcủa Hội, ông vẫn tiếp tục công việc phiên dịch.
Năm 1956, sau khi Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, bài thơ Nhất Định Thắng của Trần Dần dài gần 400 câu như quả bom tung ra trong làng báo Hà Nội. Ngày 29-8-1956, Giai Phẩm Mùa Thu xuất hiện. Theo Hoàng Văn Chí trong Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc: “Trong tập nầy cụ Phan Khôi giáng một chùy trí mạng vào đầu giai cấp lãnh đạo. Bài của cụ nhan đề là Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ. Bài nầy đã làm nhân dân Hà Nội xôn xao. Có người viết trên báo Thời Mới, ví bài của cụ Phan như một “quả bom tạ” thả ngay giữa Hà Nội. Có người thốt lên rằng chín mười năm nay mới nghe thấy một tiếng nói “sang sảng” của cụ Phan...”
Vì nhận thấy “giai phẩm” có tính cách văn học nên Phan Khôiđứng ra làm Chủ Nhiệm tờ Nhân Văn cùng Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy... muốn quảng bá rộng rãi hơn tiếng vọng của tờ báo, tạo ngọn lửa đấu tranh giữa thủ đô Hà Nội.
Ngày 15-9-1956, tờ Nhân Văn ra đời, nhà thơ Phan Khôi, chủ nhiệm chủ bút, giới sinh viên hưởng ứng tiếng nói đấu tranh với tờ Đất Mới và tuần báo Trăm Hoa của Nguyễn Bính cũng nhập cuộc, và tờ Văn cũng thay đổi thái độ cho đến bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi xuất hiện, Đảng bắt Hội Văn Nghệ đình bản tờ Văn.
Đảng và giới lãnh đạo văn nghệ ra tay đàn áp tạo thành vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, đày đọa giới trí thức và những người cầm bút đối kháng vào chốn lao tù và sống cuộc đời lầm than trải dài qua vài thập niên.
Theo họa sĩ Trần Duy, thư ký tòa soạn báo Nhân Văn cho biết: “Nếu muốn nhìn lại thì theo tôi, cần nhìn lại từ những ngày đầu tháng 3 năm 1955, thời gian mà Trần Dần, Hoàng Cầm, Tử Phác, Hoàng Yến ở Phòng Văn Nghệ Quân Đội chủ trương phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Trong lúc ấy thì Xuân Trường trên báo Nhân Dân, Xuân Diệu trong hai số báo Văn Nghệ (Tháng 2, 1955) lại tung hô hết lời khen tập thơ này. Ông Phan Khôi nói với tôi: “Không ai cấm người làm thơ dở. Nhưng cái không may là người làm thơ dở lại làm người lãnh đạo!”
Nắng Chiều của Phan Khôi là tác phẩm cuối đời, thể hiện hào khí bất khuất của người cầm bút, đấu tranh cho tự do và lẽ phải.
Sáng ngày 16 tháng Giêng năm 1959, Phan Khôi vĩnh biệt cõi trần tại căn nhà ở phố Thuốc Bắc, Hà Nội, hưởng thọ 73 tuổi.
Đám tang của ông thật lặng lẽ, u buồn vì không khí ngột ngạt của vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm còn bủa vây trên bầu trời Hà Nội.
*
Về văn, trong Nhà Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan ra đời năm 1942 đã viết về Phan Khôi ở phần đầu: “Phan Khôi là một trong những nhà văn xuất sắc nhất trong phái nho học”. Và kết luận: “Trong văn giới Việt Nam, dù thuộc về phái già hay phái trẻ, tuy có nhiều người không đồng ý kiến với Phan Khôi, nhưng ai ai cũng phải công nhận ông là một tay kiện tướng”.
Về báo, trong quyển Nghề Viết Báo của Tế Xuyên đã nhận định:
“Léon Daudet, cây bút sắc bén của tờ báo hữu khuynh L’ Action Francaise đã nói rằng: Kẻ viết báo tài tình là những người bút chiến giỏi.
Phan Khôi xứng đáng là nhà bút chiến giỏi như lời Léon Daudet đã nói. Ông còn để lại trong lịch sử lịch sử báo chí nước nhà lắm trận bút chiến náo động”.
Phan Khôi đã tham gia trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, với tài năng, tuổi già và có thân nhân trong guồng máy lãnh đạo, ông được ưu đãi nhưng khí phách, nhân cách của nhà văn, nhà báo ý thức trách nhiệm với quê hương, dân tộc, không thể cam chịu trước cảnh độc tài và bất công, nên dấn thân đấu tranh đến cùng. Hình ảnh kiện tướng Phan Khôi, một lần nữa, được đi vào trong lịch sử báo chí và văn học Việt Nam.
Sự nghiệp cầm bút của Phan Khôi nổi bật về báo chí và các bài lý luận sắc bén. Tác Phẩm tiêu biểu: - Bàn Về Tế Giao (1918) - Tình Già (thơ mới - 1932) - Chương Dân Thi Thoại (chuyện thơ, 1936) – Trở Vỏ Lửa Ra (tiểu thuyết, 1939) – Tìm Tòi Trong Tiếng Việt (1950) - Việt Ngữ Nghiên Cứu (1955) - Dịch Lỗ Tấn (từ 1955 đến 1957) - Ngẫu Cảm (thơ chữ Hán) - Viếng Mộ Oâng Lê Chất (thơ chữ Hán) - Ông Năm chuột (truyện ngắn)
Truyện ngắn bằng Hán văn: Mộng Trung Mộng, Hoạn Hải Ba Đào.
Ngoài ra, bản dịch Kinh Thánh năm 1925 cho Giáo Hội Tin Lành của ông cũng được đánh giá rất cao trong thời kỳ phát triển văn chương Việt Nam.
*
Trải qua bao thăng trầm trong suốt quãng đời phiêu bạt, bút chiến, đụng độ với nhau... và nhất là thời điểm “tranh tối tranh sáng” sau ngày CS thống trị miền Bắc, Phan Khôi đả kích chế độ CS, những tên bồi bút tìm mọi thủ đoạn để triệt hạ. Rất nhiều giai thoại về Phan Khôi. Bài viết của GS Trần Gia Phụng đã ghi lại nhiều giai thoại ngay khi ông còn sống. Những câu chuyện thực trong cuộc đời ông, vừa táo bạo, vừa dí dỏm, nên được truyền miệng nhiều lần thành những giai thọai dân gian. Sống dưới chế độ CS, Phan Khôi cũng ưa “cãi lý” mà không sợ bị CS trù dập. Tượng trưng cho lối “cãi lý” Phan Khôi.
Nhìn lại hiện tình đất nước hiện tại, nhờ hệ thống internet được phổ biến rộng rãi, những cây bút trẻ, những bloggers... yêu chuộng tự do, bình đẳng; bất bình trước sự “hèn với giặc, ác với dân” đang xảy ra đã dũng cảm gióng lên tiếng nói mà Phan Khôi dấn thân vào 6 thập niên về trước. Hình ảnh Phan Khôi & sĩ khí người cầm bút như ngọn đuốc soi đường.
Vương Trùng Dương
Bài viết nhân ngày mất Phan Khôi trước đây được bổ túc thêm.
3. HÀ THANH, Hạc Vàng Về Cõi Thiên Thu
Vương Trùng Dương
“Trong như tiếng hạc bay qua”
(Kiều – Nguyễn Du)
“Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du”
(Thôi Hiệu)
Bài nầy viết năm 2000 với tựa đề “HÀ THANH, Chim Hoàng Oanh Đất Thần Kinh” cho tờ Thế Giới Nghệ Thuật (Lâm Tường Dũ, chủ bút & tôi, tổng thư ký). Nay viết lại khi nhận được tin buồn ca sĩ Hà Thanh về miền miên viễn. Bài viết nầy trích thêm các bài viết của vài tác giả như lời chia buồn với nghười quá cố. VTrD
*
Có một loài chim khi cất tiếng hót thánh thót vang vọng giữa trời mây sông nước, không gian như lắng đọng để hòa nhập trong âm điệu du dương như hoàng oanh, cao vút như sơn ca, trầm bổng như họa mi. Mang âm hưởng đó, có tiếng ca ngọt ngào, truyền cảm như làn gió nhẹ, như tiếng reo của thùy dương, như tơ vương giăng mắc, như sương khói lững lờ, như lời tình tự giữa trăng thanh, như ru ta vào cõi mộng mơ, dìu ta lạc bước vào đất thần kinh với hoàng thành cung điện, với đền đài lăng tẩm, với sông nước hữu tình, với giai điệu trầm bỗng, thướt tha: Hà Thanh.
Sinh trưởng ở Liễu Cốc Hạ, Hương Trà, lớn lên bên dòng Bến Ngự, đường Huyền Trân Công Chúa, Trần Thị Lục Hà sinh ra trong gia đình gia giáo có mười anh chị em (Lục Hà là người con thứ tư), theo học Trường Nữ Trung học Đồng Khánh. Là một Phật Tử thuần thành, thuở nhỏ đã được quy y với Đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết.
Lục Hà thích hát từ thuở mới cắp sách đến trường, dần dà năng khiếu về ca hát được thể hiện qua chương trình “Tiếng Nói Học Sinh Quốc Học - Đồng Khánh” trên đài phát thanh Huế.
Theo bài viết của Trần Kim Đoàn vào năm 2007: “Làng Liễu Hạ và họ Trần nhà tôi… dòng họ Trần Kiêm chúng tôi có bác Trần Kiêm Phổ làm trưởng tộc thì lại càng quan tâm nhiều hơn. Bác "Trợ Phổ", thân phụ của chị Hà Thanh, với dung mạo uy nghi, thường cầm cân nẩy mực cho cả dòng họ, nay lại cho phép chị Hà đi hát công khai trên đài phát thanh, thì quả là một cuộc "đại cách mạng" trong quan niệm truyền thống còn mang nhiều định kiến của đất lề quê thói rất Huế đương thời.
Ngày đó, khu nhà vườn cổ kính ở mé này nhánh sông Hương nối liền với sông An Cựu nắng đục mưa trong; ngó qua mé bên tê sông là trường Pellerin vẫn thường được giới nam nhi Huế ròng và Huế "bậu" - bắt chước Lan Đình gọi là "Vườn Thúy Hạnh" - vì một nhà mà có nhiều hơn cả "ngũ long công chúa", đều mang tên chữ có bộ thảo và rất chi là... tường Đông ong bướm đi về mặc ai: Tố Cần, Hà Thanh, Phương Thảo, Liên Như, Thúy Vy, Bạch Lan, Hoàng Mai”.
“Trong như tiếng hạc bay qua”
(Kiều – Nguyễn Du)
“Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du”
(Thôi Hiệu)
Bài nầy viết năm 2000 với tựa đề “HÀ THANH, Chim Hoàng Oanh Đất Thần Kinh” cho tờ Thế Giới Nghệ Thuật (Lâm Tường Dũ, chủ bút & tôi, tổng thư ký). Nay viết lại khi nhận được tin buồn ca sĩ Hà Thanh về miền miên viễn. Bài viết nầy trích thêm các bài viết của vài tác giả như lời chia buồn với nghười quá cố. VTrD
*
Có một loài chim khi cất tiếng hót thánh thót vang vọng giữa trời mây sông nước, không gian như lắng đọng để hòa nhập trong âm điệu du dương như hoàng oanh, cao vút như sơn ca, trầm bổng như họa mi. Mang âm hưởng đó, có tiếng ca ngọt ngào, truyền cảm như làn gió nhẹ, như tiếng reo của thùy dương, như tơ vương giăng mắc, như sương khói lững lờ, như lời tình tự giữa trăng thanh, như ru ta vào cõi mộng mơ, dìu ta lạc bước vào đất thần kinh với hoàng thành cung điện, với đền đài lăng tẩm, với sông nước hữu tình, với giai điệu trầm bỗng, thướt tha: Hà Thanh.
Sinh trưởng ở Liễu Cốc Hạ, Hương Trà, lớn lên bên dòng Bến Ngự, đường Huyền Trân Công Chúa, Trần Thị Lục Hà sinh ra trong gia đình gia giáo có mười anh chị em (Lục Hà là người con thứ tư), theo học Trường Nữ Trung học Đồng Khánh. Là một Phật Tử thuần thành, thuở nhỏ đã được quy y với Đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết.
Lục Hà thích hát từ thuở mới cắp sách đến trường, dần dà năng khiếu về ca hát được thể hiện qua chương trình “Tiếng Nói Học Sinh Quốc Học - Đồng Khánh” trên đài phát thanh Huế.
Theo bài viết của Trần Kim Đoàn vào năm 2007: “Làng Liễu Hạ và họ Trần nhà tôi… dòng họ Trần Kiêm chúng tôi có bác Trần Kiêm Phổ làm trưởng tộc thì lại càng quan tâm nhiều hơn. Bác "Trợ Phổ", thân phụ của chị Hà Thanh, với dung mạo uy nghi, thường cầm cân nẩy mực cho cả dòng họ, nay lại cho phép chị Hà đi hát công khai trên đài phát thanh, thì quả là một cuộc "đại cách mạng" trong quan niệm truyền thống còn mang nhiều định kiến của đất lề quê thói rất Huế đương thời.
Ngày đó, khu nhà vườn cổ kính ở mé này nhánh sông Hương nối liền với sông An Cựu nắng đục mưa trong; ngó qua mé bên tê sông là trường Pellerin vẫn thường được giới nam nhi Huế ròng và Huế "bậu" - bắt chước Lan Đình gọi là "Vườn Thúy Hạnh" - vì một nhà mà có nhiều hơn cả "ngũ long công chúa", đều mang tên chữ có bộ thảo và rất chi là... tường Đông ong bướm đi về mặc ai: Tố Cần, Hà Thanh, Phương Thảo, Liên Như, Thúy Vy, Bạch Lan, Hoàng Mai”.
Bước Đường Nghệ Thuật
Năm 1955, trong cuộc tuyển lựa ca sĩ do đài phát thanh Huế tổ chức, cô nữ sinh Lục Hà của Trường Đồng Khánh vào tuổi trăng tròn, tham dự với danh xưng Hà Thanh. Qua 6 nhạc phẩm rất khó hát được Hà Thanh trình diễn như Dòng Sông Xanh (Le Beau Danube Bleu) của J.Strauss, lời Việt của Phạm Duy, Nhạc Buồn (Tristesse) của Chopin, lời Việt của Anh Ngọc, Đêm Tàn Bến Ngự & Áng Mây Chiều của Dương Thiệu Tước, Được Mùa của Phạm Đình Chương, Gởi Gió Cho Mây Ngàn Bay của Đoàn Chuẩn - Từø Linh. Hà Thanh được Ban Giám Khảo chấm giải nhất với số điểm 19/20.
Tên tuổi Hà Thanh đã được giới yêu thích âm nhạc ái mộ với làn hơi trong sáng, êm ái, ngọt ngào, cao sang, mượt mà, bóng bẩy, tình tự quê hương, có nét độc đáo trong âm điệu đất thần kinh. Tuy yêu nghề nhưng chưa dấn thân vào nghiệp, Hà Thanh vẫn tiếp tục con đường học vấn, chỉ hát ở Huế nhưng những ca khúc được trình bày đã vang xa khắp bốn phương trời qua làn sóng phát thanh của đài phát thanh Huế, đánh dấu sự chờ đợi, hẹn hò của các trung tâm phát hành đĩa nhạc ở thủ đô Sài Gòn.
Năm 1963, trong chuyến vào thăm Sài Gòn, Hà Thanh đã được các trung tâm đĩa nhạc Continental, Tân Thanh, Sóng Nhạc, Asia, Việt Nam mời thu thanh nhiều nhạc phẩm chọn lọc.
Năm 1965, Hà Thanh chính thức gia nhập trong môi sinh hoạt ca nhạc ở Sài Gòn. Từ đó, góp mặt với những tiếng hát hàng đầu như Thái Thanh, Mộc Lan, Kim Tước, Mai Hương, Lệ Thu, Minh Hiếu, Thanh Thúy, Quỳnh Giao, Hoàng Oanh... Vào giữa thập niên 60, tiếng hát Hà Thanh thường xuyên hiện diện trên các đài phát thanh Sài Gòn, Quân Đội, Tự Do, trong các chương trình Đại Nhạc Hội... Thời gian kế tiếp, xuất hiện trên đài truyền hình, một giọng ca mượt mà rất Huế, một hình ảnh rất thân quen đã tạo dựng cho tên tuổi Hà Thanh với sắc thái đặc biệt gắn liền với nhiều bản tình ca in sâu vào tâm tư tình cảm tha nhân.
Vào cuối thập niên 50, Nguyễn Văn Đông cho ra mắt vài nhạc phẩm đầu tay như Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ... Quái kiệt Trần Văn Trạch đã đưa ca khúc Chiều Mưa Biên Giới lên đỉnh trăng sao trong khung trời ca nhạc. Thập niên 1960, Nguyễn Văn Đông làm Giám Đốc nghệ thuật trung tâm đĩa nhạc Continental, ca khúc Chiều Mưa Biên Giới qua tiếng hát Hà Thanh đã đưa người nghe lâng lâng tâm hồn, bay bỗng “Theo áng mây trôi chiều hoang, bầu trời xanh xanh, vầng trăng, cờ về chiều tung bay phất phới...”. Và, hình ảnh biên giới với “Người đi khu chiến thương người hậu phương. Thương màu
Năm 1955, trong cuộc tuyển lựa ca sĩ do đài phát thanh Huế tổ chức, cô nữ sinh Lục Hà của Trường Đồng Khánh vào tuổi trăng tròn, tham dự với danh xưng Hà Thanh. Qua 6 nhạc phẩm rất khó hát được Hà Thanh trình diễn như Dòng Sông Xanh (Le Beau Danube Bleu) của J.Strauss, lời Việt của Phạm Duy, Nhạc Buồn (Tristesse) của Chopin, lời Việt của Anh Ngọc, Đêm Tàn Bến Ngự & Áng Mây Chiều của Dương Thiệu Tước, Được Mùa của Phạm Đình Chương, Gởi Gió Cho Mây Ngàn Bay của Đoàn Chuẩn - Từø Linh. Hà Thanh được Ban Giám Khảo chấm giải nhất với số điểm 19/20.
Tên tuổi Hà Thanh đã được giới yêu thích âm nhạc ái mộ với làn hơi trong sáng, êm ái, ngọt ngào, cao sang, mượt mà, bóng bẩy, tình tự quê hương, có nét độc đáo trong âm điệu đất thần kinh. Tuy yêu nghề nhưng chưa dấn thân vào nghiệp, Hà Thanh vẫn tiếp tục con đường học vấn, chỉ hát ở Huế nhưng những ca khúc được trình bày đã vang xa khắp bốn phương trời qua làn sóng phát thanh của đài phát thanh Huế, đánh dấu sự chờ đợi, hẹn hò của các trung tâm phát hành đĩa nhạc ở thủ đô Sài Gòn.
Năm 1963, trong chuyến vào thăm Sài Gòn, Hà Thanh đã được các trung tâm đĩa nhạc Continental, Tân Thanh, Sóng Nhạc, Asia, Việt Nam mời thu thanh nhiều nhạc phẩm chọn lọc.
Năm 1965, Hà Thanh chính thức gia nhập trong môi sinh hoạt ca nhạc ở Sài Gòn. Từ đó, góp mặt với những tiếng hát hàng đầu như Thái Thanh, Mộc Lan, Kim Tước, Mai Hương, Lệ Thu, Minh Hiếu, Thanh Thúy, Quỳnh Giao, Hoàng Oanh... Vào giữa thập niên 60, tiếng hát Hà Thanh thường xuyên hiện diện trên các đài phát thanh Sài Gòn, Quân Đội, Tự Do, trong các chương trình Đại Nhạc Hội... Thời gian kế tiếp, xuất hiện trên đài truyền hình, một giọng ca mượt mà rất Huế, một hình ảnh rất thân quen đã tạo dựng cho tên tuổi Hà Thanh với sắc thái đặc biệt gắn liền với nhiều bản tình ca in sâu vào tâm tư tình cảm tha nhân.
Vào cuối thập niên 50, Nguyễn Văn Đông cho ra mắt vài nhạc phẩm đầu tay như Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ... Quái kiệt Trần Văn Trạch đã đưa ca khúc Chiều Mưa Biên Giới lên đỉnh trăng sao trong khung trời ca nhạc. Thập niên 1960, Nguyễn Văn Đông làm Giám Đốc nghệ thuật trung tâm đĩa nhạc Continental, ca khúc Chiều Mưa Biên Giới qua tiếng hát Hà Thanh đã đưa người nghe lâng lâng tâm hồn, bay bỗng “Theo áng mây trôi chiều hoang, bầu trời xanh xanh, vầng trăng, cờ về chiều tung bay phất phới...”. Và, hình ảnh biên giới với “Người đi khu chiến thương người hậu phương. Thương màu
áo gởi ra sa trường” được khơi dậy trong lòng mọi người tình người giữa bối cảnh chiến tranh.
Từ đó, nhiều ca khúc của Nguyễn Văn Đông được Hà Thanh trình bày, qua các thập niên, vẫn là tiếng hoàng oanh ngân vang đầu núi. Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Hải Ngoại Thương Ca, Nhớ Một Chiều Xuân... của Nguyễn Văn Đông, qua tiếng hát, vô hình chung trở nên “bản quyền” của Hà Thanh. Ở đó, có khi như định mệnh, thời gian ở hải ngoại, Hà Thanh gắn liền với Hải Ngoại Thương Ca.
Với những ca khúc trữ tình như Tiếng Xưa, Đêm Tàn Bến Ngự của Dương Thiệu Tước, với Tà Áo Tím, Thuở Ấy Yêu Em, Anh Đi Về Đâu, Ai Lên Xứ Hoa Đào của Hoàng Nguyên, với Chùa Hương của Hoàng Quý, Dứt Đường Tơ của Văn Thủy và Dzoãn Mẫn với Hoa Xuân, Mối Tình Trương Chi của Phạm Duy, Hẹn Một Ngày Về của Lê Hữu Mục, Nha Trang của Minh Kỳ, Bến Giang Đầu của Lê Trọng Nguyễn, với Thiên Thai của Văn Cao, Chiều Vàng của Nguyễn Văn Khánh, Nỗi Niềm của Tuấn Khanh, Tôi Đi Giữa Hoàng Hôn của Văn Phụng... được Hà Thanh trình bày, qua bao thập niên, vẫn là giọt sương long lanh, tiếng hót của loài chim quý trên đỉnh núi, lời tình tự ngát hương.
Nổi Trôi Theo Dòng Đời
Trong văn giới, Mai Thảo đã một thời mê bóng dáng Hà Thanh. Vào thập niên 60, Mai Thảo trông coi tạp chí Kịch Ảnh nên có sự giao tiếp rộng rãi trong giới ca nhạc. Lê Hà Nam trong bài viết về Mai Thảo đã đề cập:... “Vào cuối thập niên 50, đã từ Sài Gòn, một mình bay ra cố đô Huế; lừng lững tới tận nhà người ca sĩ họ Lục (sau nầy trở thành danh ca dưới tên H.T). Đó là Mai Thảo, ông hoàng của Đêm sài Gòn. Không chỉ đa số các khán giả không biết mà, ngay cả song thân của người ca sĩ họ Lục cũng kinh ngạc, ngỡ ngàng khi nghe Mai Thảo nói:
Tôi là Mai Thảo, từ Sài Gòn ra, chúng tôi thật sự muốn lấy L.H làm vợ...Và, cũng ngay sau đó, song thân của người con gái họ Lục tự thấy rằng sẽ khó khăn cho họ biết là chừng nào, nếu có một chàng rể như... Mai Thảo”.
Nhà thơ Diên Nghị, cựu học sinh Quốc Học Huế, khi làm Quản Đốc đài phát thanh Huế, ái mộ Hà Thanh nhưng biến cố năm 1963, có sự đụng chạm đến vần đề tôn giáo nên có bất đồng. Và, đó phải chăng là lý do Hà Thanh bỏ đất thần hinh để vào Sài Gòn?
Hình như ca sĩ thường lập gia đình rất sớm, nhưng Hà Thanh lập gia đình vào tuổi “tam thập nhi lập”. Năm 1970 kết duyên với người hùng trong binh chủng Thiết Giáp, Trung tá Bùi Thế Dung, Thiết đoàn trưởng Thiết Đoàn 11. Năm 1972, Kim Huyên ra đời. Hiện nay, nha sĩ Bùi Trần Kim Huyên nối nghiệp cầm ca theo thân mẫu.
GS Bùi Tường Huân, bà con họ hàng với anh Bùi Thế Dung. GS Bùi Tường Huân, cựu Khoa Trưởng đại học Luật Khoa Huế, Bộ trưởng Bộ Giáo Dục, lập gia đình với cô Phương Thảo (chị ruột Hà Thanh). Vì vậy vào thời điểm cuối cùng của tháng Tư năm 1975. Khi nội các Vũ Văn Mẫu thành lập, GS Bùi Tường Huân làm Bộ trưởng Quốc Phòng và anh Bùi Thế Dung làm Thứ trưởng QP.
Mũ đen Bùi Thế Dung cũng thích thơ phú. Có hai câu thơ ghi ở trường Thiết Giáp:
“Vó câu ngàn dặm không sờn chí
Xích sắt ngàn mile chẳng sợ mòn”.
Hà Thanh cùng chồng sống bên nhau được bốn năm, biến cố tang thương xảy ra. Năm 1975, phu quân Hà Thanh vào chốn lao tù và trải qua 13 năm. “Hà Thanh sang Mỹ năm 1984. Có những cây cầu đã gãy trong chiến tranh và những mối tình gãy đổ sau cuộc
Từ đó, nhiều ca khúc của Nguyễn Văn Đông được Hà Thanh trình bày, qua các thập niên, vẫn là tiếng hoàng oanh ngân vang đầu núi. Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Hải Ngoại Thương Ca, Nhớ Một Chiều Xuân... của Nguyễn Văn Đông, qua tiếng hát, vô hình chung trở nên “bản quyền” của Hà Thanh. Ở đó, có khi như định mệnh, thời gian ở hải ngoại, Hà Thanh gắn liền với Hải Ngoại Thương Ca.
Với những ca khúc trữ tình như Tiếng Xưa, Đêm Tàn Bến Ngự của Dương Thiệu Tước, với Tà Áo Tím, Thuở Ấy Yêu Em, Anh Đi Về Đâu, Ai Lên Xứ Hoa Đào của Hoàng Nguyên, với Chùa Hương của Hoàng Quý, Dứt Đường Tơ của Văn Thủy và Dzoãn Mẫn với Hoa Xuân, Mối Tình Trương Chi của Phạm Duy, Hẹn Một Ngày Về của Lê Hữu Mục, Nha Trang của Minh Kỳ, Bến Giang Đầu của Lê Trọng Nguyễn, với Thiên Thai của Văn Cao, Chiều Vàng của Nguyễn Văn Khánh, Nỗi Niềm của Tuấn Khanh, Tôi Đi Giữa Hoàng Hôn của Văn Phụng... được Hà Thanh trình bày, qua bao thập niên, vẫn là giọt sương long lanh, tiếng hót của loài chim quý trên đỉnh núi, lời tình tự ngát hương.
Nổi Trôi Theo Dòng Đời
Trong văn giới, Mai Thảo đã một thời mê bóng dáng Hà Thanh. Vào thập niên 60, Mai Thảo trông coi tạp chí Kịch Ảnh nên có sự giao tiếp rộng rãi trong giới ca nhạc. Lê Hà Nam trong bài viết về Mai Thảo đã đề cập:... “Vào cuối thập niên 50, đã từ Sài Gòn, một mình bay ra cố đô Huế; lừng lững tới tận nhà người ca sĩ họ Lục (sau nầy trở thành danh ca dưới tên H.T). Đó là Mai Thảo, ông hoàng của Đêm sài Gòn. Không chỉ đa số các khán giả không biết mà, ngay cả song thân của người ca sĩ họ Lục cũng kinh ngạc, ngỡ ngàng khi nghe Mai Thảo nói:
Tôi là Mai Thảo, từ Sài Gòn ra, chúng tôi thật sự muốn lấy L.H làm vợ...Và, cũng ngay sau đó, song thân của người con gái họ Lục tự thấy rằng sẽ khó khăn cho họ biết là chừng nào, nếu có một chàng rể như... Mai Thảo”.
Nhà thơ Diên Nghị, cựu học sinh Quốc Học Huế, khi làm Quản Đốc đài phát thanh Huế, ái mộ Hà Thanh nhưng biến cố năm 1963, có sự đụng chạm đến vần đề tôn giáo nên có bất đồng. Và, đó phải chăng là lý do Hà Thanh bỏ đất thần hinh để vào Sài Gòn?
Hình như ca sĩ thường lập gia đình rất sớm, nhưng Hà Thanh lập gia đình vào tuổi “tam thập nhi lập”. Năm 1970 kết duyên với người hùng trong binh chủng Thiết Giáp, Trung tá Bùi Thế Dung, Thiết đoàn trưởng Thiết Đoàn 11. Năm 1972, Kim Huyên ra đời. Hiện nay, nha sĩ Bùi Trần Kim Huyên nối nghiệp cầm ca theo thân mẫu.
GS Bùi Tường Huân, bà con họ hàng với anh Bùi Thế Dung. GS Bùi Tường Huân, cựu Khoa Trưởng đại học Luật Khoa Huế, Bộ trưởng Bộ Giáo Dục, lập gia đình với cô Phương Thảo (chị ruột Hà Thanh). Vì vậy vào thời điểm cuối cùng của tháng Tư năm 1975. Khi nội các Vũ Văn Mẫu thành lập, GS Bùi Tường Huân làm Bộ trưởng Quốc Phòng và anh Bùi Thế Dung làm Thứ trưởng QP.
Mũ đen Bùi Thế Dung cũng thích thơ phú. Có hai câu thơ ghi ở trường Thiết Giáp:
“Vó câu ngàn dặm không sờn chí
Xích sắt ngàn mile chẳng sợ mòn”.
Hà Thanh cùng chồng sống bên nhau được bốn năm, biến cố tang thương xảy ra. Năm 1975, phu quân Hà Thanh vào chốn lao tù và trải qua 13 năm. “Hà Thanh sang Mỹ năm 1984. Có những cây cầu đã gãy trong chiến tranh và những mối tình gãy đổ sau cuộc
chiến. Trong cảnh "trải qua một cuộc bể dâu", Hà Thanh tìm về với thiền học, thiền định và thiền ca” (Trần Kim Đoàn)
Năm 1984 Hà Thanh và đứa con gái duy nhất được gia đình bảo lãnh sang định cư tại miền Đông Hoa Kỳ. Tháng ngày xa vắng ở hải Ngoại, Hà Thanh, ăn chay và cầu nguyện cho phu quân được bình an và mong ngày sum họp. Năm 1990, vợ chồng được đoàn tụ với nhau. Thế nhưng, theo dòng thời gian với bao nỗi trớ trêu của hệ lụy, bóng tối cuộc tình đổ xuống trong tuổi bóng xế của cuộc đời sau 2 năm gần gũi bên nhau!. Định mệnh thật trớ trêu!
Tuy là ca sĩ chuyên nghiệp nhưng hoàn cảnh đời sống hải ngoại đưa đẫy công việc không liên quan đến nghề nghiệp trong sinh hoạt văn nghệ. Nói như thi hào Nguyễn Du “Đã mang lấy nghiệp vào thân”, làm sao rời bỏ tiếng ca, giọng hát khi lòng còn tha thiết, vẫn còn trong sáng, ngọt ngào, nét độc đáo trong tiếng hát. Trong suốt thời gian vợ chồng xa cách, Hà Thanh rất ít xuất hiện trên sân khấu, con chim hoàng oanh, sơn ca… ngậm ngùi im tiếng. Đã một thời nơi đất thần kinh, Hà Thanh được mệnh danh con chim họa mi trong vòm trời ca nhạc.
Năm 1985 trung tâm Giáng Ngọc thực hiện CD Hải Ngoại Thương Ca, gồm những ca khúc Hà Thanh đã trình bày trước năm 1975 ở Sài Gòn.
Bước vào thập niên 90, thỉnh thoảng về thăm Little Saigon cho vơi đi nỗi buồn, Hà Thanh xuất hiện, trình làng tiếng hát trong vài cuốn CD. Ngoài những ca khúc được hát chung với vài ca sĩ thành danh, tiếng hát Hà Thanh với CD kế tiếp Chiều Mưa Biên Giới, gồm hai mươi ca khúc quen thuộc, vang danh. Những ca khúc nầy đã một thời tạo dựng tên tuổi Hà Thanh nổi tiếng trong kiếp cầm ca. Và, ngược lại, đôi khi còn là của riêng bởi giọng ca đặc biệt ngọt ngào, thướt tha, mềm mại như lụa đào, như dáng liễu nhẹ nhàng tung bay trong làn gió nhẹ.
1995: Chiều Mưa Biên Giới
1995: Sầu Mộng
1999: Ngát Hương Đàm - Phật Ca
2000: Chinh Phụ Ca
2003: Nhành Dương Cứu Khổ - Phật Ca
CD Sầu Mộng gồm mười nhạc phẩm được chọn lọc của Phạm Vũ như Hương Bay, Sầu Mộng, Mây Mùa Thu... tuy không được ái mộ nhiều nhưng cũng là món quà đóng góp trong vườn hoa nghệ thuật hải ngoại.
CD Ngát Hương Đàm gồm 12 ca khúc mang mầu sắc Phật Giáo, ngợi ca đức tin, lòng yêu thương, huyền nhiệm cao cả giữa đạo và đời. Là Phật Tử, Hà Thanh thường đi trình diễn trong dịp lễ của Phật Giáo như công quả thệ nguyện. CD Nhành Dương Cưu Khổ được tiếp nối sau CD về đạo ca mà Hà Thanh ôm ấp trong tâm tưởng. CD Nhành Dương Cứu Khổ do nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng hòa âm, đúng như ý nguyện của tâm hồn mộ đạo với Tam Bảo.
Bất hạnh xảy đến với Hà Thanh khi thu ca khúc Hoa Xuân cho trung tâm Thúy Nga, ca khúc Nha Trang cho trung tâm Asia… Hà Thanh khám phá vướng vào căn bịnh hiểm nghèo ung thư máu. Từ đó, tránh né và gần như cắt đứt mọi liên lạc với những tình thân.
Năm 1984 Hà Thanh và đứa con gái duy nhất được gia đình bảo lãnh sang định cư tại miền Đông Hoa Kỳ. Tháng ngày xa vắng ở hải Ngoại, Hà Thanh, ăn chay và cầu nguyện cho phu quân được bình an và mong ngày sum họp. Năm 1990, vợ chồng được đoàn tụ với nhau. Thế nhưng, theo dòng thời gian với bao nỗi trớ trêu của hệ lụy, bóng tối cuộc tình đổ xuống trong tuổi bóng xế của cuộc đời sau 2 năm gần gũi bên nhau!. Định mệnh thật trớ trêu!
Tuy là ca sĩ chuyên nghiệp nhưng hoàn cảnh đời sống hải ngoại đưa đẫy công việc không liên quan đến nghề nghiệp trong sinh hoạt văn nghệ. Nói như thi hào Nguyễn Du “Đã mang lấy nghiệp vào thân”, làm sao rời bỏ tiếng ca, giọng hát khi lòng còn tha thiết, vẫn còn trong sáng, ngọt ngào, nét độc đáo trong tiếng hát. Trong suốt thời gian vợ chồng xa cách, Hà Thanh rất ít xuất hiện trên sân khấu, con chim hoàng oanh, sơn ca… ngậm ngùi im tiếng. Đã một thời nơi đất thần kinh, Hà Thanh được mệnh danh con chim họa mi trong vòm trời ca nhạc.
Năm 1985 trung tâm Giáng Ngọc thực hiện CD Hải Ngoại Thương Ca, gồm những ca khúc Hà Thanh đã trình bày trước năm 1975 ở Sài Gòn.
Bước vào thập niên 90, thỉnh thoảng về thăm Little Saigon cho vơi đi nỗi buồn, Hà Thanh xuất hiện, trình làng tiếng hát trong vài cuốn CD. Ngoài những ca khúc được hát chung với vài ca sĩ thành danh, tiếng hát Hà Thanh với CD kế tiếp Chiều Mưa Biên Giới, gồm hai mươi ca khúc quen thuộc, vang danh. Những ca khúc nầy đã một thời tạo dựng tên tuổi Hà Thanh nổi tiếng trong kiếp cầm ca. Và, ngược lại, đôi khi còn là của riêng bởi giọng ca đặc biệt ngọt ngào, thướt tha, mềm mại như lụa đào, như dáng liễu nhẹ nhàng tung bay trong làn gió nhẹ.
1995: Chiều Mưa Biên Giới
1995: Sầu Mộng
1999: Ngát Hương Đàm - Phật Ca
2000: Chinh Phụ Ca
2003: Nhành Dương Cứu Khổ - Phật Ca
CD Sầu Mộng gồm mười nhạc phẩm được chọn lọc của Phạm Vũ như Hương Bay, Sầu Mộng, Mây Mùa Thu... tuy không được ái mộ nhiều nhưng cũng là món quà đóng góp trong vườn hoa nghệ thuật hải ngoại.
CD Ngát Hương Đàm gồm 12 ca khúc mang mầu sắc Phật Giáo, ngợi ca đức tin, lòng yêu thương, huyền nhiệm cao cả giữa đạo và đời. Là Phật Tử, Hà Thanh thường đi trình diễn trong dịp lễ của Phật Giáo như công quả thệ nguyện. CD Nhành Dương Cưu Khổ được tiếp nối sau CD về đạo ca mà Hà Thanh ôm ấp trong tâm tưởng. CD Nhành Dương Cứu Khổ do nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng hòa âm, đúng như ý nguyện của tâm hồn mộ đạo với Tam Bảo.
Bất hạnh xảy đến với Hà Thanh khi thu ca khúc Hoa Xuân cho trung tâm Thúy Nga, ca khúc Nha Trang cho trung tâm Asia… Hà Thanh khám phá vướng vào căn bịnh hiểm nghèo ung thư máu. Từ đó, tránh né và gần như cắt đứt mọi liên lạc với những tình thân.
Những Dòng Chia Sẻ
Nhạc sĩ sáng tác và ca sĩ trình bày để tạo ca khúc trở thành “tác phẩm nghệ thuật” được gắn bó với nhau khi đề cập đến ca khúc có sự liên tưởng.
Trong bài phỏng vấn giữa Hoàng Chi Lan và nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông vào năm 2007, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông chia sẻ:
“Lần đầu tiên, tôi được gập cô Hà Thanh là vào năm 1963 tại Đài Phát Thanh Sàigòn ở số 3 đường Phan Đình Phùng ngày xưa, bây giờ là đường Nguyễn Đình Chiểu. Khi ấy, tôi là Trưởng Ban Tiếng Thời Gian của đài phát thanh Sài Gòn với các ca sĩ như Lệ Thanh, Khánh Ngọc, Trần Văn Trạch, Minh Diệu, Mạnh Phát, Thu Hồ, Anh Ngọc v.v. Ngày đó cô Hà Thanh từ Huế vào Sài Gòn thăm người chị gái lập gia đình với một vị Đại tá đang làm việc ỡ Sài Gòn.
Chính nhạc sĩ Mạnh Phát cho tôi biết về cô Hà Thanh nên tôi nhờ Mạnh Phát liên lạc mời cô Hà Thanh đến hát với Ban Tiếng Thời Gian. Đây là lần đầu tiên tôi được tận tai nghe tiếng hát Hà Thanh, hát nhạc sống và hát thật ngoài đời với ban nhạc của tôi, không nghe qua làn sóng phát thanh hay qua băng đĩa nhạc.
Điều này giúp cho tôi có cơ sở nhận định chính xác về giọng hát Hà Thanh. Tôi hiểu ngay đây là giọng ca thiên phú, kỹ thuật tốt, làn hơi diễm cảm tuyệt đẹp, là một vì sao trong những vì sao hiếm hoi ỡ đỉnh cao nghệ thuật nhưng chưa có cơ hội phát tiết hết hào quang cũa mình. Ngay sau đó, tôi có mời Hà Thanh thâu thanh cho hãng đĩa Continental. Nếu tôi nhớ không lầm thì bản nhạc đầu tiên tôi trao cho Hà Thanh là bài Về Mái Nhà Xưa do tôi sáng tác. Lần đó, cô Hà Thanh hát thật tốt, toàn ban nhạc và Ban Giám Đốc hãng Continental rất hài lòng, khen ngợi. Sau ngày đó, cô Hà Thanh từ giã trỡ về lại Huế, trở về lại với cố đô trầm mặc, tĩnh lặng, không sôi nổi như thủ đô Sài Gòn, là cái nôi của âm nhạc thời bấy giờ.
Sau khi Hà Thanh trở về Huế, tôi có nhiều suy tư về giọng hát đặc biệt này. Tôi ví von, cho đây là vì sao còn bị che khuất, chưa toả hết ánh hào quang, vì chưa có hoàn cảnh thuận lợi để đăng quang, nếu phó mặc cho thời gian, cho định mệnh, có thể một ngày kia sẽ hối tiếc. Vì vậy tôi đem việc này ra bàn với Ban Giám Đốc hãng đĩa Continental để mời cô Hà Thanh vào Sài Gòn cộng tác.
Chính tôi viết thư mời cô Hà Thanh vào Sài Gòn với những lý lẽ rất thuyết phục, rất văn nghệ, rất chân tình. Và cô Hà Thanh đã vào Sài Gòn sau khi đã tranh đấu gay go với gia đình bố mẹ, vốn giữ nề nếp cổ xưa của con người xứ Huế. Ngày đó Hà Thanh vào Sài Gòn, hoà nhập vào đời sống người Sài Gòn, vào nhịp đập âm nhạc Sài Gòn, vốn đứng đầu văn nghệ cả nước. Hà Thanh đi thâu thanh cho đài phát thanh Sài Gòn, đài phant thanh Quân Đội và nhận được lời mời tới tấp của các hãng đĩa băng nhạc như Sóng
Nhạc sĩ sáng tác và ca sĩ trình bày để tạo ca khúc trở thành “tác phẩm nghệ thuật” được gắn bó với nhau khi đề cập đến ca khúc có sự liên tưởng.
Trong bài phỏng vấn giữa Hoàng Chi Lan và nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông vào năm 2007, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông chia sẻ:
“Lần đầu tiên, tôi được gập cô Hà Thanh là vào năm 1963 tại Đài Phát Thanh Sàigòn ở số 3 đường Phan Đình Phùng ngày xưa, bây giờ là đường Nguyễn Đình Chiểu. Khi ấy, tôi là Trưởng Ban Tiếng Thời Gian của đài phát thanh Sài Gòn với các ca sĩ như Lệ Thanh, Khánh Ngọc, Trần Văn Trạch, Minh Diệu, Mạnh Phát, Thu Hồ, Anh Ngọc v.v. Ngày đó cô Hà Thanh từ Huế vào Sài Gòn thăm người chị gái lập gia đình với một vị Đại tá đang làm việc ỡ Sài Gòn.
Chính nhạc sĩ Mạnh Phát cho tôi biết về cô Hà Thanh nên tôi nhờ Mạnh Phát liên lạc mời cô Hà Thanh đến hát với Ban Tiếng Thời Gian. Đây là lần đầu tiên tôi được tận tai nghe tiếng hát Hà Thanh, hát nhạc sống và hát thật ngoài đời với ban nhạc của tôi, không nghe qua làn sóng phát thanh hay qua băng đĩa nhạc.
Điều này giúp cho tôi có cơ sở nhận định chính xác về giọng hát Hà Thanh. Tôi hiểu ngay đây là giọng ca thiên phú, kỹ thuật tốt, làn hơi diễm cảm tuyệt đẹp, là một vì sao trong những vì sao hiếm hoi ỡ đỉnh cao nghệ thuật nhưng chưa có cơ hội phát tiết hết hào quang cũa mình. Ngay sau đó, tôi có mời Hà Thanh thâu thanh cho hãng đĩa Continental. Nếu tôi nhớ không lầm thì bản nhạc đầu tiên tôi trao cho Hà Thanh là bài Về Mái Nhà Xưa do tôi sáng tác. Lần đó, cô Hà Thanh hát thật tốt, toàn ban nhạc và Ban Giám Đốc hãng Continental rất hài lòng, khen ngợi. Sau ngày đó, cô Hà Thanh từ giã trỡ về lại Huế, trở về lại với cố đô trầm mặc, tĩnh lặng, không sôi nổi như thủ đô Sài Gòn, là cái nôi của âm nhạc thời bấy giờ.
Sau khi Hà Thanh trở về Huế, tôi có nhiều suy tư về giọng hát đặc biệt này. Tôi ví von, cho đây là vì sao còn bị che khuất, chưa toả hết ánh hào quang, vì chưa có hoàn cảnh thuận lợi để đăng quang, nếu phó mặc cho thời gian, cho định mệnh, có thể một ngày kia sẽ hối tiếc. Vì vậy tôi đem việc này ra bàn với Ban Giám Đốc hãng đĩa Continental để mời cô Hà Thanh vào Sài Gòn cộng tác.
Chính tôi viết thư mời cô Hà Thanh vào Sài Gòn với những lý lẽ rất thuyết phục, rất văn nghệ, rất chân tình. Và cô Hà Thanh đã vào Sài Gòn sau khi đã tranh đấu gay go với gia đình bố mẹ, vốn giữ nề nếp cổ xưa của con người xứ Huế. Ngày đó Hà Thanh vào Sài Gòn, hoà nhập vào đời sống người Sài Gòn, vào nhịp đập âm nhạc Sài Gòn, vốn đứng đầu văn nghệ cả nước. Hà Thanh đi thâu thanh cho đài phát thanh Sài Gòn, đài phant thanh Quân Đội và nhận được lời mời tới tấp của các hãng đĩa băng nhạc như Sóng
nhạc, Việt Nam, Tân Thanh, Tứ Hải và hầu hết các trung tâm ở thủ đô Sài Gòn , chứ không phải chỉ riêng cho Hãng dĩa Continental và Sơn Ca của tôi.
… Tôi cho rằng Hà Thanh không chỉ hát mà còn sáng tạo trong khi hát. Hà Thanh đã tạo thêm những nốt luyến láy rất truyền cảm, rất mỹ thuật làm cho bài hát cũa tôi thêm thăng hoa, trong giai điệu cũng như trong lời ca. Tôi cho rằng khi hát cô Hà Thanh đã sống và cùng đồng điệu sẻ chia với tác gỉa khi trình bày một bản nhạc có tầm vóc nghệ thuật.
Tôi cho rằng Hà Thanh có giọng hát thiên phú, cô hát rất thoải mái dễ dàng, không cầu kỳ, không cường điệu, không gò bó nhưng nó cuốn hút ta đi trong cái bềnh bồng không gò ép đó. Tôi cám ơn tiếng hát của Hà Thanh đã mang lại cho các bài hát cũa tôi thêm màu sắc, thêm thi vị, bay bổng…
… Tiếng hát Hà Thanh đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm tốt đẹp, bền bỉ tuy thời gian ngắn ngủi kể từ khi cô bỏ đi lấy chồng để tôi độc hành trên đường nghệ thuật. Sau biến cố 1975, tôi không còn dịp hợp tác với cô Hà Thanh như trước đây. Nhưng thỉnh thoảng tôi được nghe cô hát một sáng tác mới của tôi ở hải ngoại, tôi vẫn cảm thấy tiếng cũa cô vẫn đậm đà phong cách ngày xưa, vẫn một Hà Thanh diễn cảm, sang trọng, sáng tạo trong khi hát, mặc dù thời gian chia cách đã 40 năm qua”.
Nhà thơ Nhất Tuấn, tác giả Chuyện Chúng Mình vang tiếng một thời, nói về Hà Thanh như sau:
"Tôi có dịp gặp Hà Thanh khi làm quản đốc đài phát thanh Quân Đội (1968) tại Sài Gòn. Hà Thanh lúc đó hát rất hay và xuất hiện thường xuyên trên các đài VOF, Mẹ Việt Nam, đài Sài Gòn, đài Quân Đội. Hà Thanh càng ngày càng nổi tiếng. So với những ngày còn ở Huế, sự giao thiệp của Hà Thanh có phần bạo dạn hơn đôi chút, nhưng vẫn còn dè dặt và giới hạn lắm. Thời này Hà Thanh hát nhiều bài của Nhất Tuấn do Phạm Duy, Đan Thọ, Hoàng Lan phổ nhạc. Đặc biệt là Hà Thanh hát rất nổi tiếng những nhạc phẩm của Nguyễn Văn Đông và nhạc tiền chiến của Đoàn Chuẩn, Từ Linh. Bài nào Hà Thanh hát lên cũng làm người nghe rung động vì khi hát nàng để hết tâm hồn vào lời thơ, ý nhạc của tác giả muốn gởi gắm trong bài. Hà Thanh như "nhập" vào bài hát để diễn tả, để làm toát lên giọng Huế rất dễ thương"
… Dáng người thanh tú, cao cao, nụ cười vui tươi luôn nở trên môi với nét mặt rạng rỡ. Tính nết Hà Thanh nhu mì, hiền dịu, khác biệt trong giới nghệ sĩ".
Và với Hoàng Lan Chi: “Khi tôi bước vào ngưỡng cửa trung học, một loạt các ca sĩ có chữ “Thanh” phủ đầy làn sóng thu thanh, phương tiện duy nhất thời đó. Thái Thanh, Lệ Thanh, Hà Thanh, Thanh Thúy…Với tôi, Hà Thanh có một vị trí đặc biệt và cũng với tôi, tiếng hát ấy là ‘tiếng hát hoa đàò’”...
Ca sĩ Quỳnh Giao, với nhiều bài viết về giới ca nhạc, năm 2012 viết như sau: “Hà Thanh có được Huế cưng quý như vậy trước hết là nhờ giọng ca thiên phú, trong trẻo cao vút. Ðây là một trong vài giọng soprano hiếm có của Việt Nam. Hà Thanh hát dễ dàng như hơi thở. Khi lên cao, giọng lồng lộng, thoải mái cho chúng ta cảm tưởng chiếc diều phơi phới trên nền trời xanh ngắt.”
Trong bài viết trước đây với nhạc sĩ Hoàng Nguyên, khi anh và tôi ở chung căn phòng hơn 3 tháng trong thời gian về học Khóa 3 trung cấp CTCT vào Hè năm 1971 tại trường đại học CTCT Đà Lạt. Anh cho biết ngoài ca khúc Ai Lên Xứ Hoa Đào, nhạc phẩm Tà Aùo Tím được Hà Thanh trình bày lột tả được cái hồn trữ tình trong ca khúc. Giọng Huế rất ngọt, tiếng hát Hà Thanh càng ngọt ngào hơn. Ngày xưa Lý Bạch đến Hoàng Hạc Lâu thấy bài thơ của Thôi Hiệu, Lý Bạch định làm thơ, đã thấy thơ Thôi Hiệu đề trên vách, đọc xong, vứt bút, ngửa mặt than rằng:
… Tôi cho rằng Hà Thanh không chỉ hát mà còn sáng tạo trong khi hát. Hà Thanh đã tạo thêm những nốt luyến láy rất truyền cảm, rất mỹ thuật làm cho bài hát cũa tôi thêm thăng hoa, trong giai điệu cũng như trong lời ca. Tôi cho rằng khi hát cô Hà Thanh đã sống và cùng đồng điệu sẻ chia với tác gỉa khi trình bày một bản nhạc có tầm vóc nghệ thuật.
Tôi cho rằng Hà Thanh có giọng hát thiên phú, cô hát rất thoải mái dễ dàng, không cầu kỳ, không cường điệu, không gò bó nhưng nó cuốn hút ta đi trong cái bềnh bồng không gò ép đó. Tôi cám ơn tiếng hát của Hà Thanh đã mang lại cho các bài hát cũa tôi thêm màu sắc, thêm thi vị, bay bổng…
… Tiếng hát Hà Thanh đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm tốt đẹp, bền bỉ tuy thời gian ngắn ngủi kể từ khi cô bỏ đi lấy chồng để tôi độc hành trên đường nghệ thuật. Sau biến cố 1975, tôi không còn dịp hợp tác với cô Hà Thanh như trước đây. Nhưng thỉnh thoảng tôi được nghe cô hát một sáng tác mới của tôi ở hải ngoại, tôi vẫn cảm thấy tiếng cũa cô vẫn đậm đà phong cách ngày xưa, vẫn một Hà Thanh diễn cảm, sang trọng, sáng tạo trong khi hát, mặc dù thời gian chia cách đã 40 năm qua”.
Nhà thơ Nhất Tuấn, tác giả Chuyện Chúng Mình vang tiếng một thời, nói về Hà Thanh như sau:
"Tôi có dịp gặp Hà Thanh khi làm quản đốc đài phát thanh Quân Đội (1968) tại Sài Gòn. Hà Thanh lúc đó hát rất hay và xuất hiện thường xuyên trên các đài VOF, Mẹ Việt Nam, đài Sài Gòn, đài Quân Đội. Hà Thanh càng ngày càng nổi tiếng. So với những ngày còn ở Huế, sự giao thiệp của Hà Thanh có phần bạo dạn hơn đôi chút, nhưng vẫn còn dè dặt và giới hạn lắm. Thời này Hà Thanh hát nhiều bài của Nhất Tuấn do Phạm Duy, Đan Thọ, Hoàng Lan phổ nhạc. Đặc biệt là Hà Thanh hát rất nổi tiếng những nhạc phẩm của Nguyễn Văn Đông và nhạc tiền chiến của Đoàn Chuẩn, Từ Linh. Bài nào Hà Thanh hát lên cũng làm người nghe rung động vì khi hát nàng để hết tâm hồn vào lời thơ, ý nhạc của tác giả muốn gởi gắm trong bài. Hà Thanh như "nhập" vào bài hát để diễn tả, để làm toát lên giọng Huế rất dễ thương"
… Dáng người thanh tú, cao cao, nụ cười vui tươi luôn nở trên môi với nét mặt rạng rỡ. Tính nết Hà Thanh nhu mì, hiền dịu, khác biệt trong giới nghệ sĩ".
Và với Hoàng Lan Chi: “Khi tôi bước vào ngưỡng cửa trung học, một loạt các ca sĩ có chữ “Thanh” phủ đầy làn sóng thu thanh, phương tiện duy nhất thời đó. Thái Thanh, Lệ Thanh, Hà Thanh, Thanh Thúy…Với tôi, Hà Thanh có một vị trí đặc biệt và cũng với tôi, tiếng hát ấy là ‘tiếng hát hoa đàò’”...
Ca sĩ Quỳnh Giao, với nhiều bài viết về giới ca nhạc, năm 2012 viết như sau: “Hà Thanh có được Huế cưng quý như vậy trước hết là nhờ giọng ca thiên phú, trong trẻo cao vút. Ðây là một trong vài giọng soprano hiếm có của Việt Nam. Hà Thanh hát dễ dàng như hơi thở. Khi lên cao, giọng lồng lộng, thoải mái cho chúng ta cảm tưởng chiếc diều phơi phới trên nền trời xanh ngắt.”
Trong bài viết trước đây với nhạc sĩ Hoàng Nguyên, khi anh và tôi ở chung căn phòng hơn 3 tháng trong thời gian về học Khóa 3 trung cấp CTCT vào Hè năm 1971 tại trường đại học CTCT Đà Lạt. Anh cho biết ngoài ca khúc Ai Lên Xứ Hoa Đào, nhạc phẩm Tà Aùo Tím được Hà Thanh trình bày lột tả được cái hồn trữ tình trong ca khúc. Giọng Huế rất ngọt, tiếng hát Hà Thanh càng ngọt ngào hơn. Ngày xưa Lý Bạch đến Hoàng Hạc Lâu thấy bài thơ của Thôi Hiệu, Lý Bạch định làm thơ, đã thấy thơ Thôi Hiệu đề trên vách, đọc xong, vứt bút, ngửa mặt than rằng:
“Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu...”.
Những ca khúc bất hủ viết về nơi chốn thần kinh như Tiếng Xưa, Đêm Tàn Bến Ngự (Dương Thiệu Tước), Ai Về Sông Tương (Thông Đạt), Từ Đàm Quê Hương Tôi (Văn Giảng), Khúc Tình Ca Xứ Huế (Trần Đình Quân), Tà Aùo Tím (Hoàng Nguyên), Cô Nữ Sinh Đồng Khánh (Thu Hồ)… qua tiếng hát Hà Thanh; ca sĩ cũng như thi nhân ngày xưa, cảm nhận và ca ngợi: tuyệt!
Hà Thanh được hầu hết mọi người ái mộ từ nhân cách của người ca sĩ đến giọng ca được trải dài trong hơn nửa thế kỷ. Bước sang tuổi thất thập, Hà Thanh còn giữ được giọng ca truyền cảm, điêu luyện để đóng góp vào dòng sinh hoạt ca nhạc hải ngoại. Hà Thanh thực hiện tiếng ca thiên phú, trong như tiếng hạc, nhẹ tựa mây trôi… để được lưu truyền, nếu không, phôi phai theo thời gian, mỗi chuổi giây đưa ta về miền cát bụi... rồi một ngày nào đó, không còn tác phẩm cho đời, ngậm ngùi tiếc nuối.
Hà Thanh, một giọng ca bay bỗng, lẫy lừng, tiếng hát đã chinh phục hàng triệu trái tim trên làn sóng điện, lưu lại trên hệ thống internet hiện nay. Và, một cuộc sống trầm lặng. mộ đạo, hiếu thảo. Tiếng hát Hà Thanh cao vút, luyến láy rất nhuần nhuyễn khơi dậy nhựng mạch nguồn của nhớ nhung, của một thời yêu thương với khung trời vấn vương bao kỷ niệm êm đềm, của hương xưa, của thuở chiến chinh, của trời mây non nước... tất cả mang theo hình ảnh thân thương của bóng dáng quê hương. Tiếng hát Hà Thanh như cuốn hút người nghe thả hồn về quá khứ, thả mình trong tĩnh lặng, trong nỗi xa xăm bị đánh mất, mịt mù thức mây... được vỗ về, bầy tỏ, an ủi cho nhau bởi âm điệu ngọt ngào du dương.
*
Về tuổi tác, có sự khác nhau khi loan tin ca sĩ Hà Thanh qua đời lúc 7 giờ 27 tối Thứ Tư, ngày 1 tháng 1, 2014 tại Boston. Thọ 78 tuổi. Trên giấy tờ, Trần Thị Lục Hà, Pháp Danh Tâm Từ, sanh Ngày 25 tháng 7 năm 1937. Nhương tuổi thật sinh năm 1939. Theo bài viết của Trần Kiêm Đoàn thì đúng: “Đời nghệ sĩ của Hà Thanh bắt đầu từ năm 1953, lần đầu đài Phát Thanh Huế mở một cuộc tuyển lựa ca sĩ với quy mô lớn. Anh Trần Kiêm Tịnh biết cô em gái mình có giọng hát hay quá nên đã dắt em đi thi. Điều kiện ghi danh dự thi là phải từ 15 tuổi trở lên. Ngày đó, Lục Hà, cô nữ sinh áo trắng nón bài thơ Huế mới 14 tuổi, nên phải "kiếm thêm một tuổi trời cho" nữa mới đủ tuổi dự thi và kết quả đứng đầu cuộc thi. Tuy ông cụ thân sinh chị Hà Thanh là người theo Tây học với tinh thần cởi mở phương Tây, nhưng "phương Tây Huế" thuở đó cũng vẫn còn trong mẫu mực nho phong. Nhạc sĩ Ngô Ganh là giám đốc đài phát thanh Huế đương thời, phải dùng uy tín của mình đến nhà năn nỉ, rằng: "Học hành thì đứa nào học chẳng được, nhưng còn cái tài của cháu Hà Thanh là một tài năng độc đáo, có giá trị trong cả nước Việt Nam. Nếu không cho đi hát thì tài năng sẽ bị mai một đi, uổng lắm." Ông cụ nghe lời minh giải hợp
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu...”.
Những ca khúc bất hủ viết về nơi chốn thần kinh như Tiếng Xưa, Đêm Tàn Bến Ngự (Dương Thiệu Tước), Ai Về Sông Tương (Thông Đạt), Từ Đàm Quê Hương Tôi (Văn Giảng), Khúc Tình Ca Xứ Huế (Trần Đình Quân), Tà Aùo Tím (Hoàng Nguyên), Cô Nữ Sinh Đồng Khánh (Thu Hồ)… qua tiếng hát Hà Thanh; ca sĩ cũng như thi nhân ngày xưa, cảm nhận và ca ngợi: tuyệt!
Hà Thanh được hầu hết mọi người ái mộ từ nhân cách của người ca sĩ đến giọng ca được trải dài trong hơn nửa thế kỷ. Bước sang tuổi thất thập, Hà Thanh còn giữ được giọng ca truyền cảm, điêu luyện để đóng góp vào dòng sinh hoạt ca nhạc hải ngoại. Hà Thanh thực hiện tiếng ca thiên phú, trong như tiếng hạc, nhẹ tựa mây trôi… để được lưu truyền, nếu không, phôi phai theo thời gian, mỗi chuổi giây đưa ta về miền cát bụi... rồi một ngày nào đó, không còn tác phẩm cho đời, ngậm ngùi tiếc nuối.
Hà Thanh, một giọng ca bay bỗng, lẫy lừng, tiếng hát đã chinh phục hàng triệu trái tim trên làn sóng điện, lưu lại trên hệ thống internet hiện nay. Và, một cuộc sống trầm lặng. mộ đạo, hiếu thảo. Tiếng hát Hà Thanh cao vút, luyến láy rất nhuần nhuyễn khơi dậy nhựng mạch nguồn của nhớ nhung, của một thời yêu thương với khung trời vấn vương bao kỷ niệm êm đềm, của hương xưa, của thuở chiến chinh, của trời mây non nước... tất cả mang theo hình ảnh thân thương của bóng dáng quê hương. Tiếng hát Hà Thanh như cuốn hút người nghe thả hồn về quá khứ, thả mình trong tĩnh lặng, trong nỗi xa xăm bị đánh mất, mịt mù thức mây... được vỗ về, bầy tỏ, an ủi cho nhau bởi âm điệu ngọt ngào du dương.
*
Về tuổi tác, có sự khác nhau khi loan tin ca sĩ Hà Thanh qua đời lúc 7 giờ 27 tối Thứ Tư, ngày 1 tháng 1, 2014 tại Boston. Thọ 78 tuổi. Trên giấy tờ, Trần Thị Lục Hà, Pháp Danh Tâm Từ, sanh Ngày 25 tháng 7 năm 1937. Nhương tuổi thật sinh năm 1939. Theo bài viết của Trần Kiêm Đoàn thì đúng: “Đời nghệ sĩ của Hà Thanh bắt đầu từ năm 1953, lần đầu đài Phát Thanh Huế mở một cuộc tuyển lựa ca sĩ với quy mô lớn. Anh Trần Kiêm Tịnh biết cô em gái mình có giọng hát hay quá nên đã dắt em đi thi. Điều kiện ghi danh dự thi là phải từ 15 tuổi trở lên. Ngày đó, Lục Hà, cô nữ sinh áo trắng nón bài thơ Huế mới 14 tuổi, nên phải "kiếm thêm một tuổi trời cho" nữa mới đủ tuổi dự thi và kết quả đứng đầu cuộc thi. Tuy ông cụ thân sinh chị Hà Thanh là người theo Tây học với tinh thần cởi mở phương Tây, nhưng "phương Tây Huế" thuở đó cũng vẫn còn trong mẫu mực nho phong. Nhạc sĩ Ngô Ganh là giám đốc đài phát thanh Huế đương thời, phải dùng uy tín của mình đến nhà năn nỉ, rằng: "Học hành thì đứa nào học chẳng được, nhưng còn cái tài của cháu Hà Thanh là một tài năng độc đáo, có giá trị trong cả nước Việt Nam. Nếu không cho đi hát thì tài năng sẽ bị mai một đi, uổng lắm." Ông cụ nghe lời minh giải hợp
lý nên cho đi hát ở đài phát thanh mà thôi, không hát ở phòng trà hay sân khấu. Từ đó, tiếng hát Hà Thanh đã vọng ra xa hơn bên ngoài rào dậu Vườn Thúy Hạnh”.
Vĩnh Biệt ca sĩ Hà Thanh!
Thân xác đã trở về cát bụi nhưng tiếng hát của Hà Thanh mãi mãi vang vọng. Âm vọng của loài chim hoàng oanh, họa mi, sơn ca trong Vườn Thúy Hạnh còn gởi lại cho đời, cho tha nhân trên YouTube và các trang web trên thế gian. Tiếng hát Hà Thanh “Trong như tiếng hạc bay qua” (Kiều – Nguyễn Du) cất cánh từ sông Hương đến mọi miền đất nước.
Little Saigon Jan 03, 2014
Vương Trùng Dương
Vĩnh Biệt ca sĩ Hà Thanh!
Thân xác đã trở về cát bụi nhưng tiếng hát của Hà Thanh mãi mãi vang vọng. Âm vọng của loài chim hoàng oanh, họa mi, sơn ca trong Vườn Thúy Hạnh còn gởi lại cho đời, cho tha nhân trên YouTube và các trang web trên thế gian. Tiếng hát Hà Thanh “Trong như tiếng hạc bay qua” (Kiều – Nguyễn Du) cất cánh từ sông Hương đến mọi miền đất nước.
Little Saigon Jan 03, 2014
Vương Trùng Dương
2. Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Thụy Long
Vương Trùng Dương
Nhà văn Nguyễn Thụy Long bị bệnh tiểu đường khá nặng, sau thời gian bị “stroke” tai biến mạch máu não, phải dưa vào bệnh viện, đã qua đời lúc 2 ngày giờ chiều, ngày 3 tháng 9 năm 2009 vì nhiễm trùng đường tiểu, tại Sài Gòn, hưởng thọ 71 tuổi.
*
Nhà văn Nguyễn Thụy Long hoàn thành truyện dài Thìn Ma vào tháng Giêng 2007, khi ông bước vào tuổi thất thập. Trong tuổi già, sức khỏe yếu kém, đời sống khó khăn, Nguyễn Thụy Long biết rằng ngòi bút không nuôi được bản thân như trước kia nhưng cái nghiệp vẫn còn và viết lách để vơi đi bao ưu phiền trong cuộc sông.
Vương Trùng Dương
Nhà văn Nguyễn Thụy Long bị bệnh tiểu đường khá nặng, sau thời gian bị “stroke” tai biến mạch máu não, phải dưa vào bệnh viện, đã qua đời lúc 2 ngày giờ chiều, ngày 3 tháng 9 năm 2009 vì nhiễm trùng đường tiểu, tại Sài Gòn, hưởng thọ 71 tuổi.
*
Nhà văn Nguyễn Thụy Long hoàn thành truyện dài Thìn Ma vào tháng Giêng 2007, khi ông bước vào tuổi thất thập. Trong tuổi già, sức khỏe yếu kém, đời sống khó khăn, Nguyễn Thụy Long biết rằng ngòi bút không nuôi được bản thân như trước kia nhưng cái nghiệp vẫn còn và viết lách để vơi đi bao ưu phiền trong cuộc sông.
Từ “Tác phẩm đầu tay của tôi là Loan Mắt Nhung ra đời và làm nên văn nghiệp của tôi được xuất hiện trên tờ báo Sống, do sự khuyến khích của ông Chu Tử... Tôi chính thức là ký giả của báo Sống, nhưng cũng đánh lẻ cho nhiều báo như một số anh em ký giả khác. Thành nghề hầu hết do kinh nghiệm, sự học hỏi lẫn nhau” (Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút”, nxb Văn Nghệ, California, 1999 - trang 166) đến Thìn Ma cách nhau hơn 4 thập niên.
Trước năm 1975, tác phẩm Loan Mắt Nhung được mọi người đón nhận. Loan Mắt Nhung phác họa hình ảnh cậu học sinh lương thiện trong thập niên 60 ở Sài Gòn, bị hoàn cảnh xã hội đưa đẩy trở thành du đãng nổi tiếng. Từ cuộc sống cù bơ cù bất, khốn khổ, Loan phải đương đầu với bao nghịch cảnh để sinh tồn và trở thành đàn anh trong làng dao búa trong xã hội đen. Là tay anh chị, dưới trướng có đàn em nhưng Loan lại cảm thấy cuộc đời cô đơn và muốn hoàn lương, nhưng hoàn cảnh thôi thúc, lôi kéo vào chốn bùn nhơ, gió tanh mưa máu, tội ác... Và, Loan tự giải quyết cho lối thoát bằng hành động giết người rồi nộp mình cho cảnh sát, hối hận vì đã đánh mất một thời trai trẻ.
Loan Mắt Nhung được đạo diễn Lê Dân và hãng Cosunam Film dựng thành phim, được thành công, khản giả ái mộ, vì vậy tên tuổi Nguyện Thụy Long gắn liền với Loan Mắt Nhung.
Sau bốn thập niên, Thìn Ma ra đời, cậu bé tên Thìn, sinh trước năm 1975 nhưng rơi vào hoàn cảnh “lớn lên trong thời gạo châu củi quế, thời bao cấp và triệt để thực hiện chủ nghĩa Cộng Sản, gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa, toàn miền Nam đói, tuy nhiên chưa có ai chết đói vì còn có khoai, có bắp, mì sợi, bán cho những hộ gia đình có sổ lương thực mua ở Hợp Tác Xã” (Thìn Ma)ï. Biệt danh Thìn Ma do lối xóm đặt cho anh vì không biết mỗi khi lên cơn, bị ma nhập hay không, Thìn la hét và trông rất bất thường. Từ chàng trai hiền lành, khù khờ sống trong khu lao động nghèo nàn ở chợ Bà Chiểu, bán khô mực nướng, đạp xích lô để nuôi mẹ già, con dại kiếm miếng cơm độ nhật nhưng cũng bị trấn lột và bị “lừa” vào đường dây phân phối ma túy rồi trở thành tay anh chị giết người trong xã hội đen... Cầm đầu tổ chức trong đường dây nầy được bảo vệ và che đậy bởi “gia đình văn hóa”!... Và Thìn cũng được núp dưới bóng gia đình đó để lao vào chuyện làm ăn phi pháp. Tên sát thủ Thìn Ma cũng không thoát khỏi quy luật của xã hội như Loan Mắt Nhung!
Nhà văn Nguyễn Thụy Long sở trường về cái nhìn cuộc sống của lớp người rơi trong hoàn cảnh đen tối và đầy dẫy cạm bẫy, bởi mưu sinh thời thế xô đẩy. Cuộc đời ông cũng trải qua bao thăng trầm, hàm oan nhưng ông phó mặc cho đời. Ông bày tỏ: “Trong đời cầm bút của tôi chưa bao giờ viết lên được một nhân vật đẹp đẽ, tôi chỉ chuyên tìm con đường gai góc mà đi, những nhân vật ma chê quỉ hờn đã được thể hiện trên giấy” (Hồi Ký sđd - trang 273).
Sau hồi ký Thuở Mơ Làm Văn Sỹ, Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút” được ấn hành ở hải ngoại. Ông đã hoàn thành Hồi Ức 40 Năm Làm Báo vào tháng 12 năm 2002.
Tác phẩm đầu tay là tập truyện ngắn Vác Ngà Voi (bút hiệu Lan Giao), xuất bản năm 1965, tạo tiếng vang cho ông. Ông có năng khiếu chuyên viết feuilleton cho nhiều tờ báo. Ông viết nhiều thể loại nhưng đã được ấn hành một số tác phẩm: Chim Trên Ngọn Khô, 1967 - Trong Vòng Tay Đàn Ông, 1967 - Vết Thù, 1968 - Bà Chúa Tám Cửa Ngục, 1968 - Đêm Đen, 1968 - Gái Thời Loạn, 1968 - Nữ Chúa, 1969 - Nợ Máu, 1969 - Ven Đô, 1970 - Sầu Đời, 1970...
*
Nguyễn Thụy Long sinh ngày 9 tháng 8 năm 1938, ở ngõ Hòa Mã Hà Nội. Thân phụ, họa sĩ Nguyễn Thụy Nhân, thân mẫu cụ bà Phạm Thị Miên.
Vào Nam năm 1952, sinh sống tại Sài Gòn. Ông theo học Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu nhưng muốn theo nghiệp hội họa của thân phụ nên nhảy sang trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định. Thân phụ qua đời, ông phải sống tự lập nên vào đời rất sớm. Bị đi quân dịch, bị tù vô cớ rồi trải qua tháng ngày đầy nghiệt ngã và đó cũng là chất liệu để ông thể hiện qua ngòi bút.
Nguyễn Thụy Long là Hạ Sĩ Quan Tiếp Vận trong binh chủng Không Quân. Tưởng đã yên phận nhưng tai họa lại đến: “Tháng 11 năm 1960, Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông đảo chính Ngô Đình Diệm thất bại chạy vô phi trường Tân Sơn Nhất được Phan Phụng Tiên đưa lên một chiếc C47 chuẩn bị đưa qua Nam Vang tỵ bạn; Nguyễn Thụy Long đang trong phiên trực nhận được lệnh phải đổ đầy xăng cho chiếc C47 chạy trốn”(HN). Trong cuộc truy lùng nầy, Nguyễn Thụy Long bị vạ lây vì An Ninh Quân Đội bắt rồi đưa vào nằm khám Chí Hòa...
Giai đoạn đó được Nguyễn Thụy Long ghi lại trong Hồi Ức 40 Năm Làm Báo:
“Sau một phùa đi tù lãng nhách một năm tại khám Chí Hòa, thuở ấy gọi là Trung Tâm Cải Huấn Chí Hòa, từ vừa thối vừa giả dối, mà đời tôi từng được thấy na ná nhau đến hai lần qua hai chế độ mà tôi đã sống qua. Tôi mang tội đào ngũ sau chính biến 11-11-1961, thêm tội du thủ du thực vì không nhà, không cửa. Để kiếm sống qua ngày tôi sống những ngày tận cùng xã hội miệt Cầu Ông Lãnh trên Con Kinh Nước Đen. Một đời sống dễ sợ của những con người bị coi là cặn bã của xã hội. Những con người dám ăn thịt nhau, cấu xé nhau để sống, sẵn sàng khống chế, ăn thua đủ với nhau bằng bạo lực. Tôi làm cu li ở kho 5 Khánh Hội trên đường Trịnh Minh Thế sau này là đường Nguyễn Tất Thành, rồi làm phụ thợ hồ ở quận 8, chuyên đổ ống cống xi măng và làm cọc rào ấp Chiến Lược. Kể cả nghề giặt quần áo thuê trong xóm chơi bời. Nói ra kinh tởm vô cùng, nên tôi không nói hành nghề giặt thuê ở những nơi đó như thế nào, tôi để dành chi tiết ấy cho một tác phẩm khi làm nhà văn”.
“Một ngày kia tôi khăn gói quả mướp về báo Ngàn Khơi. Với điều kiện không lương chỉ được nuôi cơm, không chức vụ nên không nề hà bất cứ công việc gì của tòa báo. Tôi yêu nghề báo, tôi chấp nhận, không phải nhắm mắt chấp nhận mà mở mắt chấp nhận. Một công việc vác ngà voi, cái ngà voi đẹp đẽ, nghề văn, nghề báo mà tôi từng ao ước mê say, như tất cả bạn bè anh em tôi vậy. Một tờ báo không có khoản chi lương, tiền nhuận bút bài vở cho những người cộng tác. Nhưng tất cả cật lực làm việc, mà làm việc với lương tâm và lòng nhiệt tình để xây dựng tờ báo trong lúc khó khăn”.
Từ những hình ảnh ghi nhận được trong khám Chí Hòa, Nguyễn Thụy Long viết lại Bà Chúa Tám Cửa Ngục, đăng tải trên tờ Ngàn Khơi và ông cộng tác với anh chị em trong nhóm Ngàn Khơi chỉ được “tiêu chuẩn” kẻ vác ngà voi.
Sau đảo chính tháng 11 năm 1963 “Người thầy đầu tiên khi tôi bước chân vào nghề báo (nhật báo), nói chính xác ra, là nhà văn Chu Tử. Tại nhật báo Sống, tôi cộng tác từ ngày đầu đến ngày cuối cùng, tôi đã trở thành phóng viên, ký giả rồi nhà văn”. Và đến thời điểm đó “Tôi run lên vì lần đầu tiên tôi được lãnh lương do nghề làm báo. Ngay ngày hôm sau chúng tôi tới tòa soạn làm việc để lo cho số ra mắt đầu tiên”. (Hồi Ức sđd).
Nhà văn Chu Tử có nhiều con nuôi, ông gả con nuôi cho Nguyễn Thụy Long, sau ngày 30 tháng Tư, 1975, Nguyễn Thụy Long chứng kiến thực tế rất phũ phàng: vợ bỏ, mất con, mất nhà! và từ đó, ông trở thành con người lang thang khắp nơi, mọi xó xỉnh... Ngay nơi chốn xóm Mả Đen, ấp Đông Ba, ông về sinh sống từ thuở đôi mươi nhưng cũng không được thừa nhận! 24 năm sau ông mới có hộ khẩu, chứng minh nhân dân. Căn nhà số 156/3 (25/12) đường Nhiêu Tứ, phường 7, quận Phú Nhuận hiện nay là nơi chốn đã sống được 50 năm.
Ông trải qua vài đời vợ và cuối đời cũng còn niềm an ủi.
Sau tháng ngày ra tù vào khám, ông cầm bút để mưu sinh nhưng rồi trắc trở và thất bại. Ông sống trong hoàn cảnh cơ cực, mong tìm lối thoát nhưng cũng bị hoài nghi và tai tiếng.
“Tôi trở thành thằng xạo xự. Giải thích, cải chính thế nào cho họ tin được. Mà cải chính làm chi cho phí lời. Điều họ nhận xét cũng đúng thôi, nhưng với những ai kia, chớ không phải tôi. Mẹ ruột tôi đã viết thư về nói: “Đồng đô la bên nầy quí hiếm lắm, không ai giúp được ai đâu, đừng mong chờ...” một cô em dâu của tôi ở bên Mỹ cũng nhắn tin về cho biết: tôi không nên trông chờ gì ở hai đứa con lớn đã thất lạc lâu năm vì mẹ đẻ ra chúng cấm chúng liên lạc với tôi, sợ tôi lại giở giọng xin tiền chúng nó. Hai đứa con nhỏ thì còn đi học nhờ vào tiền cấp dưỡng. Họ hàng anh em bà con tôi thì khỏi nói đến làm chi, tất cả đều khác, đều là người xa lạ”. (Hồi Ký sđd trang 260-261).
Tiếp nối Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút”, bốn năm sau, Hồi Ức 40 Năm Làm Báo được hoàn thành, trong Lời mở đầu, ông cho biết:
“Tôi gia nhập làng báo, làng văn từ năm 1962, có thể trước đó một vài năm, nhưng chẳng kể làm gì, thời trước đó là thời của Văn Nghệ Học Sinh. Thuở tôi mơ làm văn sĩ... Thuở đó mới chỉ mơ thôi chứ chưa có thật, một cái gì còn xa vời lắm với một cậu học sinh tài thô, trí thiển, nhưng tôi yêu nghề viết văn làm báo từ ngày đó. Người ta mơ gì thì mơ, tôi mơ một cách quái gở, mơ làm văn sĩ, một tương lai sự nghiệp không lấy gì làm sáng sủa cho lắm thời bấy giờ...
... Trong đời cầm bút của tôi, đến nay đã vào tuổi 65 (tính theo thời điểm 2002). Nhưng lúc cầm cây bút lên viết điều gì đó có thể hại cho an ninh bản thân. Bạn bè khuyên tôi nên từ bỏ đi, hay đốt bỏ cho mất tang tích.
Tôi không gặp được một may mắn nào... Điều mơ ước duy nhất của tôi, làm nốt những gì mình còn bỏ dở dang, tôi sẽ nói lên hết, nếu sức khỏe tôi còn cho phép. Tôi tự cho tôi quyền tự do trên căn gác bút cô đơn.
... Tôi theo đuổi nghề suốt 40 năm trời, hình như không lúc nào ngừng nghỉ, làm việc cả trong lúc bị gác bút, chân tay bị cùm, nhưng còn cái đầu, tôi vẫn làm việc, vẫn suy nghĩ và thầm viết trong đầu. Để lúc nào thuận tiện thì thành văn chương, tác phẩm. Kể chuyện nôm na chơi.
Trong đời sống hỗn mang hai mươi mấy năm trời qua, tôi sống thử qua rất nhiều nghề. Trong đó có cả nghề cầm bút. Nó ra làm sao, đó là do sự tò mò của một nhà báo mà cái gì cũng muốn biết. Tôi chấp nhận những cái không may sẽ đến với tôi...
... Tôi không mất vì chẳng còn gì mà mất, cứ coi là việc rong chơi qua ngày trong bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”.
Trong Hồi Ức 40 Năm Cầm Bút của ông có vài chương đã được đề cập trong Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút”, khi viết, ông không che dấu thói hư tật xấu của mình, viết thật, sống thật, nghĩ sao viết vậy, có bao ngọn roi quất vào mặt ông và cũng có bàn tay đỡ đần, ông không ngại ngần đề cập khi viết nên có người vin vào để đả kích ông.
Mơ ước nào khi trở thành hiện thực thường mang lại ánh hào quang và niềm hạnh phúc nhưng ở Nguyễn Thụy Long, mơ ước hóa thân thành chữ nghĩa trong văn nghiệp thì ngược lại, vinh nhục đạp lên nhau và khốn đốn trong bão táp của cuộc đời với bao hệ lụy vây quanh. Ông phó mặc cho đời vì theo ông “Từ xưa đến nay tính chất của tôi vẫn là tưng tửng trong đời sống”.
Trước năm 1975, tác phẩm Loan Mắt Nhung được mọi người đón nhận. Loan Mắt Nhung phác họa hình ảnh cậu học sinh lương thiện trong thập niên 60 ở Sài Gòn, bị hoàn cảnh xã hội đưa đẩy trở thành du đãng nổi tiếng. Từ cuộc sống cù bơ cù bất, khốn khổ, Loan phải đương đầu với bao nghịch cảnh để sinh tồn và trở thành đàn anh trong làng dao búa trong xã hội đen. Là tay anh chị, dưới trướng có đàn em nhưng Loan lại cảm thấy cuộc đời cô đơn và muốn hoàn lương, nhưng hoàn cảnh thôi thúc, lôi kéo vào chốn bùn nhơ, gió tanh mưa máu, tội ác... Và, Loan tự giải quyết cho lối thoát bằng hành động giết người rồi nộp mình cho cảnh sát, hối hận vì đã đánh mất một thời trai trẻ.
Loan Mắt Nhung được đạo diễn Lê Dân và hãng Cosunam Film dựng thành phim, được thành công, khản giả ái mộ, vì vậy tên tuổi Nguyện Thụy Long gắn liền với Loan Mắt Nhung.
Sau bốn thập niên, Thìn Ma ra đời, cậu bé tên Thìn, sinh trước năm 1975 nhưng rơi vào hoàn cảnh “lớn lên trong thời gạo châu củi quế, thời bao cấp và triệt để thực hiện chủ nghĩa Cộng Sản, gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa, toàn miền Nam đói, tuy nhiên chưa có ai chết đói vì còn có khoai, có bắp, mì sợi, bán cho những hộ gia đình có sổ lương thực mua ở Hợp Tác Xã” (Thìn Ma)ï. Biệt danh Thìn Ma do lối xóm đặt cho anh vì không biết mỗi khi lên cơn, bị ma nhập hay không, Thìn la hét và trông rất bất thường. Từ chàng trai hiền lành, khù khờ sống trong khu lao động nghèo nàn ở chợ Bà Chiểu, bán khô mực nướng, đạp xích lô để nuôi mẹ già, con dại kiếm miếng cơm độ nhật nhưng cũng bị trấn lột và bị “lừa” vào đường dây phân phối ma túy rồi trở thành tay anh chị giết người trong xã hội đen... Cầm đầu tổ chức trong đường dây nầy được bảo vệ và che đậy bởi “gia đình văn hóa”!... Và Thìn cũng được núp dưới bóng gia đình đó để lao vào chuyện làm ăn phi pháp. Tên sát thủ Thìn Ma cũng không thoát khỏi quy luật của xã hội như Loan Mắt Nhung!
Nhà văn Nguyễn Thụy Long sở trường về cái nhìn cuộc sống của lớp người rơi trong hoàn cảnh đen tối và đầy dẫy cạm bẫy, bởi mưu sinh thời thế xô đẩy. Cuộc đời ông cũng trải qua bao thăng trầm, hàm oan nhưng ông phó mặc cho đời. Ông bày tỏ: “Trong đời cầm bút của tôi chưa bao giờ viết lên được một nhân vật đẹp đẽ, tôi chỉ chuyên tìm con đường gai góc mà đi, những nhân vật ma chê quỉ hờn đã được thể hiện trên giấy” (Hồi Ký sđd - trang 273).
Sau hồi ký Thuở Mơ Làm Văn Sỹ, Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút” được ấn hành ở hải ngoại. Ông đã hoàn thành Hồi Ức 40 Năm Làm Báo vào tháng 12 năm 2002.
Tác phẩm đầu tay là tập truyện ngắn Vác Ngà Voi (bút hiệu Lan Giao), xuất bản năm 1965, tạo tiếng vang cho ông. Ông có năng khiếu chuyên viết feuilleton cho nhiều tờ báo. Ông viết nhiều thể loại nhưng đã được ấn hành một số tác phẩm: Chim Trên Ngọn Khô, 1967 - Trong Vòng Tay Đàn Ông, 1967 - Vết Thù, 1968 - Bà Chúa Tám Cửa Ngục, 1968 - Đêm Đen, 1968 - Gái Thời Loạn, 1968 - Nữ Chúa, 1969 - Nợ Máu, 1969 - Ven Đô, 1970 - Sầu Đời, 1970...
*
Nguyễn Thụy Long sinh ngày 9 tháng 8 năm 1938, ở ngõ Hòa Mã Hà Nội. Thân phụ, họa sĩ Nguyễn Thụy Nhân, thân mẫu cụ bà Phạm Thị Miên.
Vào Nam năm 1952, sinh sống tại Sài Gòn. Ông theo học Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu nhưng muốn theo nghiệp hội họa của thân phụ nên nhảy sang trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định. Thân phụ qua đời, ông phải sống tự lập nên vào đời rất sớm. Bị đi quân dịch, bị tù vô cớ rồi trải qua tháng ngày đầy nghiệt ngã và đó cũng là chất liệu để ông thể hiện qua ngòi bút.
Nguyễn Thụy Long là Hạ Sĩ Quan Tiếp Vận trong binh chủng Không Quân. Tưởng đã yên phận nhưng tai họa lại đến: “Tháng 11 năm 1960, Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông đảo chính Ngô Đình Diệm thất bại chạy vô phi trường Tân Sơn Nhất được Phan Phụng Tiên đưa lên một chiếc C47 chuẩn bị đưa qua Nam Vang tỵ bạn; Nguyễn Thụy Long đang trong phiên trực nhận được lệnh phải đổ đầy xăng cho chiếc C47 chạy trốn”(HN). Trong cuộc truy lùng nầy, Nguyễn Thụy Long bị vạ lây vì An Ninh Quân Đội bắt rồi đưa vào nằm khám Chí Hòa...
Giai đoạn đó được Nguyễn Thụy Long ghi lại trong Hồi Ức 40 Năm Làm Báo:
“Sau một phùa đi tù lãng nhách một năm tại khám Chí Hòa, thuở ấy gọi là Trung Tâm Cải Huấn Chí Hòa, từ vừa thối vừa giả dối, mà đời tôi từng được thấy na ná nhau đến hai lần qua hai chế độ mà tôi đã sống qua. Tôi mang tội đào ngũ sau chính biến 11-11-1961, thêm tội du thủ du thực vì không nhà, không cửa. Để kiếm sống qua ngày tôi sống những ngày tận cùng xã hội miệt Cầu Ông Lãnh trên Con Kinh Nước Đen. Một đời sống dễ sợ của những con người bị coi là cặn bã của xã hội. Những con người dám ăn thịt nhau, cấu xé nhau để sống, sẵn sàng khống chế, ăn thua đủ với nhau bằng bạo lực. Tôi làm cu li ở kho 5 Khánh Hội trên đường Trịnh Minh Thế sau này là đường Nguyễn Tất Thành, rồi làm phụ thợ hồ ở quận 8, chuyên đổ ống cống xi măng và làm cọc rào ấp Chiến Lược. Kể cả nghề giặt quần áo thuê trong xóm chơi bời. Nói ra kinh tởm vô cùng, nên tôi không nói hành nghề giặt thuê ở những nơi đó như thế nào, tôi để dành chi tiết ấy cho một tác phẩm khi làm nhà văn”.
“Một ngày kia tôi khăn gói quả mướp về báo Ngàn Khơi. Với điều kiện không lương chỉ được nuôi cơm, không chức vụ nên không nề hà bất cứ công việc gì của tòa báo. Tôi yêu nghề báo, tôi chấp nhận, không phải nhắm mắt chấp nhận mà mở mắt chấp nhận. Một công việc vác ngà voi, cái ngà voi đẹp đẽ, nghề văn, nghề báo mà tôi từng ao ước mê say, như tất cả bạn bè anh em tôi vậy. Một tờ báo không có khoản chi lương, tiền nhuận bút bài vở cho những người cộng tác. Nhưng tất cả cật lực làm việc, mà làm việc với lương tâm và lòng nhiệt tình để xây dựng tờ báo trong lúc khó khăn”.
Từ những hình ảnh ghi nhận được trong khám Chí Hòa, Nguyễn Thụy Long viết lại Bà Chúa Tám Cửa Ngục, đăng tải trên tờ Ngàn Khơi và ông cộng tác với anh chị em trong nhóm Ngàn Khơi chỉ được “tiêu chuẩn” kẻ vác ngà voi.
Sau đảo chính tháng 11 năm 1963 “Người thầy đầu tiên khi tôi bước chân vào nghề báo (nhật báo), nói chính xác ra, là nhà văn Chu Tử. Tại nhật báo Sống, tôi cộng tác từ ngày đầu đến ngày cuối cùng, tôi đã trở thành phóng viên, ký giả rồi nhà văn”. Và đến thời điểm đó “Tôi run lên vì lần đầu tiên tôi được lãnh lương do nghề làm báo. Ngay ngày hôm sau chúng tôi tới tòa soạn làm việc để lo cho số ra mắt đầu tiên”. (Hồi Ức sđd).
Nhà văn Chu Tử có nhiều con nuôi, ông gả con nuôi cho Nguyễn Thụy Long, sau ngày 30 tháng Tư, 1975, Nguyễn Thụy Long chứng kiến thực tế rất phũ phàng: vợ bỏ, mất con, mất nhà! và từ đó, ông trở thành con người lang thang khắp nơi, mọi xó xỉnh... Ngay nơi chốn xóm Mả Đen, ấp Đông Ba, ông về sinh sống từ thuở đôi mươi nhưng cũng không được thừa nhận! 24 năm sau ông mới có hộ khẩu, chứng minh nhân dân. Căn nhà số 156/3 (25/12) đường Nhiêu Tứ, phường 7, quận Phú Nhuận hiện nay là nơi chốn đã sống được 50 năm.
Ông trải qua vài đời vợ và cuối đời cũng còn niềm an ủi.
Sau tháng ngày ra tù vào khám, ông cầm bút để mưu sinh nhưng rồi trắc trở và thất bại. Ông sống trong hoàn cảnh cơ cực, mong tìm lối thoát nhưng cũng bị hoài nghi và tai tiếng.
“Tôi trở thành thằng xạo xự. Giải thích, cải chính thế nào cho họ tin được. Mà cải chính làm chi cho phí lời. Điều họ nhận xét cũng đúng thôi, nhưng với những ai kia, chớ không phải tôi. Mẹ ruột tôi đã viết thư về nói: “Đồng đô la bên nầy quí hiếm lắm, không ai giúp được ai đâu, đừng mong chờ...” một cô em dâu của tôi ở bên Mỹ cũng nhắn tin về cho biết: tôi không nên trông chờ gì ở hai đứa con lớn đã thất lạc lâu năm vì mẹ đẻ ra chúng cấm chúng liên lạc với tôi, sợ tôi lại giở giọng xin tiền chúng nó. Hai đứa con nhỏ thì còn đi học nhờ vào tiền cấp dưỡng. Họ hàng anh em bà con tôi thì khỏi nói đến làm chi, tất cả đều khác, đều là người xa lạ”. (Hồi Ký sđd trang 260-261).
Tiếp nối Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút”, bốn năm sau, Hồi Ức 40 Năm Làm Báo được hoàn thành, trong Lời mở đầu, ông cho biết:
“Tôi gia nhập làng báo, làng văn từ năm 1962, có thể trước đó một vài năm, nhưng chẳng kể làm gì, thời trước đó là thời của Văn Nghệ Học Sinh. Thuở tôi mơ làm văn sĩ... Thuở đó mới chỉ mơ thôi chứ chưa có thật, một cái gì còn xa vời lắm với một cậu học sinh tài thô, trí thiển, nhưng tôi yêu nghề viết văn làm báo từ ngày đó. Người ta mơ gì thì mơ, tôi mơ một cách quái gở, mơ làm văn sĩ, một tương lai sự nghiệp không lấy gì làm sáng sủa cho lắm thời bấy giờ...
... Trong đời cầm bút của tôi, đến nay đã vào tuổi 65 (tính theo thời điểm 2002). Nhưng lúc cầm cây bút lên viết điều gì đó có thể hại cho an ninh bản thân. Bạn bè khuyên tôi nên từ bỏ đi, hay đốt bỏ cho mất tang tích.
Tôi không gặp được một may mắn nào... Điều mơ ước duy nhất của tôi, làm nốt những gì mình còn bỏ dở dang, tôi sẽ nói lên hết, nếu sức khỏe tôi còn cho phép. Tôi tự cho tôi quyền tự do trên căn gác bút cô đơn.
... Tôi theo đuổi nghề suốt 40 năm trời, hình như không lúc nào ngừng nghỉ, làm việc cả trong lúc bị gác bút, chân tay bị cùm, nhưng còn cái đầu, tôi vẫn làm việc, vẫn suy nghĩ và thầm viết trong đầu. Để lúc nào thuận tiện thì thành văn chương, tác phẩm. Kể chuyện nôm na chơi.
Trong đời sống hỗn mang hai mươi mấy năm trời qua, tôi sống thử qua rất nhiều nghề. Trong đó có cả nghề cầm bút. Nó ra làm sao, đó là do sự tò mò của một nhà báo mà cái gì cũng muốn biết. Tôi chấp nhận những cái không may sẽ đến với tôi...
... Tôi không mất vì chẳng còn gì mà mất, cứ coi là việc rong chơi qua ngày trong bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”.
Trong Hồi Ức 40 Năm Cầm Bút của ông có vài chương đã được đề cập trong Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút”, khi viết, ông không che dấu thói hư tật xấu của mình, viết thật, sống thật, nghĩ sao viết vậy, có bao ngọn roi quất vào mặt ông và cũng có bàn tay đỡ đần, ông không ngại ngần đề cập khi viết nên có người vin vào để đả kích ông.
Mơ ước nào khi trở thành hiện thực thường mang lại ánh hào quang và niềm hạnh phúc nhưng ở Nguyễn Thụy Long, mơ ước hóa thân thành chữ nghĩa trong văn nghiệp thì ngược lại, vinh nhục đạp lên nhau và khốn đốn trong bão táp của cuộc đời với bao hệ lụy vây quanh. Ông phó mặc cho đời vì theo ông “Từ xưa đến nay tính chất của tôi vẫn là tưng tửng trong đời sống”.
Năm 2005, nhà văn Viên Linh tổ chức trao giải Văn Chương Toàn Sự Nghiệp của báo Khởi Hành cho Nguyễn Thụy Long. Điều đáng tiếc xảy ra khi có bài viết ở hải ngoại đả kích Nguyễn Thụy Long và ông ta phản pháo lại. Hai cây bút đã một thời thân tình với nhau nhưng có lẽ vì phản ứng tự vệ, cú đá “hồi mã thương” của ông trong cơn tức giận như cái tát đau điếng... ! Bút mực vẫn còn đó “lúc cầm cây bút lên viết điều gì đó có thể hại cho an ninh bản thân. Bạn bè khuyên tôi nên từ bỏ đi, hay đốt bỏ cho mất tang tích”.
Khi tôi viết về ông và sự việc đáng tiếc xảy ra, có email cho ông và nhận được hồi âm: “Đọc lại bài anh viết về tôi, tôi rất cảm động... Tôi và ông bạn... tuy có giận nhau nhưng thật lòng tôi vẫn quý mến vợ con ông ta, vì sự quen biết và thân tình đã mấy chục năm”!. Trong cuộc sống, ông đã gặp biết bao nghịch cảnh, oan trái... với đao, tên bằm nát thân xác, thêm một mũi tên trong lúc xế tà nơi xó xỉnh trong cơn bỉ cực, ông chỉ oán cho số phận mình còn lắm chông gai!
Khi liên lạc với ông, tôi biết ông sống trong hoàn ảnh khó khăn nhưng vẫn giữ sự tự trọng nên khi nhận được tác phẩm Thìn Ma, tôi liên lạc với nhật báo Viễn Đông đăng tải vào hạ tuần tháng Tư năm 2007 và trả tiền nhuận bút tác phẩm 500 mỹ kim. Về cuốn Hồi Ức 40 Năm Cầm Bút tôi nói với ông, sẽ tự nguyện giúp layout tác phẩm nếu có ai chịu trả tác quyền để in và phát hành, còn họ in, bán sách rồi gởi tiền về... sẽ trông đợi dài cổ! Sau đó tôi đưa cho nhật báo Viễn Đông và đã trả tiền nhuận bút 500 mỹ kim nhưng cho đến nay chưa đăng tải.
Nhật báo Viễn Đông trả tiền nhuận bút để đăng feuilleton, không liên quan đến vấn đề ấn hành. Nay nhà văn Nguyễn Thụy Long đã ra người thiên cổ, vợ và 3 đứa con nhỏ sống trong cơ cực. Nếu có vị mạnh thường quân nào nhã ý giúp cho phần bia mộ và đời sống người còn lại để ấn hành hai tác phẩm trên. Tôi sẽ giúp cho vấn đề layout miễn phí – từ trước đến nay, tôi chưa dính dấp bất cứ bất cứ đồng tiền nào giữa tác giả và tác phẩm mà chỉ làm công việc trung gian dể hỗ trợ cho nhau với tấm lòng trong sáng, thẳng thắn.
Trước đây, tôi gởi cho nhà văn Nguyễn Thụy Long bài viết về Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác (1881-1945) và được anh cho biết bài Hồ Trường anh thường ngâm mỗi khi cô đơn cùng cực, bà nội anh là chị em ruột với hiền thê của Nguyễn Bá Trác. Nguyễn Bá Trác là con rể Nguyễn Bá Học (1857-1921).
*
Thân mẫu Nguyễn Thụy Long được con gái bảo lãnh định cư tại Nam California. Ngày 26 tháng 9 năm 2004, cụ bà qua đời. Nơi căn nhà cũ, Nguyễn Thụy Long viết Hồi Ức Về Mẹ:
“... Căn nhà xưa của gia đình, mẹ tôi gìn giữ nó, không để cho bị tịch thu, vì anh em tôi đều bị đưa đi học tập cải tạo hết rồi. Mẹ ở một mình trong căn nhà ấy, đồ đạc trong nhà có gì bán dần, bán mòn đi để ăn và thăm nuôi hai anh em chúng tôi trong trại học tập. Cụ lặn lội vượt hàng trăm cây số đường rừng để đến với con, những đứa con tù tội khốn khổ của bà. Tới trại tù, trước khi được thăm nuôi người ta dạy mẹ tôi và những thân nhân thăm tù, gặp mặt phải khuyên bảo và giáo dục những người tù như chúng tôi câu: "Con ráng học tập tốt rồi nhà nước nhân đạo, khoan hồng tha cho về xum họp với gia đình".
Bây giờ đã mấy chục năm qua, khi ai nhắc hoặc nghe lại câu này tôi vẫn có cảm giác muốn buồn nôn. Tôi biết sau khi phải học vẹt như thế thì họ mới cho thăm nuôi con mình, không biết cụ đã nghĩ gì. Nhưng có lẽ mẹ tôi rất là đau khổ, tôi chỉ biết thương mẹ và cảm ơn mẹ, khi mẹ gầy hốc hác ngồi trước mặt tôi. Không chừng mẹ đã phải nhịn đói, nhịn khát để mang miếng cơm vào cho con. Một chút gạo, quí giá như những hạt châu ngọc. Vậy mà tôi từng bị tịch thu những hạt gạo ấy, bỏ vào kho, hoặc cho ai ăn không biết, có thể là mấy thằng khốn nạn, có thể lợn gà. Với mẹ, tôi vẫn là đứa con nhỏ bé, dù tôi đã lớn, đã trưởng thành, nhưng những hạt cơm của mẹ cho, tôi coi quí giá như những hạt châu ngọc. Vào thời tù tội đó, mỗi khi ra cổng trại để đi lao động và thoáng gặp những bà mẹ tay xách, nách mang đi thăm con. Tôi lại giấu những giọt nước mắt của mình, lúc đó tôi rất nhớ mẹ tôi...
... Hai giờ rưỡi sáng, tôi đạp xe đạp vào phi trường tiễn mẹ. Phi trường đêm ấy lồng lộng gió. Tiễn mẹ đi đêm ấy, tôi linh cảm thấy không bao giờ còn được gặp mẹ nữa. Dáng cụ xiêu xiêu đi vào phòng cách ly, cụ lại dúi cho tôi những đồng tiền Việt Nam còn sót lại trong túi, như hồi mấy chục năm về trước...
... Tất cả chúng con đều nhớ mẹ, bàng hoàng khi nhận được tin mẹ qua đời. Cụ thọ vào bậc nhất rồi nhưng sao tôi vẫn buồn. Cụ mất ngày 13 tháng 8 âm lịch bên Mỹ, còn hai ngày nữa là tết Trung Thu ở Việt Nam. Hôm nay ở đây tôi làm lễ phát tang cho mẹ, đúng vào ngày rằm Trung Thu, tôi e rằng trời lại mưa, như nhiều năm tôi ở miền Nam không bao giờ tôi được ngắm trăng rằm.
... Tuổi thơ ấu không bao giờ trở lại với tôi nữa. Tôi muốn khóc vì nhớ mẹ, nhưng còn nước mắt nữa đâu. Một đời mẹ gần một thế kỷ nổi trôi theo vận nước. Những đau thương này thay cho những giọt nước mắt của đứa con nay đã già.
(Rằm tháng Tám năm Gíáp Thân - Nguyễn Thụy Long)
Sau nhiều năm sống lang bạt nơi nầy chốn nọ cho đến khi được trở về với căn nhà cũ số 156/3 (25/12) đường Nhiêu Tứ, phường 7, quận Phú Nhuận... Với thời giá hiện nay, căn nhà cũ nầy có giá nhưng không biết chủ nhân có “sổ đỏ” hay không về chủ quyền?. Nhưng, cuối đời, sống vẫn bất an, gặp phải cảnh tượng đau lòng, có kẻ bên cạnh lấn đất nhà ông, bất chấp pháp luật, ngang nhiên bảo thợ đập phá nhà ông và còn đe dọa thanh toán, tháng 6 và tháng 7 năm 2007, ông làm đơn gởi đến các cơ quan hữu trách nhưng chẳng nơi nào giải quyết. Trong hai năm qua, Nguyễn Thụy Long đành cam chịu tình cảnh oái oăm đó cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay!
*
Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Thụy Long! Ông vĩnh biệt cõi trần, để lại vợ (Nguyễn Thị Thúy) và 3 con còn nhỏ ở Sài Gòn, 4 đứa con lớn của đời vợ trước sống ở hải ngoại./.
Tháng 4-2007 – viết lại 04 tháng 9-2009
1. Tình sử Phượng cầu Hoàng
Vương Trùng Dương
“Phượng hề, phượng hề quy cố hương
Chu du tứ hải cầu kỳ hoàng”.
Nghệ thuật có mối liên hệ mật thiết, gắn liền với cuộc sống. Là chất liệu, hồn và xác, hương hoa và thể phách; và, ngược lại. Trong thế giới nghệ thuật, âm nhạc như người bạn đồng hành với con người từ lúc sinh ra đến khi vĩnh biệt cõi đời. Âm nhạc có tác dụng mãnh liệt, có sức lôi cuốn kỳ lạ, chất chứa đam mê đầy quyến rũ trong tâm hồn theo từng trạng thái hỉ, nộ, ái, ố... biến thiên theo hệ lụy cuộc sống.
Ngôn ngữ của âm nhạc rất đơn giản nhưng biến thành ngôn ngữ vô cùng đa dạng, phong phú, vi diệu. Đó cũng là ngôn ngữ chung của nhân loại, không còn không gian, thời gian, không còn phái tính, tuổi tác... cho cả lúc tỉnh lúc mê, cho cả cảm nhận của kẻ chính người tà. Ngôn ngữ âm nhạc là ngôn ngữ chung của con người, không có biên cương, bất luận thời gian... cảm nhận, thưởng thức, rung cảm theo từng giai điệu, cung bậc.
Nhà văn Kim Dung trong toàn bộ tiểu thuyết kiếm hiệp từ “Thư Kiếm Ân Cừu Lục” đến “Lộc Đỉnh Ký”... đã đề cập âm nhạc trở thành “võ hiệp kỳ tình” trong thế giới võ lâm. Những tay kiếm khách thượng thừa trong chốn võ lâm đã xử dụng nhạc khí như võ công tuyệt kỷ chấn động giang hồ. Cây đàn của Côn Luân tam thánh Hà Túc Đạo với “Không Sơn Điều Ngữ” khiến cả chim muôn nhập vào cung bậc, ngọc tiêu của Đông tà Hoàng Dược Sư, đảo chủ Đào Hoa, tiếng đàn của Tây độc Âu Dương Phong trong “Đàn Chỉ Thần Thông”, khúc “Đại Giang Đông Khứ”... làm đảo điên quần hùng, gây chấn động võ lâm. Tiếng đàn tranh của Âu Dương Phong đã làm cho Hoàng Dược Sư khốn đốn. Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn, con người phiêu lãng, ngao du đây đó với cây dao cầm và nổi danh võ lâm với khúc “Tiêu Tương Dạ Vũ”. Trong đáy cây dao cầm được giấu lưỡi kiếm nhỏ, thật mỏng; khi Mạc Đại rút kiếm, kiếm khí vô cùng lợi hại làm võ lâm khiếp đởm nên được xưng tụng “cầm trung tàn kiếm, kiếm phát cầm âm”. Cây dao cầm của nhân vật quái dị Khang Quảng Lăng với tiếng đàn hư hư thực thực, điên đảo quần hùng.
Tác phẩm “Tiếu Ngạo Giang Hồ” làm mê say hàng triệu người trên thế giới, được dựng thành phim rất ăn khách đã dùng âm nhạc làm đề tài cho “võ hiệp kỳ tình”. Lưu Chính Phong là sư đệ của Tiêu Tương Dạ Vũ Mạc Đại tiên sinh, chánh đạo & Khúc Dương, trưởng lão Ma giáo, cao thủ của Triêu Dương thần giáo, hắc đạo - kẻ thù truyền kiếp - đem dao cầm và tiêu phổ tạo thành khúc nhạc Tiếu Ngạo Giang Hồ. Khúc Dương với thiết cầm, Lưu Chính Phong với tiêu phổ cùng song tấu, đem vi diệu của âm nhạc vào cõi mộng và thực cuộc đời. Tiếu Ngạo Giang Hồ được phóng tác từ âm điệu cổ xưa do hai nhạc cụ sáo & đàn phối hợp tuyệt diệu, hòa điệu với thiên nhiên “thanh phong minh nguyệt”.
Lưu Chính Phong & Triêu Dương đã phá vỡ, bất chấp luật lệ phân chia trong giới giang hồ khi dùng âm nhạc để hóa giải biên giới nên bị thảm bại theo truyền thống cố chấp của giới võ lâm.
Tiếu Ngạo Giang Hồ tái xuất giang hồ với đôi trai tài gái sắc: Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn & thánh cô Nhậm Doanh Doanh, ái nữ của Nhậm Ngã Hành, giáo chủ Triêu Dương thần giáo. Cuộc tao ngộ bất ngờ giữa chàng trai phiêu bạt với giai nhân nơi ngõ Lục Trúc đưa đến mối tình ngang trái giữa bạch đạo và hắc đạo qua âm nhạc. Khúc “Tiếu Ngạo Giang Hồ” trở thành võ công tuyệt kỷ, huyền diệu, huyễn hoặc, kỳ bí... gây kinh thiện động địa trong chốn võ lâm. Trên ba nghìn anh hùng hảo hán, võ nghệ đầy mình, võ công xuất chúng đang vây hãm Lệnh Hồ Xung để bỡn cợt bỗng tái mặt kinh hoàng, tuôn nhau đào thoát khi nghe thoang thoảng tiếng nhạc của thánh cô làm xiêu hồn bạt vía. Hợp tấu cầm tiêu với Lệnh Hồ Xung & Nhậm Doanh Doanh, với âm nhạc, với tình yêu, với tuyệt kỷ võ học đã làm mê hoặc con người qua “Tiếu Ngạo Giang Hồ”. Cảm nhận ảnh hưởng từ cung bậc và nhân vật vào thời xa xưa, trước công nguyên để nói lên cái uyên nguyên, huyền nhiệm của âm nhạc, hư cấu thành “tác phẩm nghệ thuật” trong thế giới võ lâm, âm điệu cổ xưa đó, thấp thoáng bóng dáng của “Phượng Cầu Hoàng”.
Tương truyền rằng, vào thời Xuân Thu (722-481 trước công nguyên), Tiêu Sử được Ngọc Hoàng ban cho ống tiêu bằng ngọc; tiếng tiêu tựa hồ tiếng phụng hoàng tung mây lướt gió vừa gáy vừa vũ điệu. Khi Tiêu Sử thổi, mây ngũ sắc hiện lên, nhấp nhô, bồng bềnh, chim chóc bốn phương bay đến múa lượn cùng cất tiếng hót chung quanh núi rừng như thiên đường huyền ảo.
Lộng Ngọc, con gái vua Tần Mục Công, nhan sắc diễm ảo, có tài nghệ thổi ống sanh. Nhà vua mở cuộc tuyển chọn Phò mã nhưng Lộng ngọc chưa có đối tượng vừa ý. Tiêu Sử hạ san, đến chốn cung đình trổ tài nghệ thổi tiêu, cả triều đình nhẫn ngơ, Lộng Ngọc say đắm. Nhà vua đúng ra kết duyên Lộng Ngọc cho Tiêu Sử. Tiêu Sử dạy cho Lộng Ngọc thổi tiêu, trong vòng nửa năm Lộng Ngọc đã thổi điêu luyện khúc “Phượng Hoàng”. Khi hai vợ chồng hòa với nhau khiến cho chim muông, sinh vật lạc vão cõi âm thanh huyền diệu.
Rồi một đêm trăng thanh gió mát, hai vợ chồng cảm hứng đem tiêu & sanh ra họa khúc “Phượng Hoàng”, âm thanh thánh thót, cao vút... bay tận trời xanh. Có con xích long & con tử phụng bay xuống. Tiêu Sử cỡi xích long, Lộng Ngọc cỡi tử phụng bay thẳng lên chốn bồng lai tiên cảnh.
Nhà Tiền Hán ở Trung Hoa được hình thành khi Lưu Bang lên ngôi Hoàng đế năm 202 trước công nguyên - Cao tổ nhà Hán - dựng nên cơ nghiệp nhà Hán. Theo “Trung Quốc Sử Cương”, Hán Võ Đế là bậc hùng tài, sùng nho học, ưa thần tiên... vì vậy “Vua Võ đế lập nhạc phủ, lượm những câu ca của các nước Triệu, Đại, Tần, Sở, sai Lý Diên Nhiên hiệp luật, Tư Mã Tương Như đặt lời, thể nhạc phủ ra đời từ đó”. Trước đó, nhã nhạc chỉ dùng trong các điển lễ của Triều đình rất được tôn sùng nhưng đến đời Hán bị mất dần ảnh hưởng. “Nhạc Phủ là bài ca phổ vào nhạc, có 2 loại: loại 5 chữ & loại 7 chữ. Loại 5 chữ chịu ảnh hưởng của Kinh Thi; loại 7 chữ chịu ảnh hưởng của Sở Từ. Trong nhạc phủ, thơ đời Hán đã có nhiều bài miêu tả rõ ràng, có nghệ thuật, và nhiều bài dân ca giọng mộc mạc, nhưng cảm động” (TQSC). Hán Vũ Đế có công thành lập cơ quan âm nhạc gọi là nhạc phủ để sưu tầm thi ca, ca dao đem ra phổ nhạc; danh xưng nhạc phủ hình thành từ đó.
Vương Trùng Dương
“Phượng hề, phượng hề quy cố hương
Chu du tứ hải cầu kỳ hoàng”.
Nghệ thuật có mối liên hệ mật thiết, gắn liền với cuộc sống. Là chất liệu, hồn và xác, hương hoa và thể phách; và, ngược lại. Trong thế giới nghệ thuật, âm nhạc như người bạn đồng hành với con người từ lúc sinh ra đến khi vĩnh biệt cõi đời. Âm nhạc có tác dụng mãnh liệt, có sức lôi cuốn kỳ lạ, chất chứa đam mê đầy quyến rũ trong tâm hồn theo từng trạng thái hỉ, nộ, ái, ố... biến thiên theo hệ lụy cuộc sống.
Ngôn ngữ của âm nhạc rất đơn giản nhưng biến thành ngôn ngữ vô cùng đa dạng, phong phú, vi diệu. Đó cũng là ngôn ngữ chung của nhân loại, không còn không gian, thời gian, không còn phái tính, tuổi tác... cho cả lúc tỉnh lúc mê, cho cả cảm nhận của kẻ chính người tà. Ngôn ngữ âm nhạc là ngôn ngữ chung của con người, không có biên cương, bất luận thời gian... cảm nhận, thưởng thức, rung cảm theo từng giai điệu, cung bậc.
Nhà văn Kim Dung trong toàn bộ tiểu thuyết kiếm hiệp từ “Thư Kiếm Ân Cừu Lục” đến “Lộc Đỉnh Ký”... đã đề cập âm nhạc trở thành “võ hiệp kỳ tình” trong thế giới võ lâm. Những tay kiếm khách thượng thừa trong chốn võ lâm đã xử dụng nhạc khí như võ công tuyệt kỷ chấn động giang hồ. Cây đàn của Côn Luân tam thánh Hà Túc Đạo với “Không Sơn Điều Ngữ” khiến cả chim muôn nhập vào cung bậc, ngọc tiêu của Đông tà Hoàng Dược Sư, đảo chủ Đào Hoa, tiếng đàn của Tây độc Âu Dương Phong trong “Đàn Chỉ Thần Thông”, khúc “Đại Giang Đông Khứ”... làm đảo điên quần hùng, gây chấn động võ lâm. Tiếng đàn tranh của Âu Dương Phong đã làm cho Hoàng Dược Sư khốn đốn. Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn, con người phiêu lãng, ngao du đây đó với cây dao cầm và nổi danh võ lâm với khúc “Tiêu Tương Dạ Vũ”. Trong đáy cây dao cầm được giấu lưỡi kiếm nhỏ, thật mỏng; khi Mạc Đại rút kiếm, kiếm khí vô cùng lợi hại làm võ lâm khiếp đởm nên được xưng tụng “cầm trung tàn kiếm, kiếm phát cầm âm”. Cây dao cầm của nhân vật quái dị Khang Quảng Lăng với tiếng đàn hư hư thực thực, điên đảo quần hùng.
Tác phẩm “Tiếu Ngạo Giang Hồ” làm mê say hàng triệu người trên thế giới, được dựng thành phim rất ăn khách đã dùng âm nhạc làm đề tài cho “võ hiệp kỳ tình”. Lưu Chính Phong là sư đệ của Tiêu Tương Dạ Vũ Mạc Đại tiên sinh, chánh đạo & Khúc Dương, trưởng lão Ma giáo, cao thủ của Triêu Dương thần giáo, hắc đạo - kẻ thù truyền kiếp - đem dao cầm và tiêu phổ tạo thành khúc nhạc Tiếu Ngạo Giang Hồ. Khúc Dương với thiết cầm, Lưu Chính Phong với tiêu phổ cùng song tấu, đem vi diệu của âm nhạc vào cõi mộng và thực cuộc đời. Tiếu Ngạo Giang Hồ được phóng tác từ âm điệu cổ xưa do hai nhạc cụ sáo & đàn phối hợp tuyệt diệu, hòa điệu với thiên nhiên “thanh phong minh nguyệt”.
Lưu Chính Phong & Triêu Dương đã phá vỡ, bất chấp luật lệ phân chia trong giới giang hồ khi dùng âm nhạc để hóa giải biên giới nên bị thảm bại theo truyền thống cố chấp của giới võ lâm.
Tiếu Ngạo Giang Hồ tái xuất giang hồ với đôi trai tài gái sắc: Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn & thánh cô Nhậm Doanh Doanh, ái nữ của Nhậm Ngã Hành, giáo chủ Triêu Dương thần giáo. Cuộc tao ngộ bất ngờ giữa chàng trai phiêu bạt với giai nhân nơi ngõ Lục Trúc đưa đến mối tình ngang trái giữa bạch đạo và hắc đạo qua âm nhạc. Khúc “Tiếu Ngạo Giang Hồ” trở thành võ công tuyệt kỷ, huyền diệu, huyễn hoặc, kỳ bí... gây kinh thiện động địa trong chốn võ lâm. Trên ba nghìn anh hùng hảo hán, võ nghệ đầy mình, võ công xuất chúng đang vây hãm Lệnh Hồ Xung để bỡn cợt bỗng tái mặt kinh hoàng, tuôn nhau đào thoát khi nghe thoang thoảng tiếng nhạc của thánh cô làm xiêu hồn bạt vía. Hợp tấu cầm tiêu với Lệnh Hồ Xung & Nhậm Doanh Doanh, với âm nhạc, với tình yêu, với tuyệt kỷ võ học đã làm mê hoặc con người qua “Tiếu Ngạo Giang Hồ”. Cảm nhận ảnh hưởng từ cung bậc và nhân vật vào thời xa xưa, trước công nguyên để nói lên cái uyên nguyên, huyền nhiệm của âm nhạc, hư cấu thành “tác phẩm nghệ thuật” trong thế giới võ lâm, âm điệu cổ xưa đó, thấp thoáng bóng dáng của “Phượng Cầu Hoàng”.
Tương truyền rằng, vào thời Xuân Thu (722-481 trước công nguyên), Tiêu Sử được Ngọc Hoàng ban cho ống tiêu bằng ngọc; tiếng tiêu tựa hồ tiếng phụng hoàng tung mây lướt gió vừa gáy vừa vũ điệu. Khi Tiêu Sử thổi, mây ngũ sắc hiện lên, nhấp nhô, bồng bềnh, chim chóc bốn phương bay đến múa lượn cùng cất tiếng hót chung quanh núi rừng như thiên đường huyền ảo.
Lộng Ngọc, con gái vua Tần Mục Công, nhan sắc diễm ảo, có tài nghệ thổi ống sanh. Nhà vua mở cuộc tuyển chọn Phò mã nhưng Lộng ngọc chưa có đối tượng vừa ý. Tiêu Sử hạ san, đến chốn cung đình trổ tài nghệ thổi tiêu, cả triều đình nhẫn ngơ, Lộng Ngọc say đắm. Nhà vua đúng ra kết duyên Lộng Ngọc cho Tiêu Sử. Tiêu Sử dạy cho Lộng Ngọc thổi tiêu, trong vòng nửa năm Lộng Ngọc đã thổi điêu luyện khúc “Phượng Hoàng”. Khi hai vợ chồng hòa với nhau khiến cho chim muông, sinh vật lạc vão cõi âm thanh huyền diệu.
Rồi một đêm trăng thanh gió mát, hai vợ chồng cảm hứng đem tiêu & sanh ra họa khúc “Phượng Hoàng”, âm thanh thánh thót, cao vút... bay tận trời xanh. Có con xích long & con tử phụng bay xuống. Tiêu Sử cỡi xích long, Lộng Ngọc cỡi tử phụng bay thẳng lên chốn bồng lai tiên cảnh.
Nhà Tiền Hán ở Trung Hoa được hình thành khi Lưu Bang lên ngôi Hoàng đế năm 202 trước công nguyên - Cao tổ nhà Hán - dựng nên cơ nghiệp nhà Hán. Theo “Trung Quốc Sử Cương”, Hán Võ Đế là bậc hùng tài, sùng nho học, ưa thần tiên... vì vậy “Vua Võ đế lập nhạc phủ, lượm những câu ca của các nước Triệu, Đại, Tần, Sở, sai Lý Diên Nhiên hiệp luật, Tư Mã Tương Như đặt lời, thể nhạc phủ ra đời từ đó”. Trước đó, nhã nhạc chỉ dùng trong các điển lễ của Triều đình rất được tôn sùng nhưng đến đời Hán bị mất dần ảnh hưởng. “Nhạc Phủ là bài ca phổ vào nhạc, có 2 loại: loại 5 chữ & loại 7 chữ. Loại 5 chữ chịu ảnh hưởng của Kinh Thi; loại 7 chữ chịu ảnh hưởng của Sở Từ. Trong nhạc phủ, thơ đời Hán đã có nhiều bài miêu tả rõ ràng, có nghệ thuật, và nhiều bài dân ca giọng mộc mạc, nhưng cảm động” (TQSC). Hán Vũ Đế có công thành lập cơ quan âm nhạc gọi là nhạc phủ để sưu tầm thi ca, ca dao đem ra phổ nhạc; danh xưng nhạc phủ hình thành từ đó.
Trong triều đại đó, ở đất Lâm Cùng, Thành Đô, nước Thục, nay là Tứ Xuyên, có chàng Tương Như tự Tràng Khanh, sinh năm 179, mất năm 117 trước công nguyên. Thuở nhỏ nhà nghèo, tư chất thông minh, giỏi thi phú, có ngón đàn tuyệt diệu, giỏi võ nghệ nhưng lận đận trên bước đường công danh. Ông có tên là Khuyển Tử, lớn lên đọc sách, yêu văn chương, thích hào khí của Lạn Tương Như thời Chiến Quốc nên lấy tên là Tương Như.
Khi dấn thân, Tương Như chỉ giữ chức quan nhỏ nên chán nản, bỏ chức, ngao du sang nước Lương giao tiếp với nhiều văn nhân nổi tiếng thời gian rồi trở lại đất Thục. Nhờ giỏi thi phú và có ngón đàn tuyệt diệu nên Tương Như được giới quan lại, quý tộc đón tiếp; trong đó có quan huyện Lâm Cùng là Vương Cát, cũng là ân nhân của Tương Như lúc khốn cùng. Vương Cát để Tương Như ở Đô Đình, chiêu đãi Tương Như như vị khách quý nên bóng dáng chàng lọt vào mắt nhà đại quý tộc Trác Vương Tôn. Trác vương Tôn có người con gái là Trác Văn Quân, tuyệt sắc giai nhân, giỏi thi phú, tuổi vừa mười tám nhưng đã góa chồng.
Một đêm đẹp trời, Trác Vương Tôn mời Vương Cát & Tương Như đến nhà dự tiệc. Vương Cát hiểu được dụng ý nên tỏ ra tâng bốc Tương Như, khi hơi men đã thấm Vương Cát đem đàn ra để hòa nhập thú vui tao nhã “cầm kỳ thi tửu” trong khung cảnh cao sang nhà quý tộc. Theo sự yêu cầu, Tương Như cầm đàn hậu tạ.
Tương Như nhờ cây ỷ cầm, gảy khúc “Phượng Cầu Hoàng”. Không gian như lắng đọng, thời gian như ngừng trôi, tiếng đàn réo rắt dìu dặt, du dương, trầm bỗng... lôi cuốn tâm hồn phiêu lãng vào cõi mộng mơ.
“Phương ơi! Phượng ơi! Hãy bay về làng cũ đi thôi, bao nhiêu năm ngao du bốn bể, mỏi cánh chim bằng tìm hình bóng chim hoàng, lòng mang nặng sầu vương. Nơi đây có bóng dáng mỹ nhân, tuy cùng chung trong gan tấc nhưng lại xa xăm, lòng nầy héo ruột héo gan! Làm sao cho phượng gặp gỡ hoàng! Xin nguyện làm đôi chim ương bay mãi tận trời xanh...”.
Trác Văn Quân núp sau rèm, đắm say từng cung bậc, say mê, cảm mến, tâm hồn ngất ngây theo khúc nhạc du dương. Hình ảnh Tương Như đã ngự trị trong trái tim nàng.
Dư âm tiếng đàn réo gọi, con tim thôi thúc, ngay trong đêm đó Trác Văn Quân, trốn nhà, lẻn sang Đô Đình để theo Tương Như.
Trác Vương Tôn thấy con gái bỏ nhà theo trai nên vô cùng giận giữ. Trong thời điểm đó, cả là sự sỉ nhục. Biết được Tương Như chỉ là nghệ sĩ lãng du “vô công rỗi việc”, sau thời gian lang bạt, “quy cố hương”, tá túc nhà Vương Cát để nương thân. Trác Vương Tôn giận giữ, không cho tiền bạc, không cho nương tựa để “loan” theo tiếng gọi tình yêu của “phượng” chịu cảnh khổ đau trong nghèo túng.
Tương Như & Văn Quân phải bán những vật dụng cần thiết để sống. Đôi tình nhân trở lại Lâm Cùng, mở quán rượu ở chợ để độ nhật qua ngày. Ván bài “thấu cáy” được hiệu nghiệm, nhà đại phú gia bị bẽ mặt và không muốn hàng ngày bị hình ảnh nầy ám ảnh nên đành chia sớt tài sản để xây tổ uyên ương.
Trác Vương Tôn chu cấp cho Tương Như & Văn Quân cả trăm vạn quan tiền, trăm nô tỳ và tài sản của nàng khi lập gia đình, cho tổ chức đám cưới. Vợ chồng trở lại Thành Đô mua sắm dinh thự, sống cuộc đời vương giả...
Thời gian đôi vợ chồng trẻ Tương Như & Văn Quân sống êm đềm thơ phú, rượu bầu, cầm ca rất đẹp duyên lứa đôi. Tương Như còn có tài làm phú - một thể văn có vần, điệu xen lẫn nhau, văn xuôi có vần, miêu tả trực tiếp - rất thịnh hành thời ấy.
Hán Vũ Đế biết tài, mời về kinh tham chính. Tương Như có công trong việc thu phục nhân tâm ở đất Thục theo nhà Hán, được ban khen bổng lộc triều đình. Trong các chức vị Tương Như được vua ban, chức Tư Mã rất phù hợp với danh xưng ông thích nên được gọi Tư Mã Tương Như. Sau nầy, thi hào Bạch Cư Dị đời nhà Đường, từng giữ chức Thượng thư Bộ Hình. Khi làm quan chức Tả Thập Di, bị biếm chức làm Tư Mã ở Giang Châu, trong 30 năm làm quan, nhà thơ Bạch Cư Dị lại thích tước vị Tư Mã nên người đời gọi ông là Tư Mã Giang Châu để nói lên hình ảnh văn nhân hào hoa phong nhã, nghệ sĩ tài hoa giang hồ, xem công danh nhẹ tựa gió thoảng mây bay.
Sống trong bổng lộc, phú quý, ăn chơi... Tương Như sinh tật. Tương Như được nhiều người đẹp ngưỡng mộ nên nỗi máu phong tình, phóng đãng giao du. Khi mê si người đẹp đất Mậu Lăng, Tương Như muốn đem về làm hầu thiếp để chăn gối. Văn Quân cũng rành về thơ phú, đau khổ cho tình lang “thả mồi bắt bóng”, nàng viết khúc “Bạch Đầu Ngâm” bày tỏ nỗi sầu bi ai oán khi chứng kiến người tình “ăn ở hai lòng, khi bên nhau chuốc rượu, lúc lai vãng nơi kia” rồi gửi niềm tâm sự:
“Mong sao người một dạ
Bạc đầu mãi bên nhau”.
Khúc “Bạch Đầu Ngâm” làm cho Tương Như thức tỉnh cơn mê, chàng dứt bỏ mối tình si, sống trọn vẹn với hình ảnh người tình trăm năm Văn Quân như hình bóng phượng hoàng giữa trời xanh mây thẳm.
Trải qua hàng nghìn năm lưu truyền tình sử đó, cuộc tình Tư Mã - Văn Quan đã đi vào văn học Việt Nam.
Trong “Bích Câu Kỳ Ngộ” đã đề cập đến con tim của đôi tình nhân Tú Uyên say đắm Giáng Kiều cho đến khi chiếm đọat được trái tim rồi quay lưng bạc đãi:
“Cầu hoàng tay lựa nên vần,
“Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào”
Thi hào Nguyễn Du rất tài tình khi nói về tiếng đàn của Thúy Kiều như lúc gặp Kim Trọng:
“Khúc đâu Tư Mã phượng cầu
Nghe ra như oán, như sầu phải chăng?”.
Tình yêu & định mệnh, hạnh phúc & khổ đau từ nghìn xưa đến nay được thoáng hiện trong bóng dáng “Phượng Cầu Hoàng”.
"Phượng cầu dù tựa nên cung
Ngón cầm biết gảy được lòng hay chăng?"
(Hoa Tiên)
Ca khúc “Tà Áo Văn Quân” của Phạm Duy Nhượng vào thời tiền chiến đã nói về hình ảnh Tư Mã, Văn Quân & Phượng, Hoàng:
“Tư Mã người ơi! đừng đàn bên Văn Quân.
Nâng phím hào hoa kề làn môi giai nhân.
Về nhà bên suối, cung đàn áp má đào.
Mộng chưa tàn khúc Phượng Cầu lưu luyến nhau.
Phượng ơi đàn vắng; tìm chim Hoàng nơi nao”.
Năm 1964, khúc “Phượng Vũ” với nghệ thuật sáng tác của Nguyễn Đình Nghĩa dựa vào giàn nhạc Bát Aâm ở cung đình Huế qua tiếng sáo điêu luyện được trình diễn ở trong nước và hải ngoại đã làm vang bóng, giới thưởng thức say mê, ái mộ. Nghe “Phượng Vũ”, hình dung được hình ảnh phượng hoàng đập cánh, xòe cánh...lúc rỉa đuôi, giủ đuôi, cụp, xòe, quay, múa... nhặt, khoan theo từng vũ điệu.
Phụng Hoàng, Phượng Hoàng là một trong tứ linh: Long, Lân, Quy, Phượng. Khi gọi “Long Phụng...”, long tượng trưng cho nam giới, hùng mạnh, cứng cỏi; phụng tượng trưng cho nữ giới, thướt tha, uyển chuyển. Bên cạnh chữ “Song Hỷ”, hình ảnh phượng xòe, rồng uốn khúc, cuộn mây được gọi “Long Vân Tế Hội”. Trên mũ, áo hoàng đế trang trí hình rồng; trên mũ, áo hoàng hậu trang trí hình phụng hoàng. Trên cung điện và ở trong nhiều công trình kiến trúc thơi xưa đều được chạm trổ, vẽ hình ảnh long, phụng như biểu tượng cao quý, uy quyền, mỹ thuật, thanh tao.
Khi chữ viết bay bướm, linh động, có thần, đẹp tuyệt vời - điển hình như chữ Hán - dùng thành ngữ "Phụng bay rồng múa" để diễn tả nét bút độc đáo của nó.
Trong tứ linh đó, phượng còn đi với lân, đi vào văn học để biểu lộ sự tương hợp, cùng dong dõi quyền quý với nhau:
"Đồng hàng lông phượng gót lân
Kìa nhà ngũ quế, nọ sân bát đồng"
(Nhị Độ Mai)
Vào triều Nguyễn, hình ảnh rồng danh cho nhà vua; hoàng thái hậu, hoàng hậu, công chúa với hình chim phụng hoàng trên áo mũ màu vàng, màu đỏ và cung tần được chia ra làm 3 loại theo thứ bậc cao thấp, thêu 5, 3 và 1 con phượng trên mũ. Áo sa sợi tơ màu đỏ, màu tía và màu trắng cũng tùy theo thứ basc cao thấp dệt hình con loan.
Phượng hoàng là linh vật, phượng là chim trống, hoàng là chim mái, còn gọi là loan.
Vào thời Hán Vũ Đế, máu chim loan được dùng làm keo nối dây cung, dây đàn, rất chắc, bền. Giao là keo, vì vậy có câu "An đắc giao loan tục đoạn huyền" (Ước gì có keo loan để nối giây đàn đứt). Thi hào Nguyễn Du đề cập qua dòng thơ:
"Giữa đường đứt gánh tương tư,
Giao loan chắp nối, tơ thừa mặc em"
(Kiều)
Hình ảnh phụng loan tượng trưng cho điều lành, tốt đẹp, bền vững bên nhau, vì vậy, khi chúc mừng cho đôi uyên ương được nên duyên tốt đẹp, dùng “Loan Phụng Hòa Minh” để bầy tỏ duyên tơ thắm thiết vợ chồng.
Trong thi ca việt Nam đã đề cập đến hình ảnh giữa phụng và loan:
“Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,
Hoa quan giấp giới, hà y rỡ ràng”
(Kiều)
“Nào người phượng chạ loan chung,
Nào người tiếc lục tham hồng là ai”
(Kiều)
Ca dao Việt Nam có câu:
"Phụng với loan hai đàng phân rẽ
Qua với nàng chẳng lẽ phân nhau".
“Loan ôm lấy phụng, phụng bồng lấy loan”
Mối tình đầy lãng mạn, thơ mộng của Phan Tất Chánh & Trần Kiều Liên từ thời Tống Tĩnh Khang ở Trung Hoa thời xa xưa được viết qua truyện thơ nôm “Phan Trần” đi vào văn học Việt Nam, ghi lại hình ảnh đôi kẻ tình si lúc hội ngộ:
"Vũ môn mừng đã đến tuần
Phượng loan rày gặp, phong vân phải tìm”.
(Phan Trần)
Vào tiền bán thế kỷ XX, nhà thơ Tản Đà có bài thơ chúc mừng tân hôn:
"Mừng ai gối phượng, chân loan
Khuyên ai gánh lấy giang san nhà chồng
Chúc ai tay bế tay bồng
Con tiên rồi lại cháu Rồng về sau"
Khi mối tình gãy đỗ, nhẹ nhàng mượn hình bóng “phụng loan chếch cánh” cho có vẽ nhẹ nhàng, văn chương. Khi trai và gái chưa thành hôn mà sống chung chạ với nhau, người xưa đã gọi "phượng chạ loan chung". Và, bày tỏ tình cảnh vợ chồng ngăn cách, vợ một nơi, chồng một ngã: "loan phiêu phụng bạc"
Loan giá: xe của vua đi. Loan dư: kiệu của vua đi. Loan tường phụng chủ: chữ viết sinh động như loan liệng phụng bay. Phượng cái: lọng của vua có thêu hình chim phượng. Phượng chiếu: tờ chiếu của vua có vẽ hình chim phượng. Phượng kỳ: nghi trượng của vua. . .
Theo GS Thái Văn Kiểm, nhà điểu học Nhật Bản Hachisuka quả quyết chim trĩ cũng giống như chim phụng hoàng. Phụng hoàng co đuôi dài chấm nhãn khá nhiều, vừa giống chim trĩ, vừa giống chim công, Tay gọi là Faisan ocelle , Faisan argus; tên La tinh là Argusianus Argus…... Chim loan (chim mái) có lông ngũ sắc nhưng sắc xanh óng ánh nhiều hơn, còn chim phụng cũng lông ngũ sắc nhưng màu đỏ tía nhiều hơn.
Phượng hoàng luôn luôn sát cánh bên nhau vượt đại dương, núi rừng, thảo nguyên bát ngát, bay tận trời xanh, cỡi mây, lướt gió.
Trong khoảng bốn trăm loài chim, phụng hoàng được xem như chúa tể. Ăn quả trúc, uống nước suối trong. Vào thời xa xưa, phụng hoàng vượt núi rừng, biển cả về núi Côn Luân, uống nước suối Để Trụ, tắm nước Nhược Thủy, phơi nắng trên đỉnh Đơn Tuyệt. Khi bay có nhiều giống chim khác bay theo tháp tùng. Khi hót, hàng trăm loài chim cùng cất theo, hòa thành bản đại hợp tấu với muôn nghìn âm điệu. Phụng hoàng thân cao, dáng vẻ thanh nhã, mầu sắc lộng lẫy. Mỏ như mỏ gà trống, trên mỏ có mồng, cổ như cổ rắn, lưng tựa rùa, lông mầu ngũ sắc, đuôi sặc sở như đuôi công, xếp lại như đuôi cá.
Ngày xưa, vua Phục Hy đời thượng cổ, thấy chim Phụng Hoàng đậu trên cây ngô đồng, nhà vua cho hạ cây ngô đồng, cưa làm 3 khúc. Nhà vua cho người thử, khúc ngọn phát ra tiếng trong, khúc gốc tiếng đục, khúc giữa phát ra chuổi âm điệu từ trong đến đục. Nhà vua cho ngâm khúc giữa vào dòng nước chảy 72 ngày rồi giao cho Lưu Tử Kỳ đẽo thành cây đàn, gồm 13 phím, 5 giây (Cung, Thương, Giốc, Chủy Vũ), đặt tên là Diêu Cầm. Đời Văn Vương, Võ Vương thêm hai giây (Văn, Võ). Một loại cây thông thường được Phụng Hoàng đậu đã trở thành danh mộc, khai sinh ra loại đàn. Trong thơ cổ có câu: “Phục Hy chế tác lễ nghi”, cây Diêu Cầm là hình ảnh đầu tiên cho lễ nhạc.
Vào thời Xuân Thu, Kính Trọng công thành danh toại nhưng quá thận trọng về đường tình duyên và khi bói được quẻ "Phụng Hoàng" mới chọn người phối ngẫu.
Hình ảnh phượng hoàng trở thành điển tích ,như huyền thoại và được dè cập trong văn học cho lương duyên cuộc tình:
"Phượng bay bốn bể cầu hoàng
Giai nhân chẳng ở đông sàng thì đâu"
(Tây Sương Ký)
"Nước trong xanh lơ lửng con cá vàng
Cây ngô cành bích con chim phượng hoàng nó đậu cao.
Anh tiếc cho em phận gái má đào
Tham đồng bạc trắng mới gán mình vào lấy chú Tây đen"
(Tản Đà)
“Thơ mừng kính có lời trân trọng,
Gia thất hòa vui tiếng phượng hoàng”
(Đông Hồ)
“Phượng cầu dù lựa nên cung
Ngọn cầm biết gẩy được lòng hay chăng”
(Nguyễn Thiện - danh sĩ đời Lê - cháu Nguyễn Du)
“Phượng bay bốn bể cầu hoàng
Giai nhân chẳng ở đông trường thì đâu”
(Tây Sương)
"Công danh chờ thử xuân sang
Thế nào rồi sẽ phượng hoàng rủ nhau"
(Phan Trần)
Ca dao Việt Nam đã đề cập đến duyên nợ trời cho:
“Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng
Khác gì như thể phượng, hoàng gặp nhau”.
Tuy phượng hoàng là hình tượng rất phổ biến từ chốn cung đình đến sinh hoạt văn hóa nhưng hình ảnh đó được phát họa trong óc tưởng tượng về linh vật từ ngàn xưa cho tới nay với bao truyền thuyết.
Đời nhà Đường, Võ Tắc Thiên phát họa lại đồ án từ thời Thái Tông và Cao Tổ xây cất điện Minh Đường. Võ Tắc Thiên giao phó cho tình lang Tiết Hoài Nghĩa sai nho sĩ phái Bắc Môn vẽ kiểu, dùng địa điểm bên trong Nam Môn của hoàng cung ở Lạc Dương. Điện Minh Đường hoàn thành năm 688, cao 100 mét, gồm 3 tầng, rộng 100 mét vuông. Trên nóc điện với hình ảnh con phượng hoàng làm bằng sắt mạ vàng, cao 3 mét, biểu tượng của Võ hậu. Không đứng vững được bao lâu vì bị điện Minh Đường bị đốt cháy, không còn di tích bóng phượng hoàng.
Vào thời Tây Sơn (1788-1802) tháng 10 năm 1788 Nguyễn Huệ ban chiếu chọn Vinh xây dựng kinh đô. Phụng Hoàng Trung Đô, giữa nứi Dũng Quyết và núi Kỳ Lân, dưới sự chỉ huy của La Sơn Phu Tử và Trấn thủ Nghệ An Nguyễn Thận, đó là kinh đô thứ năm sau kinh đô Văn Lang ở Việt Trì, kinh đô Cổ Loa (Hà Nội), kinh đô Hoa Lư ở Ninh Bình, kinh đô Thăng Long.
Thi hào Nguyễn Du, trên đường lai kinh vào năm 1804, sáng tác bài thơ "Phượng Hoàng Thượng Lộ Tảo Hành" mô tả cảnh tượng xa xăm, đêm xuống sắc trời mờ mờ, nghe tiếng vượn hú, thấy dâu chân cọp, ngủ đưởng gặp tiều phu, thương nhau tuy không cùng cảnh ngộ: "Chinh phu hoài vãng lộ, Dạ sắc thượng mông mông, Nguyệt lạc viên thanh ngoại, Nhân hành hổ tích trung..."
Có vài địa danh mang tên phụng hoàng như đảo Phụng Hoàng dùng làm nơi phát tuyến đài Tự Do thời Việt Nam Cộng Hòa, núi Phượng Hoàng ở Pleiku nhưng nơi nầy không có bóng dáng loài chim trĩ, phượng hoàng.
Trong tem thơ Việt Nam Cộng Hòa có tem thư với đề tài "Chim Phượng Hoàng Đang Bay" do họa sĩ Nguyễn Thanh Thu vẽ, ngày phát hành 7 tháng 9 năm 1955, màu tím, đỏ giá 4$00.
Âm nhạc Trung Hoa hình thành từ Linh Luân, Hậu Quỳ; đời Ngũ Đế, Tam Vương, âm nhạc trở thành lễ nghi trong cung đình; đời Xuân Thu nổi danh với Sư Khoáng tinh thông âm pháp đưa âm nhạc đến mức vi diệu, cao siêu. Và, Tư Mã Tương Như đời Hán với khúc “Phượng Cầu Hoàng” trở thành bất tử, lưu truyền hậu thế.
Tố Như tiên sinh trong thi phẩm “Kiều” đã đề cập về âm nhạc Trung Hoa cũng như Đông phương:
“Cung thương lầu bậc ngũ âm...
Lọt tai nghe suốt năm cung”.
Ngôn ngữ, âm giai của âm nhạc Đông phương chỉ có ngũ âm - năm bậc, năm cung: Cung, Thương, Dốc, Thủy, Vũ (Cống, Xừ, Xang, Xế, Líu) nhưng cũng được biến hóa muôn sắc, muôn âm, rất phong phú và huyền diệu. Theo Lê Qúy Đôn trong Vân Đài Loại Ngữ : "Lấy hoàng chung làm cung, lấy lâm chung làm chủy, lấy thái tấu làm thương, nam lã làm vũ, cô tiến làm giốc, ứng chung làm biến cung, sanh tan làm biến chủy. Đấy là thất luật để làm đờn cho thanh âm điều hòa . . . ".
Nhạc khí Đông phương gồm đàn, sáo, nhị... Riêng sáo, có đến 6 loại, tên gọi khác nhau tùy theo thổi ngang, thổi dọc, không và có lưỡi gà, 2 ỗ, 6 lỗ, 7 lỗ, chín lỗ...: Tiêu, Địch, Hoàng, Quản, Trì, Huân.
Năm 1964, khúc “Phượng Vũ” với nghệ thuật sáng tác của Nguyễn Đình Nghĩa dựa vào giàn nhạc Bát Aâm ở cung đình Huế qua tiếng sáo điêu luyện được trình diễn ở trong nước và hải ngoại đã làm vang bóng, giới thưởng thức say mê, ái mộ. Nghe “Phượng Vũ”, hình dung được hình ảnh phượng hoàng đập cánh, xòe cánh...lúc rỉa đuôi, giủ đuôi, cụp, xòe, quay, múa... nhặt, khoan theo từng vũ điệu.
Qua năm tháng, qua bao biến thiên, vật đổi sao dời, khúc “Phượng Cầu Hoàng” dù đã thất truyền nhưng tình sử... vẫn vượt thời gian, không gian với dấu ấn cuộc tình.
Vương Trùng Dương