6. Đưa tiễn Quỳnh Giao
(Đã được tác giả Phạm Xuân Đài đọc trong buổi tưởng niệm ca sĩ Quỳnh Giao vào trưa ngày 30 tháng 7, 2014 tại nhà quàn Peek Family, Westminster (Nam California), trước giờ hỏa thiêu).
Kính thưa quý vị,
Hôm nay chúng ta tiễn đưa một người bạn nghệ sĩ của chúng ta về cõi vĩnh hằng với rất nhiều nuối tiếc. Đối với riêng tôi, nỗi tiếc nuối rất sâu đậm, vì từ lâu tôi đã nhận ra và cảm phục Quỳnh Giao là con người rất mực tài hoa.
Quỳnh Giao đã được nuôi dưỡng trong giai đoạn trưởng thành của nền tân nhạc Việt Nam, đã được học hành đến nơi đến chốn trong trường Quốc Gia Âm Nhạc của Việt Nam Cộng Hòa, đã đậu thủ khoa khi ra trường, đã sống trọn vẹn trong môi trường âm nhạc từ trong gia đình ra ngoài xã hội, từ nhỏ đến lớn, từ trong nước ra hải ngoại. Tài năng về âm nhạc của Quỳnh Giao chắc chắn hôm nay sẽ được những người trong giới âm nhạc nói tới. Nhưng khả năng và kiến thức về âm nhạc, nghệ thuật còn thể hiện trong lãnh vực viết lách, có thể nói cho tới giờ phút này, ít ai có được những thuận lợi để viết về âm nhạc Việt Nam trong thời kỳ của mình hơn là Quỳnh Giao.
Với lợi thế lớn lên trong gia đình của đôi nghệ sĩ nổi tiếng Dương Thiệu Tước-Minh Trang, lại tham gia vào thế giới âm nhạc từ thủa bé, Quỳnh Giao đã tích lũy không biết bao nhiêu là kỷ niệm và sự quen biết với các nhạc sĩ, ca sĩ, bao nhiêu là kiến thức về các tác phẩm và các sinh hoạt âm nhạc đủ loại của suốt thời gian sống tại miền Nam. Đọc Quỳnh Giao, người ta mới thấy tác giả đúng là một cuốn tự điển sống về cái thế giới ấy, một cây bút đầy linh động không chỉ vì sự hiểu sâu biết kỹ, mà còn vì khả năng diễn đạt bằng văn chương những chỗ uẩn áo của âm nhạc phát tiết ra nơi từng người nghệ sĩ, dù là người sáng tác hay là người trình diễn. Nếu ai có ý định viết về nhạc sử của miền Nam trước 1975, tôi nghĩ người ấy cần tham khảo rất nhiều bài viết về âm nhạc của Quỳnh Giao.
Nhưng có lẽ ít người trong chúng ta được biết là Quỳnh Giao còn có con mắt nhìn nghệ thuật tạo hình một cách đặc sắc. Khoảng thời gian từ 1995 đến khoảng năm 2000, tại trụ sở của ba cơ quan văn hóa là đài phát thanh VNCR, hội VAALA và tòa soạn báo Thế Kỷ 21 tại đường Acacia, Garden Grove, một nhóm người đã cùng nhau hoạt động rất vui tươi và hiệu quả. Cùng với anh Lê Đình Điểu, anh em chúng tôi như Vũ Ánh, Lê Văn Khoa, Đinh Quang Anh Thái, Ngô Mạnh Thu, Becky Ngô, Quỳnh Giao, Trần Đại Lộc, Phạm Phú Minh, Hoàng Trọng Thụy vân vân... đã quây quần để làm công tác truyền thông và văn học nghệ thuật. Hồi đó Quỳnh Giao mỗi tuần phụ trách một chương trình về âm nhạc cùng với Lê Đình Điểu trên đài VNCR, có số thính giả mến mộ rất đông. Một lần tại trụ sở ấy chúng tôi tổ chức triển lãm một loạt tranh 10 bức mới sáng tác tại Mỹ của họa sĩ Trịnh Cung từ Việt Nam sang, có tên gọi là Âm vang của đất. Quỳnh Giao xem tranh và đã viết cho báo Thế Kỷ 21 bài nhận định hội họa có tựa đề: Xem tranh Trịnh Cung: Chuyển Động và Âm Thanh. Chúng tôi mời quý vị nghe lại vài đoạn ngắn của bài này.
“Nếu các lục địa xô đẩy nhau, như vào thuở tạo thiên lập địa, ta có thể thấy sự vỡ nát của đá và có khi sự tuôn trào của nham thạch đỏ ối như vàng, hay nâu xậm tựa bùn đất. Nếu hoàn cảnh xô đẩy khiến một nghệ sĩ hội họa từ Việt Nam được lãng du trên lục địa Hoa Kỳ, để ngắm nhìn người và đất, ta có thể có mười họa phẩm hoàn tất trong thời gian ngắn - vài giây động đất của thiên nhiên vĩnh cửu. Nhưng, người đó phải có sức sáng tác của một họa sĩ trẻ và nghệ thuật già dặn của người đã sống để vẽ từ thời thái cổ. Trịnh Cung là người đó, và nơi ông, âm vang của đất đã thành bản hợp xướng hoành tráng của màu sắc và ánh sáng.” ... “Ánh sáng trong tranh Trịnh Cung - tỏa ra từ cả những mảng đậm tím hay nâu cam - là ngôn ngữ của âm nhạc trong giai điệu majeur, êm và sáng, dịu mà không buồn. Âm vang của đất, nơi Trịnh Cung, là một bài hợp xướng vui tươi, không ủ dột như nhiều ca khúc của ta (...) Tôi sở dĩ nghĩ tới âm thanh của màu sắc vì trước mỗi bức tranh lại rung động như nghe được một giai điệu âm nhạc. Âm nhạc đã dẫn tôi vào hội họa Trịnh Cung vì ông thường kết hợp màu sắc để đưa người xem vào nhạc.”
Đọc Quỳnh Giao viết về hội họa, tôi mới ngộ ra rằng tất cả các hình thái nghệ thuật của con người đều liên quan với nhau. Người xưa nói “thi trung hữu họa” - trong thơ có họa - nay tôi vừa được biết thêm “họa trung hữu nhạc” - trong họa có nhạc, hoặc nói ngược lại, trong nhạc có họa, thì chắc cũng không sai. Trong cái này có cái kia, vì mỗi hình thái nghệ thuật của con người đều chỉ là một cách biểu hiện cái Đẹp mà con người mang trong tâm hồn nó.
Quỳnh Giao là người hiểu tất cả những điều đó, chị đúng là một con người tài hoa. Cụ Nguyễn Du đã nói rằng “những đấng tài hoa (thì) thác là thể phách, còn là tinh anh”.
Thưa chị Quỳnh Giao, hôm nay chúng tôi tiễn đưa thể phách của chị trở thành tro bụi, nhưng phần tinh anh, tức là tài sản tinh thần mà chị để lại thì thật phong phú, sẽ còn lại mãi mãi với chúng tôi hôm nay và cho nhiều thế hệ về sau.
Xin giã từ chị Quỳnh Giao.
Cuối tháng Bảy 2014.
**********************************************************************
(Đã được tác giả Phạm Xuân Đài đọc trong buổi tưởng niệm ca sĩ Quỳnh Giao vào trưa ngày 30 tháng 7, 2014 tại nhà quàn Peek Family, Westminster (Nam California), trước giờ hỏa thiêu).
Kính thưa quý vị,
Hôm nay chúng ta tiễn đưa một người bạn nghệ sĩ của chúng ta về cõi vĩnh hằng với rất nhiều nuối tiếc. Đối với riêng tôi, nỗi tiếc nuối rất sâu đậm, vì từ lâu tôi đã nhận ra và cảm phục Quỳnh Giao là con người rất mực tài hoa.
Quỳnh Giao đã được nuôi dưỡng trong giai đoạn trưởng thành của nền tân nhạc Việt Nam, đã được học hành đến nơi đến chốn trong trường Quốc Gia Âm Nhạc của Việt Nam Cộng Hòa, đã đậu thủ khoa khi ra trường, đã sống trọn vẹn trong môi trường âm nhạc từ trong gia đình ra ngoài xã hội, từ nhỏ đến lớn, từ trong nước ra hải ngoại. Tài năng về âm nhạc của Quỳnh Giao chắc chắn hôm nay sẽ được những người trong giới âm nhạc nói tới. Nhưng khả năng và kiến thức về âm nhạc, nghệ thuật còn thể hiện trong lãnh vực viết lách, có thể nói cho tới giờ phút này, ít ai có được những thuận lợi để viết về âm nhạc Việt Nam trong thời kỳ của mình hơn là Quỳnh Giao.
Với lợi thế lớn lên trong gia đình của đôi nghệ sĩ nổi tiếng Dương Thiệu Tước-Minh Trang, lại tham gia vào thế giới âm nhạc từ thủa bé, Quỳnh Giao đã tích lũy không biết bao nhiêu là kỷ niệm và sự quen biết với các nhạc sĩ, ca sĩ, bao nhiêu là kiến thức về các tác phẩm và các sinh hoạt âm nhạc đủ loại của suốt thời gian sống tại miền Nam. Đọc Quỳnh Giao, người ta mới thấy tác giả đúng là một cuốn tự điển sống về cái thế giới ấy, một cây bút đầy linh động không chỉ vì sự hiểu sâu biết kỹ, mà còn vì khả năng diễn đạt bằng văn chương những chỗ uẩn áo của âm nhạc phát tiết ra nơi từng người nghệ sĩ, dù là người sáng tác hay là người trình diễn. Nếu ai có ý định viết về nhạc sử của miền Nam trước 1975, tôi nghĩ người ấy cần tham khảo rất nhiều bài viết về âm nhạc của Quỳnh Giao.
Nhưng có lẽ ít người trong chúng ta được biết là Quỳnh Giao còn có con mắt nhìn nghệ thuật tạo hình một cách đặc sắc. Khoảng thời gian từ 1995 đến khoảng năm 2000, tại trụ sở của ba cơ quan văn hóa là đài phát thanh VNCR, hội VAALA và tòa soạn báo Thế Kỷ 21 tại đường Acacia, Garden Grove, một nhóm người đã cùng nhau hoạt động rất vui tươi và hiệu quả. Cùng với anh Lê Đình Điểu, anh em chúng tôi như Vũ Ánh, Lê Văn Khoa, Đinh Quang Anh Thái, Ngô Mạnh Thu, Becky Ngô, Quỳnh Giao, Trần Đại Lộc, Phạm Phú Minh, Hoàng Trọng Thụy vân vân... đã quây quần để làm công tác truyền thông và văn học nghệ thuật. Hồi đó Quỳnh Giao mỗi tuần phụ trách một chương trình về âm nhạc cùng với Lê Đình Điểu trên đài VNCR, có số thính giả mến mộ rất đông. Một lần tại trụ sở ấy chúng tôi tổ chức triển lãm một loạt tranh 10 bức mới sáng tác tại Mỹ của họa sĩ Trịnh Cung từ Việt Nam sang, có tên gọi là Âm vang của đất. Quỳnh Giao xem tranh và đã viết cho báo Thế Kỷ 21 bài nhận định hội họa có tựa đề: Xem tranh Trịnh Cung: Chuyển Động và Âm Thanh. Chúng tôi mời quý vị nghe lại vài đoạn ngắn của bài này.
“Nếu các lục địa xô đẩy nhau, như vào thuở tạo thiên lập địa, ta có thể thấy sự vỡ nát của đá và có khi sự tuôn trào của nham thạch đỏ ối như vàng, hay nâu xậm tựa bùn đất. Nếu hoàn cảnh xô đẩy khiến một nghệ sĩ hội họa từ Việt Nam được lãng du trên lục địa Hoa Kỳ, để ngắm nhìn người và đất, ta có thể có mười họa phẩm hoàn tất trong thời gian ngắn - vài giây động đất của thiên nhiên vĩnh cửu. Nhưng, người đó phải có sức sáng tác của một họa sĩ trẻ và nghệ thuật già dặn của người đã sống để vẽ từ thời thái cổ. Trịnh Cung là người đó, và nơi ông, âm vang của đất đã thành bản hợp xướng hoành tráng của màu sắc và ánh sáng.” ... “Ánh sáng trong tranh Trịnh Cung - tỏa ra từ cả những mảng đậm tím hay nâu cam - là ngôn ngữ của âm nhạc trong giai điệu majeur, êm và sáng, dịu mà không buồn. Âm vang của đất, nơi Trịnh Cung, là một bài hợp xướng vui tươi, không ủ dột như nhiều ca khúc của ta (...) Tôi sở dĩ nghĩ tới âm thanh của màu sắc vì trước mỗi bức tranh lại rung động như nghe được một giai điệu âm nhạc. Âm nhạc đã dẫn tôi vào hội họa Trịnh Cung vì ông thường kết hợp màu sắc để đưa người xem vào nhạc.”
Đọc Quỳnh Giao viết về hội họa, tôi mới ngộ ra rằng tất cả các hình thái nghệ thuật của con người đều liên quan với nhau. Người xưa nói “thi trung hữu họa” - trong thơ có họa - nay tôi vừa được biết thêm “họa trung hữu nhạc” - trong họa có nhạc, hoặc nói ngược lại, trong nhạc có họa, thì chắc cũng không sai. Trong cái này có cái kia, vì mỗi hình thái nghệ thuật của con người đều chỉ là một cách biểu hiện cái Đẹp mà con người mang trong tâm hồn nó.
Quỳnh Giao là người hiểu tất cả những điều đó, chị đúng là một con người tài hoa. Cụ Nguyễn Du đã nói rằng “những đấng tài hoa (thì) thác là thể phách, còn là tinh anh”.
Thưa chị Quỳnh Giao, hôm nay chúng tôi tiễn đưa thể phách của chị trở thành tro bụi, nhưng phần tinh anh, tức là tài sản tinh thần mà chị để lại thì thật phong phú, sẽ còn lại mãi mãi với chúng tôi hôm nay và cho nhiều thế hệ về sau.
Xin giã từ chị Quỳnh Giao.
Cuối tháng Bảy 2014.
**********************************************************************
5. Đi Tây
Đúng ra khởi hành từ Hoa Kỳ thì phải gọi là “đi Đông,” nhưng nói thế không ổn. Thứ nhất không ai nói “đi Đông” (trừ khi dùng trong nhóm từ “đi Đông đi Tây”) mà chỉ nói “đi về hướng Đông.” Và chữ Tây ở đây không còn là hướng Tây, mà trở thành tên thứ nhì của người Việt Nam đặt cho nước Pháp. Vậy từ bất cứ điểm nào trên trái đất, khi một người Việt nói “đi Tây” thì có nghĩa là đi đến nước Pháp vậy.
Không hẹn, mà cuối cùng Đỗ Ngọc Yến, Trần Đại Lộc và tôi đi Pháp cùng một lúc. Cũng là một cái duyên. Từ niên khóa đầu tiên chúng tôi học chung với nhau, 1957-1958 tại Đệ Tam C trường Petrus Ký, ba chúng tôi đã bắt đầu có những chuyến đi chung: gần thì đạp xe lên Lái Thiêu vào những ngày cuối tuần để la cà thăm những vườn cây ăn trái, xa thì có chuyến đi đầy kỷ niệm lên Đà Lạt đóng trại bên bờ hồ Than Thở vào dịp lễ Phục Sinh năm 1958. Rồi vào giữa thập niên 60 khi hoạt động thanh niên với nhau, chúng tôi đi cùng ra miền Trung, lên cao nguyên, xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long…Sau 1975, mỗi người một cảnh, tưởng duyên nợ thế là chấm dứt, ai ngờ dần dà rồi cũng tề tựu về sống gần nhau, và rồi lại đi chung, và lần này thì đi Tây.
Đối với người Việt Nam trải qua nhiều thế hệ, đi Tây là chuyến đi oai hơn hết. Cả đối với chúng tôi ngày nay, dù đang sống tại Mỹ, những ngày chuẩn bị lên đường mỗi khi nói với ai câu: “Tôi sắp đi Pháp” thì tự bản thân câu nói dường như đã có một niềm hãnh diện ngầm. Điều ấy có lẽ chính yếu bắt nguồn từ truyền thống của mấy thế hệ người Việt Nam vẫn nhìn nước Pháp như là một nơi điển hình của văn minh và sang cả, và đến được nước Pháp là đạt được một mơ ước cao xa nhất về học hành cũng như biết được thế nào là sự rực rỡ và giàu mạnh của một quốc gia. Đến thế hệ của tôi tuy nước Pháp đã suy yếu và ảnh hưởng của Pháp tại Việt Nam không còn mạnh, chúng tôi lại có nhiều cơ hội để nhìn rộng ra nhiều nơi khác trên thế giới, thế nhưng dấu vết của truyền thống xưa vẫn không phai mờ. Truyền thống này hiện ra rõ nhất nơi những người lớn tuổi ở miền Bắc mà chúng ta gặp lại sau năm 1975, tất cả hình ảnh về thế giới Tây phương của họ ngưng đọng vào nước Pháp vào năm 1954, hoặc có thể xa hơn, vào 1945, và đông cứng nguyên hình như thế không thay đổi gì nữa. Các chuẩn mực về hàng hóa tiêu dùng, về văn chương, nghệ thuật của lớp có học cũ ở miền Bắc đều là chuẩn mực thời thuộc địa; các thứ của thế giới xã hội chủ nghĩa thì rõ ràng chưa có một trọng lượng nào để thay thế những giá trị cũ đã ngấm sâu trong lòng họ. Phải nhiều năm sau 1975, những nếp hằn sâu đó mới phai nhạt đi chút ít sau khi họ được biết tình hình văn minh thực sự của thế giới ngày nay. Truyền thống khâm phục nước Pháp đó tôi nghĩ không phải do sự “nhồi sọ” của người Pháp trong thời kỳ thuộc địa đem lại, mà là do giá trị nhân bản thực sự của nước Pháp về phương diện văn chương, mỹ thuật, tư tưởng, khoa học kỹ thuật…đã một thời rực rỡ ở một đỉnh cao của thế giới. Nói về tuyên truyền nhồi sọ thì ai hơn người Cộng Sản, nhưng vì dựa vào cái ảo, cái giả, cái không có thực, nên không đem lại sự tâm phục nào, như là tầng lớp cựu học của nước ta đã tâm phục nước Pháp.
Không hẹn, mà cuối cùng Đỗ Ngọc Yến, Trần Đại Lộc và tôi đi Pháp cùng một lúc. Cũng là một cái duyên. Từ niên khóa đầu tiên chúng tôi học chung với nhau, 1957-1958 tại Đệ Tam C trường Petrus Ký, ba chúng tôi đã bắt đầu có những chuyến đi chung: gần thì đạp xe lên Lái Thiêu vào những ngày cuối tuần để la cà thăm những vườn cây ăn trái, xa thì có chuyến đi đầy kỷ niệm lên Đà Lạt đóng trại bên bờ hồ Than Thở vào dịp lễ Phục Sinh năm 1958. Rồi vào giữa thập niên 60 khi hoạt động thanh niên với nhau, chúng tôi đi cùng ra miền Trung, lên cao nguyên, xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long…Sau 1975, mỗi người một cảnh, tưởng duyên nợ thế là chấm dứt, ai ngờ dần dà rồi cũng tề tựu về sống gần nhau, và rồi lại đi chung, và lần này thì đi Tây.
Đối với người Việt Nam trải qua nhiều thế hệ, đi Tây là chuyến đi oai hơn hết. Cả đối với chúng tôi ngày nay, dù đang sống tại Mỹ, những ngày chuẩn bị lên đường mỗi khi nói với ai câu: “Tôi sắp đi Pháp” thì tự bản thân câu nói dường như đã có một niềm hãnh diện ngầm. Điều ấy có lẽ chính yếu bắt nguồn từ truyền thống của mấy thế hệ người Việt Nam vẫn nhìn nước Pháp như là một nơi điển hình của văn minh và sang cả, và đến được nước Pháp là đạt được một mơ ước cao xa nhất về học hành cũng như biết được thế nào là sự rực rỡ và giàu mạnh của một quốc gia. Đến thế hệ của tôi tuy nước Pháp đã suy yếu và ảnh hưởng của Pháp tại Việt Nam không còn mạnh, chúng tôi lại có nhiều cơ hội để nhìn rộng ra nhiều nơi khác trên thế giới, thế nhưng dấu vết của truyền thống xưa vẫn không phai mờ. Truyền thống này hiện ra rõ nhất nơi những người lớn tuổi ở miền Bắc mà chúng ta gặp lại sau năm 1975, tất cả hình ảnh về thế giới Tây phương của họ ngưng đọng vào nước Pháp vào năm 1954, hoặc có thể xa hơn, vào 1945, và đông cứng nguyên hình như thế không thay đổi gì nữa. Các chuẩn mực về hàng hóa tiêu dùng, về văn chương, nghệ thuật của lớp có học cũ ở miền Bắc đều là chuẩn mực thời thuộc địa; các thứ của thế giới xã hội chủ nghĩa thì rõ ràng chưa có một trọng lượng nào để thay thế những giá trị cũ đã ngấm sâu trong lòng họ. Phải nhiều năm sau 1975, những nếp hằn sâu đó mới phai nhạt đi chút ít sau khi họ được biết tình hình văn minh thực sự của thế giới ngày nay. Truyền thống khâm phục nước Pháp đó tôi nghĩ không phải do sự “nhồi sọ” của người Pháp trong thời kỳ thuộc địa đem lại, mà là do giá trị nhân bản thực sự của nước Pháp về phương diện văn chương, mỹ thuật, tư tưởng, khoa học kỹ thuật…đã một thời rực rỡ ở một đỉnh cao của thế giới. Nói về tuyên truyền nhồi sọ thì ai hơn người Cộng Sản, nhưng vì dựa vào cái ảo, cái giả, cái không có thực, nên không đem lại sự tâm phục nào, như là tầng lớp cựu học của nước ta đã tâm phục nước Pháp.
Họp mặt bạn hữu tại nhà chị Thụy Khuê.
Từ trái: Thế Dung, Trần Quang Hải, một thân hữu; Thụy Khuê đứng, đang nói;
Xuân Đài (con gái tác giả); Nguyễn Gia Kiểng, Đỗ Ngọc Yến
Cả ba chúng tôi đi Âu châu chuyến này vì những lý do riêng, đi chơi chứ không phải “đi công tác” như ngày xưa. Đối với Lộc và tôi, đây là chuyến đi Pháp đầu tiên, và chúng tôi đều có người thân ở đó – điều kiện gần như là tiên quyết để chúng tôi có thể du lịch xa như vậy. Nhưng một khi đi mới biết rằng mình không chỉ có liên hệ gia đình ở đó mà thôi, còn vô số những liên hệ chằng chịt khác do cuộc sống xã hội đem lại mà mình không thể hình dung ra trước được. Tôi có rất ít bạn cũ tại Pháp. Nhiều người Việt ở Pháp du học ngày xưa, làm thành một tầng lớp trí thức khoa bảng tại đấy. Lớp bạn học cũ của tôi hầu như không ai du học Pháp, và lớp “xuất ngoại” sau này bằng đường vượt biên, hoặc bảo lãnh, hoặc HO thì phần lớn đổ vào Mỹ và các nước khác. Nhưng do công việc làm báo trong mấy năm qua, tôi có được một số quen biết mới, phần nhiều chỉ biết qua thư từ bài vở chứ chưa gặp lần nào. Đến Pháp, ngoài sự háo hức tự nhiên thấy được kinh đô ánh sáng, tôi còn cái háo hức được gặp nhiều người, “tuy lạ nhưng dường như đã quen từ lâu lắm.”
Paris
Lần đầu tiên đến đất Pháp, tôi gặp Paris với một nỗi sung sướng trẻ thơ và lãng mạn, dường như ước mơ của một thời trẻ tuổi vẫn còn nguyên đấy, và với chuyến đi này, tôi bắt đầu cuộc hành trình vào niềm mơ ước có từ thời ngồi trên ghế nhà trường của tôi.
Từ trái: Thế Dung, Trần Quang Hải, một thân hữu; Thụy Khuê đứng, đang nói;
Xuân Đài (con gái tác giả); Nguyễn Gia Kiểng, Đỗ Ngọc Yến
Cả ba chúng tôi đi Âu châu chuyến này vì những lý do riêng, đi chơi chứ không phải “đi công tác” như ngày xưa. Đối với Lộc và tôi, đây là chuyến đi Pháp đầu tiên, và chúng tôi đều có người thân ở đó – điều kiện gần như là tiên quyết để chúng tôi có thể du lịch xa như vậy. Nhưng một khi đi mới biết rằng mình không chỉ có liên hệ gia đình ở đó mà thôi, còn vô số những liên hệ chằng chịt khác do cuộc sống xã hội đem lại mà mình không thể hình dung ra trước được. Tôi có rất ít bạn cũ tại Pháp. Nhiều người Việt ở Pháp du học ngày xưa, làm thành một tầng lớp trí thức khoa bảng tại đấy. Lớp bạn học cũ của tôi hầu như không ai du học Pháp, và lớp “xuất ngoại” sau này bằng đường vượt biên, hoặc bảo lãnh, hoặc HO thì phần lớn đổ vào Mỹ và các nước khác. Nhưng do công việc làm báo trong mấy năm qua, tôi có được một số quen biết mới, phần nhiều chỉ biết qua thư từ bài vở chứ chưa gặp lần nào. Đến Pháp, ngoài sự háo hức tự nhiên thấy được kinh đô ánh sáng, tôi còn cái háo hức được gặp nhiều người, “tuy lạ nhưng dường như đã quen từ lâu lắm.”
Paris
Lần đầu tiên đến đất Pháp, tôi gặp Paris với một nỗi sung sướng trẻ thơ và lãng mạn, dường như ước mơ của một thời trẻ tuổi vẫn còn nguyên đấy, và với chuyến đi này, tôi bắt đầu cuộc hành trình vào niềm mơ ước có từ thời ngồi trên ghế nhà trường của tôi.
Lộc và Minh tại Paris
Cách đây tám năm, lần đầu tiên tôi đến Hà Nội với nỗi lo sợ mình sẽ thất vọng vì gặp một thực tế không đúng như mình mơ ước, nhưng may mắn là ở đất Thăng Long tôi vẫn bắt gặp được cái linh hồn bất diệt của đất ngàn năm văn vật. Lần này tôi đến Paris tự tín hơn, mặc dù lòng vẫn bị ám ảnh bởi một số lời chê bai của một ít người từ Mỹ đi du lịch nước Pháp trở về. Đại khái họ nói: “Ồ Paris, chẳng có gì đáng nói, cũ kỹ, chật hẹp, mắc mỏ…” Nhưng khi tôi đến nơi, Paris đã bày ra trước mắt tôi hơn là những gì tôi tưởng tượng rất nhiều, uy nghi hơn, rực rỡ hơn và cũng thâm trầm hơn. Tôi không chia xẻ chút nào ý kiến của một số người Việt đã nhiễm lối sống tiện nghi ở Mỹ. Paris không phải là nơi để chỉ được đánh giá theo các tiêu chuẩn đời sống tiện nghi vật chất.
Tượng trên Khải Hoàn Môn
Tôi đã sững sờ với kiến trúc của Paris. Đó là vẻ đẹp. Đó là hình ảnh của tư tưởng và tinh thần lớn lao, hoành tráng. Nhìn kiến trúc ấy mình thấy như đứng trước cái thăm thẳm của thời gian và lịch sử con người với các thành tựu to lớn cũng như các nỗi niềm mơ mộng của nó. Trần Hồng Châu đã ví hình thể Paris như một trái xoài, và phân vân không biết miếng nào trên trái xoài đó là ngon nhất. Xa lộ vòng đai đúng đã khoanh chu vi của Paris thành hình một trái xoài, và tôi thấy chỗ nào cũng ngon cả, cái ngon phân bố rất đều mỗi nơi mỗi vẻ, khác với Sài Gòn chỉ tụ ở mấy đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Tự Do. Nhớ lại thời gian gãy chân nằm một chỗ tại trại cải tạo Thanh Cẩm, Thanh Hóa, tôi đã nghiền ngẫm một cách thú vị vô cùng chương Victor Hugo viết về kiến trúc của Paris, trong cuốn Notre Dame De Paris. Theo tôi đó là chương hay nhất của cuốn sách, là một bảng nhạc trầm hùng nói về từng tảng đá, từng đường cống, từng khối tường làm nên thành phố này, qua nhiều thời đại. Đọc những trang sách ấy tôi đã như thấy Paris một khối sừng sững, chắc nịch, nhuốm một linh hồn bất diệt. Khi đến đây tôi đã cảm thấy ngay vẻ chắc nịch bất diệt ấy, nhưng đồng thời là cái tươi tắn linh động bao trùm đây đó. Đấy là đặc điểm của kiến trúc Paris. Vẻ cao lớn uy nghi một cách lạ lùng của nhà thờ gây sự khiếp phục và cảm giác nhỏ bé của người đứng xem, đã diễn đạt đúng tinh thần muốn mọi người quy phục duy nhất vào một Thượng đế của giáo hội Công giáo thời Trung cổ. Nhưng đền đài cung điện thì nhằm vào sự rực rỡ vàng son của cuộc sống trần thế, trong đó tính đa cảm của những pho tượng nói lên rất nhiều khía cạnh rung động nhân văn trước cuộc sống đa dạng trải nhiều thời đại. Tượng là cái đặc sắc của nước Pháp. Cái ngôn ngữ bằng đá ấy được đặt khắp nơi, nơi vòi phun nước, trên nóc điện Louvre, trên tường Arc de Triomphe, trong sân Versailles…thậm chí cả trong rừng cây. Với nét mặt ấy, với cử chỉ dáng điệu ấy, tượng nói được rất nhiều điều, người đối diện phải biết lắng nghe ra thứ ngôn ngữ vô thanh mà khối đá điêu khắc ấy liên tục phát biểu trong cái thăm thẳm của thời gian.
Cổng La Dénfense
Hẳn người Pháp hãnh diện với nền kiến trúc cổ của mình. Nhưng họ luôn chứng tỏ rằng họ nhạy cảm với cái mới, và muốn đi tiên phong trong việc xây dựng nên những cái mang tâm hồn và tầm vóc của từng thời đại. Tháp Eiffel là tượng trưng cho thành tựu của thời đại cơ khí. Khi nó được dựng lên, không ít người đã xỉ vả nó, cho rằng cái khung sắt nhọn ấy chỉ phá vỡ cái quần thể kiến trúc rất mượt mà rất thơ mộng trải nhiều đời thành tựu đã tạo thành Paris. Một đống sắt giữa một Paris đẹp đẽ huy hoàng, thật là vô duyên! Nhưng thời thế đã đổi thay, cái biểu trưng của thời đại phải thở hơi thở của thời đại, và tháp Eiffel là kết tụ hình ảnh và âm thanh sắt thép của biết bao cầu cống, xưởng thợ, công trường…trong thời cực thịnh của nền công nghệ Pháp, và nó đứng đó, đáp ứng cái mà tâm hồn con người mới cần biểu hiện. Cảm nghiệm của con người nghệ sĩ tiền phong đã thắng. Họ đã đúng, cho thời đại của mình và sau mình. Sự sáng tạo của họ không dựa vào cái đã qua rồi, dù cái đó có vàng son rực rỡ, mượt mà đáng yêu bao nhiêu đi nữa. Cũng thế những công trình của hậu bán thế kỷ hai mươi đã đem lại cho Paris những hình ảnh tiền phong mà không chắc người dân Paris nào cũng sẵn sàng chấp nhận ngay. Những ống, những trụ, những gióng sắt chằng chịt giống như một giàn phóng hỏa tiễn của Trung Tâm Pompidou có thể làm cau mày một người vừa đắm mình trong vẻ đẹp vĩnh cửu trong khung cảnh của điện Louvre, nhưng lại làm thỏa mãn tâm tình của đám người trẻ đơn giản quen với những hình dạng kỷ hà trong đời sống khoa học hiện nay. Vâng, rồi thì người ta sẽ đi trong những cái ống giống như cái ống bọc quanh hệ thống thang cuốn của trung tâm này, đó sẽ là những dự kiến không xa lắm! Xe điện ngầm há chẳng là một loại ống thô sơ rồi đấy ư? Cổng La Défense là một hình ảnh tân kỳ khác, tạo nên một vẻ đẹp khác không giống với vẻ đẹp của các đền đài truyền thống, nhưng chắc chắn là không lạc hậu so với các loại hình kiến trúc mới trên thế giới.
Xe điện ngầm
Tôi cảm phục hệ thống đường xe điện ngầm của Paris, một công trình vận chuyển tuyệt vời giải quyết hầu như toàn diện bài toán lưu thông rõ ràng là bế tắc của đường xá Paris mà không phải phá vỡ bất cứ công trình nào mà lịch sử nước Pháp đã để lại trên mặt đất.
Học cách đi xe điện ngầm là một điều rất thú ở Paris. Tôi cư ngụ ở một cùng ngoại vi thành phố, mỗi lần nhờ ai chở vào nội thành tốn quá nhiều thì giờ vì đường hẹp xe nhiều. Thế mà xe điện ngầm giải quyết tức thì việc đi lại của khắp Paris và vùng phụ cận một cách dễ dàng, đúng giờ, vừa túi tiền, và nhất là không căng thẳng với trò “lái xe làm xiếc” khi dùng xe hơi trên mặt đất. Khi chiếc xe hơi bắt đầu đi vào một cái bùng binh ngả năm hoặc ngả bẩy thì hình như cuộc làm xiếc bắt đầu. Bùng binh thì rộng, có thể dung chứa một lúc nhiều dòng xe, và khi các ngả ào vào thì không còn biết ai ưu tiên, ai phải nhường cho ai, người ta cứ đi theo một giao ước ngầm nào đó, tôi nhích tới trước thì anh nhường cho tôi, anh đảo qua thì tôi chậm lại, người ta cứ lấn lướt nhau một cách hòa nhã, có văn hóa, và rồi xe cộ cứ thế lưu thông, sát cánh nhau mà lưu thông mà không hề cọ quẹt nhau mới là lạ. Ngồi trên xe giữa Paris tim tôi nhiều khi thót lại vì thấy rõ ràng là xe mình không thể tránh chạm vào xe bên cạnh trong một cái thế cùng lướt tới một không gian nhỏ xíu trước mặt, nhưng rồi xe nào cũng an toàn ai đi đường nấy, theo một khả năng nào đấy không hiểu được. Tôi thấy rõ rằng cứ lái xe riết trên đường sá thênh thang của Mỹ con người ta dần dần sẽ không phát triển cái tài xoay xở khéo léo của tay chân tại những nơi đất hẹp xe đông như Paris hay bất cứ đô thị xưa nào. Mà lại xe số tay chứ không phải số tự động. Tay trái cầm vô lăng, tay phải bỏ số lia lịa, hai chân cũng hoạt động đều chi, nhìn người Paris lái xe trong phố đông đúc, tôi, mà trước kia ở Việt Nam cũng lái toàn xe số tay, nay thấy mình đã bị thoái hóa, lười nhác, không còn năng động như người ở đây. Thì ra trong thiên nhiên cũng vậy mà trong môi trường nhân tạo cũng vậy, hoàn cảnh nào thì tạo ra con người đó, và con người vẫn là sinh vật có khả năng thích ứng vô tận. Cả chiếc xe cũng có khả năng thích ứng với môi trường rất tài. Ở nước Mỹ rộng rãi chiếc xe dềnh dàng, bề ngang đã bè bè mà đuôi thì dài thậm thượt, một cách vô lý, như là vì không gian lớn thì nó phải lớn theo cho thích hợp một tỉ lệ nào đấy. Quả nhiên ở Paris cũng có qui luật ấy. Ở đây chiếc xe co lại, và rụng đuôi. Nhỏ con và không có đuôi, như những con cút cụt đuôi trong ca dao Việt Nam. Cũng là theo thuyết thích ứng với môi trường sống thôi, riết rồi chiếc xe dính với con người, như một sinh vật, như con ngựa của thời xa xưa vậy. Nó dứt khoát phải cụt đuôi mới chen vào đậu được ở những khoảng trống độ vài sải tay, và nó phải gọn ghẽ tối đa mới có thể làm trò chơi giỡn trên những bùng binh ngả năm ngả bảy được.
Xe điện ngầm
Tôi cảm phục hệ thống đường xe điện ngầm của Paris, một công trình vận chuyển tuyệt vời giải quyết hầu như toàn diện bài toán lưu thông rõ ràng là bế tắc của đường xá Paris mà không phải phá vỡ bất cứ công trình nào mà lịch sử nước Pháp đã để lại trên mặt đất.
Học cách đi xe điện ngầm là một điều rất thú ở Paris. Tôi cư ngụ ở một cùng ngoại vi thành phố, mỗi lần nhờ ai chở vào nội thành tốn quá nhiều thì giờ vì đường hẹp xe nhiều. Thế mà xe điện ngầm giải quyết tức thì việc đi lại của khắp Paris và vùng phụ cận một cách dễ dàng, đúng giờ, vừa túi tiền, và nhất là không căng thẳng với trò “lái xe làm xiếc” khi dùng xe hơi trên mặt đất. Khi chiếc xe hơi bắt đầu đi vào một cái bùng binh ngả năm hoặc ngả bẩy thì hình như cuộc làm xiếc bắt đầu. Bùng binh thì rộng, có thể dung chứa một lúc nhiều dòng xe, và khi các ngả ào vào thì không còn biết ai ưu tiên, ai phải nhường cho ai, người ta cứ đi theo một giao ước ngầm nào đó, tôi nhích tới trước thì anh nhường cho tôi, anh đảo qua thì tôi chậm lại, người ta cứ lấn lướt nhau một cách hòa nhã, có văn hóa, và rồi xe cộ cứ thế lưu thông, sát cánh nhau mà lưu thông mà không hề cọ quẹt nhau mới là lạ. Ngồi trên xe giữa Paris tim tôi nhiều khi thót lại vì thấy rõ ràng là xe mình không thể tránh chạm vào xe bên cạnh trong một cái thế cùng lướt tới một không gian nhỏ xíu trước mặt, nhưng rồi xe nào cũng an toàn ai đi đường nấy, theo một khả năng nào đấy không hiểu được. Tôi thấy rõ rằng cứ lái xe riết trên đường sá thênh thang của Mỹ con người ta dần dần sẽ không phát triển cái tài xoay xở khéo léo của tay chân tại những nơi đất hẹp xe đông như Paris hay bất cứ đô thị xưa nào. Mà lại xe số tay chứ không phải số tự động. Tay trái cầm vô lăng, tay phải bỏ số lia lịa, hai chân cũng hoạt động đều chi, nhìn người Paris lái xe trong phố đông đúc, tôi, mà trước kia ở Việt Nam cũng lái toàn xe số tay, nay thấy mình đã bị thoái hóa, lười nhác, không còn năng động như người ở đây. Thì ra trong thiên nhiên cũng vậy mà trong môi trường nhân tạo cũng vậy, hoàn cảnh nào thì tạo ra con người đó, và con người vẫn là sinh vật có khả năng thích ứng vô tận. Cả chiếc xe cũng có khả năng thích ứng với môi trường rất tài. Ở nước Mỹ rộng rãi chiếc xe dềnh dàng, bề ngang đã bè bè mà đuôi thì dài thậm thượt, một cách vô lý, như là vì không gian lớn thì nó phải lớn theo cho thích hợp một tỉ lệ nào đấy. Quả nhiên ở Paris cũng có qui luật ấy. Ở đây chiếc xe co lại, và rụng đuôi. Nhỏ con và không có đuôi, như những con cút cụt đuôi trong ca dao Việt Nam. Cũng là theo thuyết thích ứng với môi trường sống thôi, riết rồi chiếc xe dính với con người, như một sinh vật, như con ngựa của thời xa xưa vậy. Nó dứt khoát phải cụt đuôi mới chen vào đậu được ở những khoảng trống độ vài sải tay, và nó phải gọn ghẽ tối đa mới có thể làm trò chơi giỡn trên những bùng binh ngả năm ngả bảy được.
Xe điện ngầm
Xe điện ngầm:
Xe điện ngầm là một thế giới khác hẳn. Đây là cõi âm. Chạy ngang chạy dọc toàn dưới lòng đất, thế mới gọi là “ngầm.” Nếu âm phủ có đến chín tầng thì xe điện ngầm Paris đã chui xuống đến tầng thứ hai rồi, nghĩa là đã có hai hệ thống địa đạo nằm chồng lên nhau ở trong lòng đất. Và người ta đang đào thêm một tầng dưới hai tầng hiện có để thực hiện thêm một hệ thống thứ ba nữa. Xuống xe điện ngầm là không còn trời xanh mây trắng, nhà cửa, người đi…, nói chung tạm biệt cảnh “trần thế” để chỉ thấy trong lòng một toa xe lửa sáng đèn lô nhô người. Và toa xe ấy chạy vùn vụt trong một cái ống tối đen, thỉnh thoảng đến một chỗ mở rộng sáng trưng, ấy là ga. Cửa mở, kẻ xuống người lên, rồi lại chạy.
Là cõi âm nhưng không phải âm khí nặng nề. Một cuộc sống tràn trề, năng động, thân thiết đấy. Nội cái việc đấy là nơi hàng ngày một số rất đông người dân Paris gặp gỡ nhau, trông thấy nhau, ngồi gần nhau, hoặc chen chúc nhau thì đã là một cái gì to tát rồi. Môi trường xã hội ấy lặng thinh, đấy không phải là nơi người ta thăm hỏi hay làm quen với nhau, ai cũng vội, có người ngồi vào xe là làm ngay một công việc nào đấy, như xem tờ báo, đọc cuốn sách, học bài, hoặc…ngủ, nhưng dù gì mặc lòng, xe điện ngầm vẫn là nơi con người hiện diện cho nhau. Có ở trong nỗi cô đơn của nơi thiếu vắng con người, hoặc hàng ngày vài ba giờ thui thủi một mình lái xe đi làm rồi về nhà như ở Mỹ mới thấy giá trị của việc mỗi ngày được tham dự vào cái đông đúc của đời sống métro. Ở giữa những con người, vui lắm chứ, chỉ cần ở giữa họ thôi, cảm thấy cái hơi của nhau là đủ để nuôi dưỡng sự tròn đầy của tình con người, là cảm thấy yên tâm, để không gây ra các méo mó dị dạng cho đời sống nội tâm do cô đơn. Mỗi buổi sáng lên đường đến sở trong chiếc xe hơi riêng tiện nghi của mình, phải nói đó là mơ ước cao nhất của con người từ khi có xã hội kỹ nghệ, nhất là khi quanh ta có một hệ thống đường sá rộng rãi tiện lợi. Thư thái, sang trọng, chạy bon bon, sáng đến tận nơi làm, chiều về chui vào tận garage của nhà mình mới chịu xuống xe, thật tuyệt vời. Nhưng cứ mãi như thế này ngày này qua ngày khác, đến một lúc người ta cảm thấy cô đơn, nhất là khi đường đi phải kéo dài đến một vài tiếng. Ngồi trong cái hộp ấy là chỉ còn một mình, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài, phải nhờ đến radio, đến băng nhạc để bầu bạn, nhưng như vậy có khi còn tăng cảm giác lẻ loi lên thêm nữa. Một người bạn của tôi sau khi qua thời kỳ say mê chiếc xe mới của mình đã nói: “Đó là chiếc quan tài biết đi.” Chắc anh ta hình dung cái chết là rất cô đơn, nên nói như vậy để diễn tả nỗi cô đơn của mình. Dấn mãi vào cô đơn là tự hủy diệt, còn sống giữa đông đúc nhân quần là nhân cái khả năng sống của mình lên gấp bội. Xe điện ngầm là để cứu vãn toàn thể kiến trúc tuyệt đẹp của kinh thành Paris khi nhu cầu vận chuyển trong đô thành lên quá cao, nhưng không ngờ cũng giải luôn bài toán con người trong thời đại kỹ nghệ.
Hầm xe điện là một đời sống khác của Paris mà không có nó đời sống đích thực của Paris như hiện tại sẽ không có được. Nó mới là huyết mạch của lưu thông thành phố, giúp đưa hàng ngày không biết cơ man nào là người từ nhà đến sở và ngược lại, và bao nhiêu nhu cầu đi lại khác. Nó làm biến đổi khuôn khổ tờ nhật báo, bề ngang bây giờ rút lại chỉ còn độ 30 phân để khi giở ra đọc trên phương tiện chuyên chở công cộng người ta không làm phiền đến người ngồi bên cạnh. Khi mới làm quen với cách đi métro, tôi lại đã nhớ đến Nhất Linh với bài học đi métro mà ông đã tả trong Đi Tây. Thời đó chưa có hệ thống RER, tức đường xe nhanh nối liền với các vùng phụ cận của Paris ngày càng đông đúc và hiện chui nằm ở tầng dưới hệ thống métro nội thành cũ, nên Nhất Linh chỉ mách cho rằng một khi đã mua vé độn thổ thì tha hồ đi hết đường này đến đường khác, đi cả ngày cũng được, nhưng hễ chui lên thì mất toi cái vé. Nhất Linh đã nhắc đến cái thú đứng dò tìm đường trên bản đồ dưới hầm métro, có những tên ga ngộ nghĩnh, khi bắt chuyện với một người đẹp bên cạnh mà cô ta khinh khỉnh không trả lời thì chỉ vào “Ga Câm” (hẳn là La Muette) đọc to lên, có khi cô ta sẽ hiểu; hoặc thấy một bà đang mắng chồng như tát nước vào mặt, chỉ vào Gare de Lyon đọc to lên ý nói bà là sư tử Hà Đông…Bây giờ các tên ga cũ vẫn còn nguyên, cách dùng vé vẫn như xưa, nhưng hệ thống rắc rối hơn vì có thêm tầng RER bên dưới, phải nghiên cứu kỹ cách đổi xe trước khi đi. Cách sắp xếp đường đi rất hay, hình như không bao giờ phải thay xe quá ba lần mới đến được một địa điểm, và bản đồ thì được phát không tại chỗ bán vé và được dựng tại tất cả các miệng hầm.
Những đứa con cùng cha
Tôi khám phá ra rằng tại một số nơi Paris rất giống Sài Gòn, khiến gây nơi tôi những hoài niệm rất bất ngờ. Một buổi chiều trời mưa, tôi che dù đi ở một phố nào đó mà tôi không nhớ, bỗng nhiên tôi thấy y hệt như tôi đang đứng chỗ ngã tư Lê Thánh Tôn với đường Tự Do, ngay trước quán La Pagode. Còn giống hơn là ngày ra khỏi tù cải tạo về Sài Gòn tôi đứng ngay chỗ góc phố đó, mà thấy như đang ở nơi xa lạ.
Đi vắng khỏi Sài Gòn mười ba năm kể từ năm 1975, khi quay về tôi ngẩn ngơ vì cái cảm giác “mất hết.” Sài Gòn không còn nữa, sau khi được liên tiếp “cải tạo,” mọi thứ trở nên xấu xí, tầm thường, mất cái thần sắc mà đô thị mến yêu ấy ngày xưa vẫn tỏa ra, như mùi hương bát ngát của một cây hoa, như vẻ duyên dáng của một người đàn bà. Không riêng Sài Gòn, từ sau năm 1975 cả miền Nam mất cái thần sắc ấy, mất nơi từng cá nhân con người, trong từng xóm làng, từng thành phố. Cái guồng máy gọi là cách mạng kia nó có biệt tài xoá đi rất nhanh cái mà tôi gọi là lớp men của sự sống vốn vẫn tồn tại nơi các xã hội lành mạnh, trong đó chứa đầy hơi hướng của tình người và của sự phát triển tự nhiên các khả năng tinh thần, tình cảm, mơ mộng và cần lao của con người. Nó xóa sạch không thương tiếc, khiến tất cả đều trần trụi, cắt đứt với quá khứ, cắt đứt với tương lai. Tôi đã về lại Sài Gòn đối diện với nỗi trần trụi ấy nơi đường Tự Do, nơi đường Lê Thánh Tôn, trước quán La Pagode, thấy đây không phải là Sài Gòn của ngày xưa nữa. Tôi có một người bác mà tôi rất yêu mến, năm 75 khi chào ông để đi cải tạo bác tôi vẫn còn khỏe mạnh minh mẫn, nhưng khi về gặp lại thì ông đã hoàn toàn lẫn, bác chào thằng cháu ngày xưa như một người xa lạ, không còn phân biệt được ai với ai. Đứng trước bác tôi, tôi cảm thấy lòng quặn đau, biết vĩnh viễn không còn cách gì có lại người bác ngày xưa. Sài Gòn cũng thế, đã già sụm và biến dạng đi không ngờ, và cũng đã đi vào cơn mê lẫn, lờ đờ nhìn tôi không còn nhận biết tôi là ai, cũng như tôi không còn tìm ra một ngôn ngữ chung nào để tôi và cái đô thị mến yêu ấy còn có thể trao đổi nhận ra nhau trở lại. Từ ngày còn ở trong tù, khi biết có một bài hát mới hát rằng “em ra đi nơi này vẫn thế” tôi đã cười và lắc đầu nghi ngờ tính chất chân thật của lời nói ấy, đến khi về đến tận “nơi này” thì tôi thấy không còn phải nghi ngờ gì nữa. Đứng giữa Sài Gòn mà tôi đã mất Sài Gòn. Tôi biết cảm giác đó không phải chỉ riêng tôi có. Vô số bạn hữu đã đau khổ, hụt hẫng, và phẫn nộ nữa, khi đối diện với một Sài Gòn xác xơ và trần trụi.
Nhớ ngày cuối tuần đầu tiên sau khi về tới Sài Gòn tôi đề nghị với mấy người bạn đến thăm: “Tụi mình xuống Sài Gòn bát phố chơi hè!” họ nhìn tôi ngạc nhiên như nhìn Từ Thức mới về trần. Thì ra đã lâu đã không còn cái món bát phố xưa cũ ấy nữa rồi, một người bạn tội nghiệp tôi vội giải thích: “Bây giờ còn phố xá gì đâu mà bát!” Dĩ nhiên phố xá thì vẫn còn đó, ý bạn tôi nói cái không khí xưa, cái tinh thần tình cảm và cảnh sinh hoạt làm ăn của đám thị dân cũ một thời đã làm nên Sài Gòn bây giờ đã biến mất hết rồi, đến đó thì chỉ thấy một nỗi trống rỗng mà thôi.
Chiều mưa Paris
Nhưng buổi chiều mưa hôm ấy tôi đã gặp lại Sài Gòn ở giữa Paris. Thì ra tôi cũng chưa mất hẳn Sài Gòn trên đời này. Tôi đã sống ở Sài Gòn bao nhiêu mùa mưa nhỉ? Chẳng còn nhớ là bao nhiêu, nhưng hình ảnh Sài Gòn dưới cơn mưa rạt rào thì ai đã sống ở Sài Gòn khó lòng quên được. Thời còn trọ học, trên căn gác học trò nhìn mưa rơi phơi phới trên những mái tôn, lòng dịu lại với không khí mát lạnh, nhớ xa xôi đến một khuôn mặt, một mái tóc, kết với không gian và âm thanh mưa thành những khoảnh khắc bất hủ của tình trai…Những đêm mặt đường Lê Lợi loáng nước, khoác áo mưa đi cạnh người bạn thân nghe tiếng nước chảy ồ ồ đang thoát xuống các lỗ cống, tìm một quán cà phê để cùng nhau bàn về các băn khoăn triết học vừa mới thu nhận từ giảng đường Văn Khoa. Sài Gòn mưa chợ Bến Thành, mưa trên tắc xi, xích lô, mưa lướt thướt các gánh hàng rong, mưa xì xào bí mật trong đám lá me, mưa từ quán nhậu nhìn ra đường đầy bong bóng nước trôi…Hình như Sài Gòn mưa ở lại trong lòng người nhiều và tha thiết hơn là Sài Gòn nắng. Những đêm mưa âm thầm đi trên đường phố hát nho nhỏ
Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
thì thấy các câu hát ấy viết về Paris đó vẫn hợp với tình và cảnh của Sài Gòn.
Buổi chiều mưa đó ở Paris, tôi che dù đi hơi lầm lũi thì thoáng thấy bên kia đường một cửa kính lớn trên có dòng chữ: Aux Ciseaux d’Art, cái này tôi đã thấy nhiều lần vào những năm xưa chỗ gần Tòa Đô Chính Sài Gòn đi về phía đường Tự Do, tôi tiếp tục đi mấy bước nữa thì quả nhiên gặp ngã tư, và tôi hoàn toàn có cảm giác đang đứng tại phố cũ hè xưa Lê Thánh Tôn với Tự Do, tôi sắp bước vào quán La Pagode để uống cà phê trong một buổi chiều mưa. Ảo ảnh, ảo giác hiện lên như trong một giấc chiêm bao. Nhưng tôi vẫn tỉnh để nhận ra rằng đúng Paris và Sài Gòn là những người anh em cùng cha khác mẹ, cái cảm giác quen quen tôi nhận thấy từ ngày đầu khi mới đến bây giờ tôi đã tìm thấy nguyên do. Người Pháp đã xây cất Sài Gòn với rất nhiều hình ảnh của Paris. Dĩ nhiên Paris đẹp đẽ rộng lớn hơn nhiều, nhưng những tác phẩm của cùng một tác giả (hay là những đứa con cùng cha) thì có những nét chung dễ nhận ra lắm. Cảm giác giống đến rất đột ngột, bỗng dưng đang đi tại một chỗ nào đó giữa Paris, cảnh vật và sự cảm nhận của tôi chớp một cái, lập tức tất cả biến thành Sài Gòn. Sự phù phép ấy diễn ra rất nhanh, có thể chỉ trong sát na, nhưng rất triệt để, tôi đã “về” lại Sài Gòn chớp nhoáng như một linh hồn từ cõi âm được xẹt về thăm cõi dương, nhìn thấy mọi cảnh trí mọi sinh hoạt quen thuộc mà mình hằng tham dự xưa kia. Đi giữa Paris tôi rất thường bị xẹt qua xẹt lại như vậy. Có lúc bỗng thấy xe mình đang chạy trên đường Lê Lợi chỗ bùng binh Nguyễn Huệ, tưởng như chỉ cần nhìn lên là thấy tòa nhà Quốc Hội ngay phía trước; có bữa thấy một góc phố nhọn y chang chỗ Võ Duy Nghi và Hàm Nghi, nơi Chợ Cũ bán thịt heo quay và xá xíu; một bữa tối đi ăn ở khu Saint Germain Des Prés đến khuya ngồi trên xe ra về, xe dừng lại chỗ đèn đỏ thì miệng không kềm được phải thốt lên: “Đây chính là ngã tư Lê Lợi với Pasteur, chỗ rạp Casino Saigon.” Những cơn lên đồng như vậy xảy ra luôn luôn, nhưng xúc động và sâu lắng nhất vẫn là chỗ quán Cái Chùa, có lẽ vì trời mưa, có lẽ vì tôi đang đi bộ, và cái nỗi niềm “phố cũ hè xưa” đang cơn thấm thía. Nơi đây không những tôi bắt gặp Sài Gòn mà còn bắt gặp chính tôi, gã thiếu niên của cuối thập niên 50, chàng thanh niên của thập niên 60, trong một buổi chiều mưa, đứng giữa Sài Gòn, đã nhìn thấy hàng cây lá bên đường ướt nước, mặt nhựa tung bọt trắng, người qua lại trong lớp áo mưa, và bên kia đường, chỗ gần tòa Đô Chánh, có tiệm may Aux Ciseaux d’Art. Tôi của buổi chiều nay giữa Paris trong cơn xuất thần của tâm cảm đang về thăm lại Sài Gòn và nhìn thấy tôi của ba thập niên trước đang đứng trước quán La Pagode, cái nào là âm cảnh, cái nào là dương gian? Không, không có sự phân chia như thế, tất cả chỉ là một thôi, qua một cái chớp mắt của thời gian. Sài Gòn – Paris, thập niên sáu mươi – thập niên chín mươi, tất cả gói ghém trong một chỗ mong manh nhạy bén nằm giữa sự sống của tôi, có khả năng phá tan tức thì sương mù của quá khứ để nhìn xuyên suốt như cái nhìn của thần thức sáng trưng nơi một kẻ sắp lìa đời.
Không biết một kẻ lớn lên tại thành phố Hồ Chí Minh từ sau 1975, hoặc một người ngoài Bắc vào sống tại đó cũng từ thời điểm ấy, nếu có dịp đi Paris thì có nhận thấy thành phố Hồ Chí Minh của họ có nhiều điểm giống Paris như tôi thấy không? Không chắc. Sự giống nhau giữa hai đô thị phải vừa ở kiểu mẫu kiến trúc, vừa ở khí hậu văn hóa, và cái sau bổ túc và quyết định cho cái trước. Đời sống văn hóa có tương đương mới tạo ra nét tương tự được. Nếu tiệm may thanh lịch Aux Ciseaux d’Art bên kia đường biến thành Cửa hàng May mặc quốc doanh, nếu người ta phóng uế vào các gốc cây bên đường và thi nhau lột vỏ cây đem về làm củi đun, nếu người ta mắc máy phóng thanh khắp các góc phố để cả ngày ra rả các khẩu hiệu tiến nhanh và tiến mạnh…, ở trong một thành phố Hồ Chí Minh như thế, tôi đoan chắc có đi Paris người ta cũng sẽ không nhận ra điểm tương đồng giữa hai thành phố đâu. Trái lại, chỉ nhận ra toàn cái xa lạ, như dương gian và âm phủ. Tôi đã hiểu vì sao ngày tôi ra tù tôi thấy Sài Gòn hoàn toàn xa lạ đối với tôi, mà ngày nay tôi lại thấy Paris giống Sài Gòn. Có lẽ nhờ những cảm nhận như thế người xa quê hương mới có thể sống trên những vùng đất xa lạ của thế giới được. Xa lạ không sao, miễn là còn gần gũi với con người.
Phố cũ hè xưa
Phố cũ hè xưa là lời thơ của Cung Trầm Tưởng thường được hát trong bản nhạc Mùa Thu Paris, và có lội trong khu phố cổ của Paris như khu Marais thì mới thấy bốn chữ đó là tài tình. Nhà phố được xây cao quay mặt nhìn nhau hai bên những con đường hẹp, khiến con đường giống như một cái hầm dài, mà đáy hầm phải chia ra làm ba phần, giữa là lòng đường, hai bên là hè phố hầu hết lát bằng đá cắt ra thành từng phiến nhỏ. Dù được xây cất từ nhiều thế kỷ trước mang nét cổ xưa, kiến trúc ở đây trông vẫn bề thế, cao lớn và chắc chắn chứ không lúp xúp như những khu phố cổ Đông Phương kiểu như Hội An hay băm sáu phố phường của Hà Nội. Trong những căn phố đó là cửa hiệu, phần nhiều bán đồ mỹ nghệ, các món hàng cũng như cách trình bầy cố làm sao cho nổi lên cái cung cách xưa xưa. Đi trên hè phố ấy, nhẩn nha vào hiệu nọ hiệu kia, thì phải nhận rằng cái mà mình đang tiếp xúc với, mình đang đắm mình vào, không có tiếng nào diễn tả đúng hơn là mấy chữ phố cũ hè xưa. Phố và hè ở đây luôn luôn phải cặp đôi với nhau, phải làm chứng cho nhau rằng chúng đã cùng tồn tại qua biết bao sương nắng của thời gian và biến cố của lịch sử, và ngày nay vẫn còn giữ vai trò tích cực cho đô thị này. Ngày xưa là vương tôn công tử và thị dân, ngày nay là khách du lịch bốn phương đi trên các vỉa hè này, không có hè phố để chuyên chở người đi lại thì phố xá còn có nghĩa gì. Hè phố không phải là một lối để đi suông, (làm việc ấy đã có lòng đường) mà chính là nơi đi để nhìn vào các cửa hiệu, là hành lang để thực hiện việc la cà mua sắm, là nơi để ngắm nhìn nhau, quan sát cách phục sức của nhau, để biểu lộ một phong cách của xã hội. Phố và hè là một một trường sinh hoạt chung, cùng nương nhau mà sống còn để thực hiện nếp sống đô thị trải qua nhiều thế kỷ. Ngày nay phố đã cũ và hè đã xưa nhưng vẫn còn đó như một đặc trưng của Paris, nét xưa và cũ ấy đem lại biết bao vẻ lãng mạn cho đời sống đã mất rất nhiều thơ mộng giữa thời đại cơ khí, hàng hóa phong phú thừa mứa, với những siêu thị tân tiến rộng mênh mông. Vào với phố cũ hè xưa chúng ta vẫn tiếp tục sống cuộc đời hiện nay chứ không phải tìm đường vào quá khứ, như khi đi thăm những di tích là cái đã xong vai trò của nó rồi, bây giờ bày ra là chỉ để xem. Đi trên hè xưa và ghé vào những căn phố cũ chúng ta không có cảm giác mình đang đóng trò giả vờ làm người xưa để tìm một ít ảo giác hiếm hoi thoát ra trong chốc lát cuộc sống hiện tại, mà là làm công việc trộn lẫn cái hiện tồn với cái cổ xưa, để biết rằng chúng ta không bơ vơ trên bờ vực khi chiếc xe khoa học kỹ thuật đưa chúng ta đi quá nhanh và quá xa đến những nơi lạ hoắc không biết là chốn nào. Những phiến đá lát không phẳng phiu dưới chân, những bức tường nặng nề rêu phong, những cái cầu thang cuốn ngộ nghĩnh đưa lên tầng trên không còn thấy trong kiến trúc ngày nay…tất cả những cái đó như liều thuốc an thần nhắc nhở ta rằng đời sống luôn luôn là một tổng hợp giữa quá khứ và hiện tại, đừng có sợ hãi bơ vơ, các bạn vẫn trong vòng tay ôm của biết bao thế hệ và thế kỷ trước đây mà…Gọi đó là phố cũ và hè xưa, tức là xác nhận hơi hướng của quá khứ vẫn ra vào đâu đây, xin các bạn cứ tự nhiên thoải mái tự thể hiện cái con người thật của các bạn vốn là một tổng hợp phức tạp, vốn là nơi tàng chứa biết bao chuyện của tiền kiếp, xin cứ thong thả, ở đây không có tiến nhanh tiến mạnh đi đâu cả, ở đây không hề phá bỏ cái gì mà lưu giữ hết và trân trọng hết. Các bóng người tứ xứ qua đây hôm nay rồi cũng sẽ trở thành quá khứ, những cánh cửa dày, những căn nhà tối sẽ là những ống kính và buồng phim ghi lại tất cả những cái áo thụng trắng vùng Trung Đông, những quần jeans áo thun và giày vải thể thao đến từ Mỹ, những đôi mắt đen thẳm dưới làn mi cong vút của xứ Ấn Độ…, để ít trăm năm sau khách qua lại nơi này vẫn man mác cảm thấy có một cái gì đó vẫn ra vào đâu đây…Sài Gòn đối với tôi sau mười ba năm cải tạo đáng lẽ phải thành một loại phố cũ hè xưa để tôi bắt gặp lại ít nhất hình ảnh của chính mình mươi lăm năm về trước chứ chưa nói đến thời nào xa xưa hơn, nhưng hình bóng cũ đã bay đi sạch trơn để chỉ còn lại các xác trần trụi. Phố và hè chỉ thành cũ và xưa khi nó tiếp tục lưu giữ một tinh thần thái độ nào đấy, mà quan trọng nhất là sự liên tục, chứ không phải chỉ là những vật vô tri được tính bằng năm tháng chất chồng. Khi đình chùa miếu mạo chỉ còn một thứ hương khói giả vờ, chỉ cốt để bán vé cho du khách vào xem, thì lập tức biến thành một các xác rỗng. Không gì thê thảm cho bằng di tích của một đất nước bỗng tắt mất đi cái hơi thở vẫn liên tục từ ngàn xưa để trở nên các ông phỗng vô hồn, không gì gây đau đớn hơn khi đọc trên vách chùa Cửa Võng có suối Giải Oan của Hương Sơn những câu khẳng định rằng chẳng ai giải được cái oan của con người ngoài sự đấu tranh của đảng cộng sản…Khi cái tinh túy của quá khứ bị lăng mạ thì còn mong gì phố cũ với hè xưa!
Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
thì thấy các câu hát ấy viết về Paris đó vẫn hợp với tình và cảnh của Sài Gòn.
Buổi chiều mưa đó ở Paris, tôi che dù đi hơi lầm lũi thì thoáng thấy bên kia đường một cửa kính lớn trên có dòng chữ: Aux Ciseaux d’Art, cái này tôi đã thấy nhiều lần vào những năm xưa chỗ gần Tòa Đô Chính Sài Gòn đi về phía đường Tự Do, tôi tiếp tục đi mấy bước nữa thì quả nhiên gặp ngã tư, và tôi hoàn toàn có cảm giác đang đứng tại phố cũ hè xưa Lê Thánh Tôn với Tự Do, tôi sắp bước vào quán La Pagode để uống cà phê trong một buổi chiều mưa. Ảo ảnh, ảo giác hiện lên như trong một giấc chiêm bao. Nhưng tôi vẫn tỉnh để nhận ra rằng đúng Paris và Sài Gòn là những người anh em cùng cha khác mẹ, cái cảm giác quen quen tôi nhận thấy từ ngày đầu khi mới đến bây giờ tôi đã tìm thấy nguyên do. Người Pháp đã xây cất Sài Gòn với rất nhiều hình ảnh của Paris. Dĩ nhiên Paris đẹp đẽ rộng lớn hơn nhiều, nhưng những tác phẩm của cùng một tác giả (hay là những đứa con cùng cha) thì có những nét chung dễ nhận ra lắm. Cảm giác giống đến rất đột ngột, bỗng dưng đang đi tại một chỗ nào đó giữa Paris, cảnh vật và sự cảm nhận của tôi chớp một cái, lập tức tất cả biến thành Sài Gòn. Sự phù phép ấy diễn ra rất nhanh, có thể chỉ trong sát na, nhưng rất triệt để, tôi đã “về” lại Sài Gòn chớp nhoáng như một linh hồn từ cõi âm được xẹt về thăm cõi dương, nhìn thấy mọi cảnh trí mọi sinh hoạt quen thuộc mà mình hằng tham dự xưa kia. Đi giữa Paris tôi rất thường bị xẹt qua xẹt lại như vậy. Có lúc bỗng thấy xe mình đang chạy trên đường Lê Lợi chỗ bùng binh Nguyễn Huệ, tưởng như chỉ cần nhìn lên là thấy tòa nhà Quốc Hội ngay phía trước; có bữa thấy một góc phố nhọn y chang chỗ Võ Duy Nghi và Hàm Nghi, nơi Chợ Cũ bán thịt heo quay và xá xíu; một bữa tối đi ăn ở khu Saint Germain Des Prés đến khuya ngồi trên xe ra về, xe dừng lại chỗ đèn đỏ thì miệng không kềm được phải thốt lên: “Đây chính là ngã tư Lê Lợi với Pasteur, chỗ rạp Casino Saigon.” Những cơn lên đồng như vậy xảy ra luôn luôn, nhưng xúc động và sâu lắng nhất vẫn là chỗ quán Cái Chùa, có lẽ vì trời mưa, có lẽ vì tôi đang đi bộ, và cái nỗi niềm “phố cũ hè xưa” đang cơn thấm thía. Nơi đây không những tôi bắt gặp Sài Gòn mà còn bắt gặp chính tôi, gã thiếu niên của cuối thập niên 50, chàng thanh niên của thập niên 60, trong một buổi chiều mưa, đứng giữa Sài Gòn, đã nhìn thấy hàng cây lá bên đường ướt nước, mặt nhựa tung bọt trắng, người qua lại trong lớp áo mưa, và bên kia đường, chỗ gần tòa Đô Chánh, có tiệm may Aux Ciseaux d’Art. Tôi của buổi chiều nay giữa Paris trong cơn xuất thần của tâm cảm đang về thăm lại Sài Gòn và nhìn thấy tôi của ba thập niên trước đang đứng trước quán La Pagode, cái nào là âm cảnh, cái nào là dương gian? Không, không có sự phân chia như thế, tất cả chỉ là một thôi, qua một cái chớp mắt của thời gian. Sài Gòn – Paris, thập niên sáu mươi – thập niên chín mươi, tất cả gói ghém trong một chỗ mong manh nhạy bén nằm giữa sự sống của tôi, có khả năng phá tan tức thì sương mù của quá khứ để nhìn xuyên suốt như cái nhìn của thần thức sáng trưng nơi một kẻ sắp lìa đời.
Không biết một kẻ lớn lên tại thành phố Hồ Chí Minh từ sau 1975, hoặc một người ngoài Bắc vào sống tại đó cũng từ thời điểm ấy, nếu có dịp đi Paris thì có nhận thấy thành phố Hồ Chí Minh của họ có nhiều điểm giống Paris như tôi thấy không? Không chắc. Sự giống nhau giữa hai đô thị phải vừa ở kiểu mẫu kiến trúc, vừa ở khí hậu văn hóa, và cái sau bổ túc và quyết định cho cái trước. Đời sống văn hóa có tương đương mới tạo ra nét tương tự được. Nếu tiệm may thanh lịch Aux Ciseaux d’Art bên kia đường biến thành Cửa hàng May mặc quốc doanh, nếu người ta phóng uế vào các gốc cây bên đường và thi nhau lột vỏ cây đem về làm củi đun, nếu người ta mắc máy phóng thanh khắp các góc phố để cả ngày ra rả các khẩu hiệu tiến nhanh và tiến mạnh…, ở trong một thành phố Hồ Chí Minh như thế, tôi đoan chắc có đi Paris người ta cũng sẽ không nhận ra điểm tương đồng giữa hai thành phố đâu. Trái lại, chỉ nhận ra toàn cái xa lạ, như dương gian và âm phủ. Tôi đã hiểu vì sao ngày tôi ra tù tôi thấy Sài Gòn hoàn toàn xa lạ đối với tôi, mà ngày nay tôi lại thấy Paris giống Sài Gòn. Có lẽ nhờ những cảm nhận như thế người xa quê hương mới có thể sống trên những vùng đất xa lạ của thế giới được. Xa lạ không sao, miễn là còn gần gũi với con người.
Phố cũ hè xưa
Phố cũ hè xưa là lời thơ của Cung Trầm Tưởng thường được hát trong bản nhạc Mùa Thu Paris, và có lội trong khu phố cổ của Paris như khu Marais thì mới thấy bốn chữ đó là tài tình. Nhà phố được xây cao quay mặt nhìn nhau hai bên những con đường hẹp, khiến con đường giống như một cái hầm dài, mà đáy hầm phải chia ra làm ba phần, giữa là lòng đường, hai bên là hè phố hầu hết lát bằng đá cắt ra thành từng phiến nhỏ. Dù được xây cất từ nhiều thế kỷ trước mang nét cổ xưa, kiến trúc ở đây trông vẫn bề thế, cao lớn và chắc chắn chứ không lúp xúp như những khu phố cổ Đông Phương kiểu như Hội An hay băm sáu phố phường của Hà Nội. Trong những căn phố đó là cửa hiệu, phần nhiều bán đồ mỹ nghệ, các món hàng cũng như cách trình bầy cố làm sao cho nổi lên cái cung cách xưa xưa. Đi trên hè phố ấy, nhẩn nha vào hiệu nọ hiệu kia, thì phải nhận rằng cái mà mình đang tiếp xúc với, mình đang đắm mình vào, không có tiếng nào diễn tả đúng hơn là mấy chữ phố cũ hè xưa. Phố và hè ở đây luôn luôn phải cặp đôi với nhau, phải làm chứng cho nhau rằng chúng đã cùng tồn tại qua biết bao sương nắng của thời gian và biến cố của lịch sử, và ngày nay vẫn còn giữ vai trò tích cực cho đô thị này. Ngày xưa là vương tôn công tử và thị dân, ngày nay là khách du lịch bốn phương đi trên các vỉa hè này, không có hè phố để chuyên chở người đi lại thì phố xá còn có nghĩa gì. Hè phố không phải là một lối để đi suông, (làm việc ấy đã có lòng đường) mà chính là nơi đi để nhìn vào các cửa hiệu, là hành lang để thực hiện việc la cà mua sắm, là nơi để ngắm nhìn nhau, quan sát cách phục sức của nhau, để biểu lộ một phong cách của xã hội. Phố và hè là một một trường sinh hoạt chung, cùng nương nhau mà sống còn để thực hiện nếp sống đô thị trải qua nhiều thế kỷ. Ngày nay phố đã cũ và hè đã xưa nhưng vẫn còn đó như một đặc trưng của Paris, nét xưa và cũ ấy đem lại biết bao vẻ lãng mạn cho đời sống đã mất rất nhiều thơ mộng giữa thời đại cơ khí, hàng hóa phong phú thừa mứa, với những siêu thị tân tiến rộng mênh mông. Vào với phố cũ hè xưa chúng ta vẫn tiếp tục sống cuộc đời hiện nay chứ không phải tìm đường vào quá khứ, như khi đi thăm những di tích là cái đã xong vai trò của nó rồi, bây giờ bày ra là chỉ để xem. Đi trên hè xưa và ghé vào những căn phố cũ chúng ta không có cảm giác mình đang đóng trò giả vờ làm người xưa để tìm một ít ảo giác hiếm hoi thoát ra trong chốc lát cuộc sống hiện tại, mà là làm công việc trộn lẫn cái hiện tồn với cái cổ xưa, để biết rằng chúng ta không bơ vơ trên bờ vực khi chiếc xe khoa học kỹ thuật đưa chúng ta đi quá nhanh và quá xa đến những nơi lạ hoắc không biết là chốn nào. Những phiến đá lát không phẳng phiu dưới chân, những bức tường nặng nề rêu phong, những cái cầu thang cuốn ngộ nghĩnh đưa lên tầng trên không còn thấy trong kiến trúc ngày nay…tất cả những cái đó như liều thuốc an thần nhắc nhở ta rằng đời sống luôn luôn là một tổng hợp giữa quá khứ và hiện tại, đừng có sợ hãi bơ vơ, các bạn vẫn trong vòng tay ôm của biết bao thế hệ và thế kỷ trước đây mà…Gọi đó là phố cũ và hè xưa, tức là xác nhận hơi hướng của quá khứ vẫn ra vào đâu đây, xin các bạn cứ tự nhiên thoải mái tự thể hiện cái con người thật của các bạn vốn là một tổng hợp phức tạp, vốn là nơi tàng chứa biết bao chuyện của tiền kiếp, xin cứ thong thả, ở đây không có tiến nhanh tiến mạnh đi đâu cả, ở đây không hề phá bỏ cái gì mà lưu giữ hết và trân trọng hết. Các bóng người tứ xứ qua đây hôm nay rồi cũng sẽ trở thành quá khứ, những cánh cửa dày, những căn nhà tối sẽ là những ống kính và buồng phim ghi lại tất cả những cái áo thụng trắng vùng Trung Đông, những quần jeans áo thun và giày vải thể thao đến từ Mỹ, những đôi mắt đen thẳm dưới làn mi cong vút của xứ Ấn Độ…, để ít trăm năm sau khách qua lại nơi này vẫn man mác cảm thấy có một cái gì đó vẫn ra vào đâu đây…Sài Gòn đối với tôi sau mười ba năm cải tạo đáng lẽ phải thành một loại phố cũ hè xưa để tôi bắt gặp lại ít nhất hình ảnh của chính mình mươi lăm năm về trước chứ chưa nói đến thời nào xa xưa hơn, nhưng hình bóng cũ đã bay đi sạch trơn để chỉ còn lại các xác trần trụi. Phố và hè chỉ thành cũ và xưa khi nó tiếp tục lưu giữ một tinh thần thái độ nào đấy, mà quan trọng nhất là sự liên tục, chứ không phải chỉ là những vật vô tri được tính bằng năm tháng chất chồng. Khi đình chùa miếu mạo chỉ còn một thứ hương khói giả vờ, chỉ cốt để bán vé cho du khách vào xem, thì lập tức biến thành một các xác rỗng. Không gì thê thảm cho bằng di tích của một đất nước bỗng tắt mất đi cái hơi thở vẫn liên tục từ ngàn xưa để trở nên các ông phỗng vô hồn, không gì gây đau đớn hơn khi đọc trên vách chùa Cửa Võng có suối Giải Oan của Hương Sơn những câu khẳng định rằng chẳng ai giải được cái oan của con người ngoài sự đấu tranh của đảng cộng sản…Khi cái tinh túy của quá khứ bị lăng mạ thì còn mong gì phố cũ với hè xưa!
Quán cà phê vỉa hè Paris
Quán cà phê Paris
Đi dạo phố mỏi chân cần nghỉ ngơi uống một chút gì và làm vài công việc cần cho cơ thể thì vào quán cà phê, mà hầu như góc phố nào cũng có. Quán cà phê thường có một diện tích không lớn, gồm một cái quầy dài, dăm cái bàn bên trong và một số bàn đặt ngoài hè. Ngoài cà phê quán còn bán các thức uống khác, kể cả bia và rượu, và một ít thức ăn nhẹ. Vào quán, ta có thể đứng uống ngay tại quầy, ngồi vào bàn ở trong quán hoặc gọi thức uống ra ngồi ngoài đường mà nhâm nhi. Cà phê ở đây dĩ nhiên đúng là “cà phê Pháp,” không còn nghi ngờ gì như khi đọc các quảng cáo của những nhà buôn Mỹ và Việt ở vùng California để nhắc nhở khách rằng cà phê Pháp mới là cà phê thứ thiệt, uống mới đã, chứ không phải đã được biến chế lung tung để thành một thứ nước chua chua nhạt nhạt như cà phê Mỹ. Tách cà phê nhỏ xíu, nước đen sánh, gặp tay uống phàm thì chỉ ực một ngụm là sạch nhẵn, nhưng nếu biết thưởng thức cái thơm ngon của nó thì có thể nhấm nháp đốt thuốc lá hàng nửa giờ. Rượu và bia thì nhiều thứ, nhưng theo tôi đây không phải chỗ thích hợp để uống rượu và nếu uống bia thì nên uống bia “bốc” (sau 75 ở Sài Gòn gọi là bia hơi) để thưởng thức vị tươi ngon của bia mới đem từ nơi sản xuất về, không đóng chai đóng hộp gì cả.
Uống đứng thì rẻ tiền hơn ngồi, nếu một cốc cà phê tại quầy trả tám quan thì ngồi tại bàn phải mười quan. Tôi có tật uống cà phê rất chậm, vì phải luôn luôn kèm theo mục thuốc lá, nên phải ngồi mà uống, nhưng uống bia tại quầy thì tôi cho cũng là một điều lý thú. Không phải vì đứng mà người uống phải có thái độ vội vã đâu, anh ta vẫn ung dung, tay cầm một cái “demi” (một ly bia hơi), lưng tựa vào quầy, mắt lơ đãng nhìn quanh, thỉnh thoảng đưa ly lên làm một tợp rồi đặt xuống mặt quầy. Khi đứng uống như thế tuy bạn không vội nhưng vẫn có vẻ không phải định nhậu nhẹt lâu dài, chỉ là ghé qua làm một ly cho đỡ cơn khát, vẫn có thể quay qua trò truyện vài câu mưa nắng với người đứng cạnh, rồi khi ly đã cạn, lặng lẽ bước ra. Ở Pháp cũng cấm hút thuốc ở nơi hàng quán, nhưng riêng quán cà phê thì không, chắc vì người ta cũng thấy chỗ vô lý cà phê mà không có thuốc lá. Ngồi uống ngoài đường tôi nghĩ có thể không thích hợp với một số người cho ăn uống là việc riêng tư kín đáo không muốn phơi ra với bàn dân thiên hạ, nhưng với một số người khác là một cái thú có thể thành ghiền. Với đường phố anh có thể có hai thái độ, một là nhập vào dòng người để di chuyển, hai là ngồi một chỗ đễ nhìn mọi người di chuyển. Cách thứ nhất là bát phố, cách sau là uống cà phê vỉa hè. Hai thái độ một động một tĩnh ấy thật ra chỉ là hai cách thế khác nhau để tham dự vào cuộc sinh hoạt náo nhiệt của phố phường, một công việc mà cư dân của các đô thị lớn hầu như ai cũng có thời kỳ rất ưa thích. Ngày xưa ở Sài Gòn loại quán có ghế ngồi ngoài đường không nhiều, chỉ vài nơi như Thanh Thế, Thanh Bạch, Kim Sơn, nhưng cũng lắm người rất mê ngồi nhâm nhi ngắm kẻ lại người qua. Paris thì phố nào cũng có, lúc nào mình cũng có cơ hội dừng chân ngồi ngắm thiên hạ sau khi đã đi chán cho thiên hạ ngắm mình. Thực ra người ngồi uống cà phê vỉa hè không chắc đã ngắm ai, đó chỉ là thái độ tham dự, họ ngồi trước cốc cà phê, tay cầm điếu thuốc, trước mặt là trời xanh mây trắng và cuộc đời đang trôi chảy, họ yên tâm biết điều đó, mắt lơ đãng không đặt rõ rệt vào đâu mà vẫn biết là hơi ấm của đô thị vẫn đầy đủ chung quanh. Cảnh tượng trước mắt là một cần thiết đối với họ, dù là phố đông hay phố vắng, trời nắng hay trời mưa (mưa thì phải ngồi dưới mấy cây dù). Họ nói là ngồi ngoài đường phố “vui” hơn, cái vui ấy chính là được gia nhập vào dòng sống đang ào ạt quanh ta vậy.
Quán cà phê là nơi giới văn nghệ thường lui tới, đó là truyền thống của Pháp từ xưa, và cũng thành truyền thống ở những nước chịu ảnh hưởng văn hóa Pháp. Những người viết lách, những người vẽ vời thường cần cảm hứng và một môi trường sinh hoạt thích hợp cho họ, quán cà phê đáp ứng được yêu cầu ấy. Có lẽ vì đó là nơi kinh doanh mà ít có vẻ kinh doanh nhất, quán cà phê là nơi luôn có không khí “văn nghệ,” vì thưởng thức cà phê là một việc nhiều dáng vẻ tinh thần hơn là vật chất, uống một cốc cà phê nóng thơm ngon chỉ để đầu óc thêm sảng khoái chứ không vì no béo hay dinh dưỡng. Nhưng có lẽ cái không khí văn nghệ nơi các quán cà phê là do người nghệ sĩ đến uống ở đó đem lại hoặc tạo ra hơn là do chính việc bán cà phê. Nếu chủ quán có chút máu nghệ sĩ, biết kính trọng người tài, biết chiêu hiền đãi sĩ (ở đây có nghĩa là biết cho những người nghệ sĩ nghèo mắc nợ) thì quán sẽ dễ trở thành nơi hò hẹn của những người viết văn, làm thơ, vẽ tranh…Người của nghệ thuật và tư tưởng thường có nhu cầu thoát ra khỏi cái không khí quen thuộc của gia đình để tìm những nơi có tần số rung động thích hợp với họ hơn để họ nạp lại năng lượng sau một hồi sáng tác, và quán cà phê là một trong những nơi như thế. Ở đó không hẳn là họ đến với quần chúng, mặc dầu là nơi công cộng. Họ đến để hưởng cái không khí do chính sự có mặt lâu ngày của họ và bạn bè họ đã tạo ra, để nói về những gì họ sáng tác hay dự định sáng tác cho những người nghe hiểu họ, và cũng để nghe những điều như thế từ phía bạn bè. Các cọ xát sẽ làm họ phong phú hơn. Hương cà phê sẽ làm họ tỉnh táo và cảm hứng hơn. Môi trường ấy sẽ giúp họ thêm tự tín. Quán cà phê là nơi khai mở sự sáng tạo cho họ nhiều hơn là những bữa cơm êm ấm ở gia đình thường chỉ làm tròn đầy một cảm giác thỏa mãn hơn là tạo ra sự thao thức, những tranh luận gay go làm đầu óc họ sắc bén hơn là sự chìu ý dễ dàng để vui lòng nhau.
Đi dạo phố mỏi chân cần nghỉ ngơi uống một chút gì và làm vài công việc cần cho cơ thể thì vào quán cà phê, mà hầu như góc phố nào cũng có. Quán cà phê thường có một diện tích không lớn, gồm một cái quầy dài, dăm cái bàn bên trong và một số bàn đặt ngoài hè. Ngoài cà phê quán còn bán các thức uống khác, kể cả bia và rượu, và một ít thức ăn nhẹ. Vào quán, ta có thể đứng uống ngay tại quầy, ngồi vào bàn ở trong quán hoặc gọi thức uống ra ngồi ngoài đường mà nhâm nhi. Cà phê ở đây dĩ nhiên đúng là “cà phê Pháp,” không còn nghi ngờ gì như khi đọc các quảng cáo của những nhà buôn Mỹ và Việt ở vùng California để nhắc nhở khách rằng cà phê Pháp mới là cà phê thứ thiệt, uống mới đã, chứ không phải đã được biến chế lung tung để thành một thứ nước chua chua nhạt nhạt như cà phê Mỹ. Tách cà phê nhỏ xíu, nước đen sánh, gặp tay uống phàm thì chỉ ực một ngụm là sạch nhẵn, nhưng nếu biết thưởng thức cái thơm ngon của nó thì có thể nhấm nháp đốt thuốc lá hàng nửa giờ. Rượu và bia thì nhiều thứ, nhưng theo tôi đây không phải chỗ thích hợp để uống rượu và nếu uống bia thì nên uống bia “bốc” (sau 75 ở Sài Gòn gọi là bia hơi) để thưởng thức vị tươi ngon của bia mới đem từ nơi sản xuất về, không đóng chai đóng hộp gì cả.
Uống đứng thì rẻ tiền hơn ngồi, nếu một cốc cà phê tại quầy trả tám quan thì ngồi tại bàn phải mười quan. Tôi có tật uống cà phê rất chậm, vì phải luôn luôn kèm theo mục thuốc lá, nên phải ngồi mà uống, nhưng uống bia tại quầy thì tôi cho cũng là một điều lý thú. Không phải vì đứng mà người uống phải có thái độ vội vã đâu, anh ta vẫn ung dung, tay cầm một cái “demi” (một ly bia hơi), lưng tựa vào quầy, mắt lơ đãng nhìn quanh, thỉnh thoảng đưa ly lên làm một tợp rồi đặt xuống mặt quầy. Khi đứng uống như thế tuy bạn không vội nhưng vẫn có vẻ không phải định nhậu nhẹt lâu dài, chỉ là ghé qua làm một ly cho đỡ cơn khát, vẫn có thể quay qua trò truyện vài câu mưa nắng với người đứng cạnh, rồi khi ly đã cạn, lặng lẽ bước ra. Ở Pháp cũng cấm hút thuốc ở nơi hàng quán, nhưng riêng quán cà phê thì không, chắc vì người ta cũng thấy chỗ vô lý cà phê mà không có thuốc lá. Ngồi uống ngoài đường tôi nghĩ có thể không thích hợp với một số người cho ăn uống là việc riêng tư kín đáo không muốn phơi ra với bàn dân thiên hạ, nhưng với một số người khác là một cái thú có thể thành ghiền. Với đường phố anh có thể có hai thái độ, một là nhập vào dòng người để di chuyển, hai là ngồi một chỗ đễ nhìn mọi người di chuyển. Cách thứ nhất là bát phố, cách sau là uống cà phê vỉa hè. Hai thái độ một động một tĩnh ấy thật ra chỉ là hai cách thế khác nhau để tham dự vào cuộc sinh hoạt náo nhiệt của phố phường, một công việc mà cư dân của các đô thị lớn hầu như ai cũng có thời kỳ rất ưa thích. Ngày xưa ở Sài Gòn loại quán có ghế ngồi ngoài đường không nhiều, chỉ vài nơi như Thanh Thế, Thanh Bạch, Kim Sơn, nhưng cũng lắm người rất mê ngồi nhâm nhi ngắm kẻ lại người qua. Paris thì phố nào cũng có, lúc nào mình cũng có cơ hội dừng chân ngồi ngắm thiên hạ sau khi đã đi chán cho thiên hạ ngắm mình. Thực ra người ngồi uống cà phê vỉa hè không chắc đã ngắm ai, đó chỉ là thái độ tham dự, họ ngồi trước cốc cà phê, tay cầm điếu thuốc, trước mặt là trời xanh mây trắng và cuộc đời đang trôi chảy, họ yên tâm biết điều đó, mắt lơ đãng không đặt rõ rệt vào đâu mà vẫn biết là hơi ấm của đô thị vẫn đầy đủ chung quanh. Cảnh tượng trước mắt là một cần thiết đối với họ, dù là phố đông hay phố vắng, trời nắng hay trời mưa (mưa thì phải ngồi dưới mấy cây dù). Họ nói là ngồi ngoài đường phố “vui” hơn, cái vui ấy chính là được gia nhập vào dòng sống đang ào ạt quanh ta vậy.
Quán cà phê là nơi giới văn nghệ thường lui tới, đó là truyền thống của Pháp từ xưa, và cũng thành truyền thống ở những nước chịu ảnh hưởng văn hóa Pháp. Những người viết lách, những người vẽ vời thường cần cảm hứng và một môi trường sinh hoạt thích hợp cho họ, quán cà phê đáp ứng được yêu cầu ấy. Có lẽ vì đó là nơi kinh doanh mà ít có vẻ kinh doanh nhất, quán cà phê là nơi luôn có không khí “văn nghệ,” vì thưởng thức cà phê là một việc nhiều dáng vẻ tinh thần hơn là vật chất, uống một cốc cà phê nóng thơm ngon chỉ để đầu óc thêm sảng khoái chứ không vì no béo hay dinh dưỡng. Nhưng có lẽ cái không khí văn nghệ nơi các quán cà phê là do người nghệ sĩ đến uống ở đó đem lại hoặc tạo ra hơn là do chính việc bán cà phê. Nếu chủ quán có chút máu nghệ sĩ, biết kính trọng người tài, biết chiêu hiền đãi sĩ (ở đây có nghĩa là biết cho những người nghệ sĩ nghèo mắc nợ) thì quán sẽ dễ trở thành nơi hò hẹn của những người viết văn, làm thơ, vẽ tranh…Người của nghệ thuật và tư tưởng thường có nhu cầu thoát ra khỏi cái không khí quen thuộc của gia đình để tìm những nơi có tần số rung động thích hợp với họ hơn để họ nạp lại năng lượng sau một hồi sáng tác, và quán cà phê là một trong những nơi như thế. Ở đó không hẳn là họ đến với quần chúng, mặc dầu là nơi công cộng. Họ đến để hưởng cái không khí do chính sự có mặt lâu ngày của họ và bạn bè họ đã tạo ra, để nói về những gì họ sáng tác hay dự định sáng tác cho những người nghe hiểu họ, và cũng để nghe những điều như thế từ phía bạn bè. Các cọ xát sẽ làm họ phong phú hơn. Hương cà phê sẽ làm họ tỉnh táo và cảm hứng hơn. Môi trường ấy sẽ giúp họ thêm tự tín. Quán cà phê là nơi khai mở sự sáng tạo cho họ nhiều hơn là những bữa cơm êm ấm ở gia đình thường chỉ làm tròn đầy một cảm giác thỏa mãn hơn là tạo ra sự thao thức, những tranh luận gay go làm đầu óc họ sắc bén hơn là sự chìu ý dễ dàng để vui lòng nhau.
Quán cà phê Les Deux Magots
Ở công trường Saint-Germain-des Prés có quán Les Deux Magots được gọi hẳn là “Quán cà phê văn học” (Café littéraire). Từ hậu bán thế kỷ mười chín quán này đã đóng một vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của Paris, với những Verlaine, Rimbaud, Mallarmé lui tới gặp gỡ nhau. Thời nay – tức là trong thế kỷ này – khách quen của quán là André Gide, Picasso, Prévert, Hemingway, Sartre, Simone de Beauvoir…Quán cà phê văn nghệ thì trên thế giới này chẳng thiếu gì, nhưng một cái quán có truyền thống như Les Deux Magots thì chính nó đã vượt khỏi quá xa chức năng “quán” của nó để thành một nơi linh địa cho các thiên thần chuyên lo về việc văn chương nghệ thuật. Có lẽ Paris sẽ giữ nó tồn tại lâu dài trong tương lai với tư cách là một nơi bán cà phê, nhưng đã từ lâu ai cũng hiểu nơi đó được xem như một cái đền thờ phụng các sinh hoạt tự do của tinh thần và của sự sáng tạo, mà nước Pháp đã và đang có cái hãnh diện đi tiên phong cho thế giới.
Ngồi trong quán đó tôi bất giác có một cử chỉ y hệt như khi vào quán chả cá Lã Vọng ở Hà Nội năm nào, là đưa mắt nhìn quanh. Tại quán Lã Vọng tôi nhìn và tự hỏi Thạch Lam và các bạn văn của thời ông đã từng ngồi ở chỗ nào. Quán Lã Vọng đã chết đi sống lại. Cái mà tôi tìm đã vĩnh viễn thuộc về lịch sử. Tôi tìm hình bóng của những người làm văn nghệ của đất nước tôi một thời đã bị tru di và xóa sạch hết hơi hướng tại chính cái nơi họ đã sống, đã viết, đã làm nên những trang văn học vào hạng rực rỡ nhất của lịch sử nước tôi. Tại đây, Les Deux Magots, phản ứng tự nhiên của tôi là cũng hình dung xem Sartre, Hemingway…đã ngồi chỗ nào, nhưng đồng thời tôi cũng ý thức rất rõ rằng tuy họ đã tới và đã ra đi vĩnh viễn nhưng hình bóng các vị vẫn sinh động nơi đây, vì cái tinh thần tự do của các vị vẫn được thừa kế, phát triển từng giây phút bởi các lớp người đến sau. Từ quán cà phê này, hào quang của các vị phát ra không những chỉ soi sáng cho thành phố Paris hay cho nước Pháp, mà cho khắp loài người.
Quán cà phê là hiện tượng phổ biến của Paris, nó gắn chặt với sinh hoạt của người dân, và qua đó cho thấy tính chất và sở thích của họ. Họ có nhu cầu “ngồi quán,” một thói quen vừa xã hội vừa cá nhân, vừa tinh thần vừa vật chất. Vào quán là để uống hay ăn một chút gì, nhưng có thật là họ đang đói hay khát để làm việc đó không? Chưa hẳn. Ăn uống lắm khi chỉ là một cái cớ để họ tham dự vào một không khí mà họ thích. Người dân Sài Gòn trước kia, lui về mãi tận thời Pháp thuộc cho đến thời sau này, cũng đã có thói quen ra ngồi “quán nước,” từ sáng sớm tinh mơ đã có người đến quán kêu cà phê rót ra dĩa xì xụp uống, nói với nhau những chuyện mưa nắng. Quán nước cũng là môi trường để trao đổi chuyện áp phe, giá cả, hàng hóa. Gọi là “quán nước” theo lối người dân Sài Gòn là đúng, vì thực chất đó chỉ là các quán hủ tiếu và cà phê nước ngọt của mấy chú ba Tàu thường lập ở những chỗ góc phố. Có lẽ đến thời Việt Nam Cộng Hòa mới bắt đầu có quán thực thụ chuyên bán cà phê, và mới bắt đầu thấp thoáng một chút “quán cà phê văn nghệ” nơi đó giới văn nghệ sĩ thường lui tới. Hình như phải có một nền văn nghệ, phải có một tầng lớp văn nghệ sĩ rồi thì sau đó mới xuất hiện cà phê văn nghệ được. Đó là một giới ưa la cà, ở đâu cũng vậy. Và cũng từ khi họ la cà tại một quán nào thì nơi đó mới mang dáng vẻ tinh thần, văn chương, nghệ thuật vốn là sinh hoạt chính của họ. Không biết nhân loại bắt đầu biết uống cà phê vào năm nào và xuất xứ món đó từ đâu, nhưng tôi có cảm tưởng chính nước Pháp, hay đúng hơn, Paris, đã biến việc uống thức ấy thành một nếp sinh hoạt, một phong cách văn hóa, và phổ biến nó ra khắp thế giới.
Một chút lịch sử về quán cà phê Sài Gòn
Tôi vừa ở trong một cơn lẫn lộn hiện tại và quá khứ, đến với Paris mà nhớ tưởng lung tung về Việt Nam. Tôi tự nhủ thôi hãy ngưng nghĩ về Việt Nam, hãy kể chuyện bên Tây thôi, thì một người bạn đến chơi, ném cho tôi một tờ báo: “Thấy ông đang viết về quán cà phê, tôi mang cho ông tờ báo này.” Một tờ báo Xuân năm nay (Đinh Sửu, 1997) từ Việt Nam, trong đó có bài Các quán cà phê đầu tiên của Sài Gòn. Một tài liệu rất thú vị, liên quan mật thiết đến đề tài tôi đang viết. Xin trích vài đoạn:
Có hai quán cà phê mà tên hiệu và địa chỉ được nói đến trong các tờ Courrier de Saigon (Người đưa tin Sài-Gòn), Illustration (Báo ảnh), và trong Annuaire de la Cochinchine (Niên giám Nam Kỳ), tất cả đều ra trong năm 1864. Đó là quán cà phê Lyon (Café Lyonnais) và quán cà phê Paris (Café de Paris). Hai quán cà phê này tất phải có lâu trước năm 1864 (…).
Quán Café Lyonnais, theo tờ Illustration ra ngày 23.4.1864 thì nằm tại đường “Gouvernement” gần ụ chiếc chiến hạm Primauguet. (…) Quán cà phê này không còn thấy ghi trong tập Thời sự cẩm nang Vade mecum 1905. Có lẽ nó được thay thế bởi quán cà phê Café de Marine (Cà phê Hải Quân) dễ lui tới hơn và cũng ở gần đó tại số 3-5 Công trường Rigault de Genouilly (Công viên Du lịch bến Bạch Đằng ngày nay).
Còn về quán Café de Paris, theo “Niên giám Nam kỳ, năm 1864, trong đó có Câu lạc bộ Thương mại (Cercle Commercial), ở tại bến sông, góc đường số 16 (Catinat = Tự Do = Đồng Khởi) mà chủ nhân là Ô. Bonnerieux. Theo tờ “Courrier de Saigon” ra tháng 3, năm 1864, thì sứ bộ Phan Thanh Giản có ghé Sài Gòn trước khi về Huế để trình lên vua Tự Đức kết quả chuyến đi Pháp năm 1863 trong sứ mạng thương thuyết xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông đã nhượng cho Pháp và khi đó vào ngày 19, “Phan Thanh Giản và hai vị đồng sự không có lọng che và tiền hô hậu ủng như nghi lễ đã quá bộ đến thăm quán Café de Paris, nơi đây họ có dịp gặp lại một số sĩ quan Pháp, một cách thăm viếng tế nhị những người mà họ còn chưa gặp…” (Anthologie franco-indochinoise, VI, 4:19)
Quán cà phê này còn lưu lại dấu vết mãi đến năm 1905, ở tại đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng), số 83, chủ nhân tên là Vital (Theo Thời sự cẩm nang 1905). (Trích báo Văn Hóa Xuân Đinh Sửu, Sài Gòn, trang 51).
Thì ra Sài Gòn có quán cà phê sớm đến thế! Dĩ nhiên những quán cà phê sớm sủa này là nơi lui tới của các “ông tây bà đầm” chứ chưa dính dáng gì đến quần chúng Việt Nam thời ấy có lẽ chưa được phép đặt chân đến những chốn này, và chắc cũng chưa biết uống cà phê cũng như quen với sinh hoạt theo lối tây phương. Nhưng hương cà phê đã bay trong không khí Việt Nam, và các quán Café Lyonnais, Café de Paris đã như là những cánh tay nối dài của Paris tới đây, đi tiên phong làm đại diện cho nền văn nghệ nước Pháp đến đất Việt Nam, trước khi tiểu thuyết, ca nhạc, hội họa, sân khấu…được chính thức đem đến giới thiệu tại đây. Vô tình những quán ấy đã đóng vai trò sứ giả văn hóa, đến rất sớm để đặt nền móng trên đất nước này về một sinh hoạt mà xem chừng nhiều thế hệ Việt Nam về sau, cho mãi đến tận bây giờ, đã tỏ ra thích thú, thậm chí ghiền, là cái việc uống cà phê. Hậu duệ các quán cà phê đầu tiên này tại Sài Gòn mang cung cách Paris còn thấy tới thời điểm 1975 là La Pagode (được Việt hóa thành Cái Chùa), Givral, Impérial (Hoàng Gia), Brodard, đều nằm trên đường Tự Do. Đó là các quán hạng sang, ly tách muỗng nĩa đều sáng trưng theo kiểu Pháp, cung cách “xẹc via” phần nào theo tiêu chuẩn quốc tế, và cái “gu” cà phê cũng khác với những quán cà phê theo lối Việt Nam.
Ngồi trong quán đó tôi bất giác có một cử chỉ y hệt như khi vào quán chả cá Lã Vọng ở Hà Nội năm nào, là đưa mắt nhìn quanh. Tại quán Lã Vọng tôi nhìn và tự hỏi Thạch Lam và các bạn văn của thời ông đã từng ngồi ở chỗ nào. Quán Lã Vọng đã chết đi sống lại. Cái mà tôi tìm đã vĩnh viễn thuộc về lịch sử. Tôi tìm hình bóng của những người làm văn nghệ của đất nước tôi một thời đã bị tru di và xóa sạch hết hơi hướng tại chính cái nơi họ đã sống, đã viết, đã làm nên những trang văn học vào hạng rực rỡ nhất của lịch sử nước tôi. Tại đây, Les Deux Magots, phản ứng tự nhiên của tôi là cũng hình dung xem Sartre, Hemingway…đã ngồi chỗ nào, nhưng đồng thời tôi cũng ý thức rất rõ rằng tuy họ đã tới và đã ra đi vĩnh viễn nhưng hình bóng các vị vẫn sinh động nơi đây, vì cái tinh thần tự do của các vị vẫn được thừa kế, phát triển từng giây phút bởi các lớp người đến sau. Từ quán cà phê này, hào quang của các vị phát ra không những chỉ soi sáng cho thành phố Paris hay cho nước Pháp, mà cho khắp loài người.
Quán cà phê là hiện tượng phổ biến của Paris, nó gắn chặt với sinh hoạt của người dân, và qua đó cho thấy tính chất và sở thích của họ. Họ có nhu cầu “ngồi quán,” một thói quen vừa xã hội vừa cá nhân, vừa tinh thần vừa vật chất. Vào quán là để uống hay ăn một chút gì, nhưng có thật là họ đang đói hay khát để làm việc đó không? Chưa hẳn. Ăn uống lắm khi chỉ là một cái cớ để họ tham dự vào một không khí mà họ thích. Người dân Sài Gòn trước kia, lui về mãi tận thời Pháp thuộc cho đến thời sau này, cũng đã có thói quen ra ngồi “quán nước,” từ sáng sớm tinh mơ đã có người đến quán kêu cà phê rót ra dĩa xì xụp uống, nói với nhau những chuyện mưa nắng. Quán nước cũng là môi trường để trao đổi chuyện áp phe, giá cả, hàng hóa. Gọi là “quán nước” theo lối người dân Sài Gòn là đúng, vì thực chất đó chỉ là các quán hủ tiếu và cà phê nước ngọt của mấy chú ba Tàu thường lập ở những chỗ góc phố. Có lẽ đến thời Việt Nam Cộng Hòa mới bắt đầu có quán thực thụ chuyên bán cà phê, và mới bắt đầu thấp thoáng một chút “quán cà phê văn nghệ” nơi đó giới văn nghệ sĩ thường lui tới. Hình như phải có một nền văn nghệ, phải có một tầng lớp văn nghệ sĩ rồi thì sau đó mới xuất hiện cà phê văn nghệ được. Đó là một giới ưa la cà, ở đâu cũng vậy. Và cũng từ khi họ la cà tại một quán nào thì nơi đó mới mang dáng vẻ tinh thần, văn chương, nghệ thuật vốn là sinh hoạt chính của họ. Không biết nhân loại bắt đầu biết uống cà phê vào năm nào và xuất xứ món đó từ đâu, nhưng tôi có cảm tưởng chính nước Pháp, hay đúng hơn, Paris, đã biến việc uống thức ấy thành một nếp sinh hoạt, một phong cách văn hóa, và phổ biến nó ra khắp thế giới.
Một chút lịch sử về quán cà phê Sài Gòn
Tôi vừa ở trong một cơn lẫn lộn hiện tại và quá khứ, đến với Paris mà nhớ tưởng lung tung về Việt Nam. Tôi tự nhủ thôi hãy ngưng nghĩ về Việt Nam, hãy kể chuyện bên Tây thôi, thì một người bạn đến chơi, ném cho tôi một tờ báo: “Thấy ông đang viết về quán cà phê, tôi mang cho ông tờ báo này.” Một tờ báo Xuân năm nay (Đinh Sửu, 1997) từ Việt Nam, trong đó có bài Các quán cà phê đầu tiên của Sài Gòn. Một tài liệu rất thú vị, liên quan mật thiết đến đề tài tôi đang viết. Xin trích vài đoạn:
Có hai quán cà phê mà tên hiệu và địa chỉ được nói đến trong các tờ Courrier de Saigon (Người đưa tin Sài-Gòn), Illustration (Báo ảnh), và trong Annuaire de la Cochinchine (Niên giám Nam Kỳ), tất cả đều ra trong năm 1864. Đó là quán cà phê Lyon (Café Lyonnais) và quán cà phê Paris (Café de Paris). Hai quán cà phê này tất phải có lâu trước năm 1864 (…).
Quán Café Lyonnais, theo tờ Illustration ra ngày 23.4.1864 thì nằm tại đường “Gouvernement” gần ụ chiếc chiến hạm Primauguet. (…) Quán cà phê này không còn thấy ghi trong tập Thời sự cẩm nang Vade mecum 1905. Có lẽ nó được thay thế bởi quán cà phê Café de Marine (Cà phê Hải Quân) dễ lui tới hơn và cũng ở gần đó tại số 3-5 Công trường Rigault de Genouilly (Công viên Du lịch bến Bạch Đằng ngày nay).
Còn về quán Café de Paris, theo “Niên giám Nam kỳ, năm 1864, trong đó có Câu lạc bộ Thương mại (Cercle Commercial), ở tại bến sông, góc đường số 16 (Catinat = Tự Do = Đồng Khởi) mà chủ nhân là Ô. Bonnerieux. Theo tờ “Courrier de Saigon” ra tháng 3, năm 1864, thì sứ bộ Phan Thanh Giản có ghé Sài Gòn trước khi về Huế để trình lên vua Tự Đức kết quả chuyến đi Pháp năm 1863 trong sứ mạng thương thuyết xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông đã nhượng cho Pháp và khi đó vào ngày 19, “Phan Thanh Giản và hai vị đồng sự không có lọng che và tiền hô hậu ủng như nghi lễ đã quá bộ đến thăm quán Café de Paris, nơi đây họ có dịp gặp lại một số sĩ quan Pháp, một cách thăm viếng tế nhị những người mà họ còn chưa gặp…” (Anthologie franco-indochinoise, VI, 4:19)
Quán cà phê này còn lưu lại dấu vết mãi đến năm 1905, ở tại đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng), số 83, chủ nhân tên là Vital (Theo Thời sự cẩm nang 1905). (Trích báo Văn Hóa Xuân Đinh Sửu, Sài Gòn, trang 51).
Thì ra Sài Gòn có quán cà phê sớm đến thế! Dĩ nhiên những quán cà phê sớm sủa này là nơi lui tới của các “ông tây bà đầm” chứ chưa dính dáng gì đến quần chúng Việt Nam thời ấy có lẽ chưa được phép đặt chân đến những chốn này, và chắc cũng chưa biết uống cà phê cũng như quen với sinh hoạt theo lối tây phương. Nhưng hương cà phê đã bay trong không khí Việt Nam, và các quán Café Lyonnais, Café de Paris đã như là những cánh tay nối dài của Paris tới đây, đi tiên phong làm đại diện cho nền văn nghệ nước Pháp đến đất Việt Nam, trước khi tiểu thuyết, ca nhạc, hội họa, sân khấu…được chính thức đem đến giới thiệu tại đây. Vô tình những quán ấy đã đóng vai trò sứ giả văn hóa, đến rất sớm để đặt nền móng trên đất nước này về một sinh hoạt mà xem chừng nhiều thế hệ Việt Nam về sau, cho mãi đến tận bây giờ, đã tỏ ra thích thú, thậm chí ghiền, là cái việc uống cà phê. Hậu duệ các quán cà phê đầu tiên này tại Sài Gòn mang cung cách Paris còn thấy tới thời điểm 1975 là La Pagode (được Việt hóa thành Cái Chùa), Givral, Impérial (Hoàng Gia), Brodard, đều nằm trên đường Tự Do. Đó là các quán hạng sang, ly tách muỗng nĩa đều sáng trưng theo kiểu Pháp, cung cách “xẹc via” phần nào theo tiêu chuẩn quốc tế, và cái “gu” cà phê cũng khác với những quán cà phê theo lối Việt Nam.
Hình minh họa
Sự việc ba vị sứ thần của sứ bộ Phan Thanh Giản “đi uống cà phê” tại quán Café de Paris của Sài Gòn năm 1864 thì thật là một tài liệu lý thú và cảm động. Rõ ràng đó là một hoạt động ngoại giao, quán được chọn để một số nhân vật Pháp Nam được gặp nhau, “một cách thăm viếng, tế nhị những người mà họ còn chưa gặp.” Đó là một cuộc gặp gỡ thuần túy xã giao, hay có vấn đề gì cần được thảo luận thêm, một cách không chính thức? Dù sao thì chắc chắn ba vị Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản là những ông quan cao cấp đầu tiên của triều đình Việt Nam đi vào một quán cà phê trên đất Việt Nam, mở đầu cho một sinh hoạt mà bao nhiêu thần dân đất nước của quí vị sẽ say mê tiếp tục trong suốt một trăm mấy chục năm sau. Thời gian ở Pháp trong năm 1863, các vị có được người Pháp mời đi đến các quán cà phê Paris hay không? Điều này không thấy nói tới trong Tây Hành Nhật Ký của Phạm Phú Thứ, mặc dù trong tác phẩm ấy cụ Phạm ghi rất kỹ những chuyến thăm viếng tại kinh thành Paris. Nhưng trong Tây Hành Nhật Ký chúng ta thấy tác giả đã Việt hóa rất nhiều thuật ngữ của phương Tây về chính trị, quân sự, tôn giáo, kinh tế... Riêng về món cà phê tác giả đã chế ra hai từ: một, phiên âm café thành “ca-hòe”; hai, Việt hóa café thành “trà đậu”, tức là một loại hạt (như hạt đậu) được biến chế thành thức uống (như trà). Hai tiếng này ngày nay không còn ai dùng, nhưng chắc chắn đó là hai thuật ngữ đầu tiên của tiếng Việt để gọi món cà phê.
Nước Pháp và nghệ thuật
Một người Việt Nam lần đầu đi đến Pháp có thể mang hai tiên kiến: hoặc từ nước Việt Nam nghèo nàn lạc hậu cựu thuộc địa, trông chờ hình ảnh một “mẫu quốc” rất cao sang hoàn hảo; hoặc từ một nước phát triển khác, phần nhiều là Mỹ, với một số tiêu chuẩn và hình ảnh về cuộc sống mình đang có, để so sánh. Cả hai thái độ đó đều khiến cho cái nhìn nước Pháp bị khúc xạ, mất đi sự trung thực. Thực ra đây chẳng phải là nơi tuyệt đối cao sang như chờ đợi, hoặc là nơi để đọ sức về mức độ tân tiến và giàu có. Nước Pháp, Paris, tự bộc lộ mình như một bông hoa quí phái hiếm có với tất cả giá trị riêng biệt của nó, đòi hỏi một thái độ và trình độ thưởng thức thích hợp.
Ngay về địa lý nước Pháp cũng đã có một “ngoại hình” đẹp, đó là một đất nước có hình thể cân đối đầy đặn. Trong cái hình lục giác rất đều ấy, sông núi, đồng bằng, bờ biển phân bố hợp lý và mỹ thuật, hình như trong thiên nhiên tạo hóa đã muốn tạo ra ở đây một tác phẩm ưu tú và cũng đặt vào đấy một giống dân biết sống như thế nào cho phù hợp với cảnh trí và tài nguyên mà mình có. Có đến một số nước Âu châu như Bỉ, Hòa Lan, Đức…mới thấy rằng đồng quê của Pháp có một vẻ đẹp đặc biệt, rất nhiều nơi phong cảnh cứ như một bức họa, không phải loại tranh vẽ tầm thường mà là danh họa, được vẽ bởi tay họa sĩ bực thầy. Đó chẳng phải hoàn toàn là sự tình cờ của thiên nhiên, mà còn do trong khi cày cấy trồng trọt và xây dựng nông trang, người Pháp đã mang cả khiếu thẩm mỹ vào đất đai của mình. Họ rất xứng đáng là người thừa hưởng một trong những mảnh đất vào hạng đẹp nhất của trái đất này.
Nước Pháp và nghệ thuật
Một người Việt Nam lần đầu đi đến Pháp có thể mang hai tiên kiến: hoặc từ nước Việt Nam nghèo nàn lạc hậu cựu thuộc địa, trông chờ hình ảnh một “mẫu quốc” rất cao sang hoàn hảo; hoặc từ một nước phát triển khác, phần nhiều là Mỹ, với một số tiêu chuẩn và hình ảnh về cuộc sống mình đang có, để so sánh. Cả hai thái độ đó đều khiến cho cái nhìn nước Pháp bị khúc xạ, mất đi sự trung thực. Thực ra đây chẳng phải là nơi tuyệt đối cao sang như chờ đợi, hoặc là nơi để đọ sức về mức độ tân tiến và giàu có. Nước Pháp, Paris, tự bộc lộ mình như một bông hoa quí phái hiếm có với tất cả giá trị riêng biệt của nó, đòi hỏi một thái độ và trình độ thưởng thức thích hợp.
Ngay về địa lý nước Pháp cũng đã có một “ngoại hình” đẹp, đó là một đất nước có hình thể cân đối đầy đặn. Trong cái hình lục giác rất đều ấy, sông núi, đồng bằng, bờ biển phân bố hợp lý và mỹ thuật, hình như trong thiên nhiên tạo hóa đã muốn tạo ra ở đây một tác phẩm ưu tú và cũng đặt vào đấy một giống dân biết sống như thế nào cho phù hợp với cảnh trí và tài nguyên mà mình có. Có đến một số nước Âu châu như Bỉ, Hòa Lan, Đức…mới thấy rằng đồng quê của Pháp có một vẻ đẹp đặc biệt, rất nhiều nơi phong cảnh cứ như một bức họa, không phải loại tranh vẽ tầm thường mà là danh họa, được vẽ bởi tay họa sĩ bực thầy. Đó chẳng phải hoàn toàn là sự tình cờ của thiên nhiên, mà còn do trong khi cày cấy trồng trọt và xây dựng nông trang, người Pháp đã mang cả khiếu thẩm mỹ vào đất đai của mình. Họ rất xứng đáng là người thừa hưởng một trong những mảnh đất vào hạng đẹp nhất của trái đất này.
Trường Quốc gia Âm nhạc (Académie Nationale de Musique)
Hình như đối với người Pháp nghệ thuật không phải là một môn riêng biệt cao vời chỉ của một thiểu số, mà với họ, sống là nghệ thuật. Đền đài cung điện rực rỡ huy hoàng, các tác phẩm nghệ thuật danh tiếng, phát huy đến tột đỉnh tài năng và khiếu thẩm mỹ của người Pháp, cái đó thì đã dành. Trong cuộc sống thường, từng con đường, từng góc phố cho đến làng mạc xa xôi đều có sự cố công để làm nên vẻ đẹp. Không bao giờ người Pháp xây dựng một cái gì mà chỉ nghĩ đến khía cạnh thực dụng của nó, họ không thể chỉ vì sự thuận tiện mà dựng nên những hình ảnh thô thiển. Tinh thần Pháp là tổng hợp của cái tốt và cái đẹp, một công trình mà thiếu một trong hai yếu tố đó thì xem như chưa hoàn chỉnh. Sự ăn, mặc của họ cũng thế. Cái mà người ngoài cho là “kiểu cách” thì chính là nghệ thuật của họ đem vào sinh hoạt hàng ngày vậy. Một bữa ăn mà phải tuần tự uống ba thứ rượu (khai vị, rượu chính thích hợp với thức ăn, rượu thơm uống sau cùng để hoàn chỉnh dư vị của bữa ăn) thì đối với ta rắc rối quá, nhưng với cái lưỡi tinh tế và với quan niệm đưa việc ăn uống lên hàng nghệ thuật thì đấy chỉ là những quan tâm lựa chọn bình thường và bắt buộc. Sự lựa chọn trong cách phục sức cũng vậy. Tại sao Paris nổi tiếng về kiểu mẫu quần áo và đồ trang sức? Vì người Pháp cho rằng quần áo chính là chỗ để thể hiện vẻ đẹp một cách thiết thân nhất của con người, thân thể con người vốn đã là một tác phẩm đẹp rồi, việc phục sức cho nó dĩ nhiên phải dựa vào một quan niệm thẩm mỹ linh động luôn luôn đổi mới để đáp ứng cái nhu cầu thể hiện vẻ đẹp vốn mong manh và không có giới hạn. Họ đã đưa nghệ thuật trang sức và may mặc lên một trình độ rất cao, đến độ làm mẫu mực cho cả thế giới. Nếu dân tộc ấy không quan tâm đến cái đẹp và không biết làm nên cái đẹp thì làm sao đạt được danh vị ấy, và làm sao Paris từ bao thế kỷ vẫn là thánh địa cho bao nhiêu người làm nghệ thuật khắp nơi trên thế giới tìm về hoặc hướng về?
Trong sân viện bảo tàng Louvre
Ngay trong môn đá banh, mục đích của cuộc tranh tài của hai đội là đưa trái bóng nhiều lần tối đa vào khung thành phe địch, nhưng người Pháp phải thực hiện nên cái đẹp nữa trong quá trình dẫn dắt trái banh. Bóng đá Pháp thuộc trường phái hoa mỹ, có khi kém hiệu năng, nhưng ở những thời kỳ họ kết hợp được hiệu năng và hoa mỹ (cái tốt và cái đẹp) đến trình độ cao nhất thì thế giới được thưởng thức những tác phẩm tuyệt vời về môn bóng tròn. Đọ tài quân sự, kinh tế cũng như thể thao với người láng giềng giỏi dang và thực dụng là nước Đức, Pháp thường bị thua, nhưng người Đức vẫn phải ngả mũ trước vẻ xinh đẹp về mọi phương diện của nước Pháp.
Kẻ tạo vẻ đẹp cho đời được gọi là nghệ sĩ. Nước Pháp là một nước nghệ sĩ, và Paris là nơi kết tinh nghệ sĩ cao độ. Đến thành phố đó, ta cảm thấy có một cái gì thoáng đãng vượt lên trên chuyện áo cơm, vượt lên trên cả cái nghèo, khi nắm bắt được nó bỗng nhiên chúng ta thấy đời sống nhẹ nhõm đáng yêu bội phần. Ấy là cái thần của thành phố này, nó lãng đãng khắp nơi mời mọc ta, khuyên giải ta rằng trên đời này có một điều rất quan trọng không nên quên, đó là cái ĐẸP. Cả Paris như một ngôi đền thiêng thờ phụng từ cái đẹp rất thượng giới của tư tưởng sau các bức tường đại học đến cái đẹp trần thế của một cô gái đứng đường, từ các tác phẩm bất hủ cổ kim trong điện Louvre đến các bức vẽ của những nghệ sĩ vô danh bên bờ sông Seine… Mọi thứ đều được cư xử tôn trọng trong vương quốc ấy. Hãy cùng nhau đến khu Montmartre…
Montmartre: ngôi chợ (trên) trời
Trước hết lên thăm nhà thờ Sacré Coeur, phải leo lên những bực cấp rộng và dài dằng dặc mới đến nhà thờ ở đỉnh đồi. Đó là những bực cấp đi lên vui nhất thế giới, ta gặp trên đó vô số thanh niên nam nữ đang ngồi chơi bất kể vào thời khắc nào trong ngày. Họ nhìn xa xăm ra thành phố trải dài dưới chân đồi, ban ngày nhìn nắng nhảy múa, ban đêm nhìn đèn và sao nhấp nháy, họ chia nhau điếu thuốc, họ trò chuyện to tiếng hay thủ thỉ, họ hôn nhau…Đám người ấy luôn luôn có đấy như một hình ảnh bất biến, gắn liền với cảnh trí nhà thờ và báo hiệu cho cái không khí đặc biệt của Montmartre mà sau khi thăm nhà thờ, ta sẽ ghé qua ngay trên khu đất bên cạnh. Tại sao họ đến và ngồi đó? Đơn giản chỉ là “ngồi chơi,” nhưng nơi đó có một cái gì đó thu hút họ, và sự hiện diện của họ ngược lại cũng đem lại một không khí không bao giờ có trong đời thường, vừa trần tục vừa thượng giới, vừa là của tuổi trẻ hôm nay vừa là cái thanh xuân bất biến của bao đời người trẻ tuổi đã lui tới chốn này. Họ chỉ ngồi chơi, không vẽ tranh không ca hát, nói chung không làm một hình thức nghệ thuật nào, nhưng đám người ấy toát ra một vẻ nghệ sĩ miên viễn rất lạ, tuồng như chỉ sự ngồi chơi của họ trên các bực cấp nhà thờ ấy đã là một hành vi nghệ thuật, đã là một chất men cần thiết cho bầu khí quyển riêng biệt của hành tinh Montmartre.
Từ bên hông nhà thờ ta băng ngang vài con đường và bỗng dưng đã thấy mình đang ở giữa một thế giới khác. Một khu phố xá vây quanh một miếng đất vuông vức mỗi chiều độ vài trăm thước trong đó che lều bán tranh và nghệ phẩm, kê bàn để nhậu nhẹt ăn uống, và đặc biệt la liệt là các khung giá vẽ của các họa sĩ. Người đi như trẩy hội. Đúng Montmartre là một loại hội hè thường trực bất kể ngày đêm, vui không thể tả. Đến đó tinh thần của ta sẽ luôn luôn hớn hở như khi tuổi nhỏ được sống trong ngày Tết. Tết vui vì đang trong không khí chớm sáng tạo của mùa xuân. Montmartre vui vì bao trùm một không khí sáng tạo bất diệt, với một đám đông người không dứt, lượn tới lui, ăn nhậu, mua sắm, xem tranh và vẽ tranh… Đó là một chốn đào nguyên quanh năm không có buồn phiền, vì vào đây người ta bắt được và đắm vào niềm phơi phới của vẻ đẹp đang trở thành. Người ta vẫn buôn bán, vẫn mặc cả thêm bớt, vẫn ăn nhậu, nhưng đây không phải là đời thường. Tản Đà ngày xưa muốn bưng thơ lên chợ trên trời bán cho tiên, thì đây chính là một cái chợ như vậy, nhưng không có phân biệt người phàm và tiên, tất cả vào đấy đều biến thành tiên trong một khoảnh khắc sống thật vui. Tất cả màu sắc tục lụy vẫn nguyên đó, với rượu và bia, các món ăn nấu thơm lừng, với hàng hóa và phòng đổi tiền, nhưng tất cả như là đồ mã, mọi sự diễn ra như trong ngôi chợ âm phủ, như là không thật, vì như có một loại ma túy trong không khí làm người ta vào một cơn vui sướng lâng lâng. Nếu trong đời sống thực tế khi nói đến chuyện văn chương nghệ thuật người ta thường cho là chuyện phù phiếm thì lạ thay khi vào đây, nghĩ tới cuộc sống thực của ta “ở dưới trần” với bao hệ lụy của nó thì ta lại có cảm giác đó mới là những chuyện phù phiếm, và chỉ có cái không khí ngây ngất quanh đây mới là thực. Ta đang thực tập cái kinh nghiệm Trang Tử là bướm hay bướm là Trang Tử đây chăng?
Thì ra trên đời vẫn có những nơi bầu không khí đã nhuốm đầy chất cảm hứng do đã cô kết lâu đời phong cách của biết bao lớp người sáng tác. Họ tụ về nương nhờ vào nơi đó để tự thể hiện mình. Tinh anh càng phát tiết càng làm dày đặc thêm cái màu sắc thiêng liêng của nơi mình nương náu để sáng tạo. Montmartre giống như các đền miễu được nhiều người đến cúng vái thờ phượng. Càng thiêng càng nhiều người cúng vái, và càng nhiều người cúng vái thờ phượng thì càng thiêng. Chất nghệ sĩ của nước Pháp đã chọn Paris, và Paris đã chọn nơi này làm nơi tập họp và trao đổi sự sáng tạo hội họa với cung cách hồn nhiên, dân giã nhất. Người nghệ sĩ vô danh mang giá bút đến đây để trắc nghiệm mình, nơi đây không có trường ốc thi cử mà chỉ có sự sáng tạo đích thực và tự do, và cũng là nơi áp dụng một qui luật đào thải nghiêm ngặt. Bao nhiêu bực đàn anh tài hoa danh tiếng đã qua đây như anh ta ngày nay, đã cùng bao lớp người vô danh khác tạo nên một sức sống bàng bạc của nghệ thuật. Khách đến đây cảm nhận sức sống ấy ít hay nhiều tùy theo căn cơ của mình, nhưng đều biết rằng đây là một nơi khác thường, các tế bào của ta mách bảo chỗ này là một bầu khí quyển lạ, không giống với cái thế giới công việc và cơm áo hàng ngày của mọi người.
Kẻ tạo vẻ đẹp cho đời được gọi là nghệ sĩ. Nước Pháp là một nước nghệ sĩ, và Paris là nơi kết tinh nghệ sĩ cao độ. Đến thành phố đó, ta cảm thấy có một cái gì thoáng đãng vượt lên trên chuyện áo cơm, vượt lên trên cả cái nghèo, khi nắm bắt được nó bỗng nhiên chúng ta thấy đời sống nhẹ nhõm đáng yêu bội phần. Ấy là cái thần của thành phố này, nó lãng đãng khắp nơi mời mọc ta, khuyên giải ta rằng trên đời này có một điều rất quan trọng không nên quên, đó là cái ĐẸP. Cả Paris như một ngôi đền thiêng thờ phụng từ cái đẹp rất thượng giới của tư tưởng sau các bức tường đại học đến cái đẹp trần thế của một cô gái đứng đường, từ các tác phẩm bất hủ cổ kim trong điện Louvre đến các bức vẽ của những nghệ sĩ vô danh bên bờ sông Seine… Mọi thứ đều được cư xử tôn trọng trong vương quốc ấy. Hãy cùng nhau đến khu Montmartre…
Montmartre: ngôi chợ (trên) trời
Trước hết lên thăm nhà thờ Sacré Coeur, phải leo lên những bực cấp rộng và dài dằng dặc mới đến nhà thờ ở đỉnh đồi. Đó là những bực cấp đi lên vui nhất thế giới, ta gặp trên đó vô số thanh niên nam nữ đang ngồi chơi bất kể vào thời khắc nào trong ngày. Họ nhìn xa xăm ra thành phố trải dài dưới chân đồi, ban ngày nhìn nắng nhảy múa, ban đêm nhìn đèn và sao nhấp nháy, họ chia nhau điếu thuốc, họ trò chuyện to tiếng hay thủ thỉ, họ hôn nhau…Đám người ấy luôn luôn có đấy như một hình ảnh bất biến, gắn liền với cảnh trí nhà thờ và báo hiệu cho cái không khí đặc biệt của Montmartre mà sau khi thăm nhà thờ, ta sẽ ghé qua ngay trên khu đất bên cạnh. Tại sao họ đến và ngồi đó? Đơn giản chỉ là “ngồi chơi,” nhưng nơi đó có một cái gì đó thu hút họ, và sự hiện diện của họ ngược lại cũng đem lại một không khí không bao giờ có trong đời thường, vừa trần tục vừa thượng giới, vừa là của tuổi trẻ hôm nay vừa là cái thanh xuân bất biến của bao đời người trẻ tuổi đã lui tới chốn này. Họ chỉ ngồi chơi, không vẽ tranh không ca hát, nói chung không làm một hình thức nghệ thuật nào, nhưng đám người ấy toát ra một vẻ nghệ sĩ miên viễn rất lạ, tuồng như chỉ sự ngồi chơi của họ trên các bực cấp nhà thờ ấy đã là một hành vi nghệ thuật, đã là một chất men cần thiết cho bầu khí quyển riêng biệt của hành tinh Montmartre.
Từ bên hông nhà thờ ta băng ngang vài con đường và bỗng dưng đã thấy mình đang ở giữa một thế giới khác. Một khu phố xá vây quanh một miếng đất vuông vức mỗi chiều độ vài trăm thước trong đó che lều bán tranh và nghệ phẩm, kê bàn để nhậu nhẹt ăn uống, và đặc biệt la liệt là các khung giá vẽ của các họa sĩ. Người đi như trẩy hội. Đúng Montmartre là một loại hội hè thường trực bất kể ngày đêm, vui không thể tả. Đến đó tinh thần của ta sẽ luôn luôn hớn hở như khi tuổi nhỏ được sống trong ngày Tết. Tết vui vì đang trong không khí chớm sáng tạo của mùa xuân. Montmartre vui vì bao trùm một không khí sáng tạo bất diệt, với một đám đông người không dứt, lượn tới lui, ăn nhậu, mua sắm, xem tranh và vẽ tranh… Đó là một chốn đào nguyên quanh năm không có buồn phiền, vì vào đây người ta bắt được và đắm vào niềm phơi phới của vẻ đẹp đang trở thành. Người ta vẫn buôn bán, vẫn mặc cả thêm bớt, vẫn ăn nhậu, nhưng đây không phải là đời thường. Tản Đà ngày xưa muốn bưng thơ lên chợ trên trời bán cho tiên, thì đây chính là một cái chợ như vậy, nhưng không có phân biệt người phàm và tiên, tất cả vào đấy đều biến thành tiên trong một khoảnh khắc sống thật vui. Tất cả màu sắc tục lụy vẫn nguyên đó, với rượu và bia, các món ăn nấu thơm lừng, với hàng hóa và phòng đổi tiền, nhưng tất cả như là đồ mã, mọi sự diễn ra như trong ngôi chợ âm phủ, như là không thật, vì như có một loại ma túy trong không khí làm người ta vào một cơn vui sướng lâng lâng. Nếu trong đời sống thực tế khi nói đến chuyện văn chương nghệ thuật người ta thường cho là chuyện phù phiếm thì lạ thay khi vào đây, nghĩ tới cuộc sống thực của ta “ở dưới trần” với bao hệ lụy của nó thì ta lại có cảm giác đó mới là những chuyện phù phiếm, và chỉ có cái không khí ngây ngất quanh đây mới là thực. Ta đang thực tập cái kinh nghiệm Trang Tử là bướm hay bướm là Trang Tử đây chăng?
Thì ra trên đời vẫn có những nơi bầu không khí đã nhuốm đầy chất cảm hứng do đã cô kết lâu đời phong cách của biết bao lớp người sáng tác. Họ tụ về nương nhờ vào nơi đó để tự thể hiện mình. Tinh anh càng phát tiết càng làm dày đặc thêm cái màu sắc thiêng liêng của nơi mình nương náu để sáng tạo. Montmartre giống như các đền miễu được nhiều người đến cúng vái thờ phượng. Càng thiêng càng nhiều người cúng vái, và càng nhiều người cúng vái thờ phượng thì càng thiêng. Chất nghệ sĩ của nước Pháp đã chọn Paris, và Paris đã chọn nơi này làm nơi tập họp và trao đổi sự sáng tạo hội họa với cung cách hồn nhiên, dân giã nhất. Người nghệ sĩ vô danh mang giá bút đến đây để trắc nghiệm mình, nơi đây không có trường ốc thi cử mà chỉ có sự sáng tạo đích thực và tự do, và cũng là nơi áp dụng một qui luật đào thải nghiêm ngặt. Bao nhiêu bực đàn anh tài hoa danh tiếng đã qua đây như anh ta ngày nay, đã cùng bao lớp người vô danh khác tạo nên một sức sống bàng bạc của nghệ thuật. Khách đến đây cảm nhận sức sống ấy ít hay nhiều tùy theo căn cơ của mình, nhưng đều biết rằng đây là một nơi khác thường, các tế bào của ta mách bảo chỗ này là một bầu khí quyển lạ, không giống với cái thế giới công việc và cơm áo hàng ngày của mọi người.
Khu Montmartre với nhà thờ Sacré-Coeur bên cạnh
Đi vòng vòng xem các họa sĩ vẽ tranh, Lộc bảo tôi:
“Bọn mình đi chơi với nhau đã nhiều nơi, nhưng chưa bao giờ mình cảm thấy một nơi nào vui như thế này. Mà thực ra thì nó có gì đâu, một mảnh đất, một khu phố bình thường, tầm thường, đâu có gì là hào nhoáng lạ lùng, thế mà cái vui hình như vô tận. Chung quanh toàn là người tứ xứ…”
Lúc ấy tôi cũng thấy thế mà không hiểu tại sao. Dần dần tôi hiểu đó là lúc chất nghệ sĩ nơi Lộc rung động với Montmartre, giống như con cá tìm về được dòng suối xưa cũ của mình. Có một dòng suối vô hình đang chảy ồ ạt quanh đây, nó không thuộc vào một địa hình địa lý của riêng một xứ sở mà là chung của cả trái đất, người xứ nào cũng mong đến tắm trong ấy. Người tứ xứ đến đây giống như đi hành hương tôn giáo. Nhưng nếu hành hương tôn giáo là đi tìm quá khứ để sống lại kỷ niệm về một phát kiến tâm linh đã qua, thì Montmartre là một nơi để đắm vào một nguồn sáng tạo đang trở thành. Nơi đây là một sự trở thành mãi mãi, cảm hứng mới mẻ từng phút từng giây. Vui là vì vậy. Tâm hồn sẽ vào trong cơn phơi mở không ngừng, không phải tìm về một cái gì đã chết.
Cả trăm họa sĩ đang làm việc quanh đây, thuộc nhiều quốc tịch, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Việt Nam… Một số có cửa hàng nho nhỏ bày tranh của mình, nhưng phần đông đều ở ngoài trời, với dụng cụ gọn nhẹ, gồm một giá vẽ, vài cái ghế xếp, một cây dù che mưa nắng và đồ lề cần thiết như giấy, cọ, màu… Họ “bày hàng” để bán một món hàng vô hình là tài năng của họ, nó sẽ trở thành hữu hình một khi họ và khách hàng đã thuận mua vừa bán. Đó là những người vẽ tranh chân dung. Trong vòng trên dưới nửa giờ họ sẽ vẽ xong chân dung của khách hàng ngồi ngay trước mặt làm mẫu, với giá thỏa thuận trước, trung bình khoảng hai trăm quan một bức cỡ 60 x 40 cm. Vì làm nhanh, lấy tại chỗ nên hầu hết các bức họa được vẽ bằng chì và phấn. Chân dung cũng đủ kiểu, có người sở trường vẽ chân phương theo lối truyền thần, có người lại vẽ theo cách ký họa, chỉ chấm phá ít nét linh động tung hoành, lại có những bức theo lối hý họa, thể hiện một khuôn mặt theo những đường nét dí dỏm nhất mà họa sĩ có thể nhìn ra nơi người khách… Họ cũng chào mời khách như bất cứ một người bán hàng nào, và họ cũng nói thách, và khách cũng trả giá, mọi cái y như cảnh mua bán “dưới trần gian,” chỉ có khác là sau khi giá cả xong xuôi, khi họ bắt đầu “bán” tài nghệ của họ thì tất cả đi vào một thế giới khác, thế giới của sáng tạo. Lúc bấy giờ tương quan giữa người họa tranh với khách hàng không còn là người bán và người mua, mà là giữa nghệ sĩ và người mẫu. Đứng xem họ làm việc mới thấy sự nhọc nhằn của sáng tạo. Không giống như những thợ vẽ chân dung từ một bức ảnh, chỉ sao chép sao cho thật giống những gì đã in trên giấy, trước mặt họ là một người sống với tất cả sự linh động của nó trong từng giây phút trôi qua, họ phải nhìn và nắm bắt cho được cái gì là đặc trưng của người ấy trong đường nét cũng như trong tinh thần thể hiện ra mặt giấy bằng chì đen phấn trắng. Cho dù hành nghề đã nhiều năm, mỗi ngày vẽ cho bao nhiêu người, nhưng mỗi khi cầm bút bắt đầu một bức chân dung thì đối với người họa sĩ, đó vẫn là một việc làm hoàn toàn mới mẻ, chưa tiên đoán được kết quả. Họ luôn luôn đứng trước cái vực thẳm của chuyện thể hiện được hoặc không thể hiện được hình ảnh của đối tượng trước mặt. Họ đối diện thường trực với nỗi thách đố đó, và chỉ giải quyết được bằng tài năng và cảm hứng của chính họ ngay trong lúc đó mà thôi. Khi vẽ, người họa sĩ biến thành một người khác, không giống với con người trước đó mấy phút đã mặc cả với khách hàng từng đồng, và cũng không giống con người sau đó khi đã vẽ xong đưa tay nhận tiền của khách. Mặc cả và nhận tiền là việc của đời sống. Vẽ là nghệ thuật. Đứng trước giá vẽ, họ quên hết chung quanh, ngưng thần quan sát đối tượng, chuyển cái cảm nhận bằng thị giác ấy thành ảnh tượng của chính mình rồi đưa xuống bàn tay cầm bút và ghi lên giấy, quá trình ấy không lúc nào giống lúc nào, nó luôn luôn mới như mỗi hơi thở vào ra trong phổi làm nên sự sống của người nghệ sĩ. Quá trình ấy biến cái không thành cái có, từ chỗ hư vô đem lại sự hữu hình, đó là giây phút thiêng liêng và reo vui của bất cứ cái gì đang sinh nở trong tạo vật.
Dĩ nhiên kết quả của mỗi bức vẽ rất khác nhau. Khách hàng có thể rất hài lòng một cách ngạc nhiên, không ngờ mình được vẽ giống đến thế, có thể ngỡ ngàng nhìn cái hình trong tranh không biết nó có liên quan gì đến mình hay không, hoặc thán phục người nghệ sĩ đã nhìn thấy nơi mình những đường nét rất “hay” và bất ngờ chính mình cũng không biết…Nhưng luôn luôn giây phút cầm lấy tác phẩm từ tay người họa sĩ trao cho mà biết rằng từ nay mình là sở hữu chủ, người nhận thấy sung sướng và vinh hạnh, vì mình đang có trong tay một tác phẩm làm bằng tài năng và sáng tạo mà mình vừa được chứng kiến ngay tại chỗ, hơn thế nữa, mình có góp phần vào. Bức tranh thành một giá trị sống động trong tay ta. Bây giờ sẽ không có một ý niệm nào về số tiền mình đã bỏ ra để có bức vẽ này là đắt hay rẻ. Sự sáng tạo ấy và tiền bạc là hai cái không đi đôi với nhau, sự trị giá chỉ là một giao ước tạm.
Lộc muốn có một bức vẽ chân dung kể kỷ niệm. Chúng tôi hỏi chuyện mấy họa sĩ Việt Nam đang bày giá bút tại đây, các anh em đó đều vui vẻ gặp đồng hương, và hỏi ngay: “Các anh từ Mỹ đến à?” Hàng ngày gặp gỡ bao nhiêu là người tứ xứ, họ rất nhạy bén trong nhận xét. Khi nghe Lộc có ý tìm một họa sĩ vẽ chân dung thật giống, anh bạn họa sĩ Việt Nam không ngần ngại chỉ ngay một người đàn bà Á Đông đang lui cui vẽ tranh gần đấy: “ Chị Kurita kìa. Chị ấy là người Nhật, vẽ chân dung tài lắm đó.”
Kurita trạc tuổi ngoài ba mươi, là một người đàn bà nhu mì và rất lễ độ theo lối Nhật Bản, mặc dù cung cách cũng bụi đời giống như hầu hết nghệ sĩ hành nghề tại đây: một cái quần jean bạc mầu, một cái áo thun màu đen, tiếp chuyện với khách khi thì bằng tiếng Pháp, khi tiếng Anh, gặp đồng hương thì lại nói tiếng Nhật. Khi vẽ tranh, Kurita biến thành một người khác. Sau khi gài mảnh croquis lên giá vẽ và mời Lộc ngồi trên cái ghế xếp cách mình độ vài thước, cô ta đứng đối diện vừa với khung giấy trắng vừa với người mẫu và lập tức đi vào một trạng thái như là nhập định của các thiền sư. Thế giới đông đúc ồn ào chung quanh hình như không còn ảnh hưởng gì đến cô ta nữa. Thần thái của cô ta giờ đây chia làm hai rõ rệt: khi quay qua nhìn người mẫu đôi mắt cô mở to gần như hết cỡ, giống như ống kính phải mở tối đa khi chụp ảnh ở một nơi thiếu ánh sáng, các tia mắt trở nên sáng rực chiếu thẳng và úp chụp lên người mẫu lúc bấy giờ đang ngồi thụ động như một con mồi đã mất khả năng tự vệ. Trong mấy giây ấy, khuôn mặt cô ta trở thành khác lạ hẳn, cả sự sống ngưng đọng tập trung, đầy vẻ chủ động ngất ngây của một con thú đã quyết định phóng tới vồ mồi. Nhưng khi quay qua với giá vẽ đưa cây bút bắt đầu vờn trên mặt giấy thì vụt một cái nét mặt cô lại trở về vẻ bình thường, hình như mấy giây dữ dội vừa qua là cái không hề có. Bây giờ đến sự bí mật của bàn tay, cô vờn vẽ và hình của Lộc tượng thành dần dần, một cách như là huyền bí phù phép. Hai trạng thái ấy luân phiên xen kẽ nhau khi cô đang làm việc. Suốt bốn mươi phút ngồi làm mẫu, Lộc quan sát cô mà thì giờ trôi qua không hay, vì cái vẻ linh động đến lạ kỳ trong mỗi giây phút mà cô sáng tác. Bức vẽ quả nhiên rất đẹp, không những giống về đường nét, mà cái thần của con người cô thể hiện cũng rất giỏi.
“Bọn mình đi chơi với nhau đã nhiều nơi, nhưng chưa bao giờ mình cảm thấy một nơi nào vui như thế này. Mà thực ra thì nó có gì đâu, một mảnh đất, một khu phố bình thường, tầm thường, đâu có gì là hào nhoáng lạ lùng, thế mà cái vui hình như vô tận. Chung quanh toàn là người tứ xứ…”
Lúc ấy tôi cũng thấy thế mà không hiểu tại sao. Dần dần tôi hiểu đó là lúc chất nghệ sĩ nơi Lộc rung động với Montmartre, giống như con cá tìm về được dòng suối xưa cũ của mình. Có một dòng suối vô hình đang chảy ồ ạt quanh đây, nó không thuộc vào một địa hình địa lý của riêng một xứ sở mà là chung của cả trái đất, người xứ nào cũng mong đến tắm trong ấy. Người tứ xứ đến đây giống như đi hành hương tôn giáo. Nhưng nếu hành hương tôn giáo là đi tìm quá khứ để sống lại kỷ niệm về một phát kiến tâm linh đã qua, thì Montmartre là một nơi để đắm vào một nguồn sáng tạo đang trở thành. Nơi đây là một sự trở thành mãi mãi, cảm hứng mới mẻ từng phút từng giây. Vui là vì vậy. Tâm hồn sẽ vào trong cơn phơi mở không ngừng, không phải tìm về một cái gì đã chết.
Cả trăm họa sĩ đang làm việc quanh đây, thuộc nhiều quốc tịch, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Việt Nam… Một số có cửa hàng nho nhỏ bày tranh của mình, nhưng phần đông đều ở ngoài trời, với dụng cụ gọn nhẹ, gồm một giá vẽ, vài cái ghế xếp, một cây dù che mưa nắng và đồ lề cần thiết như giấy, cọ, màu… Họ “bày hàng” để bán một món hàng vô hình là tài năng của họ, nó sẽ trở thành hữu hình một khi họ và khách hàng đã thuận mua vừa bán. Đó là những người vẽ tranh chân dung. Trong vòng trên dưới nửa giờ họ sẽ vẽ xong chân dung của khách hàng ngồi ngay trước mặt làm mẫu, với giá thỏa thuận trước, trung bình khoảng hai trăm quan một bức cỡ 60 x 40 cm. Vì làm nhanh, lấy tại chỗ nên hầu hết các bức họa được vẽ bằng chì và phấn. Chân dung cũng đủ kiểu, có người sở trường vẽ chân phương theo lối truyền thần, có người lại vẽ theo cách ký họa, chỉ chấm phá ít nét linh động tung hoành, lại có những bức theo lối hý họa, thể hiện một khuôn mặt theo những đường nét dí dỏm nhất mà họa sĩ có thể nhìn ra nơi người khách… Họ cũng chào mời khách như bất cứ một người bán hàng nào, và họ cũng nói thách, và khách cũng trả giá, mọi cái y như cảnh mua bán “dưới trần gian,” chỉ có khác là sau khi giá cả xong xuôi, khi họ bắt đầu “bán” tài nghệ của họ thì tất cả đi vào một thế giới khác, thế giới của sáng tạo. Lúc bấy giờ tương quan giữa người họa tranh với khách hàng không còn là người bán và người mua, mà là giữa nghệ sĩ và người mẫu. Đứng xem họ làm việc mới thấy sự nhọc nhằn của sáng tạo. Không giống như những thợ vẽ chân dung từ một bức ảnh, chỉ sao chép sao cho thật giống những gì đã in trên giấy, trước mặt họ là một người sống với tất cả sự linh động của nó trong từng giây phút trôi qua, họ phải nhìn và nắm bắt cho được cái gì là đặc trưng của người ấy trong đường nét cũng như trong tinh thần thể hiện ra mặt giấy bằng chì đen phấn trắng. Cho dù hành nghề đã nhiều năm, mỗi ngày vẽ cho bao nhiêu người, nhưng mỗi khi cầm bút bắt đầu một bức chân dung thì đối với người họa sĩ, đó vẫn là một việc làm hoàn toàn mới mẻ, chưa tiên đoán được kết quả. Họ luôn luôn đứng trước cái vực thẳm của chuyện thể hiện được hoặc không thể hiện được hình ảnh của đối tượng trước mặt. Họ đối diện thường trực với nỗi thách đố đó, và chỉ giải quyết được bằng tài năng và cảm hứng của chính họ ngay trong lúc đó mà thôi. Khi vẽ, người họa sĩ biến thành một người khác, không giống với con người trước đó mấy phút đã mặc cả với khách hàng từng đồng, và cũng không giống con người sau đó khi đã vẽ xong đưa tay nhận tiền của khách. Mặc cả và nhận tiền là việc của đời sống. Vẽ là nghệ thuật. Đứng trước giá vẽ, họ quên hết chung quanh, ngưng thần quan sát đối tượng, chuyển cái cảm nhận bằng thị giác ấy thành ảnh tượng của chính mình rồi đưa xuống bàn tay cầm bút và ghi lên giấy, quá trình ấy không lúc nào giống lúc nào, nó luôn luôn mới như mỗi hơi thở vào ra trong phổi làm nên sự sống của người nghệ sĩ. Quá trình ấy biến cái không thành cái có, từ chỗ hư vô đem lại sự hữu hình, đó là giây phút thiêng liêng và reo vui của bất cứ cái gì đang sinh nở trong tạo vật.
Dĩ nhiên kết quả của mỗi bức vẽ rất khác nhau. Khách hàng có thể rất hài lòng một cách ngạc nhiên, không ngờ mình được vẽ giống đến thế, có thể ngỡ ngàng nhìn cái hình trong tranh không biết nó có liên quan gì đến mình hay không, hoặc thán phục người nghệ sĩ đã nhìn thấy nơi mình những đường nét rất “hay” và bất ngờ chính mình cũng không biết…Nhưng luôn luôn giây phút cầm lấy tác phẩm từ tay người họa sĩ trao cho mà biết rằng từ nay mình là sở hữu chủ, người nhận thấy sung sướng và vinh hạnh, vì mình đang có trong tay một tác phẩm làm bằng tài năng và sáng tạo mà mình vừa được chứng kiến ngay tại chỗ, hơn thế nữa, mình có góp phần vào. Bức tranh thành một giá trị sống động trong tay ta. Bây giờ sẽ không có một ý niệm nào về số tiền mình đã bỏ ra để có bức vẽ này là đắt hay rẻ. Sự sáng tạo ấy và tiền bạc là hai cái không đi đôi với nhau, sự trị giá chỉ là một giao ước tạm.
Lộc muốn có một bức vẽ chân dung kể kỷ niệm. Chúng tôi hỏi chuyện mấy họa sĩ Việt Nam đang bày giá bút tại đây, các anh em đó đều vui vẻ gặp đồng hương, và hỏi ngay: “Các anh từ Mỹ đến à?” Hàng ngày gặp gỡ bao nhiêu là người tứ xứ, họ rất nhạy bén trong nhận xét. Khi nghe Lộc có ý tìm một họa sĩ vẽ chân dung thật giống, anh bạn họa sĩ Việt Nam không ngần ngại chỉ ngay một người đàn bà Á Đông đang lui cui vẽ tranh gần đấy: “ Chị Kurita kìa. Chị ấy là người Nhật, vẽ chân dung tài lắm đó.”
Kurita trạc tuổi ngoài ba mươi, là một người đàn bà nhu mì và rất lễ độ theo lối Nhật Bản, mặc dù cung cách cũng bụi đời giống như hầu hết nghệ sĩ hành nghề tại đây: một cái quần jean bạc mầu, một cái áo thun màu đen, tiếp chuyện với khách khi thì bằng tiếng Pháp, khi tiếng Anh, gặp đồng hương thì lại nói tiếng Nhật. Khi vẽ tranh, Kurita biến thành một người khác. Sau khi gài mảnh croquis lên giá vẽ và mời Lộc ngồi trên cái ghế xếp cách mình độ vài thước, cô ta đứng đối diện vừa với khung giấy trắng vừa với người mẫu và lập tức đi vào một trạng thái như là nhập định của các thiền sư. Thế giới đông đúc ồn ào chung quanh hình như không còn ảnh hưởng gì đến cô ta nữa. Thần thái của cô ta giờ đây chia làm hai rõ rệt: khi quay qua nhìn người mẫu đôi mắt cô mở to gần như hết cỡ, giống như ống kính phải mở tối đa khi chụp ảnh ở một nơi thiếu ánh sáng, các tia mắt trở nên sáng rực chiếu thẳng và úp chụp lên người mẫu lúc bấy giờ đang ngồi thụ động như một con mồi đã mất khả năng tự vệ. Trong mấy giây ấy, khuôn mặt cô ta trở thành khác lạ hẳn, cả sự sống ngưng đọng tập trung, đầy vẻ chủ động ngất ngây của một con thú đã quyết định phóng tới vồ mồi. Nhưng khi quay qua với giá vẽ đưa cây bút bắt đầu vờn trên mặt giấy thì vụt một cái nét mặt cô lại trở về vẻ bình thường, hình như mấy giây dữ dội vừa qua là cái không hề có. Bây giờ đến sự bí mật của bàn tay, cô vờn vẽ và hình của Lộc tượng thành dần dần, một cách như là huyền bí phù phép. Hai trạng thái ấy luân phiên xen kẽ nhau khi cô đang làm việc. Suốt bốn mươi phút ngồi làm mẫu, Lộc quan sát cô mà thì giờ trôi qua không hay, vì cái vẻ linh động đến lạ kỳ trong mỗi giây phút mà cô sáng tác. Bức vẽ quả nhiên rất đẹp, không những giống về đường nét, mà cái thần của con người cô thể hiện cũng rất giỏi.
Họa sĩ người Nhật Kurita đang vẽ chân dung tác giả
Đã quá trưa, say sưa theo dõi mấy người họa sĩ vẽ vời, thì giờ trôi qua không hay. Trong khu vẽ có rất nhiều chỗ ăn uống, hoặc cửa hiệu, hoặc ở chỗ trống có che bạt, có bồi của các nhà hàng mang thức ăn ra tận nơi, giống như cảnh ăn uống nơi một số nhà lồng chợ ở Việt Nam. Nhưng chúng tôi không ăn ở đó mà men theo một con đường nhỏ để vào một nhà hàng ăn nằm trên sườn đồi quay lưng với khu vẽ, nhìn bao quát xuống toàn cảnh Paris. Đi suốt mấy tiếng đồng hồ dưới nắng xem tranh và xem vẽ tranh, bây giờ ngồi thoải mái dưới mái hiên nhà hàng, uống một hơi hết ly bia, phóng tầm mắt ra xa, thấy tâm thần như dần dần xả ra khỏi một cơn lên đồng. Cái vui vẫn còn đọng nhưng cơn xuất thần đã qua, nhận thức trở về với thực tại. Bia là thật, thịt và bánh mì là thật, cảm giác thư giãn là thật, và Paris đang trải dài dưới kia, chỗ này là tháp Eiffel, chỗ kia là cổng Khải Hoàn, và tiếp tục lan xa mãi. Ngày hôm nay tôi trải qua một kinh nghiệm trước đây tôi chưa gặp. Tôi đã đi lạc vào một vương quốc lạ, bầu không khí trong đó có khả năng đánh thức một con người khác nơi tôi bấy lâu yên ngủ, hoặc đã phù phép để tôi lẫn lộn cả âm dương. Ai cũng biết người ta không chỉ sống vì bánh mì, ngoài chuyện áo cơm còn nhiều chuyện khác, nhưng những “chuyện khác” đó là gì thì câu trả lời thật mông lung vô tận. Hãy đến đây mà học lấy một kinh nghiệm, mà cảm nghiệm bằng chính bản thân mình thế nào là cái yêu ma của sáng tạo nghệ thuật. Người ta có thể dựng nên vô số thế giới tưởng tượng để sống những giây phút xuất thần, nhưng hạnh phúc nhất là nhiễm được không khí sáng tạo nghệ thuật. Nó vẫn nằm trong đời thường mà vượt lên trên đời thường, nó vẫn dính tới áo cơm mà lại ở bên kia chuyện áo cơm. Đó là một cõi nhân sinh đặc biệt. Và ở Paris đó là đồi Montmartre.
(Theo dự định của tác giả lúc viết -1997- thì bài chưa chấm dứt ở đây. Nhưng sau đó vì bận nhiều việc, đành để bài viết dang dở).
(Theo dự định của tác giả lúc viết -1997- thì bài chưa chấm dứt ở đây. Nhưng sau đó vì bận nhiều việc, đành để bài viết dang dở).
4. Nét Xuân Sơn
Saturday, May 17, 2014
Nét Xuân Sơn
Bạn có bao giờ để ý đến vẻ núi mùa xuân chưa? Và đã thấy tràn đầy trong lòng một niềm vui không cội rễ khi nhìn thấy nét tươi tắn lạ lùng của núi trong một bầu trời xuân? Tôi đã sống bảy năm trên vùng thượng du của tỉnh Thanh Hóa, bên bờ con sông Mã, và đã bảy mùa xuân chứng kiến những kỳ diệu của đất trời, núi sông và lòng mình. Ðấy là một nơi hiểm trở, trại đóng ngay trên sườn núi trông xuống sông, bên kia sông là một bình nguyên nho nhỏ, rồi lại tiếp tục núi. Hai đầu sông được chắn bởi núi, bốn phía toàn núi, gần xa đậm nhạt khác nhau. Mùa hè núi như cận cảnh, khô và thô thiển. Núi lúc đó đơn giản chỉ là địa hình, là cao độ khác nhau của khoa địa lý và đo đạc. Ðó là tính toán của khai thác gỗ và tre nứa. Và đối với chúng tôi, đó là mơ ước và nỗi sợ hãi của chuyện trốn trại.
Mùa thu núi bỗng mơ màng. Bầu trời trong xanh hơn và núi như phủ mờ một làn sương khói mỏng. Trời càng se lạnh núi càng xa cách, càng rời xa vẻ thực tế tầm thường để tự biến mình thành huyền ảo. Vào mùa thu sông Mã đã thôi gầm lên khúc độc hành, vẻ đục ngầu dữ tợn của mùa hè đã trôi mất, bây giờ lặng lẽ trong xanh để hòa hợp với dáng núi đang trong một chuyển cung yểu điệu. Trời, núi, sông và người cùng vào một cơn ngất ngây buồn như tiên cảm một nỗi lạnh tê đầy bất trắc. Các ruộng bắp ven sông đã úa vàng. Công việc thu hoạch mùa màng vào các buổi chiều mùa thu mang một vẻ đẹp cổ điển với ánh nắng vàng xiên xiên, lá bắp khô xào xạc và bếp lửa nấu nước ở bờ ruộng vươn cột khói lên cao... Cuối buổi làm đi tắm rửa dưới sông nghe làn nước trong bắt đầu mát lạnh thấm thía, tựa hồ càng trong càng lạnh, và bóng núi chập chờn dưới nước như lặp lại một áng thơ xưa. Lòng rỗng không với cơn đói kinh niên vẫn còn chút sức để thưởng thức một cách đau khổ tuyệt vọng vẻ đẹp não nùng của đất trời. Nhìn qua giải bình nguyên ngắn bên kia sông, mắt bắt đầu từ chỗ núi xanh xanh phía đông chuyển dần sang phía tây, lặng lẽ lướt qua một ít “bờ xanh tiếp bãi vàng” rồi thì lại gặp núi, một trái núi khá gần, to sững, ở lưng chừng há ngoác ra một cái hang đen ngòm như hang núi Văn Dú. Và sông lại mất hút vào núi, khối thủy tinh trong và lạnh mùa thu ấy như được chắt lọc từ các khối núi thẳm mờ mờ phía tây...
Cứ thế trời đất đi sâu vào mùa đông. Khí buốt căm căm, nước buốt căm căm, núi thành vô tình, xa cách, đứng riêng một cõi, hướng về trời chứ chẳng thèm hướng về người. Lạnh lẽo. Núi chẳng còn một chút cảm thông giữa làn mây khói trắng dày luôn luôn phong tỏa. Các đạo sĩ, các thần linh hoạt động trong ấy. Cả dòng sông cũng xa xôi, tê buốt chẳng còn chút tình. Người tù tơi tả đứng bên sông núi cũng quắt queo vì đói lạnh, lòng run chứ không còn rung động, các bắp thịt teo tóp căng cứng trong cơn lập cập. Mọi thứ thành từng khối riêng biệt, chặt đứt hết cảm thông. Khối núi quấn áo bông trắng, khối sông như thỏi sắt lạnh vô tri, khối người mọi giác quan gần tê liệt trong một hoảng hốt tê dại kháng cự đẩy cái chết đừng cho đến gần.
Miễn là đừng chết, miễn là qua được mùa đông.
Rồi thì núi sẽ trở lại là núi, sông trở lại là sông, người trở lại là người. Một buổi, cơn giá lạnh như đang tan loãng dần trong không gian, cái ấm áp như nhen nhóm được một tí từ đâu đấy, cây mơ, cây đào bỗng đầy nụ, và có những toán người đi về phía núi kiếm lá giong về gói bánh chưng tết thì người tù cũng ra dần khỏi trạng thái mông muội của những ngày đông dài. Và xuống bến sông, nhìn về phía đông nơi con sông chảy dần thành chất lỏng để có thể xôn xao nhè nhẹ trong cuộc hành trình. Bạn sẽ sững người trông thấy núi, và tâm bạn, trí bạn, miệng bạn cùng lúc thốt lên: “Nét xuân sơn!”, như là chỉ có tiếng đó mới nói lên đầy đủ được những gì bạn đang thấy. Trên nền trời vừa trong sáng lại một cách kỳ dị sau mấy tháng xám xịt, như một tảng ngọc xanh có pha phơn phớt hồng, các dãy núi mới toanh như vừa lột xác. Trời nước trong một làn ánh sáng long lanh, núi đứng tiếp hàng trước sau từng dãy, trật tự và tươi cười, đường nét thanh tú rõ rệt cái đậm cái nhạt tạo thành một bức hoành tráng mỹ lệ, như một dàn hợp xướng ngợi ca điều cao cả trong lành đang ngập tràn trong trời đất. Vứt bỏ mớ áo xống lôi thôi của mùa đông, dáng núi trở nên uyển chuyển duyên dáng lạ lùng, một thân thể người nữ tuyệt hảo trong tuổi thanh xuân cũng không thể hơn thế. Ðường cắt trên bầu trời như một nét hân hoan, một tiếng cười chưa thành, một niềm vui mới chớm. Chứa chan. Người đứng trên bờ sông cảm thấy mắt mình đẫm lệ vui, biết mình đã bắt lại được với nguồn sống đang chỗi dậy trong đất, trong nước, trong cây đá ở trên núi. Núi có vẻ đang vẫy tay, đang chuẩn bị bước lên đường trong một hành trình đầy hứa hẹn. Không chỉ là trái núi mà là trái núi trong một bầu trời xuân, với dòng sông trở lại khe khẽ róc rách, với dương khí trở lại nhu hòa, với chim chóc cất tiếng hót, với bầu trời trở nên quang quẻ ửng hồng. Một toàn thể đang thức giấc, vươn vai, mà nét núi là một đường cắt tiêu biểu hiện trên nền trời. Ðó là chỗ đất trời giao nhau. Là cái hôn đầy âu yếm của đôi tình nhân lâu ngày xa cách.
Người đứng bên bờ sông Mã đã bảy lần được tiếp sức như thế để tiếp tục sống còn. Không còn gì hữu hiệu hơn là mùa xuân. Một niềm vui từ đâu trong sâu thẳm bỗng được khơi dậy cùng một lần với núi thay áo mới, sông hết đông lạnh và bầu khí ôn hòa. Cái gì làm cho tôi vui thế? Không có gì làm tôi vui cả, bản thân tôi lúc ấy là niềm vui. Cái mà tôi gọi là niềm vui ấy thật ra là một sự cựa quậy chuyển mình của chính tôi như là một phần của sự chuyển mình chung của vạn vật. Có thể thiên nhiên vô tình, chuyển mình như thế chắc chẳng vui mà cũng chẳng buồn, cái nẩy mầm với cái tàn lụi đối với vũ trụ vần xoay thì có gì là quan trọng đâu, chỉ là các chu kỳ được lặp lại. Nhưng đối với tôi, một sinh vật ốm o đói rét và tuyệt vọng đứng bên sông Mã một buổi sáng mùa xuân thì cái “cựa mình mùa xuân” xảy ra trong tôi thật cực kỳ quan trọng, nó cho tôi một nỗi phơi phới không điều kiện, nỗi phơi phới tự thân, đưa tôi ngang tầm với núi sông và với bầu trời rộng lớn khiến trong chốc lát tôi thấy nỗi khổ đau tuyệt vọng đang mang chỉ là cái nhỏ bé buồn cười.
Tôi biết đó cũng chỉ là ảo giác mùa xuân thôi, cũng như làn thu thủy nét xuân sơn chỉ là những nét đằm thắm hoặc rực rỡ trong chốc lát mà con người nắm bắt được từ thiên nhiên, và những nét ấy dù được thể hiện trên một con người nhan sắc khuynh thành như nàng Kiều thì chẳng qua cũng sớm nở tối tàn... Nhưng vấn đề là con người phải nắm bắt được những khoảnh khắc đó, sự thông cảm giữa con người và thiên nhiên biểu hiện ra bằng Nghệ Thuật khiến các khoảnh khắc ấy thành thiên thu, và con người cũng lên ngôi theo... Tiếc thay tôi không biến giây phút bên sông Mã ấy thành nghệ thuật được vì tôi không có khả năng ấy, nhưng tôi biến nó thành cảm hứng cho sự sống của chính tôi để có thể tiếp tục tồn tại trong cơn tuyệt vọng. Tiếp tục sống... đó cũng là một tác phẩm đáng kể đấy chứ? Núi mùa xuân là một trong những vẻ đẹp tươi tắn nhất ở đời, giống như vẻ đẹp của những con người nam nữ ở tuổi thanh niên. Xanh như ngọc, sắc nét, đa tình, hùng tráng. Cả mùa xuân tạo nên vẻ ấy chứ không phải chỉ núi có được cái ấy. Và phải có con người đang trong cơn say xuân mới cảm nhận được nét xuân sơn. * Buổi chiều nay, hăm bốn tháng chạp năm chín hai, tôi ngồi bên cửa sổ trong một ngôi nhà ở vùng Irvine, California, nhìn ra cảnh vật xinh tươi bên ngoài, bỗng tim như đập hụt một nhịp khi nhìn thấy bóng núi phía xa xa. Chính là nó hay là một hoài niệm? Tôi tưởng tôi đang sống trong mùa xuân giữa một buổi chiều Giáng Sinh thế này hay sao? “Mùa xuân có không, hay là cõi tâm?” Ðạo Ca 10 của Phạm Duy và Phạm Thiên Thư có một vấn nạn như thế. Tôi cũng tự hỏi tôi như thế. Ðiều có thật là rặng núi xa xa kia quả đã mang lại cho tôi một vẻ gì gần gần như là một nét xuân sơn. Thiên nhiên ở đây tươi đẹp quá, có thể tạo cho tôi một ảo giác mùa xuân; buổi chiều này mang vẻ như buổi chiều cuối năm bên nhà, tạo nên cảm tưởng tết nhất; cái lạnh vừa phải của vùng Cali mùa đông giống mùa tết ở Việt Nam. Cái gì cũng “như là”, “giống như”, tất cả đều là vay mượn cả chăng? Bóng núi vừa làm tim tôi đập hụt một nhịp ấy là giả chăng? Trong một xứ sở được sắp xếp tổ chức quá chu đáo, cả thiên nhiên cũng được “tổ chức”, liệu nó có cho con người một mùa xuân chính hiệu như đất trời vẫn mang lại từ hồi nào tới giờ? Liệu cái cảm giác như chuyển mùa mình cảm thấy rưng rưng trong lòng ấy là thật hay cũng là một sản phẩm làm sẵn giống như hàng vạn lời chúc in trong hàng triệu tấm thiệp mừng? Cái nào là tiền chế, cái nào mới xuất phát nóng bỏng tự trái tim, đến một lúc lẫn lộn thật cũng khó phân biệt. Nhưng chẳng lẽ mùa xuân mà cũng tiền chế được sao? Thật ra không nên đặt vấn đề như thế. Từ thời con người còn ăn lông ở lỗ cho đến trình độ văn minh như ngày nay đã qua biết bao lần phải chế ngự thiên nhiên để tổ chức xã hội, chuyện đó đâu phải ngày nay mới có. Chắc trong lịch sử của mình con người đã nhiều lần cảm thấy ngờ ngợ về mối tương quan mới của mình với cái thiên nhiên mà mình vừa mới khai phá và chế ngự xong. Cảm thấy bất mãn như mình vừa phá vỡ một cái gì nguyên thủy để không bao giờ tìm gặp lại được nữa, và tình trạng mới thì không biết nó sẽ dẫn mình đi tới đâu. Nhưng rồi quen đi cả, và một trạng thái mới về tinh thần sẽ được đạt tới để đáp ứng với điều kiện sống mới. Ðón xuân khi còn ngồi trong hang động bên cạnh đống lửa thì hẳn là khác với khi ngồi ở trường kỷ bên cạnh vườn hoa khề khà chén rượu ngâm vịnh xướng họa cùng nhau. Khác về trình độ trí óc lẫn trạng thái tâm hồn. Và chẳng có gì bắt con người phải dừng lại tại một chỗ nào trên đường tiến hóa cả, con đường đó không bao giờ hoàn tất, và ở vào bậc thang nào thì ta cần phải ứng xử với tầm vóc trí óc và tâm hồn tương ứng vậy. Hình như có chỗ khác nhau giữa nét xuân sơn Thanh Hóa và nét xuân sơn Cali. Có, mỗi nơi có một toàn cảnh khác, mang một vẻ riêng, và không nên lấy điều ấy làm quan trọng. Cũng không nên thắc mắc niềm vui rộn rã vừa thấy là giả hay thật, vấn đề là có nó hay không thôi. Cảm giác mùa xuân giữa buổi chiều đông, cũng được chứ sao, thời điểm, khí hậu trên quả đất mỗi nơi khác nhau, không nên coi một cái mốc nào là cố định để đo đạc mọi chuyện. Ta đang ở trong cái mênh mông của sự tương đối, thì cứ vui cái vui của tương đối, hoài niệm là một trang điểm cho hiện tại nhưng không phải là hiện tại, và càng không phải tiêu biểu cho tất cả các sợi tơ xao động một cách vô cùng rắc rối trong tâm ta. Nhiều thứ của cuộc sống có thể lừa dối ta nhưng núi thì không. Những vết nhăn nhúm trên vỏ địa cầu nhìn chung chỉ như cái gợn sóng nhưng ở gần mà đối diện thì nó to lớn, vững chãi, đầy tin cậy. Và mỗi khi nó cho ta một vẻ đẹp ngây ngất, mà ta gọi là “nét xuân sơn” thì cứ hãy biết rằng tín hiệu tốt đã tới rồi, vì chính con người ta đang trong một cơn chuyển dịch, tương ứng với một chuyển dịch đang diễn ra ở ngoại giới, mà xưa nay cả loài người gọi là Mùa Xuân. Irvine 25-12-1992
Nét Xuân Sơn
Trần Mộng Tú
Mồng hai Tết mở cửa ra thấy núi
em đón núi vào mời chén trà xanh
núi cúi xuống soi mình trong đáy tách
nét xuân sơn trong làn khói mong manh
Núi bao năm mà hồn còn xanh biếc
sương trên vai vẫn ấm áp bốn mùa
tuyết phủ trên đầu thản nhiên rũ xuống
nắng bao dung độ lượng những cơn mưa
Em bao năm miệt mài từng xuân tới
giơ tay ra quơ vội nắm thời gian
mang tuổi mình nhuộm xanh cùng với tóc
dối gian nhau lừa cả đến hồng nhan
Em với núi khẽ nghiêng đầu đối ẩm
núi chia cho em một mảnh tâm xuân
ngửa cổ uống niềm an nhiên của núi
chờ mùa xuân chẩy xuống một thâm ân
Cả không gian như chìm trong thinh lặng
chỉ còn nghe tiếng thở của cánh trà
núi với người bỗng chẳng còn hiện hữu
khí hạo nhiên đã xóa dấu hai ta
Khai Bút Mồng Hai
Xuân Giáp Ngọ 2014
Nét Xuân Sơn
Bạn có bao giờ để ý đến vẻ núi mùa xuân chưa? Và đã thấy tràn đầy trong lòng một niềm vui không cội rễ khi nhìn thấy nét tươi tắn lạ lùng của núi trong một bầu trời xuân? Tôi đã sống bảy năm trên vùng thượng du của tỉnh Thanh Hóa, bên bờ con sông Mã, và đã bảy mùa xuân chứng kiến những kỳ diệu của đất trời, núi sông và lòng mình. Ðấy là một nơi hiểm trở, trại đóng ngay trên sườn núi trông xuống sông, bên kia sông là một bình nguyên nho nhỏ, rồi lại tiếp tục núi. Hai đầu sông được chắn bởi núi, bốn phía toàn núi, gần xa đậm nhạt khác nhau. Mùa hè núi như cận cảnh, khô và thô thiển. Núi lúc đó đơn giản chỉ là địa hình, là cao độ khác nhau của khoa địa lý và đo đạc. Ðó là tính toán của khai thác gỗ và tre nứa. Và đối với chúng tôi, đó là mơ ước và nỗi sợ hãi của chuyện trốn trại.
Mùa thu núi bỗng mơ màng. Bầu trời trong xanh hơn và núi như phủ mờ một làn sương khói mỏng. Trời càng se lạnh núi càng xa cách, càng rời xa vẻ thực tế tầm thường để tự biến mình thành huyền ảo. Vào mùa thu sông Mã đã thôi gầm lên khúc độc hành, vẻ đục ngầu dữ tợn của mùa hè đã trôi mất, bây giờ lặng lẽ trong xanh để hòa hợp với dáng núi đang trong một chuyển cung yểu điệu. Trời, núi, sông và người cùng vào một cơn ngất ngây buồn như tiên cảm một nỗi lạnh tê đầy bất trắc. Các ruộng bắp ven sông đã úa vàng. Công việc thu hoạch mùa màng vào các buổi chiều mùa thu mang một vẻ đẹp cổ điển với ánh nắng vàng xiên xiên, lá bắp khô xào xạc và bếp lửa nấu nước ở bờ ruộng vươn cột khói lên cao... Cuối buổi làm đi tắm rửa dưới sông nghe làn nước trong bắt đầu mát lạnh thấm thía, tựa hồ càng trong càng lạnh, và bóng núi chập chờn dưới nước như lặp lại một áng thơ xưa. Lòng rỗng không với cơn đói kinh niên vẫn còn chút sức để thưởng thức một cách đau khổ tuyệt vọng vẻ đẹp não nùng của đất trời. Nhìn qua giải bình nguyên ngắn bên kia sông, mắt bắt đầu từ chỗ núi xanh xanh phía đông chuyển dần sang phía tây, lặng lẽ lướt qua một ít “bờ xanh tiếp bãi vàng” rồi thì lại gặp núi, một trái núi khá gần, to sững, ở lưng chừng há ngoác ra một cái hang đen ngòm như hang núi Văn Dú. Và sông lại mất hút vào núi, khối thủy tinh trong và lạnh mùa thu ấy như được chắt lọc từ các khối núi thẳm mờ mờ phía tây...
Cứ thế trời đất đi sâu vào mùa đông. Khí buốt căm căm, nước buốt căm căm, núi thành vô tình, xa cách, đứng riêng một cõi, hướng về trời chứ chẳng thèm hướng về người. Lạnh lẽo. Núi chẳng còn một chút cảm thông giữa làn mây khói trắng dày luôn luôn phong tỏa. Các đạo sĩ, các thần linh hoạt động trong ấy. Cả dòng sông cũng xa xôi, tê buốt chẳng còn chút tình. Người tù tơi tả đứng bên sông núi cũng quắt queo vì đói lạnh, lòng run chứ không còn rung động, các bắp thịt teo tóp căng cứng trong cơn lập cập. Mọi thứ thành từng khối riêng biệt, chặt đứt hết cảm thông. Khối núi quấn áo bông trắng, khối sông như thỏi sắt lạnh vô tri, khối người mọi giác quan gần tê liệt trong một hoảng hốt tê dại kháng cự đẩy cái chết đừng cho đến gần.
Miễn là đừng chết, miễn là qua được mùa đông.
Rồi thì núi sẽ trở lại là núi, sông trở lại là sông, người trở lại là người. Một buổi, cơn giá lạnh như đang tan loãng dần trong không gian, cái ấm áp như nhen nhóm được một tí từ đâu đấy, cây mơ, cây đào bỗng đầy nụ, và có những toán người đi về phía núi kiếm lá giong về gói bánh chưng tết thì người tù cũng ra dần khỏi trạng thái mông muội của những ngày đông dài. Và xuống bến sông, nhìn về phía đông nơi con sông chảy dần thành chất lỏng để có thể xôn xao nhè nhẹ trong cuộc hành trình. Bạn sẽ sững người trông thấy núi, và tâm bạn, trí bạn, miệng bạn cùng lúc thốt lên: “Nét xuân sơn!”, như là chỉ có tiếng đó mới nói lên đầy đủ được những gì bạn đang thấy. Trên nền trời vừa trong sáng lại một cách kỳ dị sau mấy tháng xám xịt, như một tảng ngọc xanh có pha phơn phớt hồng, các dãy núi mới toanh như vừa lột xác. Trời nước trong một làn ánh sáng long lanh, núi đứng tiếp hàng trước sau từng dãy, trật tự và tươi cười, đường nét thanh tú rõ rệt cái đậm cái nhạt tạo thành một bức hoành tráng mỹ lệ, như một dàn hợp xướng ngợi ca điều cao cả trong lành đang ngập tràn trong trời đất. Vứt bỏ mớ áo xống lôi thôi của mùa đông, dáng núi trở nên uyển chuyển duyên dáng lạ lùng, một thân thể người nữ tuyệt hảo trong tuổi thanh xuân cũng không thể hơn thế. Ðường cắt trên bầu trời như một nét hân hoan, một tiếng cười chưa thành, một niềm vui mới chớm. Chứa chan. Người đứng trên bờ sông cảm thấy mắt mình đẫm lệ vui, biết mình đã bắt lại được với nguồn sống đang chỗi dậy trong đất, trong nước, trong cây đá ở trên núi. Núi có vẻ đang vẫy tay, đang chuẩn bị bước lên đường trong một hành trình đầy hứa hẹn. Không chỉ là trái núi mà là trái núi trong một bầu trời xuân, với dòng sông trở lại khe khẽ róc rách, với dương khí trở lại nhu hòa, với chim chóc cất tiếng hót, với bầu trời trở nên quang quẻ ửng hồng. Một toàn thể đang thức giấc, vươn vai, mà nét núi là một đường cắt tiêu biểu hiện trên nền trời. Ðó là chỗ đất trời giao nhau. Là cái hôn đầy âu yếm của đôi tình nhân lâu ngày xa cách.
Người đứng bên bờ sông Mã đã bảy lần được tiếp sức như thế để tiếp tục sống còn. Không còn gì hữu hiệu hơn là mùa xuân. Một niềm vui từ đâu trong sâu thẳm bỗng được khơi dậy cùng một lần với núi thay áo mới, sông hết đông lạnh và bầu khí ôn hòa. Cái gì làm cho tôi vui thế? Không có gì làm tôi vui cả, bản thân tôi lúc ấy là niềm vui. Cái mà tôi gọi là niềm vui ấy thật ra là một sự cựa quậy chuyển mình của chính tôi như là một phần của sự chuyển mình chung của vạn vật. Có thể thiên nhiên vô tình, chuyển mình như thế chắc chẳng vui mà cũng chẳng buồn, cái nẩy mầm với cái tàn lụi đối với vũ trụ vần xoay thì có gì là quan trọng đâu, chỉ là các chu kỳ được lặp lại. Nhưng đối với tôi, một sinh vật ốm o đói rét và tuyệt vọng đứng bên sông Mã một buổi sáng mùa xuân thì cái “cựa mình mùa xuân” xảy ra trong tôi thật cực kỳ quan trọng, nó cho tôi một nỗi phơi phới không điều kiện, nỗi phơi phới tự thân, đưa tôi ngang tầm với núi sông và với bầu trời rộng lớn khiến trong chốc lát tôi thấy nỗi khổ đau tuyệt vọng đang mang chỉ là cái nhỏ bé buồn cười.
Tôi biết đó cũng chỉ là ảo giác mùa xuân thôi, cũng như làn thu thủy nét xuân sơn chỉ là những nét đằm thắm hoặc rực rỡ trong chốc lát mà con người nắm bắt được từ thiên nhiên, và những nét ấy dù được thể hiện trên một con người nhan sắc khuynh thành như nàng Kiều thì chẳng qua cũng sớm nở tối tàn... Nhưng vấn đề là con người phải nắm bắt được những khoảnh khắc đó, sự thông cảm giữa con người và thiên nhiên biểu hiện ra bằng Nghệ Thuật khiến các khoảnh khắc ấy thành thiên thu, và con người cũng lên ngôi theo... Tiếc thay tôi không biến giây phút bên sông Mã ấy thành nghệ thuật được vì tôi không có khả năng ấy, nhưng tôi biến nó thành cảm hứng cho sự sống của chính tôi để có thể tiếp tục tồn tại trong cơn tuyệt vọng. Tiếp tục sống... đó cũng là một tác phẩm đáng kể đấy chứ? Núi mùa xuân là một trong những vẻ đẹp tươi tắn nhất ở đời, giống như vẻ đẹp của những con người nam nữ ở tuổi thanh niên. Xanh như ngọc, sắc nét, đa tình, hùng tráng. Cả mùa xuân tạo nên vẻ ấy chứ không phải chỉ núi có được cái ấy. Và phải có con người đang trong cơn say xuân mới cảm nhận được nét xuân sơn. * Buổi chiều nay, hăm bốn tháng chạp năm chín hai, tôi ngồi bên cửa sổ trong một ngôi nhà ở vùng Irvine, California, nhìn ra cảnh vật xinh tươi bên ngoài, bỗng tim như đập hụt một nhịp khi nhìn thấy bóng núi phía xa xa. Chính là nó hay là một hoài niệm? Tôi tưởng tôi đang sống trong mùa xuân giữa một buổi chiều Giáng Sinh thế này hay sao? “Mùa xuân có không, hay là cõi tâm?” Ðạo Ca 10 của Phạm Duy và Phạm Thiên Thư có một vấn nạn như thế. Tôi cũng tự hỏi tôi như thế. Ðiều có thật là rặng núi xa xa kia quả đã mang lại cho tôi một vẻ gì gần gần như là một nét xuân sơn. Thiên nhiên ở đây tươi đẹp quá, có thể tạo cho tôi một ảo giác mùa xuân; buổi chiều này mang vẻ như buổi chiều cuối năm bên nhà, tạo nên cảm tưởng tết nhất; cái lạnh vừa phải của vùng Cali mùa đông giống mùa tết ở Việt Nam. Cái gì cũng “như là”, “giống như”, tất cả đều là vay mượn cả chăng? Bóng núi vừa làm tim tôi đập hụt một nhịp ấy là giả chăng? Trong một xứ sở được sắp xếp tổ chức quá chu đáo, cả thiên nhiên cũng được “tổ chức”, liệu nó có cho con người một mùa xuân chính hiệu như đất trời vẫn mang lại từ hồi nào tới giờ? Liệu cái cảm giác như chuyển mùa mình cảm thấy rưng rưng trong lòng ấy là thật hay cũng là một sản phẩm làm sẵn giống như hàng vạn lời chúc in trong hàng triệu tấm thiệp mừng? Cái nào là tiền chế, cái nào mới xuất phát nóng bỏng tự trái tim, đến một lúc lẫn lộn thật cũng khó phân biệt. Nhưng chẳng lẽ mùa xuân mà cũng tiền chế được sao? Thật ra không nên đặt vấn đề như thế. Từ thời con người còn ăn lông ở lỗ cho đến trình độ văn minh như ngày nay đã qua biết bao lần phải chế ngự thiên nhiên để tổ chức xã hội, chuyện đó đâu phải ngày nay mới có. Chắc trong lịch sử của mình con người đã nhiều lần cảm thấy ngờ ngợ về mối tương quan mới của mình với cái thiên nhiên mà mình vừa mới khai phá và chế ngự xong. Cảm thấy bất mãn như mình vừa phá vỡ một cái gì nguyên thủy để không bao giờ tìm gặp lại được nữa, và tình trạng mới thì không biết nó sẽ dẫn mình đi tới đâu. Nhưng rồi quen đi cả, và một trạng thái mới về tinh thần sẽ được đạt tới để đáp ứng với điều kiện sống mới. Ðón xuân khi còn ngồi trong hang động bên cạnh đống lửa thì hẳn là khác với khi ngồi ở trường kỷ bên cạnh vườn hoa khề khà chén rượu ngâm vịnh xướng họa cùng nhau. Khác về trình độ trí óc lẫn trạng thái tâm hồn. Và chẳng có gì bắt con người phải dừng lại tại một chỗ nào trên đường tiến hóa cả, con đường đó không bao giờ hoàn tất, và ở vào bậc thang nào thì ta cần phải ứng xử với tầm vóc trí óc và tâm hồn tương ứng vậy. Hình như có chỗ khác nhau giữa nét xuân sơn Thanh Hóa và nét xuân sơn Cali. Có, mỗi nơi có một toàn cảnh khác, mang một vẻ riêng, và không nên lấy điều ấy làm quan trọng. Cũng không nên thắc mắc niềm vui rộn rã vừa thấy là giả hay thật, vấn đề là có nó hay không thôi. Cảm giác mùa xuân giữa buổi chiều đông, cũng được chứ sao, thời điểm, khí hậu trên quả đất mỗi nơi khác nhau, không nên coi một cái mốc nào là cố định để đo đạc mọi chuyện. Ta đang ở trong cái mênh mông của sự tương đối, thì cứ vui cái vui của tương đối, hoài niệm là một trang điểm cho hiện tại nhưng không phải là hiện tại, và càng không phải tiêu biểu cho tất cả các sợi tơ xao động một cách vô cùng rắc rối trong tâm ta. Nhiều thứ của cuộc sống có thể lừa dối ta nhưng núi thì không. Những vết nhăn nhúm trên vỏ địa cầu nhìn chung chỉ như cái gợn sóng nhưng ở gần mà đối diện thì nó to lớn, vững chãi, đầy tin cậy. Và mỗi khi nó cho ta một vẻ đẹp ngây ngất, mà ta gọi là “nét xuân sơn” thì cứ hãy biết rằng tín hiệu tốt đã tới rồi, vì chính con người ta đang trong một cơn chuyển dịch, tương ứng với một chuyển dịch đang diễn ra ở ngoại giới, mà xưa nay cả loài người gọi là Mùa Xuân. Irvine 25-12-1992
Nét Xuân Sơn
Trần Mộng Tú
Mồng hai Tết mở cửa ra thấy núi
em đón núi vào mời chén trà xanh
núi cúi xuống soi mình trong đáy tách
nét xuân sơn trong làn khói mong manh
Núi bao năm mà hồn còn xanh biếc
sương trên vai vẫn ấm áp bốn mùa
tuyết phủ trên đầu thản nhiên rũ xuống
nắng bao dung độ lượng những cơn mưa
Em bao năm miệt mài từng xuân tới
giơ tay ra quơ vội nắm thời gian
mang tuổi mình nhuộm xanh cùng với tóc
dối gian nhau lừa cả đến hồng nhan
Em với núi khẽ nghiêng đầu đối ẩm
núi chia cho em một mảnh tâm xuân
ngửa cổ uống niềm an nhiên của núi
chờ mùa xuân chẩy xuống một thâm ân
Cả không gian như chìm trong thinh lặng
chỉ còn nghe tiếng thở của cánh trà
núi với người bỗng chẳng còn hiện hữu
khí hạo nhiên đã xóa dấu hai ta
Khai Bút Mồng Hai
Xuân Giáp Ngọ 2014
3. Mì Quảng
Phạm Phú Minh
Xét về nguồn gốc của các món ăn Việt Nam chỉ có hai món mang tên của địa phương mà nó phát sinh, là bún bò Huế và mì Quảng. Nhưng bún bò Huế không đặc thù bằng mì Quảng, vì bún vốn là một hình thức chế biến lương thực rất phổ biến của người Việt Nam, và các món như bún riêu, bún ốc, bún bung... của vùng châu thổ sông Hồng Hà hẳn là phải có trước bún bò Huế. Bún bò Huế cũng theo nguyên tắc dùng sợi bún và nước lèo, chỉ có nguyên liệu, gia vị và cách nấu là khác thôi. Ðó chỉ là một sự phát triển và biến hóa dựa trên một cái nền cũ. Nhưng mì Quảng thì có vẻ là một sáng tạo riêng biệt của vùng Quảng Nam không dựa trên một truyền thống có sẵn nào.
Trước hết về tên gọi, chữ “mì” không ổn nhưng rất độc đáo. Mì vốn là sản phẩm của người Tàu, chế tạo bằng bột mì, các món ăn xưa của Việt Nam không có món nào gọi là mì cả, (dĩ nhiên trừ mì Quảng). Mì Quảng là món mì duy nhất của Việt Nam, nhưng có điều buồn cười đó chỉ là mượn tên gọi thôi, chứ thực chất món sợi ấy làm bằng bột gạo chứ không có tí bột mì nào trong đó cả. Không ổn là ở chỗ ấy, mà độc đáo cũng là ở chỗ ấy. Ðã không dựa trên một truyền thống nào mà cả lối đặt tên cũng mới lạ, món mì Quảng xứng đáng làm một đề tài nghiên cứu về văn hóa trong lịch sử của xứ Ðàng Trong.
Sợi mì Quảng làm bằng bột gạo, xắt ra từ một loại bánh tráng dày còn tươi (không phơi khô). Về phương diện này sợi mì Quảng và sợi phở giống nhau, nhưng chưa chắc bên nào mô phỏng bên nào. Tuy phát sinh từ miền Bắc, món phở không cho chúng ta cảm tưởng là một món ăn xưa trong truyền thống ăn uống Việt Nam như là các món miến và bún. Cỗ bàn xưa không bao giờ nghe nói đến phở, các truyện xưa tích cũ và cả tài liệu sách vở xưa không bao giờ nhắc đến phở, và phở cũng không bao giờ là một món ăn truyền thống được nấu trong gia đình ngày trước. Cách khai thác thịt của con bò trong cách nấu phở có vẻ gì tân tiến qui mô hơn hẳn các món cổ truyền, cả cái tên gọi “phở” nghe cũng mới mới. Nhiều người cho rằng phở chỉ mới có sau khi người Pháp qua xâm chiếm Việt Nam, từ cách nấu đến tên gọi đều mang ảnh hưởng Pháp. Tại vùng nông thôn nước Pháp ngày xưa vào những ngày đông tháng giá trong mỗi nhà nông dân người ta thường nấu một nồi xúp lớn thường trực. Khi đi làm về chỉ việc múc xúp ra ăn với bánh mì khỏi mất thì giờ nấu nướng lỉnh kỉnh. Vì nồi súp ấy lúc nào cũng được đặt trên bếp lửa cháy (có lẽ để cho ấm nhà trong mùa đông luôn) nên được gọi là Pot-au-feu. Cách nấu súp truyền thống ấy được áp dụng trong quân đội Pháp, và theo đám quân viễn chinh Pháp vào Việt Nam. Những người Việt Nam được tuyển vào làm bếp cho quân đội Pháp đã được dạy nấu món ấy và có thể là ông tổ của món phở khi đem biến cái món pot-au-feu ấy cho hợp với khẩu vị và cách ăn của Việt Nam, và gọi tắt luôn cái âm pô-tô-phơ ấy thành phở cho tiện. Ðó là một giả thuyết rất thuyết phục về nguồn gốc của phở, và theo đó thì món này chỉ xuất hiện sớm nhất vào cuối thế kỷ 19 là cùng. Và như thế thì tuổi của nó trẻ hơn món mì Quảng nhiều. Vào thế kỷ thứ16 dưới triều các Chúa Nguyễn đất Quảng Nam đã ổn định từ lâu và thành phố Hội An đã thành một hải cảng quốc tế buôn bán phồn thịnh. Ngoài người Tàu đến lập nghiệp ở đây rất đông lập hẳn một cái làng Minh Hương đến nay vẫn còn, còn có các thương nhân Nhật Bản, Hòa Lan, Tây Ban Nha... đến mở cửa hiệu hoặc lui tới làm ăn. Trong một thành phố như thế thì dĩ nhiên việc ăn uống phát triển, cửa hàng ăn phải nhiều, và người Tàu, với truyền thống nấu nướng phong phú nổi tiếng của họ, chắc chắn là nhiều ưu thế. Những món ăn nổi tiếng của Hội An về sau nầy như hoành thánh, cao lầu cũng vẫn là món ăn của người Tàu. Và vào thời xa xưa ấy dĩ nhiên người Tàu đã đem món mì của họ vào Hội An, cái món mì sợi trứ danh mà người Ý đã học được từ nhiều thế kỷ trước để biến hóa thành món spaghetti cũng nổi tiếng không kém. Nếu gọi “thức ăn là văn hóa” thì dân Quảng Nam vào thời ấy đã ở trong một luồng giao lưu văn hóa rất sớm, ít ra chỉ mới trong việc nếm thức ngon vật lạ của bốn phương. Những nhà cách mạng của Quảng Nam sau ngày dễ nhạy cảm với phong trào Duy Tân, đi tiền phong trong nhiều công cuộc đổi mới có lẽ một phần cũng nhờ là hậu duệ của một lớp người đã có dịp mở rộng tầm mắt từ ba bốn thế kỷ trước, trong đó có cả việc tiếp xúc với những khẩu vị mới lạ của thế giới.
Món mì của người Tàu tất nhiên rất gần với khẩu vị của dân nước ta, và theo đúng truyền thống dung hóa của dân tộc Việt Nam, ta lại dung nạp và biến hóa món mì ấy để phù hợp với sản vật và cái “gu” ăn uống của ta. Và thế là dù không có bột mì, người Quảng Nam vẫn có món mì của mình, chẳng khác nào sau này món pot-au-feu biến thành món phở ở miền Bắc vậy. Quảng Nam là địa phương duy nhất trong cả nước có món mì như thế, và khi xét về các đặc tính của nó ta sẽ hiểu sự hình thành và vai trò của nó trong đời sống của người dân Quảng Nam.
Phạm Phú Minh
Xét về nguồn gốc của các món ăn Việt Nam chỉ có hai món mang tên của địa phương mà nó phát sinh, là bún bò Huế và mì Quảng. Nhưng bún bò Huế không đặc thù bằng mì Quảng, vì bún vốn là một hình thức chế biến lương thực rất phổ biến của người Việt Nam, và các món như bún riêu, bún ốc, bún bung... của vùng châu thổ sông Hồng Hà hẳn là phải có trước bún bò Huế. Bún bò Huế cũng theo nguyên tắc dùng sợi bún và nước lèo, chỉ có nguyên liệu, gia vị và cách nấu là khác thôi. Ðó chỉ là một sự phát triển và biến hóa dựa trên một cái nền cũ. Nhưng mì Quảng thì có vẻ là một sáng tạo riêng biệt của vùng Quảng Nam không dựa trên một truyền thống có sẵn nào.
Trước hết về tên gọi, chữ “mì” không ổn nhưng rất độc đáo. Mì vốn là sản phẩm của người Tàu, chế tạo bằng bột mì, các món ăn xưa của Việt Nam không có món nào gọi là mì cả, (dĩ nhiên trừ mì Quảng). Mì Quảng là món mì duy nhất của Việt Nam, nhưng có điều buồn cười đó chỉ là mượn tên gọi thôi, chứ thực chất món sợi ấy làm bằng bột gạo chứ không có tí bột mì nào trong đó cả. Không ổn là ở chỗ ấy, mà độc đáo cũng là ở chỗ ấy. Ðã không dựa trên một truyền thống nào mà cả lối đặt tên cũng mới lạ, món mì Quảng xứng đáng làm một đề tài nghiên cứu về văn hóa trong lịch sử của xứ Ðàng Trong.
Sợi mì Quảng làm bằng bột gạo, xắt ra từ một loại bánh tráng dày còn tươi (không phơi khô). Về phương diện này sợi mì Quảng và sợi phở giống nhau, nhưng chưa chắc bên nào mô phỏng bên nào. Tuy phát sinh từ miền Bắc, món phở không cho chúng ta cảm tưởng là một món ăn xưa trong truyền thống ăn uống Việt Nam như là các món miến và bún. Cỗ bàn xưa không bao giờ nghe nói đến phở, các truyện xưa tích cũ và cả tài liệu sách vở xưa không bao giờ nhắc đến phở, và phở cũng không bao giờ là một món ăn truyền thống được nấu trong gia đình ngày trước. Cách khai thác thịt của con bò trong cách nấu phở có vẻ gì tân tiến qui mô hơn hẳn các món cổ truyền, cả cái tên gọi “phở” nghe cũng mới mới. Nhiều người cho rằng phở chỉ mới có sau khi người Pháp qua xâm chiếm Việt Nam, từ cách nấu đến tên gọi đều mang ảnh hưởng Pháp. Tại vùng nông thôn nước Pháp ngày xưa vào những ngày đông tháng giá trong mỗi nhà nông dân người ta thường nấu một nồi xúp lớn thường trực. Khi đi làm về chỉ việc múc xúp ra ăn với bánh mì khỏi mất thì giờ nấu nướng lỉnh kỉnh. Vì nồi súp ấy lúc nào cũng được đặt trên bếp lửa cháy (có lẽ để cho ấm nhà trong mùa đông luôn) nên được gọi là Pot-au-feu. Cách nấu súp truyền thống ấy được áp dụng trong quân đội Pháp, và theo đám quân viễn chinh Pháp vào Việt Nam. Những người Việt Nam được tuyển vào làm bếp cho quân đội Pháp đã được dạy nấu món ấy và có thể là ông tổ của món phở khi đem biến cái món pot-au-feu ấy cho hợp với khẩu vị và cách ăn của Việt Nam, và gọi tắt luôn cái âm pô-tô-phơ ấy thành phở cho tiện. Ðó là một giả thuyết rất thuyết phục về nguồn gốc của phở, và theo đó thì món này chỉ xuất hiện sớm nhất vào cuối thế kỷ 19 là cùng. Và như thế thì tuổi của nó trẻ hơn món mì Quảng nhiều. Vào thế kỷ thứ16 dưới triều các Chúa Nguyễn đất Quảng Nam đã ổn định từ lâu và thành phố Hội An đã thành một hải cảng quốc tế buôn bán phồn thịnh. Ngoài người Tàu đến lập nghiệp ở đây rất đông lập hẳn một cái làng Minh Hương đến nay vẫn còn, còn có các thương nhân Nhật Bản, Hòa Lan, Tây Ban Nha... đến mở cửa hiệu hoặc lui tới làm ăn. Trong một thành phố như thế thì dĩ nhiên việc ăn uống phát triển, cửa hàng ăn phải nhiều, và người Tàu, với truyền thống nấu nướng phong phú nổi tiếng của họ, chắc chắn là nhiều ưu thế. Những món ăn nổi tiếng của Hội An về sau nầy như hoành thánh, cao lầu cũng vẫn là món ăn của người Tàu. Và vào thời xa xưa ấy dĩ nhiên người Tàu đã đem món mì của họ vào Hội An, cái món mì sợi trứ danh mà người Ý đã học được từ nhiều thế kỷ trước để biến hóa thành món spaghetti cũng nổi tiếng không kém. Nếu gọi “thức ăn là văn hóa” thì dân Quảng Nam vào thời ấy đã ở trong một luồng giao lưu văn hóa rất sớm, ít ra chỉ mới trong việc nếm thức ngon vật lạ của bốn phương. Những nhà cách mạng của Quảng Nam sau ngày dễ nhạy cảm với phong trào Duy Tân, đi tiền phong trong nhiều công cuộc đổi mới có lẽ một phần cũng nhờ là hậu duệ của một lớp người đã có dịp mở rộng tầm mắt từ ba bốn thế kỷ trước, trong đó có cả việc tiếp xúc với những khẩu vị mới lạ của thế giới.
Món mì của người Tàu tất nhiên rất gần với khẩu vị của dân nước ta, và theo đúng truyền thống dung hóa của dân tộc Việt Nam, ta lại dung nạp và biến hóa món mì ấy để phù hợp với sản vật và cái “gu” ăn uống của ta. Và thế là dù không có bột mì, người Quảng Nam vẫn có món mì của mình, chẳng khác nào sau này món pot-au-feu biến thành món phở ở miền Bắc vậy. Quảng Nam là địa phương duy nhất trong cả nước có món mì như thế, và khi xét về các đặc tính của nó ta sẽ hiểu sự hình thành và vai trò của nó trong đời sống của người dân Quảng Nam.
Ai cũng biết nước ta có rất nhiều tỉnh bắt đầu bằng tên Quảng, nhưng khi nói đến mì Quảng thì ai cũng hiểu đó là món mì của đất Quảng Nam. Nhưng ngay tại Quảng Nam thì người ta không gọi là mì Quảng, mà chỉ gọi là mì, mà không sợ lẫn lộn với mì của bất cứ một ông Tàu nào. Món mì tàu chỉ có tại các cửa hiệu ở Hội An và Ðà Nẵng, trong khi mì của dân Quảng Nam là một món ăn rất dân giã, phổ biến đến từng làng mạc xa xôi nhất, có mặt ở tất cả mọi gia đình Quảng Nam giàu nhất hoặc nghèo nhất. Bạn có tìm thể tìm thấy mì Quảng từ chân đèo Hải Vân phía nam đến vùng An Tân, Bến Ván mà sau này gọi là Chu Lai, từ vùng cao Dùi Chiêng, Tí, Sé, Tiên Phước cho đến các làng ven biển Đông. Ở đâu cũng có thể làm lấy sợi mì được, chỉ cần một cái cối đá xay bột, khi gạo đã được xay ra thành bột nước, người ta “tráng mì” trên một nồi nước sôi bịt vải theo kiểu như làm bánh tráng, nhưng lá mì dày hơn bánh tráng, sau đó dùng dao xắt lá mì thành sợi, thế là xong. Người ta ít khi nói nấu nước lèo cho mì, món mì Quảng không có nước lèo, mà chỉ có làm nhưn. Ðây thật ra cũng là một loại nước lèo, nhưng rất cô đặc, ít nước, làm cho tô mì Quảng thường rất khô. Vì thế, tại các quán mì ở thôn quê người ta thường thấy thực khách vừa ăn mì vừa nhâm nhi một cút rượu trắng, một điều ta ít khi thấy ở những người ăn phở hay ăn bún riêu, bún bò. Nghĩa là khi cần thì mì Quảng tạm dùng làm món nhậu cũng được.
Nhưn mì Quảng làm bằng gì? Hình như không bao giờ có thể khẳng định bằng một tiếng như phở bò, miến gà, hoặc bún giò heo. Chỉ một tiếng “Quảng” đi theo với tiếng mì thôi. Nhưng một tiếng ấy bao gồm không biết bao nhiêu là loại nguyên liệu có thể dùng để nấu thành nhưn mì Quảng. Có thể nói với bất cứ thứ thịt cá tôm cua gì người ta cũng có thể xào nấu thành nhưn mì. Vùng nhiều tôm cua thì làm mì tôm cua. Dễ tìm như thịt heo thịt bò thì ta có mì thịt heo thịt bò. Ở thôn quê xa chợ búa câu được mấy con cá tràu thì cứ làm mì cá tràu. Hoặc gà, vịt tùy thích. Ðầu mùa mưa bắt được nhiều ếch thì người ta lại được thưởng thức món mì ếch, loại đặc sản lâu lâu mới có một lần. Với một nguyên tắc chung là sợi mì bằng bột gạo -gạo trắng cho sợi mì màu trắng, gạo đỏ cho sợi mì màu nâu, có khi cho tí nghệ để có loại mì vàng, cùng được chấp nhận hết - và một loại nhưn nhị cô đặc làm bằng bất cứ thực phẩm nào cũng được, ta thấy rằng mì Quảng là một món biến hóa khôn lường, và đó chính là điều làm nổi bật tính cách dân gian của nó, dễ dãi tùy theo sản phẩm mà địa phương hoặc gia đình có được mà tô mì sẽ có một hương vị như thế nào. So với những thứ khác cùng loại, mì Quảng (loại truyền thống) có vẻ quê mùa. Các cọng mì xắt to hơi thô và cứng, rau sống ghém thường có bắp chuối hoặc chuối cây, món nhưn ít nước rải lên trên thêm đậu phộng giã và bánh tráng nướng bẻ vụn, khi trộn lên trông tô mì lổn nhổn, không có được sự mềm mại của bánh phở trắng tinh, uyển chuyển trong làn nước dùng trong veo, hoặc quyến rũ với miếng giò heo và màu đỏ cay của tô bún bò. Nhưng phở hay bún bò có cái hấp dẫn của sự tinh tế, còn mì Quảng có cái ngon lành của sự mộc mạc. Sợi mì to, chất nhưn rất đậm và ngậy béo cho ta một cảm giác ngon hơi phàm nhưng mạnh mẽ, kích thích. Người ta không ăn mì Quảng một cách nhỏ nhẻ mà phải “lua ào ào” mới ngon. Nếu ăn trong khung cảnh đơn sơ của thôn quê thì càng hay. Vì nếu xét theo sự hiện diện và tính chất của nó thì có thể kết luận chắc chắn mì Quảng phát nguyên trước hết ở nông thôn mà kẻ thưởng thức là những người làm lụng cực nhọc trên đồng ruộng. Với câu “hãy nói cho tôi biết anh ăn cái gì và ăn như thế nào, tôi sẽ nói anh là người ra sao” thì món mì Quảng cũng nói lên được bản chất của người Quảng Nam nhiều lắm. Không màu mè kiểu cách, hơi thô thiển nhưng chân thật, rất vững vàng trong nguyên tắc nhưng cũng biết uyển chuyển trong ứng xử, mặc dầu uyển chuyển một cách hơi cứng nhắc. Rõ ràng mì làm sao thì người làm vậy.
Tại các làng quê xa của nước ta khách lỡ độ đường thường khó kiếm được quán ăn, nhưng nếu là ở Quảng Nam thì khỏi lo điều ấy, vì làng nào hầu như cũng có ít nhất là một quán mì, và mì Quảng luôn luôn là loại thức ăn rẻ tiền và chắc bụng. Quán mì là một điểm rất đặc biệt của thôn quê Quảng Nam. Tất cả dân làng đều có dịp ghé ăn ở đó, không có tiền mặt trả ngay thì tới mùa đong lúa trả cũng được. Nhà có khách bất ngờ không nấu nướng kịp thì chạy ra quán mì mua một vài tô đặc biệt về đãi khách. Ngày mùa nhà nào có kêu thợ gặt có thể đặt làm một gánh mì gánh ra đồng đãi thợ “ăn uống nước nửa buổi.” Món mì gắn chặt với đời sống hằng ngày của mọi người, và hai tiếng “ăn mì” rất phổ biến đối với người dân quê Quảng Nam, nói lên một sinh hoạt ăn uống không xa xỉ hoang phí lắm nhưng cũng vượt một tí khỏi mức bình thường.
Nhưn mì Quảng làm bằng gì? Hình như không bao giờ có thể khẳng định bằng một tiếng như phở bò, miến gà, hoặc bún giò heo. Chỉ một tiếng “Quảng” đi theo với tiếng mì thôi. Nhưng một tiếng ấy bao gồm không biết bao nhiêu là loại nguyên liệu có thể dùng để nấu thành nhưn mì Quảng. Có thể nói với bất cứ thứ thịt cá tôm cua gì người ta cũng có thể xào nấu thành nhưn mì. Vùng nhiều tôm cua thì làm mì tôm cua. Dễ tìm như thịt heo thịt bò thì ta có mì thịt heo thịt bò. Ở thôn quê xa chợ búa câu được mấy con cá tràu thì cứ làm mì cá tràu. Hoặc gà, vịt tùy thích. Ðầu mùa mưa bắt được nhiều ếch thì người ta lại được thưởng thức món mì ếch, loại đặc sản lâu lâu mới có một lần. Với một nguyên tắc chung là sợi mì bằng bột gạo -gạo trắng cho sợi mì màu trắng, gạo đỏ cho sợi mì màu nâu, có khi cho tí nghệ để có loại mì vàng, cùng được chấp nhận hết - và một loại nhưn nhị cô đặc làm bằng bất cứ thực phẩm nào cũng được, ta thấy rằng mì Quảng là một món biến hóa khôn lường, và đó chính là điều làm nổi bật tính cách dân gian của nó, dễ dãi tùy theo sản phẩm mà địa phương hoặc gia đình có được mà tô mì sẽ có một hương vị như thế nào. So với những thứ khác cùng loại, mì Quảng (loại truyền thống) có vẻ quê mùa. Các cọng mì xắt to hơi thô và cứng, rau sống ghém thường có bắp chuối hoặc chuối cây, món nhưn ít nước rải lên trên thêm đậu phộng giã và bánh tráng nướng bẻ vụn, khi trộn lên trông tô mì lổn nhổn, không có được sự mềm mại của bánh phở trắng tinh, uyển chuyển trong làn nước dùng trong veo, hoặc quyến rũ với miếng giò heo và màu đỏ cay của tô bún bò. Nhưng phở hay bún bò có cái hấp dẫn của sự tinh tế, còn mì Quảng có cái ngon lành của sự mộc mạc. Sợi mì to, chất nhưn rất đậm và ngậy béo cho ta một cảm giác ngon hơi phàm nhưng mạnh mẽ, kích thích. Người ta không ăn mì Quảng một cách nhỏ nhẻ mà phải “lua ào ào” mới ngon. Nếu ăn trong khung cảnh đơn sơ của thôn quê thì càng hay. Vì nếu xét theo sự hiện diện và tính chất của nó thì có thể kết luận chắc chắn mì Quảng phát nguyên trước hết ở nông thôn mà kẻ thưởng thức là những người làm lụng cực nhọc trên đồng ruộng. Với câu “hãy nói cho tôi biết anh ăn cái gì và ăn như thế nào, tôi sẽ nói anh là người ra sao” thì món mì Quảng cũng nói lên được bản chất của người Quảng Nam nhiều lắm. Không màu mè kiểu cách, hơi thô thiển nhưng chân thật, rất vững vàng trong nguyên tắc nhưng cũng biết uyển chuyển trong ứng xử, mặc dầu uyển chuyển một cách hơi cứng nhắc. Rõ ràng mì làm sao thì người làm vậy.
Tại các làng quê xa của nước ta khách lỡ độ đường thường khó kiếm được quán ăn, nhưng nếu là ở Quảng Nam thì khỏi lo điều ấy, vì làng nào hầu như cũng có ít nhất là một quán mì, và mì Quảng luôn luôn là loại thức ăn rẻ tiền và chắc bụng. Quán mì là một điểm rất đặc biệt của thôn quê Quảng Nam. Tất cả dân làng đều có dịp ghé ăn ở đó, không có tiền mặt trả ngay thì tới mùa đong lúa trả cũng được. Nhà có khách bất ngờ không nấu nướng kịp thì chạy ra quán mì mua một vài tô đặc biệt về đãi khách. Ngày mùa nhà nào có kêu thợ gặt có thể đặt làm một gánh mì gánh ra đồng đãi thợ “ăn uống nước nửa buổi.” Món mì gắn chặt với đời sống hằng ngày của mọi người, và hai tiếng “ăn mì” rất phổ biến đối với người dân quê Quảng Nam, nói lên một sinh hoạt ăn uống không xa xỉ hoang phí lắm nhưng cũng vượt một tí khỏi mức bình thường.
Nếu tại các làng Bắc Việt đi xa người ta nhớ cây đa và quán nước đầu làng thì ở Quảng Nam cái người ta nhớ chắc chắn là quán mì. Có một vị đi xa quê xứ Quảng, thành đạt trong đời, hưởng nhiều của ngon vật lạ của tứ xứ, nhưng vẫn cứ khăng khăng không món nào ngon hơn tô mì Quảng ở quán đầu làng ông ta thời ông ta còn đi học. Thế đấy, cái ngon một khi đã đồng hóa với lòng thương nhớ quê hương xứ sở, với kỷ niệm và nhất là với tuổi trẻ nữa thì dễ trở thành vô địch, không có món sơn hào hải vị nào sánh nổi.
Có một điều đặc biệt là tại đất Quảng Nam xưa quán mì chỉ có ở thôn quê chứ không bao giờ có ở thành phố. Tại Ðà Nẵng hay Hội An không thể tìm một hiệu nào mở ra chuyên bán mì Quảng. Hình như người ta biết rõ đó là một món đơn sơ mộc mạc không thể chen chân nơi thị tứ vốn là môi trường của thưởng ngoạn ăn chơi. Ở thành phố mì Quảng chỉ được bán ở chợ và gánh đi bán rao, giới bình dân gọi là “mì gỗ” có lẽ vì cái mình hơi cứng và sự thô thiển của nó và có lẽ cũng để phân biệt với món mì Tàu mềm mại. Rõ ràng gốc gác của mì Quảng chính là thôn quê chứ không phải thành phố, nguyên thủy nó là một sáng chế của dân quê để thỏa mãn nhu cầu ăn uống của chính mình chứ không hề là một nghiên cứu tinh tế để cạnh tranh trên thị trường khẩu vị. Như bao thứ dân giã khác trong các thức ăn dân tộc, chẳng hạn như bún ốc, bún riêu, tại thành phố luôn luôn vẫn được bán ở vỉa hè, trong chợ hoặc gánh đi bán rao, mì Quảng cũng giữ vai trò rất khiêm tốn tại đô thị, nhưng tại khắp các vùng nông thôn Quảng Nam, nó hiện diện phổ biến một cách độc quyền tuyệt đối. Nhân đây ta mới thấy rõ hơn vai trò không phải truyền thống của món phở. Ngày xưa các món bún của miền Bắc hay mì Quảng gánh đi bán rao được nấu trong những cái nồi đất lớn, nhưng phở thì không bao giờ. Cái gánh phở mang một dáng dấp tân tiến rõ ràng, nước lèo cũng được nấu không phải trong nồi đất mà trong một cái thùng kim loại, trên một bếp lửa luôn luôn cháy - hình ảnh pot-au-feu đó chăng? - đầu gánh bên kia là một cái thùng gỗ có ngăn để đựng bát, đũa, thịt thà, gia vị, cách tổ chức trong một gánh phở không hề lôi thôi luộm thuộm như các gánh quà rong cổ truyền khác, mà có một vẻ gì tân tiến, hợp lý, có vẻ “tây.”
Và từ gánh, phở bước một bước vào cửa hiệu một cách dễ dàng như một kẻ biết theo thời thế văn minh, trong khi các món quà cổ truyền vẫn cứ phải lang thang hết phố nọ sang phố kia hoặc trú chân trong những cái lòng chợ chật hẹp.
Gia đình nào của Quảng Nam cũng biết làm mì Quảng, đó là một điều chắc chắn. Ít ai dám chắc rằng tất cả dân Thừa Thiên, hoặc có thể hẹp hơn, thành phố Huế, đều biết nấu bún bò Huế, nhưng món mì Quảng đối với người dân Quảng Nam thì khỏi phải bàn cãi. Trong phạm vi gia đình, thỉnh thoảng gặp buổi rãnh rỗi, và muốn thoát ra khỏi cái nhàm chán của những bữa cơm rau mắm bất tận của thôn quê, người ta lại tổ chức ăn mì. Ngâm gạo, xay bột, đốt lò để tráng mì, làm gà hoặc mua thịt cá tôm cua để làm nhưn, xắt rau sống ghém, sinh hoạt trong nhà rộn rịp hẳn lên với một bữa ăn ngon truyền thống. Dù chính nó có gốc gác rất dân dã, mì Quảng đã được nhiều gia đình làm rất ngon, mì ngon chính là mì gia đình chứ không phải bán ở quán. Dĩ nhiên đây là những gia đình khá giả, sành ăn và có truyền thống nấu nướng, chính tại những nơi này mì Quảng đã được nâng cao về phẩm chất để có thể so sánh với bất cứ món gì cùng loại với nó tại các miền khác trong nước. Ðược chuộng nhất, và được coi là “chính thống,” vẫn là mì tôm cua. Quảng Nam có hai vùng tôm cua ngon nhất là Hội An và Cây Trâm (phía nam thị xã Tam Kỳ độ 15 km). Cả hai nơi đều nổi tiếng vì những tô mì tôm cua đặc sắc.
Như mọi thức khác, muốn tồn tại và phát triển, một món ăn cũng phải có sức sống của nó. Mì Quảng, tuy đơn sơ và quê mùa là thế, vẫn có sức sống mạnh, từ lâu đã vượt khỏi biên giới tỉnh nhà. Hồi đầu cuộc kháng chiến Pháp, khoảng năm 1947, có một người Quảng Nam đi tản cư vào Quảng Ngãi, bước vào một quán ven đường và hỏi có mì không. Chủ quán đáp có và mang ra một dĩa khoai mì luộc (thứ củ mà từ Quảng Nam trở ra gọi là củ sắn, từ Quảng Ngãi trở vô thì gọi là khoai mì). Ngày nay chắc chắn không thể có ngộ nhận như thế nữa. Hai tiếng mì Quảng từ những năm 60 đã bắt đầu quen thuộc tại Sài Gòn và các tỉnh phía nam, nhất là những nơi có đông người Quảng Nam đến làm ăn sinh sống. Sau 1975, mì Quảng lại theo chân người Việt di tản đi đến nhiều nơi trên thế giới, và riêng tại Little Saigon, California, mì Quảng đã xuất hiện tại nhiều tiệm ăn qui mô sang trọng. Ngày xưa khi còn ẩn mình trong các vùng nông thôn Quảng Nam chắc nó không bao giờ nghĩ mình có ngày đi xa và được nhiều người biết đến như thế.
Khi người dân Quảng Nam rời xứ đi tìm được quê hương mới thì món mì của họ cũng có quê hương mới. Trên đường lưu lạc, mì Quảng có thay đổi chút ít về hình thức và nội dung so với quê cũ, nhưng khi kẻ xa xứ còn nói: “Tôi là người Quảng Nam,” thì món mì cũng thế, nó vẫn có tên là Mì Quảng.
5 tháng 12 năm 1994
Có một điều đặc biệt là tại đất Quảng Nam xưa quán mì chỉ có ở thôn quê chứ không bao giờ có ở thành phố. Tại Ðà Nẵng hay Hội An không thể tìm một hiệu nào mở ra chuyên bán mì Quảng. Hình như người ta biết rõ đó là một món đơn sơ mộc mạc không thể chen chân nơi thị tứ vốn là môi trường của thưởng ngoạn ăn chơi. Ở thành phố mì Quảng chỉ được bán ở chợ và gánh đi bán rao, giới bình dân gọi là “mì gỗ” có lẽ vì cái mình hơi cứng và sự thô thiển của nó và có lẽ cũng để phân biệt với món mì Tàu mềm mại. Rõ ràng gốc gác của mì Quảng chính là thôn quê chứ không phải thành phố, nguyên thủy nó là một sáng chế của dân quê để thỏa mãn nhu cầu ăn uống của chính mình chứ không hề là một nghiên cứu tinh tế để cạnh tranh trên thị trường khẩu vị. Như bao thứ dân giã khác trong các thức ăn dân tộc, chẳng hạn như bún ốc, bún riêu, tại thành phố luôn luôn vẫn được bán ở vỉa hè, trong chợ hoặc gánh đi bán rao, mì Quảng cũng giữ vai trò rất khiêm tốn tại đô thị, nhưng tại khắp các vùng nông thôn Quảng Nam, nó hiện diện phổ biến một cách độc quyền tuyệt đối. Nhân đây ta mới thấy rõ hơn vai trò không phải truyền thống của món phở. Ngày xưa các món bún của miền Bắc hay mì Quảng gánh đi bán rao được nấu trong những cái nồi đất lớn, nhưng phở thì không bao giờ. Cái gánh phở mang một dáng dấp tân tiến rõ ràng, nước lèo cũng được nấu không phải trong nồi đất mà trong một cái thùng kim loại, trên một bếp lửa luôn luôn cháy - hình ảnh pot-au-feu đó chăng? - đầu gánh bên kia là một cái thùng gỗ có ngăn để đựng bát, đũa, thịt thà, gia vị, cách tổ chức trong một gánh phở không hề lôi thôi luộm thuộm như các gánh quà rong cổ truyền khác, mà có một vẻ gì tân tiến, hợp lý, có vẻ “tây.”
Và từ gánh, phở bước một bước vào cửa hiệu một cách dễ dàng như một kẻ biết theo thời thế văn minh, trong khi các món quà cổ truyền vẫn cứ phải lang thang hết phố nọ sang phố kia hoặc trú chân trong những cái lòng chợ chật hẹp.
Gia đình nào của Quảng Nam cũng biết làm mì Quảng, đó là một điều chắc chắn. Ít ai dám chắc rằng tất cả dân Thừa Thiên, hoặc có thể hẹp hơn, thành phố Huế, đều biết nấu bún bò Huế, nhưng món mì Quảng đối với người dân Quảng Nam thì khỏi phải bàn cãi. Trong phạm vi gia đình, thỉnh thoảng gặp buổi rãnh rỗi, và muốn thoát ra khỏi cái nhàm chán của những bữa cơm rau mắm bất tận của thôn quê, người ta lại tổ chức ăn mì. Ngâm gạo, xay bột, đốt lò để tráng mì, làm gà hoặc mua thịt cá tôm cua để làm nhưn, xắt rau sống ghém, sinh hoạt trong nhà rộn rịp hẳn lên với một bữa ăn ngon truyền thống. Dù chính nó có gốc gác rất dân dã, mì Quảng đã được nhiều gia đình làm rất ngon, mì ngon chính là mì gia đình chứ không phải bán ở quán. Dĩ nhiên đây là những gia đình khá giả, sành ăn và có truyền thống nấu nướng, chính tại những nơi này mì Quảng đã được nâng cao về phẩm chất để có thể so sánh với bất cứ món gì cùng loại với nó tại các miền khác trong nước. Ðược chuộng nhất, và được coi là “chính thống,” vẫn là mì tôm cua. Quảng Nam có hai vùng tôm cua ngon nhất là Hội An và Cây Trâm (phía nam thị xã Tam Kỳ độ 15 km). Cả hai nơi đều nổi tiếng vì những tô mì tôm cua đặc sắc.
Như mọi thức khác, muốn tồn tại và phát triển, một món ăn cũng phải có sức sống của nó. Mì Quảng, tuy đơn sơ và quê mùa là thế, vẫn có sức sống mạnh, từ lâu đã vượt khỏi biên giới tỉnh nhà. Hồi đầu cuộc kháng chiến Pháp, khoảng năm 1947, có một người Quảng Nam đi tản cư vào Quảng Ngãi, bước vào một quán ven đường và hỏi có mì không. Chủ quán đáp có và mang ra một dĩa khoai mì luộc (thứ củ mà từ Quảng Nam trở ra gọi là củ sắn, từ Quảng Ngãi trở vô thì gọi là khoai mì). Ngày nay chắc chắn không thể có ngộ nhận như thế nữa. Hai tiếng mì Quảng từ những năm 60 đã bắt đầu quen thuộc tại Sài Gòn và các tỉnh phía nam, nhất là những nơi có đông người Quảng Nam đến làm ăn sinh sống. Sau 1975, mì Quảng lại theo chân người Việt di tản đi đến nhiều nơi trên thế giới, và riêng tại Little Saigon, California, mì Quảng đã xuất hiện tại nhiều tiệm ăn qui mô sang trọng. Ngày xưa khi còn ẩn mình trong các vùng nông thôn Quảng Nam chắc nó không bao giờ nghĩ mình có ngày đi xa và được nhiều người biết đến như thế.
Khi người dân Quảng Nam rời xứ đi tìm được quê hương mới thì món mì của họ cũng có quê hương mới. Trên đường lưu lạc, mì Quảng có thay đổi chút ít về hình thức và nội dung so với quê cũ, nhưng khi kẻ xa xứ còn nói: “Tôi là người Quảng Nam,” thì món mì cũng thế, nó vẫn có tên là Mì Quảng.
5 tháng 12 năm 1994
*********************************************
2. Kẻ cuồng sĩ trong vườn cây
Phạm Xuân Đài
(bút hiệu của Phạm Phú Minh)
Hiện nay có lẽ không có một người nào trong giới văn nghệ trước đây ở miền Nam –và có lẽ cả nước- được yêu mến như Bùi Giáng. Những ai từng sống trong không khí văn nghệ ấy, bây giờ sau khi trải qua thực sự một cuộc bể dâu, dù ở trong nước hay ra nước ngoài đều nhớ tới anh như một đám xanh tươi duy nhất còn sót lại giữa một vùng đã bị sa mạc hóa cằn khô. Có điều lạ là trong những người yêu mến và kính phục Bùi Giáng ấy không ít người chưa từng đọc thơ hoặc bất cứ thứ gì anh viết hoặc đã đọc nhưng vị tất đã hiểu. Không cần. Anh có một ma lực tự nhiên của đấng tài hoa, và ảnh hưởng của anh trong cõi tinh thần của một số đông người là có thực.
Phạm Xuân Đài
(bút hiệu của Phạm Phú Minh)
Hiện nay có lẽ không có một người nào trong giới văn nghệ trước đây ở miền Nam –và có lẽ cả nước- được yêu mến như Bùi Giáng. Những ai từng sống trong không khí văn nghệ ấy, bây giờ sau khi trải qua thực sự một cuộc bể dâu, dù ở trong nước hay ra nước ngoài đều nhớ tới anh như một đám xanh tươi duy nhất còn sót lại giữa một vùng đã bị sa mạc hóa cằn khô. Có điều lạ là trong những người yêu mến và kính phục Bùi Giáng ấy không ít người chưa từng đọc thơ hoặc bất cứ thứ gì anh viết hoặc đã đọc nhưng vị tất đã hiểu. Không cần. Anh có một ma lực tự nhiên của đấng tài hoa, và ảnh hưởng của anh trong cõi tinh thần của một số đông người là có thực.
Cuộc sống của anh tại Sài Gòn hiện nay là của một cuồng sĩ, khi thì thu mình trong túp lều của anh tại một khu vườn bên Gia Định, khi thì lang thang vô định trong cơn điên. Những cơn điên như là dưỡng chất cho cuộc sống và đặc tính của anh, nó làm cho anh bùng cháy lên, phát tiết một cách thê thảm những gì có trong anh, sống với anh, là chính anh, mà anh không nói ra được. Ngôn ngữ đời thường bất lực. Chỉ có thơ và những cơn điên. Thơ Bùi Giáng tung hoành bên trên lề thói thi ca, cũng như ngôn ngữ và cử chỉ điên khùng vượt ra khỏi khung khổ của cuộc sống xã hội. Bây giờ anh ít làm thơ lắm, còn các cơn điên thì viếng anh gần như định kỳ. Những lúc ấy anh đi nhiều nơi, nhưng thường xuất hiện vùng chợ Trương Minh Giảng (chỗ Đại Học Vạn Hạnh là nơi ngày xưa anh từng trú ngụ), đứng giữa đường vung tay điều khiển xe cộ, cử chỉ rất linh động, đặc biệt là đôi mắt sáng quắc bừng bừng. Anh đang thể hiện một năng lực nào đấy đang đầy ắp trong người anh. Có khi anh múa may trong một lớp áo lòe loẹt, động tác mạnh mẽ chính xác gần như múa võ, miệng hò hét như đang nạt nộ với một đối tượng vô hình đang hiện diện ngay trước mặt mình. Đêm khuya một hai giờ sáng người ta nghe thấy một người vừa đi vừa tranh luận với chính mình, lời lẽ khó hiểu, thì ai nấy đều biết đó là Bùi Giáng. Chỉ có các em nhỏ là im thin thít. Đối với chúng, “ông Bùi Giáng” là ông ba bị thực sự hiện diện trên cõi đời này. Gầy gò, dơ bẩn, tóc hoa râm có khi dài chấm vai, quần áo tả tơi, hay múa may la hét, đôi mắt sáng rực một cách ma quái sau cặp kính trắng, tất cả thành viên các nhà trẻ vùng chợ Trương Minh Giảng đều thất kinh với hình ảnh ấy. Hình như nhà nào ở khu vực này cũng biết dọa con nít khóc nhè bằng câu “Ông Bùi Giáng đó, nín đi” và câu dọa có hiệu lực tức thì. Nhưng nhiều người lớn khi nói câu ấy thì cảm thấy một nỗi xót xa vô hạn, thương cho một người mà họ biết trí thức và tài hoa, nhưng định mệnh đã buộc anh phải tự thể hiện một cách dữ dội và khác thường như thế. Chính Bùi Giáng sau những cơn điên đều kiệt sức vì đã phung phí năng lực quá nhiều, anh nằm im trong một thời gian, tinh thần tỉnh táo nhưng suy sụp và cảm thấy một nỗi buồn vô bờ bến.
Bùi Giáng sinh năm 1926, con cháu họ Bùi là một tộc lớn gốc ở Vĩnh Trinh, tỉnh Quảng Nam. Năm 1945, anh đang ở độ tuổi hai mươi, vừa đậu tú tài, kết thúc thời kỳ đi học tại Huế. Anh về quê, và trong khung cảnh “lúc kháng chiến xa nhà biệt ly đời gấm hoa,” anh bắt đầu cuộc đời chăn bò, chăn dê ở khắp các miền núi rừng, và có lẽ trong chính thời kỳ này anh bắt đầu đi vào thế giới thi ca.
Anh lùa bò vào đồi sim trái chín
Cho bò ăn cỏ giữa rừng sim
...
Cây lá bốn bên song song từng lứa
Sánhđôi nhau như ứa lệ ngàn ngàn
Hạnh phúc với trời đất mang mang
Với bò giữa rừng hoang đương gặm cỏ.
Cuộcđình chiến năm 1954 là một vận hội đối với anh. Sài Gòn, thủ đô thời ấy, đang chuyển mình để thành một trung tâm chính trị văn hóa kinh tế lớn, cùng với cuộc di cư của đồng bào miền Bắc, bao nhiêu tinh hoa của cả miền Nam đang dồn về đây. Các trường đại học được thành lập, không khí văn hóa khởi sắc trước một vận hội mới. Bùi Giáng đến Sài Gòn, hòa nhập ngay vào không khí ấy. Sau chín năm cắt đứt với học vấn đích thực để thả hồn trong đồi sim với bầy bò hoặc sống“Nỗi lòng Tô Vũ” cạnh bầy dê, giờ đây Bùi Giáng trở lại với chữ nghĩa. Thoạt đầu, anh đến với Đại Học Văn Khoa, nhưng rồi anh tự học. Anh đọc rộng về triết học và văn học, thậm chí tự học tiếng Đức để có thể đọc nguyên văn các tác giả Đức, đi dạy Việt Văn, viết sách giảng luận về văn học (các luận đề văn chương), về triết học (Tư Tưởng Hiện Đại 1962; Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại I, II –1963...) dịch sách và viết văn, làm thơ (Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Màu Hoa Trên Ngàn, xuất bản trong các năm 1962, 63). Nghe nói có thời gian anh vẽ tranh. Đó là một con người sung mãn sáng tạo. Các bản dịch của anh dù là triết học hay văn học đều là các sáng tạo đẹp đẽ để nuôi sống được tinh thần nguyên bản. Trong vòng hai mươi năm (1955-1975) Bùi Giáng đã tạo nên một văn nghiệp đồ sộ, và cũng trong thời gian ấy, lúc nhặt lúc thưa, khi nặng khi nhẹ, các cơn điên vẫn đến với anh. Anh không có gia đình.
Từ sau năm 1975, cuộc sống của Bùi Giáng suy sụp xuống một bực, các cơn điên có vẻ mạnh và thường xuyên hơn. Trong vòng đùm bọc của bà con, anh được cư ngụ trong một căn lều nhỏ làm riêng cho anh giữa một khu vườn đầy cây lá. Chỗ ở thích hợp với anh lạ lùng. Nó như một cái am của ẩn sĩ, như “túp lều lý tưởng” cho một nhà thơ, lại cũng là nơi nương náu đầy may mắn của một kẻ không vợ không con không sản nghiệp. Ở đấy anh được yên tĩnh và tự do. Cái góc xanh tươi kín đáo ấy giữa đất Sài Gòn hỗn độn sau 75 là một món quà đặc biệt mà số phận dành cho một kẻ tài hoa lận đận nhưng rõ ràng là cũng có phước có phần.
Cái ông già gầy gò ngoài sáu mươi ấy lấy đâu ra sức lực để trải qua các cơn điên dữ dội của mình? Đấy là một điều bí ẩn. Đi lang thang hàng chục cây số bất kể nắng mưa, múa may la hét suốt mấy ngày liền, kẻ lực sĩ chưa chắc đã làm được. Hay là anh được “tiếp dẫn” một lực nào từ bên ngoài? Nhìn anh lúc giữa “cơn” sẽ thấy rõ ràng một mãnh lực trào dâng không thể kềm chế, đôi mắt lấp lánh vừa điên dại vừa thông minh như muốn nói nhiều điều, như đã hiểu thấu nhiều điều. Những giây phút thăng hoa cực điểm. Giây phút một con người có thể thành thần.
Bây giờ Bùi Giáng không bao giờ nói về những gì mình đã trước tác. Với anh những cái đó hình như chỉ có giá trị khi anh đang sáng tạo ra chúng. Xong rồi, quên rồi. Anh là một khối tinh thần đang chuyển hóa chứ không phải là một tác giả thỏa mãn với một sự nghiệp. Nay lo tái bản cuốn này, mai được mời thuyết trình về cuốn kia, anh hoàn toàn chẳng biết một tí gì về những điều như thế. Nếu nói là nói cái bây giờ, mặc dù đó có thể là điều rất cũ nhưng nó phải đang tươi roi rói trong tâm thức của anh. Đó là chỗ Bùi Giáng rất khác chúng ta, những “người phàm,” được hiểu là những con người bám chặt lấy đời sống xã hội với tất cả các hệ lụy của nó. Anh không có gia đình nên chẳng bận tâm về vợ con; không có của cải riêng nên chẳng bận tâm chuyện mất còn; không màng tới địa vị danh vọng (dù là trong văn giới) nên chẳng khổ tâm chuyện hơn thua. Phải chăng như thế anh đã có được các điều kiện căn bản của một bậc chân tu? Bao nhiêu người thực sự thoát khỏi tham sân si như anh? Tinh thần, đời sống, văn thơ anh là một khối không phân biệt, anh đạt đến chỗ nhất quán một cách hồn nhiên. Không biết đó có phải là trạng thái của các bậc hiền triết thời xưa khi tất cả sự sống là một nguyên khối chưa đi vào thế giới ý niệm chẻ nhỏ mọi thứ ra khiến xã hội loài người vừa văn minh vừa điêu đứng? Bùi Giáng hay nói về cõi “lãng đãng phiêu bồng,” phải chăng muốn diễn đạt một cách tương đối cái chỗ ngọn nguồn ấy? Trong thơ của anh Bùi Giáng cũng hay dùng hai chữ “cố quận”.
Đất hoa khóc vĩnh biệt người
Ngàn cây cố quận đổi lời sương thâu.
Người đọc dần dần cảm thấy cố quận không còn là một thực thể địa lý của một thời đã qua mà chính là một vùng tâm thức xa xưa nào đấy trong ý thức tập thể của loài người. Đây là một hình tượng gợi cảm rất Việt Nam bên cạnh các “tro tàn Hy Lạp,” “ba người con gái chiêm bao ở bờ cỏ Phi Châu” v.v... rất tân kỳ của anh. Cố quận ở nẻo mù khơi nào? Có phải như Huy Cận đã viết:
Tâm tình một nẻo quê chung
Người về cố quận muôn trùng ta đi.
nẻo quê chung, cố quận, luôn luôn là một nỗi niềm trong thâm sâu mỗi chúng ta?
Có lẽ vì tinh thần không vương hệ lụy, thơ của Bùi Giáng tràn đầy một loại ngôn ngữ tài hoa, bình dị, táo bạo, bất ngờ. Đôi khi như là lời lẽ dân gian nhưng mang tính chất cực kỳ bác học. Đôi khi như một lời văng tục nhưng lại cực kỳ tài hoa. Và nhất là không theo một đường mòn nào cả. Mỗi câu thơ Bùi Giáng là một lối lạ mới phá nhưng luôn luôn mang đầy đủ bản sắc của anh. Trong tâm thức lãng đãng phiêu bồng, anh nói ra những ngữ, những điệu thuộc về thế giới của anh. Anh xa lạ với những diễn dịch của trí tuệ, lý luận chẻ sợi tóc làm tư của cung cách học giả. Lời thơ của anh lắm khi kỳ lạ đối với chúng ta, nhưng chúng ta luôn luôn thích thú với sự tập hợp chữ nghĩa ấy, vì thấy nó “hay”, gần giống như khi đọc âm chữ Hán một bài thơ Đường, có khi không hiểu hết nghĩa nhưng tâm hồn vẫn bàng bạc một nỗi cảm hoài. Có thể thơ Bùi Giáng nói được đôi điều rất chân thật với tâm hồn ta, và ta được hưởng ít giây phút sung sướng phiêu bồng mà hầu hết chúng ta đã đánh mất, đã rời quá xa trong cuộc sống đầy phân chia đến chỗ cằn cỗi này. Ta có thể chia sẻ chút nào chăng trong các câu thơ Bùi Giáng viết đã lâu rồi để tự giới thiệu mình:
Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
Ngày nay, một cách đùa cợt cho mình là đười ươi, kiểu cách khác hẳn xưa, nhưng điều anh muốn nói hình như không khác:
Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay...
Bùi Giáng chịu ảnh hưởng sâu đậm của Nguyễn Du và truyện Kiều. Nguyễn Du và truyện Kiều đã hóa thân vào anh. Ngôn ngữ Nguyễn Du đã biến thành ngôn ngữ của anh tự nhiên như thức ăn biến thành sự sống của sinh vật. Anh gọi Terre Des Hommes của Saint Exupéry là Cõi Người Ta, tài tình đến sửng sốt nhưng lại tự nhiên như dùng một tiếng Việt vốn có từ nghìn xưa. Không phải là anh “lẩy Kiều” mà là tạo ra một “ngôn ngữ Kiều.” Khắp mọi nơi trong thơ anh, ngôn ngữ ấy luôn luôn lãng đãng như gần như xa:
Chiêm bao hội thoại ngân dài
Ý trong tờ mộng nhớ ngày Việt Nam
Trăng Gò Vấp sương Đa Kao
Huệ lan sực nức niềm khao khát chờ
Tưởng bây giờ là bao giờ
Sát na niệm tưởng chép thơ tặng người...
Dấu bèo phong vận nguy nga
Sống phơi trường mộng đầu hoa cuối cành
Dập dìu quân nhạc đại doanh
Ngàn thu rớt hột thập thành trở cơn.
Vềsau chẳng biết vân mồng
Ra sao thế nọ phiêu bồng thế kia...
Gầnđây một hôm đang trò chuyện với vài người bạn trong khu vườn cây, đột nhiên anh la lớn:
“Nguyễn Du đâu phải như Trần Trọng Kim ‘phân tích’, vẽ ra cuộc đời Kiều để nhằm gởi gắm tâm sự này nọ của mình! Nguyễn Du khác hơn nhiều, không phải như thế, không phải như thế!”
Tuy anh không nói rõ về Nguyễn Du là như thế nào –thời gian sau này ít khi anh nói mọi điều một cách khúc chiết- nhưng qua mạch câu chuyện cùng là nhìn anh và nghe anh trong lúc ấy, người đối diện phải hiểu rằng theo anh, Nguyễn Du đâu có bận tâm về những chuyện biện minh cho mình về chuyện thị phi ở đời như trung với triều đại hay làm quan với triều đại khác, Nguyễn Du vượt xa cao hơn những cái đó, muốn trình với đời nỗi đau khổ của con người trong thiên thu. Nỗi đau như là bản chất vĩnh viễn của cuộc sống, của vô minh nhưng được miêu tả trong thân phận một con người và một hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể. Cũng cụ thể như những cảnh sinh, lão, bệnh, tử mà thái tử Tất Đạt Đa chứng kiến trong những lần du hành của mình để làm khởi điểm cho một chứng nghiệm cứu đời vĩ đại. Rõ ràng tác phẩm Nguyễn Du cũng là một phơi bày như thế, một đánh động thê thiết đầy nhân bản về thân phận con người, đồng thời cũng hé lộ cho thấy khả năng đầy lạc quan của nó. (Tìm cách diễn dịch Bùi Giáng như thế có thể là... liều mạng, nhưng biết sao, đành phải cố gắng“hiểu” anh với khả năng trí óc và ngôn ngữ hạn chế đời thường của mình thôi).
Ngườiđọc Bùi Giáng trước năm 1975 tất nhiên rất quen thuộc với các “nhân vật nữ” của anh: Kim Cương, Marilyn Monroe, Phùng Khánh..., toàn là những nhân vật có thật của đương thời. Tuy thật nhưng họ hiện diện trong văn thơ anh, như một hư cấu, như một tượng trưng. Tuy được nhắc đến lúc nào cũng như với chút bông đùa, cái mà họ tượng trưng lại vô cùng nghiêm trang: mẫu thân, mẹ. Phải chăng Bùi Giáng muốn nhắc đến cái nguyên lý sinh sôi và êm dịu –yếu tố Nữ- vốn có trong trời đất qua tên những người đàn bà quen thuộc nổi tiếng ấy? Nhưng đây là thuộc phạm vi tư tưởng. Từ sau năm 1975 thơ anh có nhắc đến một người đàn bà khác nhưng với một cung cách khác hẳn. Không bông đùa mà thân mật. Không tượng trưng mà đầy cảm mến. Và vẫn bàng bạc một tâm tư sùng bái như trước kia.
Tâm tùy thị hiện sát na
Căn do Hoàng thị đầu hoa Chiên Đàn
Cội trồng ánh ngọc cưu mang
Tờ rung Hoa Tạng dư vang vô ngần.
Hoàng thị... Đó là một người có thật, trong họ hàng bên ngoại mà Bùi Giáng gọi bằng dì (nhưng tuổi nhỏ hơn Bùi Giáng ít nhất một giáp). Cũng vốn là giòng dõi thi văn, người dì từ lâu đã lấy làm khâm phục ông cháu tài hoa họ Bùi, và nhà thơ của chúng ta, trong những cơn vật vã sau 1975, luôn luôn nhắc đến người dì một cách trìu mến. Đây lại là một “nhân vật nữ” nữa của Bùi Giáng, nhưng nhờ sự gần gũi họ hàng, nhờ sự chăm nom thăm hỏi từ xa của người dì, nhân vật nữ này trong thơ Bùi Giáng không thăng hoa để thành một tượng trưng của ý niệm triết học mà lại thành một tình thương mến pha nhiều màu sắc trân trọng nặng tính chất đời thường.
Giữ ngọc gìn vàng trân trọng chút
Nghìn thu cổ lục sẽ mai sau
Hoàng Trang Thy Thỵ còn vang mãi
Cùngđiểm quần thoa điểm điểm màu
Ân lộc nghìn kho lả lướt chào
Chùm chùm xuân sắc hộ xuân trao
Hồ Hương Đoàn Điểm Thanh Quan huyện
Cùng xiết bao quần cân quắc cao.
...
Bùi Giáng sinh năm 1926, con cháu họ Bùi là một tộc lớn gốc ở Vĩnh Trinh, tỉnh Quảng Nam. Năm 1945, anh đang ở độ tuổi hai mươi, vừa đậu tú tài, kết thúc thời kỳ đi học tại Huế. Anh về quê, và trong khung cảnh “lúc kháng chiến xa nhà biệt ly đời gấm hoa,” anh bắt đầu cuộc đời chăn bò, chăn dê ở khắp các miền núi rừng, và có lẽ trong chính thời kỳ này anh bắt đầu đi vào thế giới thi ca.
Anh lùa bò vào đồi sim trái chín
Cho bò ăn cỏ giữa rừng sim
...
Cây lá bốn bên song song từng lứa
Sánhđôi nhau như ứa lệ ngàn ngàn
Hạnh phúc với trời đất mang mang
Với bò giữa rừng hoang đương gặm cỏ.
Cuộcđình chiến năm 1954 là một vận hội đối với anh. Sài Gòn, thủ đô thời ấy, đang chuyển mình để thành một trung tâm chính trị văn hóa kinh tế lớn, cùng với cuộc di cư của đồng bào miền Bắc, bao nhiêu tinh hoa của cả miền Nam đang dồn về đây. Các trường đại học được thành lập, không khí văn hóa khởi sắc trước một vận hội mới. Bùi Giáng đến Sài Gòn, hòa nhập ngay vào không khí ấy. Sau chín năm cắt đứt với học vấn đích thực để thả hồn trong đồi sim với bầy bò hoặc sống“Nỗi lòng Tô Vũ” cạnh bầy dê, giờ đây Bùi Giáng trở lại với chữ nghĩa. Thoạt đầu, anh đến với Đại Học Văn Khoa, nhưng rồi anh tự học. Anh đọc rộng về triết học và văn học, thậm chí tự học tiếng Đức để có thể đọc nguyên văn các tác giả Đức, đi dạy Việt Văn, viết sách giảng luận về văn học (các luận đề văn chương), về triết học (Tư Tưởng Hiện Đại 1962; Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại I, II –1963...) dịch sách và viết văn, làm thơ (Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Màu Hoa Trên Ngàn, xuất bản trong các năm 1962, 63). Nghe nói có thời gian anh vẽ tranh. Đó là một con người sung mãn sáng tạo. Các bản dịch của anh dù là triết học hay văn học đều là các sáng tạo đẹp đẽ để nuôi sống được tinh thần nguyên bản. Trong vòng hai mươi năm (1955-1975) Bùi Giáng đã tạo nên một văn nghiệp đồ sộ, và cũng trong thời gian ấy, lúc nhặt lúc thưa, khi nặng khi nhẹ, các cơn điên vẫn đến với anh. Anh không có gia đình.
Từ sau năm 1975, cuộc sống của Bùi Giáng suy sụp xuống một bực, các cơn điên có vẻ mạnh và thường xuyên hơn. Trong vòng đùm bọc của bà con, anh được cư ngụ trong một căn lều nhỏ làm riêng cho anh giữa một khu vườn đầy cây lá. Chỗ ở thích hợp với anh lạ lùng. Nó như một cái am của ẩn sĩ, như “túp lều lý tưởng” cho một nhà thơ, lại cũng là nơi nương náu đầy may mắn của một kẻ không vợ không con không sản nghiệp. Ở đấy anh được yên tĩnh và tự do. Cái góc xanh tươi kín đáo ấy giữa đất Sài Gòn hỗn độn sau 75 là một món quà đặc biệt mà số phận dành cho một kẻ tài hoa lận đận nhưng rõ ràng là cũng có phước có phần.
Cái ông già gầy gò ngoài sáu mươi ấy lấy đâu ra sức lực để trải qua các cơn điên dữ dội của mình? Đấy là một điều bí ẩn. Đi lang thang hàng chục cây số bất kể nắng mưa, múa may la hét suốt mấy ngày liền, kẻ lực sĩ chưa chắc đã làm được. Hay là anh được “tiếp dẫn” một lực nào từ bên ngoài? Nhìn anh lúc giữa “cơn” sẽ thấy rõ ràng một mãnh lực trào dâng không thể kềm chế, đôi mắt lấp lánh vừa điên dại vừa thông minh như muốn nói nhiều điều, như đã hiểu thấu nhiều điều. Những giây phút thăng hoa cực điểm. Giây phút một con người có thể thành thần.
Bây giờ Bùi Giáng không bao giờ nói về những gì mình đã trước tác. Với anh những cái đó hình như chỉ có giá trị khi anh đang sáng tạo ra chúng. Xong rồi, quên rồi. Anh là một khối tinh thần đang chuyển hóa chứ không phải là một tác giả thỏa mãn với một sự nghiệp. Nay lo tái bản cuốn này, mai được mời thuyết trình về cuốn kia, anh hoàn toàn chẳng biết một tí gì về những điều như thế. Nếu nói là nói cái bây giờ, mặc dù đó có thể là điều rất cũ nhưng nó phải đang tươi roi rói trong tâm thức của anh. Đó là chỗ Bùi Giáng rất khác chúng ta, những “người phàm,” được hiểu là những con người bám chặt lấy đời sống xã hội với tất cả các hệ lụy của nó. Anh không có gia đình nên chẳng bận tâm về vợ con; không có của cải riêng nên chẳng bận tâm chuyện mất còn; không màng tới địa vị danh vọng (dù là trong văn giới) nên chẳng khổ tâm chuyện hơn thua. Phải chăng như thế anh đã có được các điều kiện căn bản của một bậc chân tu? Bao nhiêu người thực sự thoát khỏi tham sân si như anh? Tinh thần, đời sống, văn thơ anh là một khối không phân biệt, anh đạt đến chỗ nhất quán một cách hồn nhiên. Không biết đó có phải là trạng thái của các bậc hiền triết thời xưa khi tất cả sự sống là một nguyên khối chưa đi vào thế giới ý niệm chẻ nhỏ mọi thứ ra khiến xã hội loài người vừa văn minh vừa điêu đứng? Bùi Giáng hay nói về cõi “lãng đãng phiêu bồng,” phải chăng muốn diễn đạt một cách tương đối cái chỗ ngọn nguồn ấy? Trong thơ của anh Bùi Giáng cũng hay dùng hai chữ “cố quận”.
Đất hoa khóc vĩnh biệt người
Ngàn cây cố quận đổi lời sương thâu.
Người đọc dần dần cảm thấy cố quận không còn là một thực thể địa lý của một thời đã qua mà chính là một vùng tâm thức xa xưa nào đấy trong ý thức tập thể của loài người. Đây là một hình tượng gợi cảm rất Việt Nam bên cạnh các “tro tàn Hy Lạp,” “ba người con gái chiêm bao ở bờ cỏ Phi Châu” v.v... rất tân kỳ của anh. Cố quận ở nẻo mù khơi nào? Có phải như Huy Cận đã viết:
Tâm tình một nẻo quê chung
Người về cố quận muôn trùng ta đi.
nẻo quê chung, cố quận, luôn luôn là một nỗi niềm trong thâm sâu mỗi chúng ta?
Có lẽ vì tinh thần không vương hệ lụy, thơ của Bùi Giáng tràn đầy một loại ngôn ngữ tài hoa, bình dị, táo bạo, bất ngờ. Đôi khi như là lời lẽ dân gian nhưng mang tính chất cực kỳ bác học. Đôi khi như một lời văng tục nhưng lại cực kỳ tài hoa. Và nhất là không theo một đường mòn nào cả. Mỗi câu thơ Bùi Giáng là một lối lạ mới phá nhưng luôn luôn mang đầy đủ bản sắc của anh. Trong tâm thức lãng đãng phiêu bồng, anh nói ra những ngữ, những điệu thuộc về thế giới của anh. Anh xa lạ với những diễn dịch của trí tuệ, lý luận chẻ sợi tóc làm tư của cung cách học giả. Lời thơ của anh lắm khi kỳ lạ đối với chúng ta, nhưng chúng ta luôn luôn thích thú với sự tập hợp chữ nghĩa ấy, vì thấy nó “hay”, gần giống như khi đọc âm chữ Hán một bài thơ Đường, có khi không hiểu hết nghĩa nhưng tâm hồn vẫn bàng bạc một nỗi cảm hoài. Có thể thơ Bùi Giáng nói được đôi điều rất chân thật với tâm hồn ta, và ta được hưởng ít giây phút sung sướng phiêu bồng mà hầu hết chúng ta đã đánh mất, đã rời quá xa trong cuộc sống đầy phân chia đến chỗ cằn cỗi này. Ta có thể chia sẻ chút nào chăng trong các câu thơ Bùi Giáng viết đã lâu rồi để tự giới thiệu mình:
Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
Ngày nay, một cách đùa cợt cho mình là đười ươi, kiểu cách khác hẳn xưa, nhưng điều anh muốn nói hình như không khác:
Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay...
Bùi Giáng chịu ảnh hưởng sâu đậm của Nguyễn Du và truyện Kiều. Nguyễn Du và truyện Kiều đã hóa thân vào anh. Ngôn ngữ Nguyễn Du đã biến thành ngôn ngữ của anh tự nhiên như thức ăn biến thành sự sống của sinh vật. Anh gọi Terre Des Hommes của Saint Exupéry là Cõi Người Ta, tài tình đến sửng sốt nhưng lại tự nhiên như dùng một tiếng Việt vốn có từ nghìn xưa. Không phải là anh “lẩy Kiều” mà là tạo ra một “ngôn ngữ Kiều.” Khắp mọi nơi trong thơ anh, ngôn ngữ ấy luôn luôn lãng đãng như gần như xa:
Chiêm bao hội thoại ngân dài
Ý trong tờ mộng nhớ ngày Việt Nam
Trăng Gò Vấp sương Đa Kao
Huệ lan sực nức niềm khao khát chờ
Tưởng bây giờ là bao giờ
Sát na niệm tưởng chép thơ tặng người...
Dấu bèo phong vận nguy nga
Sống phơi trường mộng đầu hoa cuối cành
Dập dìu quân nhạc đại doanh
Ngàn thu rớt hột thập thành trở cơn.
Vềsau chẳng biết vân mồng
Ra sao thế nọ phiêu bồng thế kia...
Gầnđây một hôm đang trò chuyện với vài người bạn trong khu vườn cây, đột nhiên anh la lớn:
“Nguyễn Du đâu phải như Trần Trọng Kim ‘phân tích’, vẽ ra cuộc đời Kiều để nhằm gởi gắm tâm sự này nọ của mình! Nguyễn Du khác hơn nhiều, không phải như thế, không phải như thế!”
Tuy anh không nói rõ về Nguyễn Du là như thế nào –thời gian sau này ít khi anh nói mọi điều một cách khúc chiết- nhưng qua mạch câu chuyện cùng là nhìn anh và nghe anh trong lúc ấy, người đối diện phải hiểu rằng theo anh, Nguyễn Du đâu có bận tâm về những chuyện biện minh cho mình về chuyện thị phi ở đời như trung với triều đại hay làm quan với triều đại khác, Nguyễn Du vượt xa cao hơn những cái đó, muốn trình với đời nỗi đau khổ của con người trong thiên thu. Nỗi đau như là bản chất vĩnh viễn của cuộc sống, của vô minh nhưng được miêu tả trong thân phận một con người và một hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể. Cũng cụ thể như những cảnh sinh, lão, bệnh, tử mà thái tử Tất Đạt Đa chứng kiến trong những lần du hành của mình để làm khởi điểm cho một chứng nghiệm cứu đời vĩ đại. Rõ ràng tác phẩm Nguyễn Du cũng là một phơi bày như thế, một đánh động thê thiết đầy nhân bản về thân phận con người, đồng thời cũng hé lộ cho thấy khả năng đầy lạc quan của nó. (Tìm cách diễn dịch Bùi Giáng như thế có thể là... liều mạng, nhưng biết sao, đành phải cố gắng“hiểu” anh với khả năng trí óc và ngôn ngữ hạn chế đời thường của mình thôi).
Ngườiđọc Bùi Giáng trước năm 1975 tất nhiên rất quen thuộc với các “nhân vật nữ” của anh: Kim Cương, Marilyn Monroe, Phùng Khánh..., toàn là những nhân vật có thật của đương thời. Tuy thật nhưng họ hiện diện trong văn thơ anh, như một hư cấu, như một tượng trưng. Tuy được nhắc đến lúc nào cũng như với chút bông đùa, cái mà họ tượng trưng lại vô cùng nghiêm trang: mẫu thân, mẹ. Phải chăng Bùi Giáng muốn nhắc đến cái nguyên lý sinh sôi và êm dịu –yếu tố Nữ- vốn có trong trời đất qua tên những người đàn bà quen thuộc nổi tiếng ấy? Nhưng đây là thuộc phạm vi tư tưởng. Từ sau năm 1975 thơ anh có nhắc đến một người đàn bà khác nhưng với một cung cách khác hẳn. Không bông đùa mà thân mật. Không tượng trưng mà đầy cảm mến. Và vẫn bàng bạc một tâm tư sùng bái như trước kia.
Tâm tùy thị hiện sát na
Căn do Hoàng thị đầu hoa Chiên Đàn
Cội trồng ánh ngọc cưu mang
Tờ rung Hoa Tạng dư vang vô ngần.
Hoàng thị... Đó là một người có thật, trong họ hàng bên ngoại mà Bùi Giáng gọi bằng dì (nhưng tuổi nhỏ hơn Bùi Giáng ít nhất một giáp). Cũng vốn là giòng dõi thi văn, người dì từ lâu đã lấy làm khâm phục ông cháu tài hoa họ Bùi, và nhà thơ của chúng ta, trong những cơn vật vã sau 1975, luôn luôn nhắc đến người dì một cách trìu mến. Đây lại là một “nhân vật nữ” nữa của Bùi Giáng, nhưng nhờ sự gần gũi họ hàng, nhờ sự chăm nom thăm hỏi từ xa của người dì, nhân vật nữ này trong thơ Bùi Giáng không thăng hoa để thành một tượng trưng của ý niệm triết học mà lại thành một tình thương mến pha nhiều màu sắc trân trọng nặng tính chất đời thường.
Giữ ngọc gìn vàng trân trọng chút
Nghìn thu cổ lục sẽ mai sau
Hoàng Trang Thy Thỵ còn vang mãi
Cùngđiểm quần thoa điểm điểm màu
Ân lộc nghìn kho lả lướt chào
Chùm chùm xuân sắc hộ xuân trao
Hồ Hương Đoàn Điểm Thanh Quan huyện
Cùng xiết bao quần cân quắc cao.
...
Rõ ràng phong cách thơ Bùi Giáng bỗng chững chạc lại trước dì Trang. Hình như đã lâu lắm thơ anh phóng túng như một chàng đãng tử không nhà, bỗng trở nên lễ giáo như một thời nào trẻ trung chàng còn đang vòng kèm cặp của nghiêm đường. Người dì đã làm nhà thơ nhớ lại nếp xưa? Ta hãy đọc bài Hoàng Hoa Giữa Phố mà tác giả làm để riêng tặng dì Trang, để thấy thêm một chút phong cách xưa của anh:
(Màu con mắt bên mùa xuân xiêu đổ
Ở bên kia nhìn ngó lại bên này
Gió lắt lay bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay)
Hoàng Hoa phố chợ niệm tình
Chép câu ủy tạ chưa đành bởi đâu
Hoàng Hoa Phố Thị hương màu
Đi thiêm thiếp cõi mai sau lạ lùng
Hoàng hoa tinh thể não nùng
Từ mai hậu với vô cùng Hôm Nay
(Kính tặng Dì Trang)
Và bài Tưởng Niệm, cảm hứng từ một câu thơ của dì Trang:
“Mừng mãi chưa quên nỗi bẽ bàng”
(Hoàng Trang Thị)
Chim xa cất cánh bay vù
Nhớ Lâm Tuyền Mộng đất phù du hoa
(Hồi sinh hồng lệ trao quà
Từ bình nguyên rộng lại nhà thăm nhau)
(Em về mấy thế kỷ sau)
Ngồi bên gốc cây
Ngủ trên ngọn sóng
Đi giữa trời mây
Tần ngần nghe ngóng
(Buồn vui như thể thân mình
Ai chia nửa máu ai giành nửa xương)
Cũng trong khu vườn ấy, một lần Bùi Giáng kể:
“Khi ta còn nhỏ, khoảng bốn năm tuổi, mỗi khi mẹ đi vắng, ta nhớ ghê lắm, ngồi một mình đầu hè trông ngóng mẹ về. Nhưng khi mẹ ta về, bà không ngó tới ta, mà chạy thẳng vào nhà ôm lấy thằng em của ta!...”
Trong Bùi Giáng, niềm khát khao Mẹ không lúc nào vơi, dù là lúc còn thơ hay khi tóc đã bạc. Dù niềm khao khát có thể thăng hoa thành nguyên lý Mẹ phổ quát, nhưng trong đời sống của anh lúc nào cũng cần có những “mẫu thân” nâng đỡ suốt đường đi. Dù các mẫu thân ấy có thực một cách hư cấu hay hư cấu một cách rất thực, thì vẫn là một niềm an ủi êm dịu cho tâm hồn dằng dặc khao khát vỗ về của nhà thơ.
Thủ bút của Bùi Giáng: thơ tặng Phạm Xuân Đài
Bùi Giáng như một ngọn lửa cháy liên tục mấy mươi năm nay trong thế giới thơ ca –của anh và của chúng ta. Ngọn lửa có khi thu lại thành một đốm nhỏ, có khi bùng lên dữ dội, có khi bị gió bão lắt lay, nhưng vẫn là nguyên một ngọn lửa ấy từ đầu cho đến bây giờ. Anh không bao giờ tự phủ nhận mình để bắt đầu lại từ đầu –nghĩa là tắt ngọn lửa của mình đi để thắp lên một ngọn theo kiểu khác hẳn. Anh cũng thoát khỏi các hệ lụy của đời thường để không lâm vào cảnh lúng túng hoặc đối đầu khi hoàn cảnh hoàn toàn thay đổi. Ở giữa đời mà quả thực anh không dính dáng với cõi trần. Nếu đừng hiểu chữ ung dung tự tại một cách quá chặt chẽ thì quả là anh đã đạt tình trạng ấy, theo kiểu của anh. Trước sau anh nguyên vẹn. Có thi nhân nào của Việt Nam trải mấy mươi năm qua mà được như anh? Sau tháng Tư-1975, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư... vào Nam trưng thơ tình của mình ra trong cung cách làm công tác để chứng tỏ rằng trong chế độ của họ thứ hàng nào cũng được sản xuất cả. Họ đã trưng một ít hàng-mẫu-không-bao-giờ-bán của một cơ cấu sản xuất toàn là quốc doanh. Quần chúng miền Nam cảm thấy một bãi khô cằn mênh mông. Giữa sa mạc với những viên đá đen đúa lăn lóc, Bùi Giáng trở thành một ốc đảo xanh tươi mát rượi, ốc đảo duy nhất còn lại giữa một miền Nam cháy da sau khi “thằng bán tơ kia dở dói ra” đủ các trò ma mãnh để đổ vào khuôn tất cả mọi sinh hoạt tinh thần. Anh càng lang thang, càng lên cơn điên dữ dội, càng điêu linh tàn tạ, nhưng cùng lúc anh đang đóng vai trò của một sứ đồ tự do, bản thân anh là một bài ca đầy cảm hứng cho nỗi khát khao tinh thần tự do của xã hội. Anh thành một chỗ tựa cho bạn bè cũ và một sức mạnh cảm hóa đối với người mới đến. Anh tượng trưng cho sự “ngoài vòng cương tỏa” mà người văn nghệ chân chính nào cũng thèm muốn. Ngọn lửa của anh được giữ cháy liên tục là biểu tượng cho một truyền thống tinh thần không bị đứt. Ngọn lửa ấy không phải cháy do một thứ nhiên liệu trần thế nào nên các sức mạnh trần thế không dập tắt nó được. Anh như là một loại người nhà trời xuống để giúp con người ra khỏi được tai họa do chính sự dại dột của nó gây ra. Anh không có và không cần hào khí của một dũng sĩ rút gươm đương cự với con chằn tinh gian ác. Nơi anh không có sự phân biệt ta và nó. Chỉ là một khối tinh thần vật chất lãng đãng phiêu bồng.
Nhưng tất cả chúng ta luôn luôn cần và biết ơn cái lãng đãng phiêu bồng ấy.
Saigon 21-6-1992
(Màu con mắt bên mùa xuân xiêu đổ
Ở bên kia nhìn ngó lại bên này
Gió lắt lay bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay)
Hoàng Hoa phố chợ niệm tình
Chép câu ủy tạ chưa đành bởi đâu
Hoàng Hoa Phố Thị hương màu
Đi thiêm thiếp cõi mai sau lạ lùng
Hoàng hoa tinh thể não nùng
Từ mai hậu với vô cùng Hôm Nay
(Kính tặng Dì Trang)
Và bài Tưởng Niệm, cảm hứng từ một câu thơ của dì Trang:
“Mừng mãi chưa quên nỗi bẽ bàng”
(Hoàng Trang Thị)
Chim xa cất cánh bay vù
Nhớ Lâm Tuyền Mộng đất phù du hoa
(Hồi sinh hồng lệ trao quà
Từ bình nguyên rộng lại nhà thăm nhau)
(Em về mấy thế kỷ sau)
Ngồi bên gốc cây
Ngủ trên ngọn sóng
Đi giữa trời mây
Tần ngần nghe ngóng
(Buồn vui như thể thân mình
Ai chia nửa máu ai giành nửa xương)
Cũng trong khu vườn ấy, một lần Bùi Giáng kể:
“Khi ta còn nhỏ, khoảng bốn năm tuổi, mỗi khi mẹ đi vắng, ta nhớ ghê lắm, ngồi một mình đầu hè trông ngóng mẹ về. Nhưng khi mẹ ta về, bà không ngó tới ta, mà chạy thẳng vào nhà ôm lấy thằng em của ta!...”
Trong Bùi Giáng, niềm khát khao Mẹ không lúc nào vơi, dù là lúc còn thơ hay khi tóc đã bạc. Dù niềm khao khát có thể thăng hoa thành nguyên lý Mẹ phổ quát, nhưng trong đời sống của anh lúc nào cũng cần có những “mẫu thân” nâng đỡ suốt đường đi. Dù các mẫu thân ấy có thực một cách hư cấu hay hư cấu một cách rất thực, thì vẫn là một niềm an ủi êm dịu cho tâm hồn dằng dặc khao khát vỗ về của nhà thơ.
Thủ bút của Bùi Giáng: thơ tặng Phạm Xuân Đài
Bùi Giáng như một ngọn lửa cháy liên tục mấy mươi năm nay trong thế giới thơ ca –của anh và của chúng ta. Ngọn lửa có khi thu lại thành một đốm nhỏ, có khi bùng lên dữ dội, có khi bị gió bão lắt lay, nhưng vẫn là nguyên một ngọn lửa ấy từ đầu cho đến bây giờ. Anh không bao giờ tự phủ nhận mình để bắt đầu lại từ đầu –nghĩa là tắt ngọn lửa của mình đi để thắp lên một ngọn theo kiểu khác hẳn. Anh cũng thoát khỏi các hệ lụy của đời thường để không lâm vào cảnh lúng túng hoặc đối đầu khi hoàn cảnh hoàn toàn thay đổi. Ở giữa đời mà quả thực anh không dính dáng với cõi trần. Nếu đừng hiểu chữ ung dung tự tại một cách quá chặt chẽ thì quả là anh đã đạt tình trạng ấy, theo kiểu của anh. Trước sau anh nguyên vẹn. Có thi nhân nào của Việt Nam trải mấy mươi năm qua mà được như anh? Sau tháng Tư-1975, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư... vào Nam trưng thơ tình của mình ra trong cung cách làm công tác để chứng tỏ rằng trong chế độ của họ thứ hàng nào cũng được sản xuất cả. Họ đã trưng một ít hàng-mẫu-không-bao-giờ-bán của một cơ cấu sản xuất toàn là quốc doanh. Quần chúng miền Nam cảm thấy một bãi khô cằn mênh mông. Giữa sa mạc với những viên đá đen đúa lăn lóc, Bùi Giáng trở thành một ốc đảo xanh tươi mát rượi, ốc đảo duy nhất còn lại giữa một miền Nam cháy da sau khi “thằng bán tơ kia dở dói ra” đủ các trò ma mãnh để đổ vào khuôn tất cả mọi sinh hoạt tinh thần. Anh càng lang thang, càng lên cơn điên dữ dội, càng điêu linh tàn tạ, nhưng cùng lúc anh đang đóng vai trò của một sứ đồ tự do, bản thân anh là một bài ca đầy cảm hứng cho nỗi khát khao tinh thần tự do của xã hội. Anh thành một chỗ tựa cho bạn bè cũ và một sức mạnh cảm hóa đối với người mới đến. Anh tượng trưng cho sự “ngoài vòng cương tỏa” mà người văn nghệ chân chính nào cũng thèm muốn. Ngọn lửa của anh được giữ cháy liên tục là biểu tượng cho một truyền thống tinh thần không bị đứt. Ngọn lửa ấy không phải cháy do một thứ nhiên liệu trần thế nào nên các sức mạnh trần thế không dập tắt nó được. Anh như là một loại người nhà trời xuống để giúp con người ra khỏi được tai họa do chính sự dại dột của nó gây ra. Anh không có và không cần hào khí của một dũng sĩ rút gươm đương cự với con chằn tinh gian ác. Nơi anh không có sự phân biệt ta và nó. Chỉ là một khối tinh thần vật chất lãng đãng phiêu bồng.
Nhưng tất cả chúng ta luôn luôn cần và biết ơn cái lãng đãng phiêu bồng ấy.
Saigon 21-6-1992
*******************************************************
1. Ngày Xuân Tản Mạn Với Anh Phạm Phú Minh
Câu chuyện đầu xuân này mong rằng sẽ gợi lại chút gì đó chừng như không còn hiện diện trong những ngày Tết hôm nay bởi đời sống công nghiệp ngày một lấn sâu vào xã hội Việt Nam chúng ta. Mời quý vị theo dõi sau đây.
Đời sống công nghiệp và phong tục ngày Tết
Mặc Lâm: Thưa anh, chúng ta có cái phong tục của Việt Nam từ bao đời nay, đó là chuẩn bị hoa Tết, những người đàn ông thì lo cho hoa, những cành hoa đẹp nhất, cũng như bàn thờ tổ tiên, còn người đàn bà thì lo gói bánh tét, bánh chưng cùng những chuẩn bị linh tinh khác mà cái cảm xúc văn hóa không thể thiếu trong ngày Tết này.
Tuy nhiên, theo chúng tôi nhận thấy hiện nay trong đời sống công nghiệp ở trong nước bây giờ đã làm cho các bà nội trợ không còn cái cơ hội thực hiện những điều như ngày xưa nữa. Mọi thứ, chẳng hạn như bánh tét cũng ra siêu thị mua, rồi hoa quả bánh trái bất cứ cái gì cũng có siêu thị lo hết.
Có một nỗi lo ngại là nếu tình trạng đó xảy ra hoài, đời sống công nghiệp đè lên đời sống truyền thống, thì cái Tết sẽ dần dần mất đi những hình ảnh đẹp của nó như khi mà bà nội trợ ngồi chung với con cái canh nồi bánh tét thì sẽ có nhiều chuyện để nhắc nhở với con cháu. Theo anh, điều đó có lâu ngày chầy tháng sẽ làm mất hẳn nét Tết cổ truyền hay không, thưa anh?
Đời sống công nghiệp và phong tục ngày Tết
Mặc Lâm: Thưa anh, chúng ta có cái phong tục của Việt Nam từ bao đời nay, đó là chuẩn bị hoa Tết, những người đàn ông thì lo cho hoa, những cành hoa đẹp nhất, cũng như bàn thờ tổ tiên, còn người đàn bà thì lo gói bánh tét, bánh chưng cùng những chuẩn bị linh tinh khác mà cái cảm xúc văn hóa không thể thiếu trong ngày Tết này.
Tuy nhiên, theo chúng tôi nhận thấy hiện nay trong đời sống công nghiệp ở trong nước bây giờ đã làm cho các bà nội trợ không còn cái cơ hội thực hiện những điều như ngày xưa nữa. Mọi thứ, chẳng hạn như bánh tét cũng ra siêu thị mua, rồi hoa quả bánh trái bất cứ cái gì cũng có siêu thị lo hết.
Có một nỗi lo ngại là nếu tình trạng đó xảy ra hoài, đời sống công nghiệp đè lên đời sống truyền thống, thì cái Tết sẽ dần dần mất đi những hình ảnh đẹp của nó như khi mà bà nội trợ ngồi chung với con cái canh nồi bánh tét thì sẽ có nhiều chuyện để nhắc nhở với con cháu. Theo anh, điều đó có lâu ngày chầy tháng sẽ làm mất hẳn nét Tết cổ truyền hay không, thưa anh?
Phạm Phú Minh: Vâng. Anh đặt câu hỏi này tôi nghĩ là rất hay, bởi vì không chỉ thời đại này mà thời đại nào chúng ta cũng phải đương đầu với một sự thay đổi mà nó sẽ làm phai dần đi những sự việc quá khứ và nó sinh ra những cái mới trong đời sống, nhưng riêng về cái Tết thì hình như chúng ta đều biết – như anh vừa nói đó – thì lo cây kiểng, lo làm bánh trái, lo trang hoàng nhà cửa, tất cả những việc đó trở thành truyền thống với dân mình rồi, và dân tộc Việt Nam vẫn làm đều đặn mỗi khi năm hết Tết đến. Cái đó nó làm cho có không khí Tết.
Tôi công nhận là anh vừa nêu lên một vấn đề rất đúng, là những chuyện chuẩn bị Tết nó là nét văn hóa riêng của dân tộc mình. Những đời sống công nghiệp như anh vừa nói đó thì tôi nghĩ là nó chưa đủ sức để mà làm thay đổi nét truyền thống của chúng ta đâu.
Cái siêu thị theo tôi nghĩ thì nó chưa phá vỡ được cái truyền thống chuẩn bị Tết của người Việt Nam. Đó chỉ mới là một cái mảng của đời sống đô thị, trong khi đó thì đại đa số người dân Việt Nam nhất là ở nông thôn thì tôi nghĩ là họ vẫn giữ nguyên tập tục như là gói bánh tét bánh chưng, trồng hoa để chuẩn bị Tết, hay là trang hoàng nhà cửa, sửa sang vườn tược v.v. để đón Xuân. Thì chuyện đó tôi nghĩ là đại đa số dân mình vẫn còn giữ được.
Bây giờ quay về đời sống công nghiệp nó đương bắt đầu ở xã hội Việt Nam bây giờ đó thì tôi nghĩ là chỉ mới bắt đầu ở một số đô thị thôi, tôi cho là chưa đủ sức để thay đổi cái truyền thống của chúng ta một cách đáng kể.
Nhưng mà, thưa anh, bây giờ cái siêu thị thì sao? Thì nó cũng chỉ là một cái phiên chợ Tết thôi chớ gì? Nó cũng bán hoa quả, cũng bán bánh chưng bánh tét, cũng các loại bánh mứt kẹo. Hồi xưa thì ông bà chúng ta cũng đi chợ Tết, cũng đi mua sắm những thứ đó để về ăn Tết nếu như không làm ở nhà. Bây giờ cái siêu thị thì nó cũng là một loại chợ Tết, tôi nghĩ như vậy thôi, nhưng mà là một loại chợ Tết tân tiến hóa. Chính nó sẽ không làm gì thay đổi được cái Tết cổ truyền của chúng ta mấy đâu.
Tôi công nhận là anh vừa nêu lên một vấn đề rất đúng, là những chuyện chuẩn bị Tết nó là nét văn hóa riêng của dân tộc mình. Những đời sống công nghiệp như anh vừa nói đó thì tôi nghĩ là nó chưa đủ sức để mà làm thay đổi nét truyền thống của chúng ta đâu.
Cái siêu thị theo tôi nghĩ thì nó chưa phá vỡ được cái truyền thống chuẩn bị Tết của người Việt Nam. Đó chỉ mới là một cái mảng của đời sống đô thị, trong khi đó thì đại đa số người dân Việt Nam nhất là ở nông thôn thì tôi nghĩ là họ vẫn giữ nguyên tập tục như là gói bánh tét bánh chưng, trồng hoa để chuẩn bị Tết, hay là trang hoàng nhà cửa, sửa sang vườn tược v.v. để đón Xuân. Thì chuyện đó tôi nghĩ là đại đa số dân mình vẫn còn giữ được.
Bây giờ quay về đời sống công nghiệp nó đương bắt đầu ở xã hội Việt Nam bây giờ đó thì tôi nghĩ là chỉ mới bắt đầu ở một số đô thị thôi, tôi cho là chưa đủ sức để thay đổi cái truyền thống của chúng ta một cách đáng kể.
Nhưng mà, thưa anh, bây giờ cái siêu thị thì sao? Thì nó cũng chỉ là một cái phiên chợ Tết thôi chớ gì? Nó cũng bán hoa quả, cũng bán bánh chưng bánh tét, cũng các loại bánh mứt kẹo. Hồi xưa thì ông bà chúng ta cũng đi chợ Tết, cũng đi mua sắm những thứ đó để về ăn Tết nếu như không làm ở nhà. Bây giờ cái siêu thị thì nó cũng là một loại chợ Tết, tôi nghĩ như vậy thôi, nhưng mà là một loại chợ Tết tân tiến hóa. Chính nó sẽ không làm gì thay đổi được cái Tết cổ truyền của chúng ta mấy đâu.
Truyền thống du Xuân
Du khách trên đường đến Chùa Hương. AFP photo/Hoang Dinh Nam.
Mặc Lâm: Thưa anh, trong thời gian gần đây người dân có khuynh hướng đi du lịch nước ngoài trong những ngày Tết thay vì chỉ loanh quanh trong nước như xưa. Anh có chia sẻ gì trước hiện tượng này ạ?
Phạm Phú Minh: Trước hết tôi rất cảm ơn câu hỏi này của anh bởi vì nó gợi cho tôi một tập tục rất là xưa của người Việt Nam, đó là du Xuân.
Du Xuân là một ý niệm và cũng là một sinh hoạt đã có từ lâu trong văn hóa Việt Nam, bởi vì trong nền văn minh nông nghiệp hồi xưa người ta quanh năm bám lấy ruộng vườn, không mấy khi được ra khỏi lũy tre làng, cho nên Tết là cái dịp duy nhứt trong năm để được đi chơi xa hoặc đi chơi gần, nhưng mà đó cũng có thể là một cuộc tham dự lễ hội ở làng bên, hay là đi viếng các đền chùa nổi tiếng, hoặc là những nơi có phong cảnh hữu tình, hoặc là đi về thăm quê ngoại, đi thăm bạn bè, bởi vì Tết thì được nghỉ, và được nghỉ thì người ta nghĩ đến chuyện đi chơi một nơi nào đó.
Thành thử du Xuân là một nhu cầu thoát ra khỏi cảnh trí quen thuộc nhàm chán mà mình đã ở và làm việc trong đó quanh năm suốt tháng, thì nó đã trở thành truyền thống của dân Việt Nam mình rồi. Tôi nghĩ là đi xa hay đi gần thì cũng vậy vì họ có nhu cầu phải di chuyển trong mấy ngày Tết.
Tôi nhớ là những cái Tết trước 1975 thì dân Sài Gòn có khuynh hướng đi chơi ở Đà Lạt, ở Vũng Tàu hoặc là Nha Trang, hoặc là ai có gốc gác ở miền Lục Tỉnh hoặc là Miền Trung thì thường là thực hiện một chuyến về quê ăn Tết. Về bản chất thì tôi cho đó cũng là một chuyến du Xuân. Việc đồng bào trong nước bây giờ đang có khuynh hướng đi chơi trong dịp Tết thì hay đi Thái Lan hay là các nước trong vùng Đông Nam Á thì tôi thấy đó cũng là chuyện tiếp nối truyền thống xưa nhưng trong khung cảnh và phương tiện của ngày hôm nay mà thôi.
Bản chất của những chuyến đi đó cũng là chuyến du Xuân, như ông bà chúng ta đã du Xuân ngày xưa nhưng mà bây giờ thì nó nới rộng cái địa bàn ra, và người dân có được cái khả năng, cái phương tiện để đi chơi xa hơn một chút, thì họ thực hiện một cuộc du Xuân mới vậy thôi, chớ tôi nghĩ thì nó cũng không khác gì cái truyền thống du Xuân ngày xưa.
Du khách trên đường đến Chùa Hương. AFP photo/Hoang Dinh Nam.
Mặc Lâm: Thưa anh, trong thời gian gần đây người dân có khuynh hướng đi du lịch nước ngoài trong những ngày Tết thay vì chỉ loanh quanh trong nước như xưa. Anh có chia sẻ gì trước hiện tượng này ạ?
Phạm Phú Minh: Trước hết tôi rất cảm ơn câu hỏi này của anh bởi vì nó gợi cho tôi một tập tục rất là xưa của người Việt Nam, đó là du Xuân.
Du Xuân là một ý niệm và cũng là một sinh hoạt đã có từ lâu trong văn hóa Việt Nam, bởi vì trong nền văn minh nông nghiệp hồi xưa người ta quanh năm bám lấy ruộng vườn, không mấy khi được ra khỏi lũy tre làng, cho nên Tết là cái dịp duy nhứt trong năm để được đi chơi xa hoặc đi chơi gần, nhưng mà đó cũng có thể là một cuộc tham dự lễ hội ở làng bên, hay là đi viếng các đền chùa nổi tiếng, hoặc là những nơi có phong cảnh hữu tình, hoặc là đi về thăm quê ngoại, đi thăm bạn bè, bởi vì Tết thì được nghỉ, và được nghỉ thì người ta nghĩ đến chuyện đi chơi một nơi nào đó.
Thành thử du Xuân là một nhu cầu thoát ra khỏi cảnh trí quen thuộc nhàm chán mà mình đã ở và làm việc trong đó quanh năm suốt tháng, thì nó đã trở thành truyền thống của dân Việt Nam mình rồi. Tôi nghĩ là đi xa hay đi gần thì cũng vậy vì họ có nhu cầu phải di chuyển trong mấy ngày Tết.
Tôi nhớ là những cái Tết trước 1975 thì dân Sài Gòn có khuynh hướng đi chơi ở Đà Lạt, ở Vũng Tàu hoặc là Nha Trang, hoặc là ai có gốc gác ở miền Lục Tỉnh hoặc là Miền Trung thì thường là thực hiện một chuyến về quê ăn Tết. Về bản chất thì tôi cho đó cũng là một chuyến du Xuân. Việc đồng bào trong nước bây giờ đang có khuynh hướng đi chơi trong dịp Tết thì hay đi Thái Lan hay là các nước trong vùng Đông Nam Á thì tôi thấy đó cũng là chuyện tiếp nối truyền thống xưa nhưng trong khung cảnh và phương tiện của ngày hôm nay mà thôi.
Bản chất của những chuyến đi đó cũng là chuyến du Xuân, như ông bà chúng ta đã du Xuân ngày xưa nhưng mà bây giờ thì nó nới rộng cái địa bàn ra, và người dân có được cái khả năng, cái phương tiện để đi chơi xa hơn một chút, thì họ thực hiện một cuộc du Xuân mới vậy thôi, chớ tôi nghĩ thì nó cũng không khác gì cái truyền thống du Xuân ngày xưa.
Trò chơi Đỏ Đen
Hội đánh bài chòi trong lễ hội đền Lương Văn Chánh - Ảnh: KIM SA/Báo Phú Yên điện tử.
Mặc Lâm: Anh có thể nhắc lại những kỷ niệm mà anh nhớ nhứt trong những Tết của quê hương anh trong những lễ Tết của Miền Trung vào những năm xưa trước khi cuộc chiến kết thúc hay không, thưa anh?
Phạm Phú Minh: Vâng. Anh vừa nhắc đến Miền Trung thì tôi cũng là người Miền Trung, nói cụ thể hơn là người Quảng Nam, thì tôi có nhận xét là tôi sống ở Quảng Nam hồi còn nhỏ, tôi từ nhỏ lớn lên ở đó, cho nên tôi ăn nhiều cái Tết ở quê hương rồi.
Về phương diện xã hội thì tôi thấy nhiều cái tập tục đặc biệt trong ngày Tết, nếu mà so sánh với Miền Bắc thì nơi đất Miền Trung ít hơn, nó không có những lễ hội rầm rộ về mùa Xuân kia nọ chẳng hạn, thì tôi nghĩ cái đó là sự khác biệt tất nhiên thôi bởi vì Miền Bắc vốn là cái nôi văn hóa ngàn đời của dân tộc Việt Nam và ở đó đã nảy sinh và truyền lại cho đời sau nhiều tập tục cũ, trong khi đất Miền Trung và xa hơn nữa là đất Miền Nam thì là những đất mới cho nên bề dày văn hóa chưa dày lắm, cho nên những sinh hoạt, những tập tục ngày Tết chỉ có ít thôi.
Nhưng mà tôi có một nhận xét chung là người mình ở Việt Nam rất mê cờ bạc và Tết là một dịp thuận tiện để thực hiện những trò chơi làm thỏa mãn nhu cầu đỏ đen của người mình. Hầu như gia đình nào cũng có một sòng bạc nho nhỏ để chơi với nhau, hoặc là bạn bè tới cùng nhau gầy một sòng xâm hường, hay đánh các-tê, chơi sóc dĩa, vân vân ở trong gia đình đó vì tôi thấy hầu như gia đình nào cũng có.
Nhưng mà ở ngoài xã hội thì cũng có những trò chơi đỏ đen ở nơi công cộng, đại khái như ở Hội An là nơi chúng tôi đi học hồi nhỏ thì ngày Tết nơi nào trong phố cũng có những bàn bầu cua cá cọp, những bàn sóc dĩa. Nhưng mà có điểm đặc biệt mà tôi nhớ hoài, không quên được, là ở Hội An trong ngày Tết có một trò chơi gọi là Bài Chòi. Bài Chòi có nghĩa là đánh bài trong một cái chòi và đó là một trò chơi tập thể và Tết nào người ta cũng dựng lên nhiều cái chòi ở trong thành phố để bày trò chơi này.
Khi vào trò chơi thì người tham dự ngồi hai bên chòi trên những dãy ghé cao dần lên, ở giữa có một người xướng lên những con bài rút được, mà anh ta xướng lên bằng những câu thơ nghe rất thú vị. Những câu thơ đó đôi khi rất là ngộ nghỉnh. Cho nên Bài Chòi tôi nghĩ là một nét văn hóa hiếm hoi trong các trò chơi cờ bạc ở nước ta. Đó là những ký ức còn ghi được trong tôi từ tuổi nhỏ, đặc biệt là khi tôi đi học ở thành phố Hội An.
Hội đánh bài chòi trong lễ hội đền Lương Văn Chánh - Ảnh: KIM SA/Báo Phú Yên điện tử.
Mặc Lâm: Anh có thể nhắc lại những kỷ niệm mà anh nhớ nhứt trong những Tết của quê hương anh trong những lễ Tết của Miền Trung vào những năm xưa trước khi cuộc chiến kết thúc hay không, thưa anh?
Phạm Phú Minh: Vâng. Anh vừa nhắc đến Miền Trung thì tôi cũng là người Miền Trung, nói cụ thể hơn là người Quảng Nam, thì tôi có nhận xét là tôi sống ở Quảng Nam hồi còn nhỏ, tôi từ nhỏ lớn lên ở đó, cho nên tôi ăn nhiều cái Tết ở quê hương rồi.
Về phương diện xã hội thì tôi thấy nhiều cái tập tục đặc biệt trong ngày Tết, nếu mà so sánh với Miền Bắc thì nơi đất Miền Trung ít hơn, nó không có những lễ hội rầm rộ về mùa Xuân kia nọ chẳng hạn, thì tôi nghĩ cái đó là sự khác biệt tất nhiên thôi bởi vì Miền Bắc vốn là cái nôi văn hóa ngàn đời của dân tộc Việt Nam và ở đó đã nảy sinh và truyền lại cho đời sau nhiều tập tục cũ, trong khi đất Miền Trung và xa hơn nữa là đất Miền Nam thì là những đất mới cho nên bề dày văn hóa chưa dày lắm, cho nên những sinh hoạt, những tập tục ngày Tết chỉ có ít thôi.
Nhưng mà tôi có một nhận xét chung là người mình ở Việt Nam rất mê cờ bạc và Tết là một dịp thuận tiện để thực hiện những trò chơi làm thỏa mãn nhu cầu đỏ đen của người mình. Hầu như gia đình nào cũng có một sòng bạc nho nhỏ để chơi với nhau, hoặc là bạn bè tới cùng nhau gầy một sòng xâm hường, hay đánh các-tê, chơi sóc dĩa, vân vân ở trong gia đình đó vì tôi thấy hầu như gia đình nào cũng có.
Nhưng mà ở ngoài xã hội thì cũng có những trò chơi đỏ đen ở nơi công cộng, đại khái như ở Hội An là nơi chúng tôi đi học hồi nhỏ thì ngày Tết nơi nào trong phố cũng có những bàn bầu cua cá cọp, những bàn sóc dĩa. Nhưng mà có điểm đặc biệt mà tôi nhớ hoài, không quên được, là ở Hội An trong ngày Tết có một trò chơi gọi là Bài Chòi. Bài Chòi có nghĩa là đánh bài trong một cái chòi và đó là một trò chơi tập thể và Tết nào người ta cũng dựng lên nhiều cái chòi ở trong thành phố để bày trò chơi này.
Khi vào trò chơi thì người tham dự ngồi hai bên chòi trên những dãy ghé cao dần lên, ở giữa có một người xướng lên những con bài rút được, mà anh ta xướng lên bằng những câu thơ nghe rất thú vị. Những câu thơ đó đôi khi rất là ngộ nghỉnh. Cho nên Bài Chòi tôi nghĩ là một nét văn hóa hiếm hoi trong các trò chơi cờ bạc ở nước ta. Đó là những ký ức còn ghi được trong tôi từ tuổi nhỏ, đặc biệt là khi tôi đi học ở thành phố Hội An.
Pháo Tết
Đốt pháo ngày Tết. Photo courtesy of Nguyễn Hữu Tiến's Site.
Mặc Lâm: Vâng. Thưa anh, anh cũng vừa nhắc đến trò chơi bầu cua cá cọp thì thú thật với anh là nó đeo duổi tôi từ mấy chục năm nay, là vì hồi nhỏ tôi mong sao được ngày Tết để tôi ngồi trước bàn bầu cua cá cọp, là vì 6 cái hình trái bầu, con nai, con tôm, con cá, con cua, con gà nó đẹp lắm vì màu sắc sặc sở của nó, rồi cái tâm trạng hồi họp khi chờ đợi nhà cái giở nắp trình làng những con gì hiện ra có trúng với con gì mình đặt hay không. Hình ảnh bầu cua cá cọp đó nó làm cho ký ức mình gắn chặt với vùng quê hương của mình, mà nếu mất cái trò chơi đó thì cái Tết đối với tôi nó mất đi ít nhứt là 50%.
Bên cạnh bầu cua cá cọp còn có tiếng pháo nữa. Đón giao thừa mà không có pháo thì kể như không có giao thừa. Và sau này từ 1995 tới nay đất nước đã không còn cho đốt pháo nữa, thì khi cấm đốt pháo như vậy mình không còn nghe được mùi pháo, cái mùi thật quyến rũ đối với tuổi thơ. Như vậy là đời sống công nghiệp mỗi ngày nó làm mai một dần dần những ký ức đó. Có người nói đốt pháo không có lợi gì hết mà chỉ hại thôi. Theo anh thì đốt pháo có hại không?
Phạm Phú Minh: Tôi thì cũng giống như anh vậy. Tết với pháo là phải đi đôi với nhau. Từ hồi nhỏ mình nghe mùi pháo là mình thấy Tết rồi, vui lắm. Tôi cũng đã sống ở Sài Gòn một quãng thời gian từ năm 1988 cho đến lúc tôi đi Mỹ. Trong quãng thời gian này đời sống ở Việt Nam đã cởi mở nhiều lắm rồi cho nên người ta có đốt pháo.
Tôi đã chứng kiến những cái Tết người ta đốt pháo thật kinh khủng anh ạ, đến độ trong đêm giao thừa mình không thở được. Mình ở trong đường hẻm mà bốn phía khắp Sài Gòn đều nổ tung lên cả, khói tràn ngập không à. Khói pháo mà như trận cháy lớn vậy đó. Tôi nhớ hồi đó tôi ở trong nhà có một cô cháu mới sanh một em bé mà khói tràn ngập khắp nơi trong nhà và cô cháu phải bồng em bé chạy tuốt lên sân thượng để có một chút không khí loảng hơn để thở.
Qua những cái Tết như thế tôi thấy chuyện cấm đốt pháo cũng có cái lý do của nó chứ không phải không, ngoài cái chuyện nguy hiểm là gây hỏa hoạn hay là gây thương tật cho người đốt. Trong đô thị mà đốt pháo gây ô nhiễm trong cái đêm giao thừa như vậy thì tôi thấy là quá đáng thật.
Đốt pháo ngày Tết. Photo courtesy of Nguyễn Hữu Tiến's Site.
Mặc Lâm: Vâng. Thưa anh, anh cũng vừa nhắc đến trò chơi bầu cua cá cọp thì thú thật với anh là nó đeo duổi tôi từ mấy chục năm nay, là vì hồi nhỏ tôi mong sao được ngày Tết để tôi ngồi trước bàn bầu cua cá cọp, là vì 6 cái hình trái bầu, con nai, con tôm, con cá, con cua, con gà nó đẹp lắm vì màu sắc sặc sở của nó, rồi cái tâm trạng hồi họp khi chờ đợi nhà cái giở nắp trình làng những con gì hiện ra có trúng với con gì mình đặt hay không. Hình ảnh bầu cua cá cọp đó nó làm cho ký ức mình gắn chặt với vùng quê hương của mình, mà nếu mất cái trò chơi đó thì cái Tết đối với tôi nó mất đi ít nhứt là 50%.
Bên cạnh bầu cua cá cọp còn có tiếng pháo nữa. Đón giao thừa mà không có pháo thì kể như không có giao thừa. Và sau này từ 1995 tới nay đất nước đã không còn cho đốt pháo nữa, thì khi cấm đốt pháo như vậy mình không còn nghe được mùi pháo, cái mùi thật quyến rũ đối với tuổi thơ. Như vậy là đời sống công nghiệp mỗi ngày nó làm mai một dần dần những ký ức đó. Có người nói đốt pháo không có lợi gì hết mà chỉ hại thôi. Theo anh thì đốt pháo có hại không?
Phạm Phú Minh: Tôi thì cũng giống như anh vậy. Tết với pháo là phải đi đôi với nhau. Từ hồi nhỏ mình nghe mùi pháo là mình thấy Tết rồi, vui lắm. Tôi cũng đã sống ở Sài Gòn một quãng thời gian từ năm 1988 cho đến lúc tôi đi Mỹ. Trong quãng thời gian này đời sống ở Việt Nam đã cởi mở nhiều lắm rồi cho nên người ta có đốt pháo.
Tôi đã chứng kiến những cái Tết người ta đốt pháo thật kinh khủng anh ạ, đến độ trong đêm giao thừa mình không thở được. Mình ở trong đường hẻm mà bốn phía khắp Sài Gòn đều nổ tung lên cả, khói tràn ngập không à. Khói pháo mà như trận cháy lớn vậy đó. Tôi nhớ hồi đó tôi ở trong nhà có một cô cháu mới sanh một em bé mà khói tràn ngập khắp nơi trong nhà và cô cháu phải bồng em bé chạy tuốt lên sân thượng để có một chút không khí loảng hơn để thở.
Qua những cái Tết như thế tôi thấy chuyện cấm đốt pháo cũng có cái lý do của nó chứ không phải không, ngoài cái chuyện nguy hiểm là gây hỏa hoạn hay là gây thương tật cho người đốt. Trong đô thị mà đốt pháo gây ô nhiễm trong cái đêm giao thừa như vậy thì tôi thấy là quá đáng thật.
Nhạc Xuân
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Photo courtesy of cafevannghe.wordpress.com.
Mặc Lâm: Vâng. Nói tới pháo thì mình nghĩ tới âm thanh và nó cũng gợi cho tôi một nỗi nhớ khác là hình như trước 1975 bên cạnh tiếng pháo còn có tiếng nhạc nữa đó anh. Tôi cũng nhớ là hồi xưa có máy cassette nho nhỏ mở nhạc suốt từ đêm giao thừa cho tới mùng hai những bản nhạc Xuân làm cho không khí trong gia đình vui hẳn lên vì hình như người ta thích nhạc Xuân lắm. Anh có kỷ niệm nào về những bản nhạc Xuân trước năm 1975 không, thưa anh?
Phạm Phú Minh:
Dạ, kỷ niệm thì nhiều anh ạ, bởi vì tôi cũng giống như anh, bởi vì mình đã được nuôi dưỡng trong cái nền âm thanh đó. Tết thì phải có những bản nhạc Xuân. Ngoài cái chuyện trang trí nhà cửa, bánh mứt rượu chè, thì cái âm thanh cũng đóng góp một phần nhưng mà cái này cũng không nằm trong truyền thống Việt Nam lắm bởi vì nó mới chỉ có sau này thôi.
Nhưng mà đúng là âm thanh là một yếu tố rất quan trọng. Nói thẳng ra là âm nhạc, là nhạc Xuân đóng góp vào không khí Tết rất quan trọng , nó làm cho không khí Tết tưng bừng lên thật vui vè, nó kích động tâm lý mình làm cho mình vui hơn trong ngày Xuân. Kể ra nhạc Xuân của mình tuy lịch sử tân nhạc Việt nam chúng ta cũng mới thôi, được khoảng bảy chục năm, nhưng mà tôi để ý nhạc Xuân cũng trở thành một yếu tố quan trọng đóng góp cho ngày Xuân, ngày Tết của dân tộc.
Nhưng riêng tôi thì tôi cho bài Ly Rượu Mừng của nhạc sĩ Phạm Đình Chương là bản nhạc quan trọng nhất đối với cái Tết của Việt Nam.
Nhà văn Phạm Phú Minh
Nhưng riêng tôi thì tôi cho bài Ly Rượu Mừng của nhạc sĩ Phạm Đình Chương là bản nhạc quan trọng nhất đối với cái Tết của Việt Nam. Nếu tôi nhớ không lầm thì bài đó được nhạc sĩ Phạm Đình Chương viết khoảng năm 1955, tức là sau khi cuộc chiến Đông Dương kết thúc vào 1954, và cái Tết 1955 là cái Tết đầu tiên mà cả dân tộc được hòa bình, cho nên cái cảm hứng của tác giả lúc bấy giờ viết nên một bản nhạc mà tôi cho là rất quan trọng nói lên cái tâm thức của dân tộc mình được sống trong hòa bình, được vui với cảnh thanh bình và hướng về tương lai.
Tôi nhớ bài đó được hát trong cái Tết 1955 và bản nhạc đó được đăng trên một tờ báo Xuân ở Sài Gòn. Từ năm đó bài hát này luôn luôn được mọi người hát hay đón nghe mỗi khi Tết đến Xuân về. Theo tôi, đó là một nhạc phẩm rất là lớn, nó diễn đạt nỗi vui của mỗi tâm hồn Việt Nam trong dịp năm mới, nó diễn đạt cái tình thương yêu của mọi giới người trong xã hội, và nó cũng diễn đạt niềm hy vọng chứa chan của cả một dân tộc khi nghĩ tới bước đường tương lai.
Mặc Lâm: Vâng. Một lần nữa xin cảm ơn nhà văn Phạm Phú Minh đã cho chúng tôi buổi nói chuyện rất lý thú ngày hôm nay.
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Photo courtesy of cafevannghe.wordpress.com.
Mặc Lâm: Vâng. Nói tới pháo thì mình nghĩ tới âm thanh và nó cũng gợi cho tôi một nỗi nhớ khác là hình như trước 1975 bên cạnh tiếng pháo còn có tiếng nhạc nữa đó anh. Tôi cũng nhớ là hồi xưa có máy cassette nho nhỏ mở nhạc suốt từ đêm giao thừa cho tới mùng hai những bản nhạc Xuân làm cho không khí trong gia đình vui hẳn lên vì hình như người ta thích nhạc Xuân lắm. Anh có kỷ niệm nào về những bản nhạc Xuân trước năm 1975 không, thưa anh?
Phạm Phú Minh:
Dạ, kỷ niệm thì nhiều anh ạ, bởi vì tôi cũng giống như anh, bởi vì mình đã được nuôi dưỡng trong cái nền âm thanh đó. Tết thì phải có những bản nhạc Xuân. Ngoài cái chuyện trang trí nhà cửa, bánh mứt rượu chè, thì cái âm thanh cũng đóng góp một phần nhưng mà cái này cũng không nằm trong truyền thống Việt Nam lắm bởi vì nó mới chỉ có sau này thôi.
Nhưng mà đúng là âm thanh là một yếu tố rất quan trọng. Nói thẳng ra là âm nhạc, là nhạc Xuân đóng góp vào không khí Tết rất quan trọng , nó làm cho không khí Tết tưng bừng lên thật vui vè, nó kích động tâm lý mình làm cho mình vui hơn trong ngày Xuân. Kể ra nhạc Xuân của mình tuy lịch sử tân nhạc Việt nam chúng ta cũng mới thôi, được khoảng bảy chục năm, nhưng mà tôi để ý nhạc Xuân cũng trở thành một yếu tố quan trọng đóng góp cho ngày Xuân, ngày Tết của dân tộc.
Nhưng riêng tôi thì tôi cho bài Ly Rượu Mừng của nhạc sĩ Phạm Đình Chương là bản nhạc quan trọng nhất đối với cái Tết của Việt Nam.
Nhà văn Phạm Phú Minh
Nhưng riêng tôi thì tôi cho bài Ly Rượu Mừng của nhạc sĩ Phạm Đình Chương là bản nhạc quan trọng nhất đối với cái Tết của Việt Nam. Nếu tôi nhớ không lầm thì bài đó được nhạc sĩ Phạm Đình Chương viết khoảng năm 1955, tức là sau khi cuộc chiến Đông Dương kết thúc vào 1954, và cái Tết 1955 là cái Tết đầu tiên mà cả dân tộc được hòa bình, cho nên cái cảm hứng của tác giả lúc bấy giờ viết nên một bản nhạc mà tôi cho là rất quan trọng nói lên cái tâm thức của dân tộc mình được sống trong hòa bình, được vui với cảnh thanh bình và hướng về tương lai.
Tôi nhớ bài đó được hát trong cái Tết 1955 và bản nhạc đó được đăng trên một tờ báo Xuân ở Sài Gòn. Từ năm đó bài hát này luôn luôn được mọi người hát hay đón nghe mỗi khi Tết đến Xuân về. Theo tôi, đó là một nhạc phẩm rất là lớn, nó diễn đạt nỗi vui của mỗi tâm hồn Việt Nam trong dịp năm mới, nó diễn đạt cái tình thương yêu của mọi giới người trong xã hội, và nó cũng diễn đạt niềm hy vọng chứa chan của cả một dân tộc khi nghĩ tới bước đường tương lai.
Mặc Lâm: Vâng. Một lần nữa xin cảm ơn nhà văn Phạm Phú Minh đã cho chúng tôi buổi nói chuyện rất lý thú ngày hôm nay.