Đoàn Ngọc Nam - Page II - 2014
Nhạc Phẩm: Nhớ Hội An. Nhạc Vĩnh Thành. Thơ ĐN Nam
*************************************
20. Gái Xuân
Họa: KIẾP HOA
Cánh lụa trinh nguyên phảng phất hương Thơm tho khoe sắc ngợp bên đuờng Màn đêm hé nở mừng tài lộc Ánh nguyệt bừng soi chúc thọ khương Sáng đến hồn tan rơi chốn vắng chiều về xác rã rụng nơi rương Quỳnh hoa tối rộ mai tàn tạ Mộng đẹp vừa khơi đã xót thương vanngoc (28-10-2014) Dã Quỳ Dã quỳ màu tựa cúc hoa vàng Đài cánh xoay tròn chiếc lọng sang Thiếu nữ đương thì hương sắc thắm Giai nhân kiêu hãnh đẹp trời ban Hoa Dại Hoa dại bên đường mát mắt thương Thầm yêu cô gái quán bên đường Áo em xanh nhạt rạng màu nhớ Từ giã ra về mãi vấn vương |
Duyên Phận Lỡ Làng
Đặt tên hoa quý đóa quỳnh hương Thăm viếng nhà nàng đã rõ đường Trước cửa tiểu thơ mừng mạnh giỏi Ngoài sân công tử chúc an khương Say tình cánh nhạn nương theo gió Vỡ mộng thư xanh xếp xó rương Duyên phận lỡ làng mang nỗi nhớ Chia tay lưu luyến mãi còn thương ĐNN |
Họa: LŨ NGỐ TAM "VÔ" Xướng: Thân Phận Bù Nhìn
Vô trí vô tâm ...một lũ ngu Khen ai khéo tạo nộm hình ngu
Tam vô tạo dựng mấy tên mù... Một gã rơm khô câm điếc mù
Mép môi vụng dại qua mưa hạ Dãi nắng nguyên ngày canh vụ gặt
Hình dáng quê mùa đón gió thu Dầm mưa suốt buổi giữ mùa thu
Nhốn nháo thưa vâng loài két vẹt Ngồi bờ roi nhịp xua chim liệng
Lăng xăng nhảy múa giống ruồi bu Đứng góc nón quơ đuổi chúng bu
Suốt đời nô lệ cho chồn cáo Thân phận bù nhìn theo lệnh chủ
Trọn kiếp ôm chân bọn vũ phu. Phục tùng sai khiến kiếp mần phu
Văn Ngọc (04-11-2014) ĐNN (01-11-2014)
TÌNH THẬT Tình Viễn Xư
đnn
(Thân tặng anh chị : Nam & Lệ ) Cám ơn bạn bài thơ gởi tặng
Trong khổ đau có tình vĩnh cửu Tình bạn bè chia xẻ cho nhau
Đến từ tim mãi ngự trong tim Có gian nan mới thấm khổ đau
Đâu là tình cầu khẩn van xin Cuộc đời suôn sẻ lấy chi thú
Nên còn đó ôm tròn hạnh phúc
Tình trăm năm qua bao thử thách Đất khách bên nhau cùng tạm trú
Dù ngặt nghèo tay vẫn trong tay Cơm đủ no đông đủ đàn con
Bước bên nhau những lúc không may Dầu mai sau kẻ mất người còn
Vì vận mênh nên ta cùng khổ Chúng tôi mãi bên nhau tâm hợp
Anh đứng đấy dáng buồn thời cuộc
Chị cùng anh gồng gánh nuôi con Trời vào thu cơn mưa bất chợt
Tháng qua ngày lòng vẫn sắt son Xứ lạnh quê người sao khỏi lo
Nghĩa chồng vợ khắc ghi chữ tín Mền ấm nệm êm của người cho
LKC Tạ ơn Mỹ rộng lòng cưu mang
Vô trí vô tâm ...một lũ ngu Khen ai khéo tạo nộm hình ngu
Tam vô tạo dựng mấy tên mù... Một gã rơm khô câm điếc mù
Mép môi vụng dại qua mưa hạ Dãi nắng nguyên ngày canh vụ gặt
Hình dáng quê mùa đón gió thu Dầm mưa suốt buổi giữ mùa thu
Nhốn nháo thưa vâng loài két vẹt Ngồi bờ roi nhịp xua chim liệng
Lăng xăng nhảy múa giống ruồi bu Đứng góc nón quơ đuổi chúng bu
Suốt đời nô lệ cho chồn cáo Thân phận bù nhìn theo lệnh chủ
Trọn kiếp ôm chân bọn vũ phu. Phục tùng sai khiến kiếp mần phu
Văn Ngọc (04-11-2014) ĐNN (01-11-2014)
TÌNH THẬT Tình Viễn Xư
đnn
(Thân tặng anh chị : Nam & Lệ ) Cám ơn bạn bài thơ gởi tặng
Trong khổ đau có tình vĩnh cửu Tình bạn bè chia xẻ cho nhau
Đến từ tim mãi ngự trong tim Có gian nan mới thấm khổ đau
Đâu là tình cầu khẩn van xin Cuộc đời suôn sẻ lấy chi thú
Nên còn đó ôm tròn hạnh phúc
Tình trăm năm qua bao thử thách Đất khách bên nhau cùng tạm trú
Dù ngặt nghèo tay vẫn trong tay Cơm đủ no đông đủ đàn con
Bước bên nhau những lúc không may Dầu mai sau kẻ mất người còn
Vì vận mênh nên ta cùng khổ Chúng tôi mãi bên nhau tâm hợp
Anh đứng đấy dáng buồn thời cuộc
Chị cùng anh gồng gánh nuôi con Trời vào thu cơn mưa bất chợt
Tháng qua ngày lòng vẫn sắt son Xứ lạnh quê người sao khỏi lo
Nghĩa chồng vợ khắc ghi chữ tín Mền ấm nệm êm của người cho
LKC Tạ ơn Mỹ rộng lòng cưu mang
VÔ ĐỀ
mấy ai trẻ mãi lại không già
ấy chính là trăng dáng tựa hoa
mờ ảo sông kia in bóng nguyệt
lung linh biển nọ ẩn gương nga
quê ta khói phủ mờ che khuất
dất khách mây tan tỏ hiện ra
ao ước mai này thăm chốn cũ
ngày về tuy thế hãy còn xa
Rassria Rassria
Hoa: TRĂNG ĐẤT KHÁCH Họa: QUÊN ĐI MÀ SỐNG
đầu tháng còn non cuối lại già Nghĩ đến làm chi chuyện trẻ già
có đâu như thể kiếp loài hoa Vun cây hạnh phúc trổ thêm hoa
quê mình sáng tỏ trăng mười sáu Đêm đêm trăng tỏ say nàng nguyệt
đất khách mờ che dáng nguyệt nga Tối tối Ngân* trong đắm chị nga
tuyết phủ đầu non trông khó thấy Mỗi phút an vui tâm rạng rỡ
sương tan cuối nẻo nhận nhìn ra Từng giây tĩnh thức trí tươi ra
lâu rồi mong đợi đêm trong sáng Chuỗi ngày còn lại dài hay ngắn
cảnh cũ người xưa vắng bóng xa Níu kéo được không chuyện đã qua
ĐNN Vanngoc (*sông Ngân Hà)
mấy ai trẻ mãi lại không già
ấy chính là trăng dáng tựa hoa
mờ ảo sông kia in bóng nguyệt
lung linh biển nọ ẩn gương nga
quê ta khói phủ mờ che khuất
dất khách mây tan tỏ hiện ra
ao ước mai này thăm chốn cũ
ngày về tuy thế hãy còn xa
Rassria Rassria
Hoa: TRĂNG ĐẤT KHÁCH Họa: QUÊN ĐI MÀ SỐNG
đầu tháng còn non cuối lại già Nghĩ đến làm chi chuyện trẻ già
có đâu như thể kiếp loài hoa Vun cây hạnh phúc trổ thêm hoa
quê mình sáng tỏ trăng mười sáu Đêm đêm trăng tỏ say nàng nguyệt
đất khách mờ che dáng nguyệt nga Tối tối Ngân* trong đắm chị nga
tuyết phủ đầu non trông khó thấy Mỗi phút an vui tâm rạng rỡ
sương tan cuối nẻo nhận nhìn ra Từng giây tĩnh thức trí tươi ra
lâu rồi mong đợi đêm trong sáng Chuỗi ngày còn lại dài hay ngắn
cảnh cũ người xưa vắng bóng xa Níu kéo được không chuyện đã qua
ĐNN Vanngoc (*sông Ngân Hà)
Đơn Sơ Họa: Thôi Hết Rồi
Tình yêu chân thật rất đơn sơ Tiếng sét ái tình vừa chớm sơ
Để lỡ cả đời một giấc mơ Lao vào như thể tựa trong mơ
Gối chiếc bâng khuâng bao tháng nhớ Bên nhau say mộng quên rào đón
Phòng không luyến tiếc những ngày thơ Cách biệt nhạt nồng nhớ dệt thơ
Trăng già đâu biết đời phiêu lãng Giọng hát sai lời do mất ngủ
Bạn cũ có hay tóc bạc phơ Cung đàn lỗi nhịp bởi bàn phơ
Hồi tưởng thời gian sao lướt vội Thời gian tàn phá dung nhan sắc
Một thời hoa bướm mãi vương tơ Thôi hết khoe mình áo lụa tơ
LKC ĐNN
Tình yêu chân thật rất đơn sơ Tiếng sét ái tình vừa chớm sơ
Để lỡ cả đời một giấc mơ Lao vào như thể tựa trong mơ
Gối chiếc bâng khuâng bao tháng nhớ Bên nhau say mộng quên rào đón
Phòng không luyến tiếc những ngày thơ Cách biệt nhạt nồng nhớ dệt thơ
Trăng già đâu biết đời phiêu lãng Giọng hát sai lời do mất ngủ
Bạn cũ có hay tóc bạc phơ Cung đàn lỗi nhịp bởi bàn phơ
Hồi tưởng thời gian sao lướt vội Thời gian tàn phá dung nhan sắc
Một thời hoa bướm mãi vương tơ Thôi hết khoe mình áo lụa tơ
LKC ĐNN
************************************
19. Đò Dọc
“Trồng trầu thả lộn dây tiêu, Con đi đò dọc mẹ liều con hư.” Tiếng gà gáy canh tư báo thức. Ngủ đêm ghe chật nhức mõi mình. Trời vừa ló dạng bình minh, Thuyền đà cập bến lộ trình đến nơi. Lên phố dạo chợ chơi cho biết. Hàng hóa mua lựa riếc đã đầy. Nàng còn lảng vảng thơ ngây, Đợi anh hàng xóm lúc nầy cố theo. Ra bến nhiều ghe neo chờ sẵn. Gió nồm lên chạy thẳng về quê. Khoang ghe đủ thứ tràn hê, Gái trai lẫn lộn bốn bề màn đêm. Hàng bán hết đi thêm lần nữa. Cơm bữa cá tanh mửa mật xanh. Thôi rồi hết chỗ chối quanh, Chuyên đi sắp đến phải đành hoãn binh. Đò dọc ngược xuôi kinh hồn vía. Có nài đi nửa tía không cho. Làm ruộng chăm chỉ ấm no, Đến mùa thu hoạch lúa kho ắp đầy |
Họa: Dê Gìa Gặm Cỏ Non Họa: Rượu Tiết Dê
Dê cụ sườn đồi cỏ gặm no Dê cụ không màn ăn uống no
Thênh thang gío mát cỏ non vò Lanh quanh chạy nhảy cỏ nhai vò
Gái xuân hớn hở vờn trai khỏe Đầu đàn ngắm nghía cô nàng khỏe
Dê cỏn mài sừng húc bụi to Mấy ả trông chừng gã cụ to
sáng sáng giai nhân lo nộp thuế Chiều tối về sau lo nái lạc
Đêm đêm chúa tể giữ mô gò Sáng ra dậy sớm chẳng cần gò
Khen ai đã tặng cho danh hiệu Chận đường giao phối từng em một
Ẩn số ba lăm có lý do Tiết dê người ưa bởi lý do
Vanngoc (15-10-2014) Đỗ Đến
Họa: Dê Gìa Gặm Cỏ Non Họa: Rượu Tiết Dê
Dê cụ sườn đồi cỏ gặm no Dê cụ không màn ăn uống no
Thênh thang gío mát cỏ non vò Lanh quanh chạy nhảy cỏ nhai vò
Gái xuân hớn hở vờn trai khỏe Đầu đàn ngắm nghía cô nàng khỏe
Dê cỏn mài sừng húc bụi to Mấy ả trông chừng gã cụ to
sáng sáng giai nhân lo nộp thuế Chiều tối về sau lo nái lạc
Đêm đêm chúa tể giữ mô gò Sáng ra dậy sớm chẳng cần gò
Khen ai đã tặng cho danh hiệu Chận đường giao phối từng em một
Ẩn số ba lăm có lý do Tiết dê người ưa bởi lý do
Vanngoc (15-10-2014) Đỗ Đến
Họa: Dê Gìa Gặm Cỏ Non Họa: Rượu Tiết Dê
Nhện Đòn Xóc
Nhện kia sừng bén nhọn hai đầu Lơ lửng trời xanh ướt mắt nâu Chờ chực mồi ngon vây phủ bắt Xuất chiêu muỗi béo thoát đi đâu Trai làng gánh lúa dùng đòn xóc Gái xóm phơi rơm trải đất dâu Ghét kẻ thời cơ ưa nịnh hót Bên nào cũng được lợi mình thâu Họa: ĐÒN XÓC NHỌN HAI ĐẦU (Đòn xóc nhọn hai đầu Đâm bí bí bủng đâm bầu bầu beo) Gai mọc vươn ra nhọn ở đầu Là sừng cực độc nhện màu nâu Bũa giăng lưới bắt ong ruồi muỗi Dính mắc mồi sa chẳng sống đâu Thế sự thăng trầm vui hoá khổ Dòng đời thay đổi bể thành dâu Sợ người đòn xóc hai đầu nhọn Châm chích đôi bên lợi tóm thâu Vanngoc (Oct,18,2014) Họa: Muỗi Đòn Xóc Giống muỗi to con đậu chổng đầu Hút no đầy máu bụng màu nâu Rừng già sinh sống nhiều vô kể Phố xá ẩn mình chẳng thấy đâu Muỗi nhọn hai đầu gây sốt rét Đòn hai mũi nhọn gánh hom dâu Có người tâm tính như đòn xóc Đâm thọc hai chiều hám lợi thâu. Đỗ Đến |
Thu Đợi
(Họa: Tình Thu của vanngoc) Ngơ ngác nai vàng dẫm lá thu Suối reo róc rách thả hồn ru Bên bờ ngắm cảnh lòng xao xuyến Chiến địa xông pha khói mịt mù Phận gái bơ vơ sương thấm lạnh Thân trai lạc lõng kiếp phù du Chạnh buồn quạnh quẽ đêm khuya vắng Nhớ lắm anh yêu kẻ trượng phu |
Thăm Lại Vườn Hồng
Vườn hồng nhỏ bạn lắm nhiều bông Ghé lại xem chơi ngắm chịu không Sáng sớm sương mờ che ẩn sắc Chiều rơi nắng nhạt tỏa thơm nồng Phải chăng giống mới gai đâm má Đâu dám giòng xưa gái kén chồng Năm tháng trôi qua vương vấn nhớ Ngày về thăm lại dắt nhau bồng |
Họa: BÓNG HỒNG NĂM CŨ Họa: Trở Lại Vườn Hồng
Trở lại vườn hoa để ngắm bông Tháng ngày tìm kiếm lá diêu bông
Thăm người tri kỷ nhớ gì không Trở lại vườn hồng chủ vắng không
Làn sương ấp ủ long lanh chiếu Đường lót đá màu y như cũ
Cánh lụa đê mê phản phất nồng Luống hoa khoe sắc tỏa hương nồng
Chốn cũ hương thơm còn ngập lối Thấy cảnh hường thắm còn gai nhọn
Đường xưa thục nữ đã theo chồng Nghe nói chủ xưa đã lấy chồng
Bàng hoàng thổn thức bao thương nhớ Lúc trước phải chi đừng trở ngại
Kẻ ấy giờ đây đã bế bồng Thì nay có thể ẵm con bồng
VANNGOC (20-10-2014) Đỗ Đến (22-10-2014)
Trở lại vườn hoa để ngắm bông Tháng ngày tìm kiếm lá diêu bông
Thăm người tri kỷ nhớ gì không Trở lại vườn hồng chủ vắng không
Làn sương ấp ủ long lanh chiếu Đường lót đá màu y như cũ
Cánh lụa đê mê phản phất nồng Luống hoa khoe sắc tỏa hương nồng
Chốn cũ hương thơm còn ngập lối Thấy cảnh hường thắm còn gai nhọn
Đường xưa thục nữ đã theo chồng Nghe nói chủ xưa đã lấy chồng
Bàng hoàng thổn thức bao thương nhớ Lúc trước phải chi đừng trở ngại
Kẻ ấy giờ đây đã bế bồng Thì nay có thể ẵm con bồng
VANNGOC (20-10-2014) Đỗ Đến (22-10-2014)
Họa: Cùng Đề (GTNC)
Khi con trong tháng mẹ con bồng Từ đâu giá họa không lường trước
Lúc đó nhà mình sống với ông Khiến mẹ lìa đời chẳng kịp trông
Bố phải ở nhà chăm sóc mẹ Giữ trọn lời thề khi mới gặp
Còn ông ra ruộng việc nhà nông Cha nuôi con trẻ tốn nhiều công
Đỗ Đến
Khi con trong tháng mẹ con bồng Từ đâu giá họa không lường trước
Lúc đó nhà mình sống với ông Khiến mẹ lìa đời chẳng kịp trông
Bố phải ở nhà chăm sóc mẹ Giữ trọn lời thề khi mới gặp
Còn ông ra ruộng việc nhà nông Cha nuôi con trẻ tốn nhiều công
Đỗ Đến
THƠ KHÔNG ĐỀ
Ngày xưa ở lại chốn nơi này Yếm thắm qua cầu bị rớt bay Mẹ hỡi đừng la tâm hờ hễnh Bà ơi chớ mắng tính mê say Dây từng buộc chặt nhưng nhiều gió Áo bị sườn mòn mới vuột tay Chớ có nào đem đi tặng bạn Rầy con tội nghiệp thật buồn thay Rassria Rassria Họa: THỜI TRANG MÁT MẺ
Thôn nữ khoe thân hở thế này Động lòng khách tục ý vờn bay Ba cô yếm thắm lên chùa khuấy Một gã sư ông xuống núi say. Chớ trách ai kia ham trái cấm Đừng chê kẻ nọ muốn vòng tay Tại trời mưa nắng vô thường ấy Có lúc xiêm y cũng đổi thay. Vanngoc (24-10-2014) |
Họa: Thời Trang Mới
Thời buổi văn minh y phục này Yếm cô thắt chặt sợ gì bay Cha la phớt tĩnh hơi đâu ngại Mẹ quở làm ngơ cứ mãi say Không mặc phơi bày no ánh mắt Bận vô kín đáo ấm mềm tay Yếm màu khác lạ trào lưu mới Khêu gợi eo thon đẹp lắm thay ĐNN |
18. Câu Chuyện Bài Thơ
Mùa Hè năm 1926, trong dịp thi sĩ Đào Sĩ Nhã đến thăm gia đình họ Phan ở Hưng Yên. Ông khách Đào Sĩ Nhã thách lão thi sĩ Phan Mạnh Danh làm một bài thơ Nôm Đường luật với các điều kiện như sau: - Đầu đề: Xuân Khuê. - Hạn 5 vần: chờ - hờ - thưa - tơ - thơ. - Phải dùng 19 chữ: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc. Dưới đây là bài thơ Nôm hoạ hạn vận của lão thi sĩ Phan Mạnh Danh: Xuân Khuê Một mong hai đợi bốn ba chờ Mười hẹn đêm trăng tám hững hờ Nửa gối năm canh gà gáy giục Tấc mây sáu cánh nhạn tin thưa Trăm lần cặp mắt đôi hàng lệ Chín khúc bên lòng vạn mối tơ Ngàn trượng thành sầu đo thước khó Biếng đem bảy vẻ dệt nên thơ Phan Mạnh Danh Họa: Trách Kẻ Bạc Tình Mười sáu trăng tròn bảy tám chờ Một trăm chín nửa ngày tình hờ Bốn ba ngắn tháng sâu nhung nhớ Ngàn vạn năm dài cạn viếng thưa Thuở trước cặp đôi đầy hứa hẹn Bây giờ hai ngã dứt đường tơ Thước nào đo tấc lòng gian dối Hổ thẹn trượng phu lừa tiểu thơ ĐNN (14-10-2014) Áo Nàng Xanh
Hoa xanh mát mắt muốn yêu thôi Vừa mới ngắm qua đã thích rồi Đến viếng vườn xuân ai ngó liếc Vào xem thượng uyển khách bồi hồi Trần gian cống hiến bông xinh đẹp Thế tục ban cho gái thắm môi Thương nhớ vô vàn màu áo biếc Đêm về mộng tưởng sánh vai đôi ĐNN Áo Em Màu Tím Hoa Sim Màu hoa tim tím gợi niềm thương Cái thuở ban đầu nhớ vấn vương Tà áo phất phơ nhòe trước gió Cõi lòng say đắm sáng như gương Công viên ghế đá dìu nhau tới Suối nước ven hồ ngắm ễnh ương Dĩ vãng quay về ôn chuyện cũ Trót yêu sim tím mến mùi hương ĐNN Tơ Vương Chân Trời Tím (Chiều nay độc ẩm sau vườn vắng, Nhìn lá thu rơi. Bên kia góa phụ thẫn thờ soi mình trong nước hồ thu. Kỷ niệm quá khứ tràn về qua ký ức đầy vơi!) Chiều xuống sương mù đẫm nhớ thương Chân trời mây tím dệt tơ vương Bầy chim ríu rít bay tìm tổ Góa phụ thẫn thờ đứng ngắm gương Son trẻ đam mê tình nắng hạ Tuổi già hờ hững chuyện uyên ương Hoàng hôn trống vắng chùng tâm thức Kỷ niệm tràn về tỏa sắc hương Vanngoc (12-10-2014) Kỷ Niệm 10 Năm Thôi Dạy
Nghỉ hưu thấm thoát đã mười năm Đồng nghiệp thưa dần đến viếng thăm Trường lớp đa phần không nhớ rõ Học trò đại thể chẳng nghe tăm Đưa đò không trách người đi biệt Dạy học cũng đừng nghĩ oái ăm Bốn chục năm ròng theo nghiệp giảng Giờ suy ngẩm lại vẫn bình tâm. Đỗ Đến (vào SP 1964 nghỉ hưu 2004) |
Họa: TÌNH BUỒN Mười chín lần mong tám bảy chờ Sáu năm đôi cặp nửa ơ hờ Một hai bữa gặp tình nồng thắm Ba bốn ngày xa nghĩa nhạt thưa Mấy vạn thuyền sầu người trói buộc Trăm ngàn bể hận kẻ vương tơ Ai đem trượng thước đo thương nhớ Để tấc lòng đau quyện ý thơ Vanngoc (14-10-2014) Bông Cỏ May
Lên đồi cỏ may bu đeo dính. Em vụng về gỡ lính quýnh kêu. Áo dài lấm chấm rong rêu, Nhẹ bay trong gió nắng chiều mờ sương. Xuống đồi gập ghềnh thương niềm nhớ. Trắc trở chi nào chớ phụ nhau. Gieo sầu khổ lắm lòng đau, Tình đầu đánh mất duyên sau bẽ bàng. Đường về dắt dìu bàn toan tính. Song thân vui lòng chính do em. Cơm ngon canh ngọt nhà êm, Rước dâu ra ngõ màng đêm đợi chờ. Sự đời có ai ngờ chia cách. Xin đừng hờn giận trách đắng cay. Em còn lưu luyến cỏ may, Anh xin nguyện gỡ đắm say men tình. ĐNN Họa: MỸ NHÂN - MẮT BIẾC Mắt biếc lung linh đẹp ngất thôi Tiên nga giáng thế đắm say rồi Thẫn thờ ướp mộng bao thương nhớ Thao thức tương tư những hộp hồi Dũng tướng sa cơ vì sắc nước Giai nhân đắc chí bởi bờ môi Trong tim ấp ủ thân ngà ngọc Ao ước trăm năm cùng kết đôi Vanngoc October 9, 2014 Chè Xanh
Chè xanh bát ngát rẫy về chiều Lưu lại chút tình chốn dễ yêu Bát nước trao duyên em gởi phận Nắng hè giải khát mủi lòng xiêu SUSHI Thấy lạ ăn qua có khác chi Làm sao sánh kịp bánh tầm bì Món ăn thôn dã hồn dân tộc Ưa chuộng khác thường để chúng khi Họa: Dạy Học
Dạy học quá lâu hằng chục năm Biết bao lớp trẻ ghé trường thăm Ông Thầy kính trọng nêu gương sáng Giáo Chức tôn vinh rạng tiếng tăm Đạo đức còn đâu thời vật chất Ân tình đánh mất ắp đầy ăm Mong rằng đổi mới đừng quên cũ Hy vọng một mai hết khổ tâm ĐNN (12-10-2014) Họa: Chúc Thầy Cũ Sống An Vui Thầy giáo về hưu đã mấy năm Lâu lâu đồng nghiệp lại về thăm Một phần bè bạn rời xa xứ Đa số học trò cách biệt tăm Vốn liếng văn chương còn cạn hết Mong gì đạo đức được đầy ăm Quên đi tình nghĩa ngày xưa cũ Tự tại an vui khỏi động tâm vanngoc (14-10-2014) |
**********************
17. Tình Quê
Thu Bồn nước ngọt sông quê, Chảy quanh uốn khúc bốn bề đồng xanh. Được mùa nhờ giỏi thâm canh, Mẹ cha vất vả nuôi anh nên người. Đồng quê rộn rã tiếng cười, Trông xong mùa gặt tháng mười cưới em. Anh đi biền biệt nghĩ xem, Quê nhà mưa gió nặng thêm bão bùng. Ai ơi thấu nỗi miền trung, Gió Lào hừng hực nóng nung cháy đồng. Hạ sang lại đến thu đông, Trời mưa tầm tã buồng không đợi chờ. Đồng sâu nước lụt khỏa bờ, Nhớ về lội ruộng thả lờ giăng câu. Ao nhà chực sẵn đã lâu, Ruộng lúa tươi tốt có đâu thua người. Thương nhau chín bỏ làm mười, Chân quê mộc mạc tiếng cười dòn tan. Ngày về trở lại bình an, Đón anh đoàn tụ xóm làng mừng reo. Tình Thu Lành lạnh thu sang lá nhẹ rơi Vàng bay theo gió rải chân trời Thư sinh đùa giỡn bên kia suối Thục nữ nhởn nhơ tận cuối đồi Vội vã Thiền quyên dời gót ngọc Khoan thai lữ khách tỏ tình lơi Trở về thong thả theo nhau bước Chẳng đói no lòng chia nắm xôi ĐNN Trăng Thu Trăng Thu tròn sáng thật yên bình Ngắm ánh sao đêm buồn lặng thinh Mơ ước đường về tươi cỏ biếc Chờ mong sen toả ngát hương trinh Người đi gió lạnh vườn hoa úa Em đơị xuân hồng khoé mắt xinh Thề hẹn năm xưa anh có nhớ? Vì đâu lại phụ nghĩa vong tình LKC/PCT Mười Sáu Tròn Trăng Sương lạnh về khuya cảnh thái bình Say mê chiêm ngưỡng nín làm thinh Chị hằng sáng tỏ soi hình bóng Chàng cuội lờ mờ ngắm nguyệt trinh Mười sáu trăng tròn đầy nhựa sống Tuổi xanh thiếu nữ dáng vừa xinh Thiền Quyên đứng đợi chờ mơ mộng Gíap mặt Anh Hùng thề trọn tình ĐNN/TQC Lan Hài
Hoa lan thấy lạ xinh một đóa. Tưởng tượng xem qua hóa thành hài. Chân em suông thon đủ dài, Khiến lòng xao xuyến bất tài làm ngơ. Vàng Lá Tình Thu Gió heo may thoảng nhẹ rong cành Vàng lá tình thu quyện nắng hanh Thơ thẩn tơ lòng giăng khắp lối Bâng khuâng sương khói nhẹ bên mành Mơ về quê cũ mờ sông núi Mộng thấy đêm thâu đậm dáng anh Cố nuốt lệ sầu vương vấn mãi Buồn ơi! ước nguyện vẫn chưa thành LKC Nhớ Thu Xưa (Họa) Se lạnh sương rơi phủ trắng cành Ban mai tĩnh mộng nắng thu hanh Trà ngon độc ẩm trông xa vắng Bánh dẻo nhâm nhi ngắm chỉ mành Dẫn lối đưa đường chung nhịp bước Dìu nhau khắp chốn sánh vai anh Còn đâu nhung nhớ tình êm ấm Khổ lụy thân em duyên chẳng thành ĐNN (18/9/2014) |
Mặn Mà Tình Quê
Thu Bồn nước ngọt sông quê, Đi xa nhớ lắm quây về vấn vương. Đồng xanh lúa tốt ruộng nương, Dòng sông uốn khúc như dường quặn đau. Nước sông gạo chợ ngọn rau, Nuôi anh khôn lớn trông mau thành tài. Mẹ cha già yếu cậy ai, Quê nhà ngóng đợi nắng phai nhạt màu. Yêu em trở lại tìm nhau, Anh về ngắm nghía buồng cau sân nhà. Tình quê chân chất mặn mà, Nghĩ sao nói vậy thật thà dễ thương. Mẹ già một nắng hai sương, Quê mình khổ lắm trăm đường chạy lo. Trưa hè đứng gió quạt mo, Võng đưa kẽo kẹt giọng hò vọng sang. Anh đi có nhớ xóm làng, Ngày đêm trông đợi khải hoàn cưới em. Bà con hai họ ra xem, Chàng rễ âu yếm bên thềm nàng dâu. Ngày vui chúc phúc bền lâu, Râu tôm nấu với ruột bầu khen ngon. Xa nhau
( Bolsa ,Thu 2009) Xa nhau chẳng biết bởi vì đâu? Ngắm nguyệt cô đơn viết mấy câu Viễn xứ bao năm tình trọn vẹn Trường giang mấy độ nước nông sâu Thề xưa đâu trách đêm xuân ngắn Ngày muộn chi rơi giọt lệ sầu Giã biệt đôi ta đường rẽ lối Ước thề phai nhạt được bao lâu? LKC Tình Lỡ (họa: Xa Nhau) Tình lỡ thôi rồi chẳng trách đâu Phần ai nấy giữ tuyệt tình câu Quê nhà ngày ấy bên nhau mãi Viễn xứ lúc nầy lặn thật sâu Có nhớ thêm đau lòng đổi dạ Quên đi giảm bớt nỗi âu sầu An nhiên tự tại lòng thanh thản Thù hận đeo phiền thân khổ lâu ĐNN Giọt Pha Lê
Bong bóng pha lê óng ánh ngời Bởi đâu hình tượng giọt mưa rơi Bên nhau giữ lại trong gang tấc Giọt nắng tiêu tan mảnh nhỏ đời Chủ Quyền
Bảo vệ chủ quyền ai không muốn. Bọ ngựa còn ham huống hồ chi. Giang sơn một cõi như ri, Mình ta cai quản việc gì cũng xong. Đất nước của chung mong đừng cắt. Nhượng bộ lần quặn thắt ruột đau. Mong rằng lãnh đạo mai sau, Nước ta giữ vững tiến mau kịp người Lan Nhung Lan nhung sen tím sắc tươi màu Tình nghĩa thủy chung đẹp trước sau Điểm thắm tình đời sang đẹp mãi Tay trong tay hưởng phước bên nhau |
****************************************************
16. Nhớ Hội An
Ai về thăm phố Hội An, Cho tôi nhắn gởi lời vàng nhớ thương. Dầu cho phiêu bạc tha phương, Tình tôi nhớ mãi vấn vương ban đầu. Dìu nhau tay dắt qua cầu, Bên kia phố Hội gật đầu yêu anh. Kề vai hai mái đầu xanh, Được hôn còn trách rằng anh quá chừng. Khi không đi nhớ người dưng, Đêm ngày trông đợi vui mừng gặp nhau. Nên duyên tình nghĩa mai sau, Trăm năm gắn bó cơm rau quê mình. Ra đi mang nặng khối tình, Hội An phố cổ bóng hình in sâu. Đường vô dãy phố Chùa Cầu, Guốc khua ván gỗ cũ màu thời gian. Khi mô về lại Hội An, Gợi trong ký ức trăm ngàn mến yêu. Cơm ngon nhờ bởi nấu siêu, Cá chuồn chiên mặn nghệ tiêu gia vào. Sóng triều Cửa Đại lên cao, Biển xanh nước biếc cá nào ngon hơn. ĐNN (26/8/2014) Hợp Tan
Bướm giỡn hoa xinh nhụy hé ra Ban mai cảnh đẹp ngắm sương sa Thư sinh trổ ngón theo kè bóng Phận liễu không vừa đón khách xa Gặp gỡ say tình hương sắc phấn Chia tay luyến ái mộng “Nam Kha” Hàn huyên chốc lát đành ngăn cách Khiến nhớ gieo sầu buồn lắm đa ĐNN (25/8/2014) Rao Bán Vú Sữa
Vú sữa đầu mùa căng cứng tròn Xin mời qúy khách chớ chê non Bằng tiền trả mấy em không bán Nhân nghĩa sờ chơi chẳng sợ mòn Đi Chùa Lễ Phật Đi chùa lễ Phật “Phật Cô Đơn” Thế giới Ta Bà trượt té trơn Tín ngưỡng tâm linh nương Phật Tổ Tu nhà giữ đạo đức càng hơn PhậnTầm Gửi Chẳng gốc leo quanh bám chặt cây Trao thân gửi phận sống nhờ đây Phớt qua chừng tưởng đời sung sướng Nhìn lại mới hay kiếp khổ vây Trót lỡ mang danh thân mảnh khảnh Đành cam chịu kiếp xác mình dây Duyên tình đã định cùng nương tựa Số phận dài lâu bền vững gầy ĐNN (họa) Phận làm tầm gởi quấn vào cây, Hút nhựa nuôi mình ăn hại đây Nghĩ cũng an nhàn đời thật sướng Xem ra chật vật kiếp vòng vây Rễ không bám đất nên *khiu khảnh* Thân chẳng cương cường chịu phận dây Ví được do ta tìm sức sống Ấm no hạnh phúc tự lo gầy *khiu khảnh=khẳng khiu và mảnh khảnh vanngọc Tình Bạn
Tôi bạn học cùng một mái trường Chia tay tiến bước rẽ hai phương Tôi vào cảnh sát an dân giúp Bạn chọn làm thầy dạy trẻ vươn Cách biệt đại dương xa vạn dặm Gần nhau trên mạng gặp như thường Quây về quá khứ ngày xưa cũ Nhớ lắm ngày nào chung bước đường Đẹp Đôi Bói cá sánh đôi nghĩa trọn tình Trời xanh gió tịnh sớm bình minh Bên nhau sánh bước cùng chung mộng Hạnh phúc trọn đời tươi thắm xinh Chanh dây
Bây giờ mới thấy loại chanh dây Ngộ thật leo giàn chẳng phải cây Hoa nở dù bung mầm lú nhú Nhụy tàn đài xếp trái nhô đầy Vỏ ngoài da láng sờ cưng cứng Trong ruột hột giòn mó nhựa nhầy Dễ ngủ đầy ly dùng mỗi bữa Bệnh ngừa hen suyển mạch tim đây 02-8-2014 Thanh Long Vườn nhà sây trái giống thanh long Biết cách đừng nên để dóng thòng Vào hạ đơm bông hương nhẹ mũi Chớm thu trái chín ngọt trông mong Mình rồng gai nhọn đâm đau nhức Quả phụng láng da lột trắng lòng Mát miệng trưa hè mời khách viếng Nhuận trường thiếu máu lợi song song Bù Nhìn Khen ai khéo tạo nộm hình ngu Một gã giả danh câm điếc mù Giải nắng luôn ngày không nón rách Dầm mưa suốt buổi chẳng cầu nhu Ngồi bờ chờ chực xua chim liệng Rướn tới quơ tay đuổi chúng bu Số phận bù nhìn rơm rác rạ Đem thân chịu trận lợi người thu Tuổi bảy mươi ba Tuổi tớ năm nầy đã bảy ba Ra đường lắm kẻ bảo không già Tóc thời chưa bạc răng còn tốt Tay lái xe thường chạy được xa Lao động nhẹ nhàng lâu biết mệt Xem đài lên mạng ít khi lòa Khỏe được ngày nào hay ngày ấy Cái ngày xuống đất hẵn không xa Đỗ Đến Thu Đợi Hãy nhặt dùm tôi hết lá vàng Đốt thành tro bụi liệm tình tan Thuyền xa bến cũ sầu ly biệt Trăng lỗi đò xưa mộng dở dang Da diết nhớ thương mùa kỷ niệm Mõi mòn tiếc nuối bóng thời gian Thoi dưa thấm thoát bao thu đợi Tha thứ cho ai đã phụ phàng LKC Cô Đơn
Ba lăm năm một chữ tâm đồng Những tưởng trọn đời, vẫn số không Lớp học giảng bài, nuôi nấng trẻ Trại giam gánh gạo viếng thăm chồng Giữ vai tiết hạnh, ta bền dạ Quẳng gánh ân tình sáo vượt sông Con cái rời xa thêm quạnh vắng Đêm nghe gió thét nát tim lòng LKC (Giao mùa thu đông 2009) Ngày Tàn Cuộc Chiến Ngỡ bước xung phong vào bộ đội Là đường giải phóng cứu giang san Hòa bình cống nạp Hoàng Sa đảo Thống nhất mời nhường Hữu Nghị Quan Chiếm đất xênh xang bầy đảng ủy Mất nhà lếch thếch đám dân oan Ngày tàn cuộc chiến rồi ân hận Đã lót nền cho lũ ác gian LHN Hận lưu vong (họa thơ ngày tàn cuộc chiến) Từ ngày nước mất xa quê mẹ Đến lúc nhà tan cách ải san Chí khí tang bồng quên đất rộng Nghĩa nhân,hồ thỉ nhớ làng quan Đau lòng vì lủ tàu nô dữ Xót dạ, bởi loài khỉ nghiệt oan Nhớ thuở thanh bình chung mộng ước Lưu vong vì bởi bọn tham gian Vănngọc Họạ |
Tường Vy
Hường gai dóng ngọn gọi tường vy Mảnh khảnh leo tường đẹp như ri Mùi ngát hương thơm trà thưởng thức Ban đêm ngái ngủ nhẩm nhầm ly Trà Hoa Nữ Trà hoa một đóa sắc xinh tươi Thiếu nữ bên ta trêu ghẹo cười Đùa giỡn trao tình tim thổn thức Giai nhân chớm độ tuổi đôi mươi Vườn Xuân Hoang Dã
(họa) Ong vô hút nhụy bướm xê ra Dịu mát bình minh giọt nắng sa Bừng tĩnh nàng xuân bên khách lạ Mơ màng lữ khách chốn đường xa Phòng the e ấp vờn du tử Biển cả sóng gào quyện Bố Kha* Đất lạ hoang vu vừa khám phá Sinh sôi nẩy nỡ thiểu thành đa vanngoc - 29-8-2014 *Kha Luân Bố và đoàn tùy tùng khám phá Bắc Mỹ được nhiều hoa thơm cỏ lạ. Nhờ vậy sinh sôi nẩy nở, bây giờ đã quá đông. HỌA
Số Bị Tầm Gởi Mình cũng như ai thuộc họ cây Cớ sao tầm gởi lại bu đầy Nhởn nhơ leo bám đời sung sướng Vất vả trụ thân kiếp khổ vây Trót lỡ mang danh vì đại thụ Không ngờ mất mạng bởi mình dây Mới hay dễ dãi mang điều khổ Để chúng bu quanh phải yếu gầy. ĐỖ ĐẾN Gái Quảng Nam
Quảng Nam gái chẳng ghen linh tinh Tính nết ngoan hiền nặng chữ tình Nghề dệt tơ tằm theo nghiệp trước Bán buôn vải sợi phận duyên mình Dâu hiền vợ đảm lo toan tính Mẹ thảo con siêng thuộc sử kinh Giáo dục đàn con thông đạo lý Gia quy phép tắc nhớ thưa trình Họa: Tuổi Bảy Lăm
Năm nay bảy tám bớt trừ ba Diện mạo nhìn qua thấy chẳng già Tóc bạc muối nhiều tiêu lác đác Răng mòn đôi cái rụng lìa xa Mắt mờ gương lão trông nhìn rõ Đèn sáng kính trong đọc chẳng lòa Đất khách quê người vui được sống Ngày về quê Mẹ dặm đường xa Đoàn Ngọc Nam Thu Nhớ Thu sang ảm đạm lá rơi vàng Nắng chiếu sương mù chớm xóa tan Ghế đá ven hồ thưa khách viếng Thuyền bơi bến đổ sẵn sàng dang Một mình ngồi đợi trông chờ mãi Ai đó dạo chơi thật ác gian Nhớ thuở mới quen cùng nguyện ước Đâu ngờ tình lỡ mộng phũ phàng ĐNN Chung Thủy
Hạnh Phúc giữ bền tâm nhất đồng Được thua xem nhẹ có như không Trong nhà rèn luyện đàn con trẻ Chợ búa ngược xuôi tiếp tế chồng Đất khách không quên thân tỵ nạn Quê nhà nhớ mãi nước dòng sông Vợ chồng tình nghĩa nên trân quý Chung thủy trước sau giữ tấm lòng ĐNN Việt Nam Bây giờ Hô hào giải phóng thêm nô lệ Trấn áp gông cùm buộc xẻ san Lãnh đạo tay sai phường bán nước Bù nhìn thuộc cấp lũ tham quan Trưng thu sản nghiệp lầm than khổ Tướt đoạt tư điền nghiệt ngã oan Đất Việt bây giờ nguy ngập thế Ngày nào quật khởi diệt rừ gian ĐNN Vận Mệnh Dốc đá trèo lên mệt quá ngồi Chờ nhau chốc lát ngắm mây trôi Rừng sâu lá nón thu đầy gánh Trại ngoại đường kim riết chán rồi Tiếp tế lâu ngày mong gặp mặt Thăm nuôi ngắn ngủi đắng cay môi Mệnh trời đã định an bài thế Trong rủi được may vậy thế thôi DNN |
o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o-o
15. Giọt Đắng Ngọt Tình
Giọt đắng em trao khách trử tình Mong đừng quen thói ghẹo linh tinh Sớm mai sảng khoái cà phê nóng Giải trí đêm khuya nhạc xập xình Quán nhỏ bên đường lưu luyến nhớ Ven hồ viễn khách ngắm nàng xinh Bao giờ thỏa nguyện lòng mong đợi Tái ngộ hàn huyên chuyện chúng mình ĐNN HỌA Tình trao đầu đời Trót cho hơi ấm buổi xuân tình, Vụng dại thơ ngây tuổi trắng tinh Ngây ngất hồn hoa đêm dạ vũ Rộn ràng cánh bướm lúc xì xình Bao năm xa cách lòng còn nhớ Mấy độ thu tàn mộng vẫn xinh Đầu bạc răng long tình mãi đượm Gặp nhau ôn lại chuyện hai mình Vănngọc Mùa Hoa Khế Vườn nhà hoa khế sớm đơm bông Màu tím hương sen sắc nhạt hồng Mỗi sáng dạo chơi buồn rướm lệ Từng chiều chờ đợi nhớ vun trồng Mới đây non nớt chưa trơn cạnh Thoáng đã no tròn vừa mắt trông Chua ngọt đắng cay mùi thế thái Nghĩa sâu ân nặng ước tình nồng ĐNN Tuổi già
(Họa thơ của Nam) Tuổi già muốn được cảnh nhàn thơi Buông xả tâm an nhập cuộc chơi Mệt ngủ đói ăn quên nợ nước Hết lo sống chết thuận theo trời Việc đời vạn sự trao son trẻ Gia đạo hài hoà chuyện nghỉ ngơi Phú qúy vinh quang như giấc mộng An vui tự tại hưởng ơn đời Cựu HS/TQC/HA. (Canada) vănngọc Con Bọ Xít
Tạo hóa ban chi giống quỷ tinh Nhỏ con hôi hám gặp thường tình Sà vào khóe mắt sưng cay xé Hất khỏi bờ mi ngứa bực mình Hắt hắt mùi nồng gây chóng mặt Khay khay chất độc khiến hồn kinh Trời sinh bọ xít loài vô dụng Ích lợi gì đây cầu khẩn trình ĐNN 28-7-2014 chung sống (Họa bài con bọ xít ) Loài người chung sống với yêu tinh Vi khuẩn hay là giống hữu tình Ong bướm *chim ruồi* ưa hút nhụy Thủy tiên công ngỗng thích khoe mình Điều hoà mạch sống không lo ngại Bảo vệ môi trường chẳng sợ kinh Tất cả vạn loài đều có dụng Chớ nên lo lắng viết thơ trình vănngọc, 29-7-2014 * chim ruồi (loại chim rất nhỏ) chuyên hút mật hoa. Hoa Tóc Tiên
Vườn người đẹp nhất loại nào nầy Đài các cao sang quyến rủ vây Tóc tiên vươn mình hương sắc thắm Anh hùng gá ngãi thủy chung đầy Kim Châm Kim châm vào thịt đớn đau, Kim châm hoa đẹp trao nhau tận nhà. Nhan sắc rồi cũng nhạt nhòa, Hoa tàn nhụy héo làm quà nấu ăn. Món xào bún tàu nạc thăn, Nhà anh đám giỗ mẹ khen dâu hiền. Khôn ngoan biết việc ưu tiên, Sắm mua vừa vặn chẳng phiền lòng nhau. Của cải dành để về sau, Nuôi con khôn lớn trông mau nên người. Gia đình rộn rã tiếng cười, Ấm no hạnh phúc điểm mười dành cho… Chàng… Hiu Chàng với thiếp chung sống đã lâu Nỡ nào lánh mặt để gieo sầu Mùa mưa đến nước nguồn về lại Hội ngộ trùng phùng cá cắn câu Tìm chi hốc đá nước xanh trong Vất vả mồi ngon chả được mong Cứ việc an nhiên mồi sẽ đến Thảnh thơi tự tại tóm vào lòng Họa: Tát Nước
Hởi cô tát nước quán quê đâu Dừng lại cho xem ngắm cái gàu Thửa ruộng mạ non chào nắng mới Góc bờ thiếu nữ lội bùn sâu Gàu sòng cáng tra còn nhoáng bóng Cọc trụ dây treo đã nhạt màu Múc đổ liên hồi tay mõi cứng Việc làm tới tấp nghĩ thêm sầu ĐNN (Cali 28/7/201) Thợ Hớt Tóc
(Thân tặng anh Khưu Huỳnh ở Hội An) Chọn nghề hớt tóc đợi thời câu Mong gặp hiền tài đã bấy lâu Chải chuốt tóc tơ người bốn biển Sửa sang mày mặt khách năm châu Gương soi trước mắt tiền nhân gởi Ghế dựa sau lưng hậu thế cầu Giủa kéo mài dao đâu đấy sẵn Đón chờ hào kiệt đến phờ râu Đạt Nhân (Hội An, 14/7/2003) ******************************** |
Vườn Hè
(Họa bài Mùa Hoa Khế) Sân trước thi nhau rực rỡ bông Muôn màu muôn sắc trộn pha hồng Chiều chiều nhàn rỗi vườn sau nhậu Sáng sáng thảnh thơi luống đất trồng Bầu bí đơm hoa ong hút nhụy Mướp nho trỉu trái bướm tranh công Lẫn chen hương vị đời muôn mặt Tình nghĩa nhân gian luôn đượm nồng Vănngọc 28-7-2014 Nghỉ Hưu Ôi sướng quá nay được thảnh thơi Nghỉ hưu đáo hạn để vui chơi Đâu còn dậy sớm lo cơm nước Chuẩn bị lên đường kịp sáng trời Ngủ nướng chần chờ bà hối thúc Ông thì nằm ráng nửa giờ ngơi Công danh sự nghiệp lo chi nữa Chấn dứt tranh đua sướng với đời ĐNN Lãnh Tiền Già Tỵ nạn sang đây được thảnh thơi Chẳng làm lương lãnh dễ như chơi Già rồi luật định đương nhiên hưởng Đủ sáu mươi lăm sướng quá trời Bản xứ người ta đâu được thế Đi làm đóng thuế cuối đời xơi Ân tình nước Mỹ đầy nhân ái Mở rộng vòng tay sang sẻ đời Địa Lan Tím
Hoa lan mọc đất đẹp làm sao Thế giới loài hoa sánh bước vào Tim tím đài xinh bao giữ nhụy Phận mình thấp bé ngẫn đầu cao Dalat Kỷ Niệm Đà Lạt lạnh sương nhớ vấn vương Đã lâu cách biệt mãi còn thương Người xưa má đỏ sân trường vắng Rảo bước sánh đôi khắp nẻo đường Ớt Cay Ăn ớt thói quen thấy chả cay Ớt nào cắn ngọt thật là hay Người dưng khác họ đem lòng nhớ Đắng cay vượt khỏi tỏ lòng ngay Hoàng Hôn Chiều xuống tới nơi bóng ác tà Ánh dương lánh trốn chân trời xa Hoàng hôn phố núi hồng hừng ráng Thúc giục nữ lưu rời gót ngà Búp Măng Nhất dáng nhì da gái đẹp xinh Ngón tay măng búp đắc duyên tình Thiền quyên đứng đợi anh hùng viếng Trọng nghĩa tào khang mới hiển vinh Trưa Hè
Văng vẳng trên cành rộn tiếng ve Gà choai ngứa cổ gáy te te Then cài cửa lớp im lìm khép Phượng nở sân trường rực rỡ khoe Chó rúc gầm giường le lưỡi ngáp Mèo chui xó bếp hở môi nhe Em đi chớ để đầu dang nắng Mà nhớ cầm theo chiếc nón che Đạt Nhân (Quê nhà hè 1962) Họa: Hè Nhà Quê Trưa hè rỉ rả tiếng kêu ve Bụi chuối nhà bên lá rách te Xơ xát cành trơ tre héo rũ Sum sê tàng phủ mít tươi khoe Gà nằm sãi cánh thóp thoi thở Chó chạy cong đuôi hổn hển nhe Núp bóng cây da chờ ngọn gió Võng đưa kẽo kẹt khỏi cần che ĐNN 01-8-2014 Tìm trăng Đáy Nước Tìm trăng đấy nước tận đâu đâu Em tát mình em một chiếc gàu Gờn gợn trăng đùa trên luống cạn Im lìm trăng tĩnh dưới dòng sâu Trăng chao mặt nước trăng phai sắc Tóc nhuốm màn sương tóc đổi màu Em hãy ngừng tay anh tát phụ Cho vơi dòng lệ mắt em sầu ĐẠT NHÂN (SG,24/2/1998) Họa: Nghề Cắt Tóc
Hớt tóc nghề làm đợi khách câu Từng người lần lượt phải chờ lâu Dưỡng dài quá lứa mờ hình dáng Cắt ngắn chu kỳ sáng ngọc châu Thủa trước đàn ông lo việc ấy Bây giờ thiếu nữ lãnh nhu cầu May thay bác thợ yêu ngành cạo Cằm má trơn tru không sợi râu ĐNN (cali, 31/7/2014) ******************************** |
14. Hội Ngộ TQC/HA
(Cali/LittleSaigon, 29/6/2014) Năm tháng hạ sang vẫn thắm màu Giã từ đất nước mãi bên nhau Quê người hội ngộ trường xưa cũ Gặp gỡ đông vui đủ “kép đào” Bốn hướng phương trời tìm hợp lại Choàng vai quen thói gọi mi tau Quây về kỷ niệm ghi tiềm thức Nhớ thuở ban đầu nhắc thuộc làu Ruộng Nấc Thang
Đồi núi biếc xanh lúa trổ bông Nấc thang giữ nước cái nghề nông Cày sâu cuốc bẫm người sơn cước Gặt hái mừng vui chén rượu nồng Tấc đất ngàn vàng gieo hạt thóc Cơm ăn ngon dẻo nhớ khen công Cần lao nặng nhọc theo năm tháng Mảnh đất vùng cao khéo cấy trồng Bắp Trổ Cờ
Ngộ thật nhìn xem bắp trổ cờ Phấn bay rơi xuống sợi râu tơ Hình thành tượng hột no tròn trái Phối ngẫu tương phùng cập bến bờ Sơn Thủy Sơn thủy hữu tình cảnh đẹp xinh Nước trong tĩnh lặng sớm bình minh Nơi đây để lại niềm thương nhớ Cố quận quây về ngóng bóng hình Cào Cào Cào cào mi đậu chỗ nào đây? Không phải đồng xanh cỏ tốt đầy. Nước chẳng sương không gì để sống! Vui chi ghé lại chốn khô nầy? Phong Cảnh Quê
Viếng cảnh đồng quê với núi đồi Nấc thang leo dốc đắng bờ môi Chờ ai đứng đợi lòng thương mến Cảnh cũ người xưa nhớ lắm rồi Gặp Thầy Xưa Gặp lại Người Thầy dạy học xưa Một chiều ra phố đụt cơn mưa Cà phê quyện khói hương thơm ngát Thoáng chốc hàn huyên mãi chẳng vừa Nguyến Văn Bán/TQC HỌA Dạo quanh khu phố gặp Thầy xưa Đà Lạt sương mù bất chợt mưa Tấp quán bên đường ôn chuyện cũ Cà phê nhỏ giọt đợi lòng vừa +++O+++ Động viên toàn quốc Thầy vào lính Trò chiến trường nào ngại sớm trưa Thời loạn lạc cần quân tác chiến Dứt binh đao chịu cảnh tù lừa Đoàn Ngọc Nam/TQC Bạc Tình
Vì ham của lạ cuộc đời đen Mạt vận nhà tan hết tiếng khen Dứt bỏ niềm vui đương hạnh phúc Theo bè kết bạn chuốt đê hèn Do đâu sinh tật thành lương lẹo Bản tính sân si giữ thói quen Đứng núi nầy trông sang núi nọ Trắng tay hối hận rước thân quèn |
Chúc Thượng Thọ
(Thân tặng chị Nguyễn Thị Gái, nhân ngày 25/5/2014 đến thăm Cụ Nguyễn Khắc Yêng, thân phụ của chị) Năm nay Cụ Nguyễn thọ trăm niên Chúc được bình an chẳng lụy phiền Tuổi hạc chân mây tà xế bóng Chuyện trò trí nhớ vẫn y nguyên Quãng đời vui sống thân yêu sướng Phước đức lưu truyền hưởng cảnh tiên Thượng thọ dư thừa ơn Phật Tổ Nguyện cầu Cụ Nguyễn vẹn toàn yên Ong Mật
Chàng ong hút mật nhụy bông nào Mật ngọt mang về biếu tặng trao Viếng cảnh vườn hoa đa sắc thắm Tiết xuân lãng vãng vẫy vòi chào Chân mềm cào phấn truyền sang nụ Trái đậu quanh cành nặng triễu chao Một việc thông thường ai nghĩ đến Mật thanh lắm kẻ chuộng thèm vào Sim Cài
Tím cả rừng sim trước mắt tôi Một chiều leo dốc dạo quanh đồi Đưa tay ngắt lấy đài hoa tím Tóc mái vừa cài sóng sánh đôi Bướm Bướm lạ là đà dáng đẹp xinh Mến ai quân tử rước về dinh Vào ra có nhớ đêm thơ mộng Chén rượu tàn canh tiễn biệt tình Hoa Sâm Màu hoa hồng thắm dễ thương ơi Vàng nhụy hương thơm ngát tận trời Nhớ lại quê em mùa lúa mới Hoa nào sánh kịp gái đương thời Quê Hương
Sơn thủy đất quê cảnh thái bình Sớm mai mát dịu ánh bình minh Ngàn trùng cách trở thương cùng nhớ Nặng nợ sao đành dứt bỏ tình Tình Đợi Ti gôn màu sắc nhạt hồng màu Thương nhớ ta về chịu nỗi đau Sợ vỡ tình ta xa cách biệt Âm thầm ráng đợi cách xa nhau Tập Thể Dục Thường xuyên tập thể dục hàng ngày Sáng tối hai lần chẳng đổi thay Bơi lội, kéo dây mạnh thể tạng Đạp xe đi bộ khỏe chân tay Ăn kiêng chẳng sợ gì xui xẻo Uống cữ không màn chuyện rủi may Chịu khó siêng năng thân khỏi bệnh An vui tự tại thế mà hay NCV/TQC HỌA Chừng Mực Tuổi Già Siêng năng đi bộ nhớ hằng ngày Chiều sáng vài giờ khỏe mạnh thay Sức lực càng ngày dần giảm bớt Không nên cố luyện bại chân tay Bớt ăn đường mỡ kiêng dần muối Cai rượu đường trường lái vận may Điều lượng thuốc men cho phải lúc Những điều thường thức mấy ai hay ĐNN/TQC Thích Bầu Vườn Người có chuối bầu bơ, Chuối ăn nặng bụng lại chờ chín lâu. Bơ thời cũng phải lo âu, Thời gian mềm nhũn có đâu ăn liền. Còn bầu dễ quá ăn kiêng, Món xào món nấu xực ghiền nhớ dai. Bầu kia dành riêng cho ai, Mỗi ngày dần lớn trường trai thường dùng. Ngoài bầu còn bí giàn chung, Tuy rằng khác giống nhưng cùng dây leo. Người dưng khác họ sơn keo, Nối giòng gìn giống giao kèo lòng tin. ĐNN |
13. Tìm Niềm Vui
Trong kỷ niệm
Bây giờ chừng nầy tuổi rồi, đã qua ngưỡng cửa: “thất thập cổ lai hy” mà nhiều khi nhớ lại đoạn văn trong Giáo Khoa Thư năm xưa, ông giáo làng bắt học thuộc lòng, có cần hiểu ý nghĩa như thế nào đâu:
“sau bao năm thôi học trường làng.
cảm thấy lòng tôi mới mở mang.
biết con bò là loài nhai lại.
và tin trời đất rộng thênh thang…”
Tuổi thơ là như vậy đó. Cái tuổi thơ của tôi nó mộc mạc, quê mùa ra làm sao! Không hề đua đòi, se sua chi cả, học lên lớp nhì, lớp nhứt rồi mà đi học cứ mặc quần xà lỏn, áo bà ba, không thấy xấu hổ chi cả. Thậm chí đến hồi đi thi lấy bằng tiểu học, cũng cứ ăn mặc như thế mà đi thi, tĩnh bơ. Cái bằng tiểu học thời đó, coi vậy mà cũng có giá lắm đó. Thấy mấy anh lớn, lúc chạy giặc được học thời Việt Minh, đi thi đậu rồi nạp đơn xin làm “hương sư phụ khuyết”, được kêu đi dạy trường làng xã cũng oai lắm.
Trường Công Lập Trần Quí Cáp Hội An, khi còn nhỏ tôi có nghe danh xưng gì đâu, đến khi đã học ở trường mà có biết năm nào, do chính phủ thời nào thành lập. Sau nầy mới biết được thành lập từ năm 1952, khi đó Pháp còn đô hộ nước ta và chính phủ Việt Nam được thành hình dưới sự bảo hộ của Pháp. Thời đó, thành phố Hội An xa lạ với bọn trẻ nhà quê chúng tôi, chỉ nghe người lớn thường hay nói, đi xuống phố mua hàng về dùng, phố vui nhộn nhịp lắm, lại có đèn điện sáng choang. Hằng ngày chỉ thấy Tây và lính Việt Nam đóng đồn, vùng Gò Nổi có đến bốn đồn rào kẽm gai chung quanh rất kiên cố, đó là các đồn: Phú Bông, Cẩm Lậu, Xuân Đài và Vân Ly. Ngoài ra còn có nhiều lô-cốt phụ đóng chốt tại nhiều nơi, để bảo vệ cho đồn chính. Thời chiến tranh, sống chết trong gang tấc, việc học hành dường như không mấy quan tâm. Mỗi lần thấy Quan 3 (Đại Úy) lên thăm đồn là lo sợ lắm, xe nhà binh đủ loại: thiết giáp, xe GMC và xe jeep dành cho quan đi, có gắn cần câu (antenna) trông oai vệ, hùng dũng lắm. Thường ngày lính Việt Binh Đoàn ra làng, bắt dân đi làm xâu, rào dạy quanh đồn hay cắt cỏ cho quang đảng. Buổi trưa phát cho mỗi người một nắm cơm vắt, to bằng trái bòng. Cơm gạo trắng bốc, nhai mát miệng mềm xèo, tối về còn cho thêm lon gạo để ăn buổi tối. Lính Việt Nam trong đồn chỉ thấy cấp bậc Trung Sĩ cao nhất và được trang bị súng carbin oai hơn lính thường. Còn lính trơn mang súng trường, mỗi lần bắn từng viên một, bọn trẻ con chúng tôi gọi súng đó trông giống cây sào giữ vịt. Mãi đến ngày 20 tháng 7 năm 1954, nghe tin đình chiến mọi người vui mừng quá! Hiệp định Genève do Pháp và Việt Minh ký, chia đôi đất nước Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 (Bến Hải) làm ranh giới. Từ vĩ tuyến 17 trở vào do quân đội pháp và Việt Nam Quốc Gia trấn giữ, chờ 2 năm sau tổng tuyển cử thống nhất đất nước, theo chủ trương của miền Bắc. Ngày 23 tháng 10 năm 1955, cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức, Chí Sĩ Ngô Đình Diệm được đồng bào Miền Nam tín nhiệm và trở thành Tổng Thống đầu tiên, khai nguyên nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ kiện toàn tổ chức về mọi mặt: quân sự, hành chánh, y tế và giáo dục…Niên khóa 57-58 tôi thi vào lớp đệ thất Trường Trung học Trần Quí Cáp Hội An. Lúc nầy được đi lên tỉnh để học, cảm thấy hãnh diện với bà con hàng xóm láng giềng. Cha mẹ tôi lo may sắm mấy bộ đồ đồng phục, quần tây dài kaki màu xanh nước biển và áo chemise ngắn tay, đúng theo quy định của nhà trường. Lần đầu tên diện bộ âu phục thấy mắc cở, dị quá! Ngày khai giảng, cả bốn tên Nam đều được nhập học. Lê Nam (SG/VN) lúc thi tuyển ngồi gần tôi, cầu cứu, tôi chỉ cho chép một bài toán dễ mà thôi (theo lời dặn của thầy PĐT, không cho copy vì thi concours họ đậu thì mình rớt). Nguyễn Tam Nam lớp đệ thất 4 (lâu nay không biết tin về bạn nầy). Tôi ĐNN được xếp vào lớp đệ thất 3 cùng với Hồ Văn Nam (cố Đại Úy), tất cả đều là bạn mới, ngoại trừ bạn Phan Quang Châu, quen biết ở trường tiểu học cộng đồng Kỳ Lam, và các bạn thân cùng quê: Dương Hùng, Phạm Thiện, Võ Thế Hải, Lê Ngọc Thành, Phan Minh Nhạn và Nguyễn Hữu Trân… Năm học đầu tiên vui lắm, được thêm bạn mới: Võ Lâu, Phạm Hồng Tân, Trương Thọ, Lê Dức Thọ, Trần Văn Hồng, Dương Thị Sa, Nguyễn Thị Hương, Lê thị Huệ, Võ Thị Hoa, Đàm Thế Lữ, Hồ Thị Xuân Hoa… Lớp tôi bà Huỳnh Tân dạy Pháp văn, đã học qua hơn một tháng, mà đến giờ bà được ông giám thị cho về, vì bà còn bệnh chưa đi dạy được. Điều tôi nhớ mãi, một lần tôi được bà bảo đứng lên đọc bài, mặc dầu biết trước thế nào cũng tới lượt mình, nên ưu tiên chuẩn bị kỷ học thuộc lòng, đọc đi đọc lại nhiều lần, thế mà khi gọi đến tên mình, tự nhiên hồn vía bay đi đâu mất, mở miệng không ra lời, cuối cùng bị 2 con zéro to bự và kèm thêm lời quở trách: paresseur, assez vou! Trong lớp đệ thất 3, tôi và bạn Trần Văn Hồng (TVH) là cặp đánh bóng chuyền ăn ý nhất, vì thế giữ được chức vô địch trong 4 lớp đệ thất của niên học đầu tiên. Lên lớp đệ lục, bạn TVH học được vài tháng, thông báo mời các bạn đến dự đám cưới. Chắc bạn ta quê ở làng Kim Bồng, quen nghề thợ mộc đục đẽo, nên muốn cưới vợ sớm chớ chi! Khách mời có các bạn: Võ Lâu, Phan Quang Châu, Phạm Thiện, Võ Thế Hải, Lê Ngọc Thành, Dương Thị Sa, Nguyễn Thị Hương, Võ Thị Hoa… Bây giờ nhớ lại thật buồn cười, ai đời đi đám cưới mà không ai có quà chi cả. Cả đám con trai cũng như con gái, đi dự đám cưới bạn, phải qua sông ở lại đêm, mà trên mình mỗi đứa mặc bộ đồng phục học sinh đi học thường lệ. Chiều nhóm Họ, chúng tôi được cha mẹ bạn Hồng tiếp đãi nồng hậu, mâm cao cỗ đầy mời ăn thỏa thích, lại được yêu cầu ngày mai đi rước dâu. Sung sướng, vui vẻ không chi bằng. Bọn con trai chúng tôi, vui chơi với nhau một chặp, tắt đèn, cởi bộ đồ vía ra, lăn đùng ra ngủ một giấc ngon lành. Còn mấy cô bạn gái, giải quyết sao đây? Không lẽ mặc áo dài mà ngủ, nhàu nát, nhăn túm coi sao được! Bây giờ hỏi nhỏ mấy chị sui giải quyết cách nào cho ổn thỏa, bí mật trên mấy chục năm, bây giờ bật mí là vừa! Lên lớp đệ ngũ, bạn Nguyễn Tơ cũng bắt chước bạn TVH, nghỉ học ở nhà cưới vợ, và ham vui chuyện nhà hơn ở trường, nên biệt tăm luôn. Nhớ lại cái thời còn học bậc trung học đệ nhất cấp, vui chơi nhiều hơn khi đã bước sang bậc đệ nhị cấp. Nào rủ nhau đạp xe xuống biển Cửa Đại ngắm sóng vỗ bờ, nào ghé vào quán mì bà Đợi, ăn vài tô trước khi tan hàng, nhà ai trở về nhà nấy (nhà trọ). Bạn nào còn nhớ, kỳ nghỉ hè năm đệ ngủ (năm 60) rủ nhau đi bằng xe đạp từ Hội An lên nhà tôi, ở Xuân Đài chơi không? Buổi trưa được mẹ tôi đãi cho bữa cơm: nhộng trộn búp chuối sứ xắt mõng, nhộng chiên mặn và mắm dưa gang trộn tôm khô giã nhỏ, ớt, tỏi, đường. Có bạn xin uống thử tí rượu đương nấu, cho biết mùi đời, chứ từ lâu chưa hề dám đụng tới… Bữa cơm thật là đạm bạc, nhưng gói gắm chút tình nhà quê chân chất, không đải đưa chút nào.
Từ năm xa xưa 1952 cho tới năm 1975, Trường Trung Học Trần Quí Cáp Hội An, đã đào tạo biết bao thế hệ, lớn lên và trưởng thành. Đủ các ngành nghề trong xã hội, Quân Đội, Cảnh Sát, Hành Chánh, Giáo Dục… Thế hệ chúng ta, nằm trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh, nồi da xáo thịt, mỗi người hoạt động trong mỗi lãnh vực khác nhau, chưa một lần viếng thăm Trường Mẹ trong kỳ Đại Hội chung toàn trường. Bởi thế nhiều khi gặp nhau, không hề hay biết trước đây học chung trường. Bạn Nguyễn Văn Bán học lớp đệ thất 2 rồi lên đệ tứ 2, từ Đà Nẵng thuyên chuyển đến Trung Tâm Huấn Luyện CSDC/DALAT, thế mà tôi quên mất, ai dè tên nầy vì không muốn đi lính, nên vào cảnh sát Quốc Gia. Cũng may, sau nầy được cứu xét cho đi học khóa Sĩ Quan Cảnh Sát, ra trường cấp bậc Thiếu Úy, cũng nhờ vậy không còn mặc cảm, nên bạn bè mới nhận ra, tức thì tôi hình dung tên nầy dáng nho nhỏ mà phá phách cũng có hạng… Bạn Mạc Phi Hoàng, học trên tôi một lớp, đi cảnh sát sau tôi 5 khóa tại Học Viện CSQG, nhờ có bằng cữ nhân chính trị kinh doanh, nên được mang cấp bậc Quận Trưởng CS (Thiếu Tá CS). Năm 74, tôi thuyên chuyển về Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Khu I, gặp bạn Hoàng đương là chánh văn phòng của Đại Tá Chỉ Huy Trưởng, xem Sự Vụ Lệnh, hỏi tôi: Đại Úy Nam muốn đi làm nơi nào, để trình Đại Tá quyết định. Phải như anh em cùng trường biết trước thì hay biết mấy, cơ hội nhờ nhau đúng lúc quá mà! Bạn Nguyễn Một cùng học TQC với tôi (61-64) mà khi ở tù, cùng phòng giam thời gian khá lâu, cũng không nhận ra anh em đồng môn TQC. Trường hợp nầy là cái may, tránh được liên lụy có kẻ theo dõi báo cáo lập công: kết bè, kết bạn với nhau không lo học tập, tư tưởng giao động, gây hoang mang bất lợi cho việc cải tạo…
Trước năm 1975, anh chị em xuất thân TQC, mỗi người mỗi nơi, làm việc đủ ngành nghề, khắp bốn vùng chiến thuật. Biến cố 75 xãy ra, trên đất khách quê người, mới tìm nhau trở lại. Nơi nào có người Việt ở là có Hội Ái Hữu Cựu HS/TQC/HA, riêng Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh TQC/HA tại miền Nam California có thể nói đông nhất. Năm nào cũng tổ chức hội ngộ để cùng nhau thăm Thầy, nhớ Bạn, ôn lại những chuỗi ngày còn cùng chung một mái trường, biết bao kỷ niệm thời thơ ấu, cắp sách đến trường. Riêng ba kỳ Đại Hôi năm 2001, 2010 và 2012, anh chị em cựu học sinh TQC khắp mọi nơi, về miền Nam nắng ấm California dự Đại Hội đông đảo nhất. Trong lần ĐH năm 2010, anh Dư Mỹ (Boston) phát biểu, mong muốn Hội Cựu HS/TQC/HA/Nam Cali, thường xuyên tổ chức ĐH như thế nầy, để chúng tôi có nơi mà về, được sum họp Đại Gia Đình Trần Quí Cáp Hội An. Anh Nguyễn Đình Hà (Hà Kỳ Lam) lớp đàn anh, ở xa xuôi (New Jersey) mà luôn luôn có mặt trong các kỳ ĐH, anh Phan Lý Phương (Úc châu), chị Nguyễn Thị Nhiều (Canada) cũng không bỏ lở cơ hội hiếm có đông đủ như thế nầy. Còn các bạn: Vũ Đức Phụng, Vương Mộng Long, Trương Thọ, Nguyễn Văn Bán, Hồ Bảy (Huỳnh Hoa), Nguyễn Hữu Trân (NQA), Đoàn Dục, Nguyễn Quang Liêm, Thiều Văn Thái, Hồ Phú Bông… lâu nay chưa thấy hiện diện, tôi cũng như các bạn đồng môn trông mong gặp lắm đấy. Từ lâu, Hội cựu học sinh Trần Quí Cáp tại miền Nam California là Hội Ái Hữu Bất Vụ Lợi, chủ trương không đưa chính trị vào Hội, mà cũng không ngăn cản ai tham gia chính trị. Anh chị em tham gia với tinh thần đoàn kết, yêu thương và thân thiện với nhau, như một Đại Gia Đình. Với tinh thần đó, nhiều khi anh chị em bất đồng ý kiến về việc nầy, việc nọ, thì đưa phiên họp để thảo luận, chung cuộc biểu quyết, để lấy quyết định đa số mà lo việc chung. Vì thế Hội chúng ta vẫn mãi sinh hoạt thường xuyên đều đặn, vì chúng ta bất đồng chứ không bất hòa, không bao giờ chia rẻ để làm phiền lòng Thầy Cô và các Bạn Đồng Môn. Hiện nay Hội đã và đang vận động, kêu gọi lớp Hậu Duệ TQC/HA tham gia sinh hoạt, để dần dà thay thế lớp đàn anh, có như thế mới duy trì TQC hải ngoại và hơn nữa lớp trẻ nhiều tài năng, nhiều sáng kiến mới, tô điểm cho ngôi nhà chúng ta thêm tươi mát, vui vẻ, lành mạnh mãi mãi…
Đi tìm niềm vui trong kỷ niệm, là để sống lại một thời hồn nhiên, vui vẻ, không bận tâm đến cuộc sống bên ngoài xã hội, chỉ có việc chăm lo học hành, mong sao thi đỗ để đáp đền công ơn Thầy Cô dạy dỗ và Cha Mẹ tần tảo nuôi dưỡng, đủ cơm no áo ấm mà đến trường. Hể ở đâu có sinh hoạt TQC, tức thì tôi tìm đến, tìm lại hình ảnh dễ thương ngày xưa, được dịp gặp gỡ rồi trở thành thân quen, chứ trước đây khi còn trong nước, mạnh ai lo việc nấy, nhiều anh chị em cùng học một lớp, mà lâu lắm chưa hề ghé thăm nhau. Còn các bạn ở lại quê nhà, mỗi lần có dịp về quê, tôi không quên tập họp một số bạn ở Sài Gòn hay Đà Nẵng mà trước đây học cùng thời từ 57 - 64, và trước hoặc sau một năm, nếu thuận tiện cũng mời luôn. Nhìn chung, các bạn bây giờ phần đông đều khá, nhà cửa đàng hoàng, nhiều bạn có nhà lầu 2 hay 3 tầng, con cái đều thành đạt… Năm rồi (4/2013) trong chuyến về quê, tôi có đến thăm bạn Nguyễn Thị Liểu, nay lâm bệnh nặng nằm một chỗ, không động đậy nhúc nhích chi cả, thấy mà thương tâm. Tôi cũng trao tận tay cho con gái của bạn Liểu 200 dollars do các anh chị gởi tặng (Huỳnh Ngọc Anh, Trần Diệu Minh, Trần Diệu Hồng, Đặng Phúc Nguyên, Nguyễn Hương và Đoàn Ngọc Nam). Tôi vào Hội An, có ghé thăm bạn Ngô Rân ở gần chợ, thấy bạn ta da thịt hồng hào, mập mạp, nhưng đi đứng không được bình thường, nằm ngồi một chỗ, nên có biếu cho NR 1 triệu DVN để uống cà phê cho vui. Luôn tiện, tạt qua thăm cô bạn Phan Thị Kim Chi, thấy cô ta một mình trông coi phòng tranh ảnh bận rộn lắm, khách phần đông mấy ông bà Tây ba-lô. Cô bạn nói tiếng Pháp lưu loát, dễ nghe, không như những năm học cùng lớp, tại Trường TQC xa xưa… Lần nầy về đã mất đi 2 người bạn cùng lớp: Nguyễn Tuấn và Lê Ngọc Thành, không đến dự họp mặt nhóm bạn cũ TQC cùng lớp năm xưa. Tại nhà hàng Hoàng Sa Đà nẵng có các bạn: Nguyễn Tấn Hân, Đỗ Duy Minh, Đoàn Ngọc Tảo, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Văn Thụy, Phạm Thiện, Phạm Thành, Trần Tám, Đặng Xuân Thu, Phan Minh Nhạn và Đỗ Đến dẫn theo cô bạn đồng nghiệp Mạc T.H. Cô nầy lớp đàn em, trước 75 đã đi dạy học và được tiếp tục, cho đến bây giờ mới vừa về hưu. Trong bửa cơm thân mật, sau nhiều năm xa cách, các bạn kể lại cho nhau nghe những điều buồn vui trong cuộc sống sau biến cố 75. Cô bạn của Đỗ Đến đề nghị mọi người rót đầy ly, một trăm phần trăm, chúc toàn thể khỏe mạnh, vui vẻ để còn có lần hội ngộ lần tới, đầy đủ anh chị em như thế nầy… Thân gái lạc rừng gươm mà không thấy e lệ, thẹn thùng, như những nữ sinh hay cô giáo ngày xưa. Bạn trai tới đâu cô giáo cũng tới đó và có khi hơn trội mấy anh bây giờ, hở ra là từ chối, viện dẫn lý do: bị bệnh tiểu đường, áp huyết cao, cholesterol có vấn đề…Để thêm phần hào hứng, cô giáo đứng lên xin đố các bậc đàn anh như thế nầy: Bọn ăn cướp ngoài biển, người ta gọi là gì? Phan Minh Nhạn xôn xáo trả lời: thì gọi là hải tặc chứ trật đi chỗ nào! Còn như vào rừng đốn gỗ trộm, kiếm tiền nhậu chơi thì gọi là gì? Dễ ợt, Phạm Thiện phân tách: rừng có nghĩa là lâm, lâm tặc đúng chưa cô giáo? Thêm câu nữa: bọn chuyên môn chạy xe Honda, đèo theo đứa phía sau, quăng tróng bắt chó chạy rong ngoài đường nhanh như chớp, đem đi bán cho các quán nhậu, gọi là gì? Bạn Đặng Xuân Thu, uống cạn ly bia mới cất giọng chậm rải nói: chó, các cụ còn gọi là khuyển hay cẩu, thì gọi là khuyển tặc hay cẩu tặc, chứ còn gì khác nữa mà đố? Đúng rồi, nhưng theo tôi (cô H.) bọn nầy phải gọi là bọn cẩu tặc, mới đúng ý đồ của bọn chúng! Đến đây cô giáo H, đố câu tiếp theo, các ông anh nghe kỹ đây: Có một kẻ ngang nhiên, không hề sợ sệt, lội vào vườn cau của người ta, trèo lên cây cau bẻ buồng thỏa mái, rồi ra về. Người nầy gọi là gì mới chính xác? Cả đám bạn đương còn phân vân, kẻ nầy đặc biệt thật, gọi là gì nhỉ! Đoàn Ngọc Tảo, mạnh miệng nói liền: Thì cũng xếp loại tặc cho yên chuyện! Cau tặc! cau tặc! cau tặc! Quá đúng, cô giáo cùng các bạn, mỗi người thưởng cho ĐNT một ly bia đầy ắp… Như thế, người xưa nói không sai: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Còn các Bạn TQC của tôi nghĩ như thế nào? Thấy có ngộ không? Bây giờ là như thế đó! Mọi sự việc đều khác xưa rất nhiều.-
ĐOÀN NGỌC NAM
*********************************************
Trong kỷ niệm
Bây giờ chừng nầy tuổi rồi, đã qua ngưỡng cửa: “thất thập cổ lai hy” mà nhiều khi nhớ lại đoạn văn trong Giáo Khoa Thư năm xưa, ông giáo làng bắt học thuộc lòng, có cần hiểu ý nghĩa như thế nào đâu:
“sau bao năm thôi học trường làng.
cảm thấy lòng tôi mới mở mang.
biết con bò là loài nhai lại.
và tin trời đất rộng thênh thang…”
Tuổi thơ là như vậy đó. Cái tuổi thơ của tôi nó mộc mạc, quê mùa ra làm sao! Không hề đua đòi, se sua chi cả, học lên lớp nhì, lớp nhứt rồi mà đi học cứ mặc quần xà lỏn, áo bà ba, không thấy xấu hổ chi cả. Thậm chí đến hồi đi thi lấy bằng tiểu học, cũng cứ ăn mặc như thế mà đi thi, tĩnh bơ. Cái bằng tiểu học thời đó, coi vậy mà cũng có giá lắm đó. Thấy mấy anh lớn, lúc chạy giặc được học thời Việt Minh, đi thi đậu rồi nạp đơn xin làm “hương sư phụ khuyết”, được kêu đi dạy trường làng xã cũng oai lắm.
Trường Công Lập Trần Quí Cáp Hội An, khi còn nhỏ tôi có nghe danh xưng gì đâu, đến khi đã học ở trường mà có biết năm nào, do chính phủ thời nào thành lập. Sau nầy mới biết được thành lập từ năm 1952, khi đó Pháp còn đô hộ nước ta và chính phủ Việt Nam được thành hình dưới sự bảo hộ của Pháp. Thời đó, thành phố Hội An xa lạ với bọn trẻ nhà quê chúng tôi, chỉ nghe người lớn thường hay nói, đi xuống phố mua hàng về dùng, phố vui nhộn nhịp lắm, lại có đèn điện sáng choang. Hằng ngày chỉ thấy Tây và lính Việt Nam đóng đồn, vùng Gò Nổi có đến bốn đồn rào kẽm gai chung quanh rất kiên cố, đó là các đồn: Phú Bông, Cẩm Lậu, Xuân Đài và Vân Ly. Ngoài ra còn có nhiều lô-cốt phụ đóng chốt tại nhiều nơi, để bảo vệ cho đồn chính. Thời chiến tranh, sống chết trong gang tấc, việc học hành dường như không mấy quan tâm. Mỗi lần thấy Quan 3 (Đại Úy) lên thăm đồn là lo sợ lắm, xe nhà binh đủ loại: thiết giáp, xe GMC và xe jeep dành cho quan đi, có gắn cần câu (antenna) trông oai vệ, hùng dũng lắm. Thường ngày lính Việt Binh Đoàn ra làng, bắt dân đi làm xâu, rào dạy quanh đồn hay cắt cỏ cho quang đảng. Buổi trưa phát cho mỗi người một nắm cơm vắt, to bằng trái bòng. Cơm gạo trắng bốc, nhai mát miệng mềm xèo, tối về còn cho thêm lon gạo để ăn buổi tối. Lính Việt Nam trong đồn chỉ thấy cấp bậc Trung Sĩ cao nhất và được trang bị súng carbin oai hơn lính thường. Còn lính trơn mang súng trường, mỗi lần bắn từng viên một, bọn trẻ con chúng tôi gọi súng đó trông giống cây sào giữ vịt. Mãi đến ngày 20 tháng 7 năm 1954, nghe tin đình chiến mọi người vui mừng quá! Hiệp định Genève do Pháp và Việt Minh ký, chia đôi đất nước Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 (Bến Hải) làm ranh giới. Từ vĩ tuyến 17 trở vào do quân đội pháp và Việt Nam Quốc Gia trấn giữ, chờ 2 năm sau tổng tuyển cử thống nhất đất nước, theo chủ trương của miền Bắc. Ngày 23 tháng 10 năm 1955, cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức, Chí Sĩ Ngô Đình Diệm được đồng bào Miền Nam tín nhiệm và trở thành Tổng Thống đầu tiên, khai nguyên nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ kiện toàn tổ chức về mọi mặt: quân sự, hành chánh, y tế và giáo dục…Niên khóa 57-58 tôi thi vào lớp đệ thất Trường Trung học Trần Quí Cáp Hội An. Lúc nầy được đi lên tỉnh để học, cảm thấy hãnh diện với bà con hàng xóm láng giềng. Cha mẹ tôi lo may sắm mấy bộ đồ đồng phục, quần tây dài kaki màu xanh nước biển và áo chemise ngắn tay, đúng theo quy định của nhà trường. Lần đầu tên diện bộ âu phục thấy mắc cở, dị quá! Ngày khai giảng, cả bốn tên Nam đều được nhập học. Lê Nam (SG/VN) lúc thi tuyển ngồi gần tôi, cầu cứu, tôi chỉ cho chép một bài toán dễ mà thôi (theo lời dặn của thầy PĐT, không cho copy vì thi concours họ đậu thì mình rớt). Nguyễn Tam Nam lớp đệ thất 4 (lâu nay không biết tin về bạn nầy). Tôi ĐNN được xếp vào lớp đệ thất 3 cùng với Hồ Văn Nam (cố Đại Úy), tất cả đều là bạn mới, ngoại trừ bạn Phan Quang Châu, quen biết ở trường tiểu học cộng đồng Kỳ Lam, và các bạn thân cùng quê: Dương Hùng, Phạm Thiện, Võ Thế Hải, Lê Ngọc Thành, Phan Minh Nhạn và Nguyễn Hữu Trân… Năm học đầu tiên vui lắm, được thêm bạn mới: Võ Lâu, Phạm Hồng Tân, Trương Thọ, Lê Dức Thọ, Trần Văn Hồng, Dương Thị Sa, Nguyễn Thị Hương, Lê thị Huệ, Võ Thị Hoa, Đàm Thế Lữ, Hồ Thị Xuân Hoa… Lớp tôi bà Huỳnh Tân dạy Pháp văn, đã học qua hơn một tháng, mà đến giờ bà được ông giám thị cho về, vì bà còn bệnh chưa đi dạy được. Điều tôi nhớ mãi, một lần tôi được bà bảo đứng lên đọc bài, mặc dầu biết trước thế nào cũng tới lượt mình, nên ưu tiên chuẩn bị kỷ học thuộc lòng, đọc đi đọc lại nhiều lần, thế mà khi gọi đến tên mình, tự nhiên hồn vía bay đi đâu mất, mở miệng không ra lời, cuối cùng bị 2 con zéro to bự và kèm thêm lời quở trách: paresseur, assez vou! Trong lớp đệ thất 3, tôi và bạn Trần Văn Hồng (TVH) là cặp đánh bóng chuyền ăn ý nhất, vì thế giữ được chức vô địch trong 4 lớp đệ thất của niên học đầu tiên. Lên lớp đệ lục, bạn TVH học được vài tháng, thông báo mời các bạn đến dự đám cưới. Chắc bạn ta quê ở làng Kim Bồng, quen nghề thợ mộc đục đẽo, nên muốn cưới vợ sớm chớ chi! Khách mời có các bạn: Võ Lâu, Phan Quang Châu, Phạm Thiện, Võ Thế Hải, Lê Ngọc Thành, Dương Thị Sa, Nguyễn Thị Hương, Võ Thị Hoa… Bây giờ nhớ lại thật buồn cười, ai đời đi đám cưới mà không ai có quà chi cả. Cả đám con trai cũng như con gái, đi dự đám cưới bạn, phải qua sông ở lại đêm, mà trên mình mỗi đứa mặc bộ đồng phục học sinh đi học thường lệ. Chiều nhóm Họ, chúng tôi được cha mẹ bạn Hồng tiếp đãi nồng hậu, mâm cao cỗ đầy mời ăn thỏa thích, lại được yêu cầu ngày mai đi rước dâu. Sung sướng, vui vẻ không chi bằng. Bọn con trai chúng tôi, vui chơi với nhau một chặp, tắt đèn, cởi bộ đồ vía ra, lăn đùng ra ngủ một giấc ngon lành. Còn mấy cô bạn gái, giải quyết sao đây? Không lẽ mặc áo dài mà ngủ, nhàu nát, nhăn túm coi sao được! Bây giờ hỏi nhỏ mấy chị sui giải quyết cách nào cho ổn thỏa, bí mật trên mấy chục năm, bây giờ bật mí là vừa! Lên lớp đệ ngũ, bạn Nguyễn Tơ cũng bắt chước bạn TVH, nghỉ học ở nhà cưới vợ, và ham vui chuyện nhà hơn ở trường, nên biệt tăm luôn. Nhớ lại cái thời còn học bậc trung học đệ nhất cấp, vui chơi nhiều hơn khi đã bước sang bậc đệ nhị cấp. Nào rủ nhau đạp xe xuống biển Cửa Đại ngắm sóng vỗ bờ, nào ghé vào quán mì bà Đợi, ăn vài tô trước khi tan hàng, nhà ai trở về nhà nấy (nhà trọ). Bạn nào còn nhớ, kỳ nghỉ hè năm đệ ngủ (năm 60) rủ nhau đi bằng xe đạp từ Hội An lên nhà tôi, ở Xuân Đài chơi không? Buổi trưa được mẹ tôi đãi cho bữa cơm: nhộng trộn búp chuối sứ xắt mõng, nhộng chiên mặn và mắm dưa gang trộn tôm khô giã nhỏ, ớt, tỏi, đường. Có bạn xin uống thử tí rượu đương nấu, cho biết mùi đời, chứ từ lâu chưa hề dám đụng tới… Bữa cơm thật là đạm bạc, nhưng gói gắm chút tình nhà quê chân chất, không đải đưa chút nào.
Từ năm xa xưa 1952 cho tới năm 1975, Trường Trung Học Trần Quí Cáp Hội An, đã đào tạo biết bao thế hệ, lớn lên và trưởng thành. Đủ các ngành nghề trong xã hội, Quân Đội, Cảnh Sát, Hành Chánh, Giáo Dục… Thế hệ chúng ta, nằm trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh, nồi da xáo thịt, mỗi người hoạt động trong mỗi lãnh vực khác nhau, chưa một lần viếng thăm Trường Mẹ trong kỳ Đại Hội chung toàn trường. Bởi thế nhiều khi gặp nhau, không hề hay biết trước đây học chung trường. Bạn Nguyễn Văn Bán học lớp đệ thất 2 rồi lên đệ tứ 2, từ Đà Nẵng thuyên chuyển đến Trung Tâm Huấn Luyện CSDC/DALAT, thế mà tôi quên mất, ai dè tên nầy vì không muốn đi lính, nên vào cảnh sát Quốc Gia. Cũng may, sau nầy được cứu xét cho đi học khóa Sĩ Quan Cảnh Sát, ra trường cấp bậc Thiếu Úy, cũng nhờ vậy không còn mặc cảm, nên bạn bè mới nhận ra, tức thì tôi hình dung tên nầy dáng nho nhỏ mà phá phách cũng có hạng… Bạn Mạc Phi Hoàng, học trên tôi một lớp, đi cảnh sát sau tôi 5 khóa tại Học Viện CSQG, nhờ có bằng cữ nhân chính trị kinh doanh, nên được mang cấp bậc Quận Trưởng CS (Thiếu Tá CS). Năm 74, tôi thuyên chuyển về Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Khu I, gặp bạn Hoàng đương là chánh văn phòng của Đại Tá Chỉ Huy Trưởng, xem Sự Vụ Lệnh, hỏi tôi: Đại Úy Nam muốn đi làm nơi nào, để trình Đại Tá quyết định. Phải như anh em cùng trường biết trước thì hay biết mấy, cơ hội nhờ nhau đúng lúc quá mà! Bạn Nguyễn Một cùng học TQC với tôi (61-64) mà khi ở tù, cùng phòng giam thời gian khá lâu, cũng không nhận ra anh em đồng môn TQC. Trường hợp nầy là cái may, tránh được liên lụy có kẻ theo dõi báo cáo lập công: kết bè, kết bạn với nhau không lo học tập, tư tưởng giao động, gây hoang mang bất lợi cho việc cải tạo…
Trước năm 1975, anh chị em xuất thân TQC, mỗi người mỗi nơi, làm việc đủ ngành nghề, khắp bốn vùng chiến thuật. Biến cố 75 xãy ra, trên đất khách quê người, mới tìm nhau trở lại. Nơi nào có người Việt ở là có Hội Ái Hữu Cựu HS/TQC/HA, riêng Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh TQC/HA tại miền Nam California có thể nói đông nhất. Năm nào cũng tổ chức hội ngộ để cùng nhau thăm Thầy, nhớ Bạn, ôn lại những chuỗi ngày còn cùng chung một mái trường, biết bao kỷ niệm thời thơ ấu, cắp sách đến trường. Riêng ba kỳ Đại Hôi năm 2001, 2010 và 2012, anh chị em cựu học sinh TQC khắp mọi nơi, về miền Nam nắng ấm California dự Đại Hội đông đảo nhất. Trong lần ĐH năm 2010, anh Dư Mỹ (Boston) phát biểu, mong muốn Hội Cựu HS/TQC/HA/Nam Cali, thường xuyên tổ chức ĐH như thế nầy, để chúng tôi có nơi mà về, được sum họp Đại Gia Đình Trần Quí Cáp Hội An. Anh Nguyễn Đình Hà (Hà Kỳ Lam) lớp đàn anh, ở xa xuôi (New Jersey) mà luôn luôn có mặt trong các kỳ ĐH, anh Phan Lý Phương (Úc châu), chị Nguyễn Thị Nhiều (Canada) cũng không bỏ lở cơ hội hiếm có đông đủ như thế nầy. Còn các bạn: Vũ Đức Phụng, Vương Mộng Long, Trương Thọ, Nguyễn Văn Bán, Hồ Bảy (Huỳnh Hoa), Nguyễn Hữu Trân (NQA), Đoàn Dục, Nguyễn Quang Liêm, Thiều Văn Thái, Hồ Phú Bông… lâu nay chưa thấy hiện diện, tôi cũng như các bạn đồng môn trông mong gặp lắm đấy. Từ lâu, Hội cựu học sinh Trần Quí Cáp tại miền Nam California là Hội Ái Hữu Bất Vụ Lợi, chủ trương không đưa chính trị vào Hội, mà cũng không ngăn cản ai tham gia chính trị. Anh chị em tham gia với tinh thần đoàn kết, yêu thương và thân thiện với nhau, như một Đại Gia Đình. Với tinh thần đó, nhiều khi anh chị em bất đồng ý kiến về việc nầy, việc nọ, thì đưa phiên họp để thảo luận, chung cuộc biểu quyết, để lấy quyết định đa số mà lo việc chung. Vì thế Hội chúng ta vẫn mãi sinh hoạt thường xuyên đều đặn, vì chúng ta bất đồng chứ không bất hòa, không bao giờ chia rẻ để làm phiền lòng Thầy Cô và các Bạn Đồng Môn. Hiện nay Hội đã và đang vận động, kêu gọi lớp Hậu Duệ TQC/HA tham gia sinh hoạt, để dần dà thay thế lớp đàn anh, có như thế mới duy trì TQC hải ngoại và hơn nữa lớp trẻ nhiều tài năng, nhiều sáng kiến mới, tô điểm cho ngôi nhà chúng ta thêm tươi mát, vui vẻ, lành mạnh mãi mãi…
Đi tìm niềm vui trong kỷ niệm, là để sống lại một thời hồn nhiên, vui vẻ, không bận tâm đến cuộc sống bên ngoài xã hội, chỉ có việc chăm lo học hành, mong sao thi đỗ để đáp đền công ơn Thầy Cô dạy dỗ và Cha Mẹ tần tảo nuôi dưỡng, đủ cơm no áo ấm mà đến trường. Hể ở đâu có sinh hoạt TQC, tức thì tôi tìm đến, tìm lại hình ảnh dễ thương ngày xưa, được dịp gặp gỡ rồi trở thành thân quen, chứ trước đây khi còn trong nước, mạnh ai lo việc nấy, nhiều anh chị em cùng học một lớp, mà lâu lắm chưa hề ghé thăm nhau. Còn các bạn ở lại quê nhà, mỗi lần có dịp về quê, tôi không quên tập họp một số bạn ở Sài Gòn hay Đà Nẵng mà trước đây học cùng thời từ 57 - 64, và trước hoặc sau một năm, nếu thuận tiện cũng mời luôn. Nhìn chung, các bạn bây giờ phần đông đều khá, nhà cửa đàng hoàng, nhiều bạn có nhà lầu 2 hay 3 tầng, con cái đều thành đạt… Năm rồi (4/2013) trong chuyến về quê, tôi có đến thăm bạn Nguyễn Thị Liểu, nay lâm bệnh nặng nằm một chỗ, không động đậy nhúc nhích chi cả, thấy mà thương tâm. Tôi cũng trao tận tay cho con gái của bạn Liểu 200 dollars do các anh chị gởi tặng (Huỳnh Ngọc Anh, Trần Diệu Minh, Trần Diệu Hồng, Đặng Phúc Nguyên, Nguyễn Hương và Đoàn Ngọc Nam). Tôi vào Hội An, có ghé thăm bạn Ngô Rân ở gần chợ, thấy bạn ta da thịt hồng hào, mập mạp, nhưng đi đứng không được bình thường, nằm ngồi một chỗ, nên có biếu cho NR 1 triệu DVN để uống cà phê cho vui. Luôn tiện, tạt qua thăm cô bạn Phan Thị Kim Chi, thấy cô ta một mình trông coi phòng tranh ảnh bận rộn lắm, khách phần đông mấy ông bà Tây ba-lô. Cô bạn nói tiếng Pháp lưu loát, dễ nghe, không như những năm học cùng lớp, tại Trường TQC xa xưa… Lần nầy về đã mất đi 2 người bạn cùng lớp: Nguyễn Tuấn và Lê Ngọc Thành, không đến dự họp mặt nhóm bạn cũ TQC cùng lớp năm xưa. Tại nhà hàng Hoàng Sa Đà nẵng có các bạn: Nguyễn Tấn Hân, Đỗ Duy Minh, Đoàn Ngọc Tảo, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Văn Thụy, Phạm Thiện, Phạm Thành, Trần Tám, Đặng Xuân Thu, Phan Minh Nhạn và Đỗ Đến dẫn theo cô bạn đồng nghiệp Mạc T.H. Cô nầy lớp đàn em, trước 75 đã đi dạy học và được tiếp tục, cho đến bây giờ mới vừa về hưu. Trong bửa cơm thân mật, sau nhiều năm xa cách, các bạn kể lại cho nhau nghe những điều buồn vui trong cuộc sống sau biến cố 75. Cô bạn của Đỗ Đến đề nghị mọi người rót đầy ly, một trăm phần trăm, chúc toàn thể khỏe mạnh, vui vẻ để còn có lần hội ngộ lần tới, đầy đủ anh chị em như thế nầy… Thân gái lạc rừng gươm mà không thấy e lệ, thẹn thùng, như những nữ sinh hay cô giáo ngày xưa. Bạn trai tới đâu cô giáo cũng tới đó và có khi hơn trội mấy anh bây giờ, hở ra là từ chối, viện dẫn lý do: bị bệnh tiểu đường, áp huyết cao, cholesterol có vấn đề…Để thêm phần hào hứng, cô giáo đứng lên xin đố các bậc đàn anh như thế nầy: Bọn ăn cướp ngoài biển, người ta gọi là gì? Phan Minh Nhạn xôn xáo trả lời: thì gọi là hải tặc chứ trật đi chỗ nào! Còn như vào rừng đốn gỗ trộm, kiếm tiền nhậu chơi thì gọi là gì? Dễ ợt, Phạm Thiện phân tách: rừng có nghĩa là lâm, lâm tặc đúng chưa cô giáo? Thêm câu nữa: bọn chuyên môn chạy xe Honda, đèo theo đứa phía sau, quăng tróng bắt chó chạy rong ngoài đường nhanh như chớp, đem đi bán cho các quán nhậu, gọi là gì? Bạn Đặng Xuân Thu, uống cạn ly bia mới cất giọng chậm rải nói: chó, các cụ còn gọi là khuyển hay cẩu, thì gọi là khuyển tặc hay cẩu tặc, chứ còn gì khác nữa mà đố? Đúng rồi, nhưng theo tôi (cô H.) bọn nầy phải gọi là bọn cẩu tặc, mới đúng ý đồ của bọn chúng! Đến đây cô giáo H, đố câu tiếp theo, các ông anh nghe kỹ đây: Có một kẻ ngang nhiên, không hề sợ sệt, lội vào vườn cau của người ta, trèo lên cây cau bẻ buồng thỏa mái, rồi ra về. Người nầy gọi là gì mới chính xác? Cả đám bạn đương còn phân vân, kẻ nầy đặc biệt thật, gọi là gì nhỉ! Đoàn Ngọc Tảo, mạnh miệng nói liền: Thì cũng xếp loại tặc cho yên chuyện! Cau tặc! cau tặc! cau tặc! Quá đúng, cô giáo cùng các bạn, mỗi người thưởng cho ĐNT một ly bia đầy ắp… Như thế, người xưa nói không sai: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Còn các Bạn TQC của tôi nghĩ như thế nào? Thấy có ngộ không? Bây giờ là như thế đó! Mọi sự việc đều khác xưa rất nhiều.-
ĐOÀN NGỌC NAM
*********************************************
Thầy Hiệu Trưởng
TQC/HA Trước 1975 Trường trung học Trần Quí Cáp một thời Hằng ngày đến lớp chăm lo học hành Học sinh phần đông xuất thân thành danh Truyền thống kính thầy mến bạn học siêng Sáng thứ hai mỗi lớp sắp hàng riêng Đầu tuần chào cờ hát vang Quốc Ca Thầy Hiệu Trưởng Tăng Dục của chúng ta Oai phong dõng dạc tiến ra sân trường Huấn từ dễ hiểu ngắn gọn nêu gương Học sinh kính phục học đường sơn keo Thầy Hoàng Trung Ông Hiệu Trưởng tiếp theo Thời gian tại chức dặm dài đường xa Nhu cầu Sài Gòn trong Bộ gọi ra Để lại cho Trường công lao thật nhiều Thầy Lưu Chí Kiên dạy toán kính yêu Lên thay Hiệu Trưởng điều hành trường xưa **************************************** Kỷ Niệm Mùa Thi 1964 Học trò trong Quảng ra thi, Từ Đàm chùa vắng chỗ ni trú ngày. Thoáng nghe giọng Quảng lánh ngay, Cây đa còn đó chổi bay theo nàng. Đúng rồi đàn chị y chang, Nói năng hoạt bát oanh vàng kỷ cương. Dĩa Bay trần thuyết sân trường, Đồng môn thán phục khu vườn nhất Hoa. Chuyện đời ai ngỡ xãy ra, Buồn lòng từ giã lánh xa phàm trần. Từ đây giũ sạch oán ân, Kinh kệ thông suốt hiến dâng cúng dường. Sư Bà độ lượng tình thương, Chân tu chính quả noi gương Phật Bà. ĐNN |
Trách nhiệm nhận lãnh nặng nề sớm trưa
Theo đà tiền nhiệm tiến xa không ngừng Thế rồi cấp trên điều động nửa chừng Bàn giao chức vụ cho lớp đàn em Thời đó đệ nhị cấp được mở thêm Anh chị oai quá đệ tam dẫn đầu Đệ nhất chưa có đáp ứng nhu cầu Phải ra Quốc Học lấy xong Tú Tài Hiệu Trưởng đề cử xứng đáng là ai Anh Trần Huỳnh Mính đăng cai cuối cùng Miền nam sụp đổ số phận chịu chung Bắt đi cải tạo lâu năm mới về Tội gì ngành giáo hạch hỏi tự phê Chính sách bần cùng lắm trò bày ra Dụ đi kinh tế mới sớm được tha Tuyên truyền láo khoét ai mà thèm nghe Quê Người hội ngộ tổ chức nắng hè Thành phần nòng cốt có Anh sẵn sàng Cựu Học Sinh Trần Quí Cáp Hội An Tinh thần đoàn kết mến thương đồng lòng KN/HN/2014/CALIFORNIA ĐNN ********************************** |
Bánh Ít Lá Gai
Tên gọi khác thường bánh ít gai Ngợi khen khởi thủy khéo tay ai Tròn viên lớn nhỏ do người nặn Hấp chín thơm lừng bánh dẻo dai Lớp bọc bên ngoài đen láng mướt Bên trong nhân đậu ngọt bùi nhai Quê hương đặc sản đi xa nhớ Mãi mãi ghi lòng chẳng nhạt phai Mai Vàng Hoa tàn hạt chín giống mai vàng Hạ đến xuân qua nắng nóng rang Rớt xuống chôn vùi mầm nẫy mọc Lớn dần ngóng đợi đón xuân sang |
Bắt Bướm
Dò xem bướm đậu chỗ nào lâu Cố bắt đưa tay giữ bướm mầu Ép xác lồng vào trang nhật ký Mỹ miều kỷ niệm ẩn tiềm sâu Phượng Tím Quê người phượng tím nở vào hè Tím ngắt trời xanh rợp bóng che Nhớ quá quê mình mùa phượng vỹ Phố phường ngõ hẽm tiếng ve ve Thèm Một cặp cheo ry chín đỏ hồng Tựa môi em thắm nhớ thèm trông Mùa đông gió rét xa nhau lạnh Nắng hạ trải giường ngủ chiếu bông |
Chờ Bướm
Hoa chờ bướm lất phất mưa ngâu Ngóng đợi thời gian quả thật lâu Có biết rằng đây trông mõi mắt Trách ai tới chậm nhớ nhung sầu Hoa Lạ Kìa trông giống tựa đóa hoa sen Chẳng biết tên gì dám bảo quen Thiền Viện hương hoa Đà Lạt nhớ Trúc Lâm khách lạ ngợi thầm khen |
Chuyện Tình
(Thắp nén hương lòng cho người bạn quá cố “HĐT” & thân tặng cô giáo Tộc Trần) Vì anh trắng trẻo thương thầm thích. Giáp mặt thường hay nhích môi cười. Đã yêu chín bỏ làm mười, Kinh phong biết rõ trong người vẫn mong. Nhỏ Hạnh bến đục trong chờ mãi. Khéo giã đò qua ải làm ngơ. Em còn nhỏ dại tiểu thơ, Thân anh lận đận giấc mơ đường dài. Khóa sư phạm miệt mài thi cử. Đất Qui Nhơn gặp nữ giáo sinh. Ra trường trở lại quê mình, Hẹn nhau ngày tốt diện trình mẹ cha. Bất thình lình chàng ta ngã bệnh. Nghe lời khuyên vâng lệnh từ nang. Được tin nàng đã sang ngang, Anh về cưới vợ hai đàng phận yên. Thế mới biết có duyên không số. Chuyện chúng mình ráng cố chẳng thành. Thôi thì cũng chung một ngành, Giữ tình đồng nghiệp riêng dành cho nhau. ĐNN |
11. Mì Quảng
Quê tôi đặc sản món chi sang Mộc mạc ăn ngon khắp cả làng Lúa gạo làm ra xay tráng bánh Lá mì chấn sợi khéo tay nàng Nhưn dùng tôm tép gà heo đủ Sền sệt chan vào rắt đậu rang Bánh tráng hành phi rau các loại Ớt cay đã miệng bụng còn màn Chờ Ai Kia Vườn Nội giống rau lá đẹp xinh Tía tô sắc tím đón bình minh Anh về ghé lại thăm quê cũ Nhắc lại ai kia chuyện chúng mình Dượt thảo thân em đời giúp ích An thai cầm máu chữa linh tinh Thương tình chút phận ngày xưa ấy Phận mọn chờ trông giữ bóng hình Chuồn Chuồn Chuồn chuồn lượn bao quanh vồng cải. Thiếu nữ dang tay sải vói dài. Liếc sang bên cạnh trổ tài, Rằng đây dám bắt đố ai cá nào? Chuồn chuồn ớt trông vào cho rõ. Em “còn không” nho nhỏ dễ thương. Anh về sao khỏi vấn vương. Hỏi lại đàn ấy lập trường vững chưa? ************** Kiếp Ve Sầu
(Viết theo ký ức 46 năm về trước) tiếng ve rỉ rả vang khắp chốn mời gọi ai kia trốn nơi đâu cánh dài mõng dính màu nâu âm thanh gợi cảm nhịp cầu phòng the nàng nhịp cánh để nghe ngóng tiếng nhận được tin đến viếng thăm nhau ************** Hạt Sương Rơi Kìa trông nhỏ giọt hạt sương rơi Lóng lánh pha lê ánh sáng ngời Ngắn ngủi thân em đời tạm bợ Nắng lên xóa sạch vụn mảnh đời Sương Lạnh Sương khuya ướt lạnh tấm thân ngà Một kiếp hồng nhan trắc trở qua Hối hận ra đi đành lỡ bước Muốn mong trở lại chốn quê nhà Khất Hẹn Về khuya Đà Lạt lắm sương rơi Em đến thăm anh rủ dạo chơi Bận rộn quân trường cơ hội mất Xin đành khất hẹn chuyến sau mời Để Lỡ Anh hẹn sẽ thăm sáng thứ năm Gái quê mộc mạc tuổi mười lăm Ham chơi phớt tĩnh người ta đến Để lỡ duyên đầu lạnh ngắt căm *********** Gạ Tình Con đường tình ta đi Sáng tinh sương mùa thu Gió mát thổi vi vu Sánh đôi cùng rảo bước Ngước mắt nhìn phía trước Tình đẹp như trong mơ Con nhện đương giăng tơ Bủa lưới tạo đường ren Gương mặt em bẽn lẽn Đời em thuộc về ai Anh lặng thinh không nói Kìa xem cặp cu ngói Âu yếm tỉa lông nhau Mặc thời gian qua mau Nào Ngờ
em cô giáo làng quê đi dạy đón xe đò tan trường trời tối mò khách vắng đợi chờ lâu trong lòng thấy lo âu trại mát xe chưa tới cho em quá giang với quen nhau trên đường đi đâu có mất mác chi cùng đường đưa em về ngát hương mái tóc thề cám ơn anh thật nhiều |
**************
giọng chàng mùi mẫn đắm say cung đàn hòa điệu tỏ bày lòng yêu cuộc tình chớm nở phiêu lưu ngắn dứt phối giao gọi nhắn bạn tình thân cây đẻ trứng con mình nở ra chui đất khai sinh ấu trùng sống lâu mặc bão bùng mưa gió nắng ấm mùa hè mó trườn lên gốc cây bám chặt đeo trên thoát thân lột vỏ để quên tháng ngày hết kiếp rúc chui cày trong đất đã đến ngày cánh cất bay cao cuộc đời ngắn ngủi thế sao biến hóa nhận được chẳng bao nhiêu tình ve kêu thúc giục bình minh ló trưa đứng bóng ai đó bắt ve mủ mít quấn đầu que tre sè sẹ chấm được khỏe re quá mừng vui tuổi thơ tưởng chừng như thế cảnh đồng quê nắng xế chiều tà ve sầu rình bắt sa đà chân quê mộc mạc làm quà cho nhau ************** ********************
Mối tình đẹp xứng đôi
Chúng mình lại ghế ngồi Anh kể cho em nghe Ngày xưa hay chống ghe Quê mình mùa nước lụt Dế tấp hàng dâm bụt Bắt bỏ vào miểng bầu Vứt ruột bỏ chảo dầu Um dòn tan thơm lừng Mọi người ngóng tin mừng Bao giờ rước cô dâu Thẹn thùng mặt đỏ âu Em níu áo vai anh Chỉ con chim manh manh Bắt được nhận làm chồng đà lạt phố về chiều
sương mù phủ màn đêm người qua lại như nêm sinh hoạt như mọi ngày anh vắng bóng xưa rày chủ nhật đi dạo chơi thê nhi ngồi nghỉ ngơi sững sờ em liếc nhìn hình bóng đậm nét in ngạc nhiên em thất vọng nhẩm tính bài toán cọng nào ngờ đáp số sai |
*************************************************************************************************************
10. Kiếp Ong
(Kính tặng Thầy Nguyễn Sum,
GS dạy Vận Vật lớp Đệ Lục NK/58-59)
Vườn xuân ong chúa trao duyên phận.
Bươm bướn cành hoa cận chúng mình.
Biết đâu có kẻ đang rình,
Ghi vào ống kính đẹp xinh cho đời.
Nghĩa vụ đó tuyệt vời lắm nhĩ!
Duy trì nòi giống nghĩ cũng hay.
Lẽ tự nhiên có ai bày,
Giòng họ sinh sản càng ngày thêm đông.
“Ong Bướm” vờn nhau trông tình quá!
Lủng lẳng mình treo má xa cằm.
kìa trông thấy lạ hỏi thăm,
Đực bay nhiêu dặm ăn nằm tiểu thơ?
Trời cao ngó xuống mơ trong gió.
Ai dè tuổi trẻ có là bao!
Xong việc ngấu nghiến nuốt vào,
Nuôi bầu trùng ấu cồn cào đói meo.
Chuyện tình Ong sơn keo như thế!
Ong chúa về tổ kế đó sinh.
Ong thợ khắp chốn lưu linh,
Nhụy hoa hút mật hiển vinh không màn.
Dư thừa dự trử quàng để đó.
Ong non sinh ra mó mà ăn.
Tách bầy cũng thế mà thăng,
Bay cao giỏi nhất sức hăng lìa trần
(Kính tặng Thầy Nguyễn Sum,
GS dạy Vận Vật lớp Đệ Lục NK/58-59)
Vườn xuân ong chúa trao duyên phận.
Bươm bướn cành hoa cận chúng mình.
Biết đâu có kẻ đang rình,
Ghi vào ống kính đẹp xinh cho đời.
Nghĩa vụ đó tuyệt vời lắm nhĩ!
Duy trì nòi giống nghĩ cũng hay.
Lẽ tự nhiên có ai bày,
Giòng họ sinh sản càng ngày thêm đông.
“Ong Bướm” vờn nhau trông tình quá!
Lủng lẳng mình treo má xa cằm.
kìa trông thấy lạ hỏi thăm,
Đực bay nhiêu dặm ăn nằm tiểu thơ?
Trời cao ngó xuống mơ trong gió.
Ai dè tuổi trẻ có là bao!
Xong việc ngấu nghiến nuốt vào,
Nuôi bầu trùng ấu cồn cào đói meo.
Chuyện tình Ong sơn keo như thế!
Ong chúa về tổ kế đó sinh.
Ong thợ khắp chốn lưu linh,
Nhụy hoa hút mật hiển vinh không màn.
Dư thừa dự trử quàng để đó.
Ong non sinh ra mó mà ăn.
Tách bầy cũng thế mà thăng,
Bay cao giỏi nhất sức hăng lìa trần
Người Tình nhỏ
Người tình nho nhỏ của tôi ơi Cô nghĩ về ai đếm lá rơi Có biết rằng đây tôi để ý Yêu cô tóc chấm vai không rời Khi Yêu Yêu nhau mới biết đắng cay rồi Cách trở đò ngang cũng vượt thôi Ước hẹn ngày mai trời sáng tỏ Đến thăm viếng cảnh chỗ cô ngồi Tình Học Sinh Tình học sinh mơ mộng vấn vương Áo ai trắng tinh nhớ mà thương Tan trường rảo bước cùng chung lối Ngắn ngủi chia tay hẹn mai tới trường |
Cô Láng Giềng
Nầy nàng láng giềng của tôi ơi Người có còn không đếm lá rơi Nóng quá trời cao xanh nước biển Hong khô áo mỏng khéo treo phơi Nhớ cô thầm tưởng qua màu áo Nhìn lắng sang rào múa nhãy chơi Đâu phải dễ dàng sang viếng hỏi Chuyện tình câm nín chỉ khơi khơi Buồn Viễn Xứ Mùa đông tuyết giá cứ buông rơi Xứ lạ không quen chịu lạnh trời Đất khách quê người buồn da diết Cố hương cách biệt bặt tin hơi Giường êm hiền thê nằm thao thức Tựa ghế phu quân ngẩm thế thời Mãi ước quê mình thay đổi mới Trở về nắng ấm dạo rong chơi |
Đánh Cá Sông Hàn
Sông Hàn đánh cá dựa bờ sông Sóng lớn ngư ông dạ phập phồng Gió mạnh mưa to thuyền cập bến Vãi chài bủa lưới chỗ lòng nông Nghèo nàn thân phận đâu sờn chí Đạm bạc qua ngày ngóng trả công Nối nghiệp cha ông truyền giữ lại Nước sông gạo chợ vững lòng ông Lai Viễn Kiều Chùa Cầu cổ kính Quảng Nam tôi Biểu tượng quê hương đệ nhứt ngôi Khởi sự hoàn thành lưu dấu tích Khỉ ngồi đối diện chó song đôi Rầm cầu qua lại mòn năm tháng Cát bụi rong rêu phủ vách vôi Nhớ quá mong về thăm phố cổ Một lần thỏa nguyện ước mong thôi Kiêu Hãnh Thiếu nữ còn không áo gấm bông Hởi người quân tử sẵn sàng không Thân em lá ngọc cành vàng đó Mảnh khảnh ra vào điểm má hồng Nhắn hỏi trai tài lòng đoái tưởng Rằng đây chút phận có hơi ngông Phòng không quạnh quẽ chờ mong đợi Lượng sức cùng ta chung rượu nồng |
****************************************************************************************************
9. Cao Lầu
Cao lầu đặc sản Quảng Nam thương Phố Hội quà rong bán khắp đường Nước lóng tro Chàm từ giếng Lễ* Bột nhồi hấp cán ủ hong sương Mì vàng cưng cứng dòn dai dẻo Thịt mỡ heo đùi xíu đỏ hường Thực khách sành ăn kèm cải cúc Ớt xanh khoái khẩu nhớ quê hương |
*Dùng nước giếng Bá Lễ, ngâm tro lấy từ Cù Lao Chàm, lóng nước trong nhồi bột làm Cao Lầu Hội An - Chính Gốc.
|
Cải Tàu Bay
“Gió đưa cây cải về trời, Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.” Đói lòng ăn cải tàu bay, Ngon dở chưa biết nhanh tay nhặc dành. Rau hoang mọc ở đầu gành, Trời mưa một trận tươi xanh mượt mà. Thân tù ngàn dặm đường xa, Nấu canh mườn tượng tưởng là tần ô. Bụng xẹp xơi sạch hết tô, Chớ ham ngã bệnh xực vô ngặt nghèo. Mỏi chân sức đâu trèo đèo, Rừng sâu nước độc ngoằn ngoèo khó qua. Trông chờ mong được xét tha, Trở về gầy xác mặt ma bủng chì. Vì đâu lâm cảnh như ri, Ngày về lạ hoắc đường đi quáng gà. Sướng vui cút bộ về nhà, Mừng ngày đoàn tụ mặn mà tình thương. ĐNN Tình Quê nắng mai chiếu xuyên qua khung cửa nàng ơi nằm ráng nữa làm chi mau lên thức dậy ra đi ngoài đồng đông đủ chờ dì trả công ruộng người đang chờ trông mạ cấy xong mùa nầy ai nấy đều vui gặp mặt hằng ngày tới lui cơ hội hiếm có chớ lùi tiến lên một mai ra tỉnh hên gặp vận đừng đổi thay hờn giận người xưa ông trời đôi lúc nắng mưa tấm lòng giềng xóm vẫn chưa nhạt mờ phố phường nhộn nhịp ngờ nghi lắm có trăng quên đèn mắm cà quê thân em mộc mạc nỡ chê đói lòng cơm nguội cơn mê dỗ dành lai lịch rõ ngọn ngành phúc đức nhà gia giáo đạt mức đỉnh cao nội ngoại trông đợi mong sao buồng cau sây trái chen vào trầu xanh ngày đưa rước nhà anh vui quá tình ruộng nương lúm má dễ thương cây nhà chín ngọt lá vườn cánh đồng màu mỡ dễ nhường cho ai ĐNN |
Mưa Xuân
Ban mai nắng rọi qua thềm, Sương mai mờ ảo bóng em ngoài vườn. Bông vàng vạc cải ngọn vươn. Bướm đàn bay liện dễ thương chừng nào. Nhà nàng nằm cạnh bờ ao, Mưa xuân mấy ướt ai vào trú thân. Láng giềng hàng xóm cận lân, Lâu nay thấy bóng lại gần thì chưa. Tiết xuân trời đã chớm mưa, Hạt bay lất phất canh trưa ửng hồng. Kìa xem về phía hướng đông, Trời quang đóng mống em trông đợi chờ. Người ơi sao nỡ hững hờ, Âm thầm nín lặng còn ngờ nữa chi. Thiền quyên thân phận nữ nhi, Một thời hoa mộng quá thì tiếc thay. Cơ duyên thuận lợi dịp may, Chần chờ chi nữa ngoắc tay rước chàng. ĐNN Lỗi Vì Tôi
Đêm nằm thao thức mộng chưa nguôi Sân cỏ ngoài kia tuyết trắng rơi Ngọn nến bên nhà không đủ sáng Đèn đường tối mịt điện không hơi Nệm êm bà cháu ru nhau ngủ Bên cạnh giường ông thủ thỉ ngồi Nhìn tuyết rơi mà buồn thế sự Tủi thân mình hận lỗi vì tôi |
8. Về Quê
đường làng qua lối nhỏ khấp khểnh dấu chân trâu em nhẹ bước lo âu sợ vấp ngã dơ áo cảnh quê đẹp biết bao thửa ruộng xanh màu biếc em ngoảnh mặt ngó liếc mái nhà tranh hiện ra trẻ mục đồng hát ca ai bảo chăn trâu khổ nhớ đến ngày đám giỗ con cháu về đông đủ |
Ông kể chuyện xưa cũ quê mình nước trong ngọt tre ngâm không có mọt làm nhà được dài lâu muốn ăn cá đi câu tát đìa bắt đủ loại cá lớn đem biếu Ngoại bát canh ngọt mát lòng dạo quanh xóm một vòng bà con vui mừng rỡ em không còn bở ngỡ hứa sang năm sẽ về ĐNN |
Chia Xa
Ngàn hoa phượng nở khắp cung đường Rực rỡ bên hè bởi sắc hương Giọng cuốc đong đầy bao khắc khoải Sầu kêu chan chứa não nề vương Buồn man mác đợi ngày ra lớp Nhớ mõi mòn trông bữa tựu trường Có đứa nao lòng rơi ngấn lệ Người đi đã khuất chỉ còn thương Vu Van Minh 03.04.2014 |
Tạm Biệt
Hè về phượng đỏ khắp ven đường Báo hiệu mùa thi chốn cố hương Cuốc kêu bi ai đầy thảm não Nổi buồn nước mất lệ sầu vương Chia tay từ giã chung toàn lớp Hẹn lại năm sau nhớ tựu trường Bịn rịn làm sao giờ đã đến Xa rồi khuất mặt mãi còn thương ĐNN |
Trở Lại Trường Xưa
(Ngũ độ thanh) Mùa hoa phượng đỏ báo sang hè Trở lại sân trường não tiếng ve Bục giảng nằm im hờn nét chữ Vần thơ đứng lặng tủi câu vè Ùa theo kỷ niệm ngày xưa rõ Sống dậy từng trang buổi cũ nhoè Chỉ uớc thời gian về ngõ dại Cùng chung đám bạn giỡn bên hè Vu Van Minh. 04.04.2014 |
Họa
Kỷ Niệm Xưa Màu hoa thắm đỏ nhắc mùa hè Ghé lại trường xưa vọng tiếng ve Bảng phấn chờ mong ai vẽ chữ Xướng thơ đáp họa đúng vần vè Vui mừng bè bạn ngày chung học Để lại nơi đây nét chữ nhòe Thiển nghĩ quây về thời nhỏ dại Kết đoàn xướng hát buổi trưa hè ĐNN |
Bông Cỏ May
Ôi sướng quá ngày chưa nhập ngũ.
Có dịp vui khuyên rủ em về.
Thăm quê cho biết con đê,
Đồng hoang bông cỏ tràn hê khắp vùng.
Bên em tóc mây cùng mùi cỏ.
Chuyện tình chúng mình tỏ cho nhau.
Giây phút thần tiên qua mau,
Tà áo em bay sáng màu kim găm
Đưa tay gở tính năm cùng tháng.
Chúng mình khoan hãy ráng mai sau.
Đợi ngày sính lễ trầu cau,
Nên duyên chồng vợ trồng rau làm quà.
Lâu năm tháng lên phà trở lại.
Nhớ quê hương không ngại đường xa.
Bỗng dưng hồi tưởng nhớ ra,
Cỏ may nhắc lại nay đà sáu con.
Ra đường thiếp vẫn non lòng dạ.
Về nhà quán xuyến mạ mùa gieo.
Được mùa sung sướng ăn theo,
Ấm no hạnh phúc sơn keo vững bền.
ĐNN
7. Nước Chè Xanh
Chè tươi một gáo thỏa lòng nhanh
Giải khát trưa hè nắng nóng quanh
Ấm bụng mùa đông cơn gió rét
Ngẩm suy thế sự thức thâu canh
Nông dân cày ruộng cầm hơi nhấp
Trí thức lao tâm sáng tinh anh
Bạn hữu tâm giao chung ý đắc
Bệnh ngừa mỡ giảm nước chè xanh
ĐNN
Nắng Hạ
Tháng nắng hè về nóng nóng ghê
Ban trưa giấc ngủ chập chờn mê
Bầy gà sải cánh nằm thoi thóp
Chó mực thè lè bọt nhỏ rê
Rỉ rả ve kêu buồn thảm nảo
Tàng cây núp bóng trẻ ngao nghê
Đu đưa võng mắc bên thềm dậu
Kẽo kẹt nhà ai vọng giọng quê
ĐNN
Chè tươi một gáo thỏa lòng nhanh
Giải khát trưa hè nắng nóng quanh
Ấm bụng mùa đông cơn gió rét
Ngẩm suy thế sự thức thâu canh
Nông dân cày ruộng cầm hơi nhấp
Trí thức lao tâm sáng tinh anh
Bạn hữu tâm giao chung ý đắc
Bệnh ngừa mỡ giảm nước chè xanh
ĐNN
Nắng Hạ
Tháng nắng hè về nóng nóng ghê
Ban trưa giấc ngủ chập chờn mê
Bầy gà sải cánh nằm thoi thóp
Chó mực thè lè bọt nhỏ rê
Rỉ rả ve kêu buồn thảm nảo
Tàng cây núp bóng trẻ ngao nghê
Đu đưa võng mắc bên thềm dậu
Kẽo kẹt nhà ai vọng giọng quê
ĐNN
Trinh-Nữ
E-ấp Chi Mà Khép Hỡ Em ,
Cho Đôi Bờ Mộng Rũ Mi Rèm?
Tiếng Ong Giũ Áo Đi Còn Tiếc.
Dáng Bướm Rời Chân Bước Vẫn Thèm.
Gió Nội Lưu Mùi Hương Mãi Thắm.
Hương Đồng In Dấu ấn Chưa Lem.
Biết Bao Lượt Đẩm Sương Hanh Nắng.
Trinh-Nữ Nguyên Còn Với Khách Xem.
LHN
HỌA
Mắc cở
Mắc cở làm chi rứa hởi em
Chớm sờ tay đụng đã buông rèm
Ong qua gió thoảng lòng e ấp
Bướm lượn vờn chơi đã thấy thèm
Lộng gió trơ gan cùng tuế nguyệt
Đồng quê sỏi cát tấm thân lem
Phơi sương tắm nắng mình trơ trọi
Bão táp phong ba bao khách xem
ĐNN
HỌA
Lấy Chồng Xa Xứ
Nhà nghèo phải bán tấm thân em.
Xứ lạ, chồng xa lệ ướt rèm.
Tết đến mai vàng mơ khó thấy.
Xuân sang bánh tét nhắc càng thèm.
Ơn sanh chẳng tiếc thời hoa mộng.
Nghĩa dưỡng đâu màng kiếp lọ lem.
Nhớ nước, thương nhà lòng thổn thức.
Vài dòng nhắn gởi Mẹ, Ba xem.
NCV/TQC
HỌA
Lấy Chồng Xứ Lạ
Nhà nghèo ra nổi cái thân em
Chồng lạ quê người phủ kín rèm
Tết đến chẳng mai cùng pháo nổ
Xuân về heo mỡ nhắc chi thèm
Ơn cha báo đáp chưa tròn đạo
Nghĩa mẹ sinh thành tủi phận lem
Quê lạ xứ người lòng thổn thức
Cô đơn buồn bã ngóng chờ xem
ĐNN/TQC
E-ấp Chi Mà Khép Hỡ Em ,
Cho Đôi Bờ Mộng Rũ Mi Rèm?
Tiếng Ong Giũ Áo Đi Còn Tiếc.
Dáng Bướm Rời Chân Bước Vẫn Thèm.
Gió Nội Lưu Mùi Hương Mãi Thắm.
Hương Đồng In Dấu ấn Chưa Lem.
Biết Bao Lượt Đẩm Sương Hanh Nắng.
Trinh-Nữ Nguyên Còn Với Khách Xem.
LHN
HỌA
Mắc cở
Mắc cở làm chi rứa hởi em
Chớm sờ tay đụng đã buông rèm
Ong qua gió thoảng lòng e ấp
Bướm lượn vờn chơi đã thấy thèm
Lộng gió trơ gan cùng tuế nguyệt
Đồng quê sỏi cát tấm thân lem
Phơi sương tắm nắng mình trơ trọi
Bão táp phong ba bao khách xem
ĐNN
HỌA
Lấy Chồng Xa Xứ
Nhà nghèo phải bán tấm thân em.
Xứ lạ, chồng xa lệ ướt rèm.
Tết đến mai vàng mơ khó thấy.
Xuân sang bánh tét nhắc càng thèm.
Ơn sanh chẳng tiếc thời hoa mộng.
Nghĩa dưỡng đâu màng kiếp lọ lem.
Nhớ nước, thương nhà lòng thổn thức.
Vài dòng nhắn gởi Mẹ, Ba xem.
NCV/TQC
HỌA
Lấy Chồng Xứ Lạ
Nhà nghèo ra nổi cái thân em
Chồng lạ quê người phủ kín rèm
Tết đến chẳng mai cùng pháo nổ
Xuân về heo mỡ nhắc chi thèm
Ơn cha báo đáp chưa tròn đạo
Nghĩa mẹ sinh thành tủi phận lem
Quê lạ xứ người lòng thổn thức
Cô đơn buồn bã ngóng chờ xem
ĐNN/TQC
Chè Bà Chỉ
Nhà đèn đối diện chè bà Chỉ.
Đậu nếp hầm đường kí đen sì.
Ghế ngồi thấp chũn như ri,
Muốn ăn ngồi xuống phân bì khỏi xơi.
Ai chuộng ghé nghỉ ngơi sẽ bán.
Mở mười giờ chập choạng sạch trơn.
Ra về đâu muốn cám ơn,
Mặc nhiên ngầm bảo giả chơn biết rồi.
Khách quen chọn chỗ ngồi chờ đợi.
Chớ nhìn vào bà mới thấy ngon.
Cục ghèn mắt toét vo tròn,
Cơn ho khọt khẹt mõi mòn tấm thân.
Các “Người” chớ la rân pháo cúng.
Đợi qua thông lệ đúng một vòng.
Nói nhiều “Họ” chẳng vừa lòng,
Ăn xong cứ việc đi vòng mà ra.
Thèm chè sực nhớ ta đâu khó.
Lò heo đường gần đó tạt vào.
Chè ăn ngọt lịm môi đào,
Hội An dạo phố năm nào nhớ chăng?
Nhà đèn đối diện chè bà Chỉ.
Đậu nếp hầm đường kí đen sì.
Ghế ngồi thấp chũn như ri,
Muốn ăn ngồi xuống phân bì khỏi xơi.
Ai chuộng ghé nghỉ ngơi sẽ bán.
Mở mười giờ chập choạng sạch trơn.
Ra về đâu muốn cám ơn,
Mặc nhiên ngầm bảo giả chơn biết rồi.
Khách quen chọn chỗ ngồi chờ đợi.
Chớ nhìn vào bà mới thấy ngon.
Cục ghèn mắt toét vo tròn,
Cơn ho khọt khẹt mõi mòn tấm thân.
Các “Người” chớ la rân pháo cúng.
Đợi qua thông lệ đúng một vòng.
Nói nhiều “Họ” chẳng vừa lòng,
Ăn xong cứ việc đi vòng mà ra.
Thèm chè sực nhớ ta đâu khó.
Lò heo đường gần đó tạt vào.
Chè ăn ngọt lịm môi đào,
Hội An dạo phố năm nào nhớ chăng?
Đợi Chờ
Rộng rãi sông Hàn sóng gợn trong
Nhấp nhô thuyền đậu giữa dòng cong
Chàng đi từ thuở con còn bé
Đến lúc quay về chúng chạy rong
Kỷ niệm ngày xưa anh có nhớ
Thanh bình biển lặng ít cuồng phong
Hằng đêm ngóng mãi vô âm tín
Ước hẹn ngày về chờ đợi mong
ĐNN
Rộng rãi sông Hàn sóng gợn trong
Nhấp nhô thuyền đậu giữa dòng cong
Chàng đi từ thuở con còn bé
Đến lúc quay về chúng chạy rong
Kỷ niệm ngày xưa anh có nhớ
Thanh bình biển lặng ít cuồng phong
Hằng đêm ngóng mãi vô âm tín
Ước hẹn ngày về chờ đợi mong
ĐNN
5. CHÚC XUÂN
Bánh Bèo
Bánh bèo đời nay khác xưa nhiều
Sang trọng bày ra quá tự kiêu
Thời xưa bánh đổ trong chén đất
Xoáy sâu lõm mặt trông muốn yêu
Ăn bánh có đâu dùng đến muỗng
Bưng chén chém ngọt bằng tre siêu
Mắm nguyên dằm ớt the cay lưỡi
Chất phác nông dân sáng trưa chiều
ĐNN
Bánh bèo đời nay khác xưa nhiều
Sang trọng bày ra quá tự kiêu
Thời xưa bánh đổ trong chén đất
Xoáy sâu lõm mặt trông muốn yêu
Ăn bánh có đâu dùng đến muỗng
Bưng chén chém ngọt bằng tre siêu
Mắm nguyên dằm ớt the cay lưỡi
Chất phác nông dân sáng trưa chiều
ĐNN
TẾT QUÊ MÌNH
NHỚ BÁNH QUÊ MÌNH:
Cứ mỗi độ Xuân về, Tết đến là mốc thời gian để chúng ta đếm. Không một ai mà không có quê hương để nhớ. Nhất là hình ảnh quê cũ, người xưa, mà ở đó mọi người cùng chung một phong tục, một tập quán, một món ăn đặc sản đã thấm sâu vào tâm khảm khó quên. Thói quen làm bánh tết, hầu hết mọi nhà đều có sự chuẩn bị từ nhiều ngày trước tết. Nhà khá giã ngoài lối phô trương sự sung túc, còn tỏ ra cho thiên hạ biết tài thức một vài loại bánh quen thuộc của quê hương. Ngon dỡ còn tùy thuộc vào khẩu vị. Nhưng tôi tin chắc là ngon, nhờ ở nội tâm có tâm lý tác động sự khao khát, và tiềm tàng trong ký ức nơi quê Cha đất Tổ.
Bánh bảy lửa: quá trình hình thành khúc bánh, phải trải qua 7 lần lửa: rang, hấp, sấy… Lửa thứ nhất: gạo ngâm nước để ráo, đem rang và xay thành bột khéo tay, công dung ngôn hạnh trổ tài. Nhà nghèo khổ cũng bận rộn, lo việc làm bánh với các loại bình dân ít tốn kém, để cho con cái cũng có mà vui xuân. Xin mời quí bà con, thử thưởng
khô. Lửa thứ 2: thắn đường để trộn vào bột, in thành khúc bánh hình trụ tròn, khuôn bánh làm bằng đoạn cây trảy 7 phân chẻ đôi, khi nhận bột đầy ống, tháo hai vòng niềng để lấy khúc bánh ra. Lửa thứ 3: hấp cách thủy bánh đã in để bột nở, đường thấm đều. Lửa thứ 4: sấy bánh cho vừa khô. Lửa thứ 5: rang hạt mè chà vỏ cho thơm, sàng sãy sạch sẽ đất cát, đổ trải đều một lớp mõng trên mặt cái mâm, chuẩn bị để đó. Lửa thứ 6: thắn nước đường đến độ sa cánh dơi, dẽo quẹo, nhúng từng khúc bánh vào nước đường, rồi đem lăn tròn lên lớp mè cho thật đều bao quanh. Lửa thứ 7: giai đoạn chót, sấy lửa cho thật khô dòn, đem cất vào quả dùng đựng bánh, kín gió và khô ráo.
Ngày nay, ở Khuê Trung Quận Hòa Vang có chỗ làm bánh để bán, dán nhãn hiệu: “Bánh khô mè – Đặc sản Quảng Nam/Đà Nẵng”. Hình dáng cũng đã biến đổi thành hình vuông dẹp, mất đi hình thù đặc biệt cố hữu xưa cũ. Nhận xét khách quan khi đem so sánh 2 chiếc bánh, nó khác xa từ hình dáng cho đến phẩm chất. Khúc bánh bảy lửa ngày xưa, ngoài phần thơm ngon, dòn bên trong, dẽo bên ngoài, cho chúng ta thấy được bản chất mộc mạc, ăn chắc mặc bền của người nông dân chất phác.
Bánh thuẩn: vật liệu gồm các thứ: bột gạo, đường cát Quảng Ngãi và trứng gà. Ba thứ nầy được pha trộn ngang nhau, theo tỷ lệ cân nặng. Người ta ngâm gạo cho mềm, đổ ra rổ cho ráo nước, giã thành bột rây cho thật mịn. Hột gà lấy cả tròng đỏ lẫn tròng trắng, cho vào chậu sành. Dùng một nắm đủa đánh cho trứng nổi (nhỏ vào nước để thử, thấy nổi trên mặt nước là được). Tiếp theo cho đường vào trộn cho thật đều. Khuôn đổ bánh bằng đồng, miệng khuôn bằng miệng chén chung uống trà. Dùng nồi bằng gang hay bằng đất, có chứa một mớ cát ở đáy nồi, sắp đặt các khuôn dìm sâu xuống cát. Nắp nồi đậy lộn ngược trở lại, bỏ than đỏ bên trên nắp vung. Đun nồi cát cho nóng, khuôn nóng theo, thoa chút ít dầu phụng vào lòng khuôn trước khi đổ bột vào. Bánh chín khi trên mặt thấy nở ren, màu tươi tự nhiên vàng hùm. Bánh còn cần phải sấy khô mới để dành được lâu ngày, cắn một miếng cảm thấy đượm đà, ngọt bùi, thơm lừng. Không như loại bánh đổ bằng bột mì, mềm xèo, thấy ra làm sao.
Xôi ngọt: đặc sản chính cống của quê hương, dễ dàng làm ra món ăn ngọt nầy. Ở miền nam gọi là xôi dị (vị), ở quê mình có nơi còn gọi xôi đường. Theo như cách gọi xôi ngọt thấy hợp lý nhất. Phân biệt được với xôi lạt, nấu bằng nếp, hoặc trộn đậu xanh cà vỏ, đậu đen, đậu phụng. Món xôi ngọt rất thông dụng trong ngày giỗ kỵ, đi đám giỗ mà người vụng về, chi bằng nấu khay xôi ngọt cũng tiện, không tốn kém bao nhiêu. Đậu đen hầm nấu thật chín mềm, đổ ra rổ hứng lấy nước cốt, màu đen sềnh sệch. Dùng nước đó mà nấu với nếp thành xôi màu sẩm đen. Chặt đường táng thành cục nhỏ, nấu chung với nước đậu còn lại, chừng nào thấy đường tan hết, lấy đậu đen đã nấu chín, và gừng tươi giã nhỏ cho vào, nấu rim rim cho đậu thấm đường, đợi cho khi nào rặt bớt nước mới xéo xôi vào. Trộn xôi lẹ tay cho thật đều với đậu, giữ lửa liu riu, nhỏ ngọn, hông tiếp tục cho khô dần, keo quánh, dẽo quẹo. Không để quá lửa, sẽ cháy khét mất ngon. Chuẩn bị khay bằng gỗ, lót lá chuối non hay ny lông vào khay, cả đáy và chung quanh cũng đều được lót. Bới xôi còn nóng vào khay, lẹ tay ép bằng mặt, rải lên trên mặt một lớp mè rang chà vỏ, đồng thời ém dính vào mặt xôi, cũng có thể rắt thêm bột quế nếu thấy thích. Dùng dao rạch cắt ra từng miếng nhỏ vừa ăn, vuông vắn, sắc cạnh, sắp đặt vào dĩa đem ra mời khách.
Bánh ít lá gai: được dịp giới thiệu, như sự bày tỏ tấm lòng thương nhớ hình ảnh Mẹ hiền. Mỗi lần làm ra bánh, kêu bầy con thưởng thức cái hương vị, mùi vị đặc biệt bánh ít lá gai ngon đến cở nào: thơm ngon mùi lá gai khác thường, nhưn đậu xanh bùi bùi, đường táng ngọt lịm, bột nếp dẽo mềm…Mọi công việc đều do bàn tay khéo léo mẹ làm ra, con khen ngon là mẹ vui lắm rồi.
Trước hết, ngâm nếp cho mềm, xay thành bột lỏng, đổ vào bao vải ép cho thật khô nước. Đường táng chặt cục và thắn lên thành nước sềnh sệch. Lá gai hái vào, lặt bỏ cộng, luộc cho chín, vắt khô bỏ nước có màu đen, xắt nhỏ như sợi thuốc rê, bỏ vào cối đá quếch cho thật nhuyển nhừ. Cho bột vào quếch một hồi nữa, rồi cho nước đường vào quếch tiếp tục, đến khi nào hổn hợp có màu xám xanh đều mới thôi. Khối bột làm bánh không quá khô và cũng không quá ướt, hơi nhão một tí là vừa. Viên bột thành từng viên tròn đều nhau, chuẩn bị sẵn sàng. Bánh ít phải có nhưn, đậu xanh không vỏ hông cho thật chín, tán cho nhuyển trước khi cho đường cát trắng vào, bắt lên bếp dáo và viên thành viên tròn. Lấy viên bột ép dẹp ra, đặt viên nhưn vào giữa, ém gọn viên tròn trơn tru, không dính tay nhờ có thoa dầu phụng khi viên. Sau cùng dùng lá chuối thoa chút dầu mà gói bánh, theo kiểu gấp hai đầu lá về phía bên dưới, rồi cột lại. Đợi cho nồi nước sôi vùng, đặt vĩ đã sắp bánh gói xong vào nồi, đậy nắp lại, hấp cách thủy, độ nửa giờ bánh chín biến đổi thành màu đen láng lứt. Vớt bánh ra, vỗ sửa thành hình ống, vặn xoắn hai đầu lá lại và cắt bỏ phần thừa. Cũng có thể cột chéo hai đầu lá lại với nhau, trông cái bánh xôm tụ nhiều hơn. Bánh ít lá gai bán ở Hội An, làm theo kiểu cách người thành phố, ăn lấy ngon in ít, nhỏ xíu, không như ở thôn quê cái nào cái nấy to bự, ăn một cái đã đời. Bây giờ ở Hoa Kỳ, muốn làm bánh ít lá gai quá dễ dàng, khỏe re. Bột nếp tinh khiết từng bao, đường bột vàng hảo hạng, đậu xanh không vỏ, tất cả đều có bán tại chợ Việt Nam. Muốn làm bánh ít lá gai, nên trồng một bụi lá gai để lấy lá, thì ngon hơn. Cũng dễ trồng, mùa hè lá ra xanh mượt, cứ hai tuần lễ cắt lấy lá non, luộc chín vắt khô để dồn trong ngăn đá, tủ lạnh cũng tiện. Dùng máy xay thay cối đá, khỏi mõi tay nhọc sức, tiện lợi vô cùng. Nên làm nhưn trước để vào tủ lạnh, đến khi viên phần vỏ bên ngoài, nên để cho hỗn hợp hơi nhão một chút, như thế khi bánh chín mới ngon. Nhân khi đề cập về bánh ít lá gai, món ăn đặc sản của quê mình, tôi sực nhớ câu vè ở vùng thôn quê, nghe cũng ngộ nghĩnh:
“ Bánh ít thì xít lá gai,
Có chồng ngoài Huế cho dài đường đi.”
Chắc chắn phải có chàng trai xứ Quảng nào đó, không muốn con gái của quê mình đi lấy chồng xứ người. Lại còn rào đón, cố giữ không cho lọt ra ngoài, sợ người ta rước đi, mất phần mình: “Trâu Ta ăn cỏ đồng Ta, đừng ham cỏ tốt ăn qua đồng Người”. Còn chàng thì mặc sức, hào hoa là sự thường tình! Như thế bất công quá - phải không Quý Vị?
“Học trò trong Quảng ra thi,
Thấy cô gái Huế bỏ đi không đành”
ĂN CƠM MỚI, NÓI CHUYỆN CŨ:
Cứ mỗi độ Xuân về, Tết đến là mốc thời gian để chúng ta đếm. Không một ai mà không có quê hương để nhớ. Nhất là hình ảnh quê cũ, người xưa, mà ở đó mọi người cùng chung một phong tục, một tập quán, một món ăn đặc sản đã thấm sâu vào tâm khảm khó quên. Thói quen làm bánh tết, hầu hết mọi nhà đều có sự chuẩn bị từ nhiều ngày trước tết. Nhà khá giã ngoài lối phô trương sự sung túc, còn tỏ ra cho thiên hạ biết tài thức một vài loại bánh quen thuộc của quê hương. Ngon dỡ còn tùy thuộc vào khẩu vị. Nhưng tôi tin chắc là ngon, nhờ ở nội tâm có tâm lý tác động sự khao khát, và tiềm tàng trong ký ức nơi quê Cha đất Tổ.
Bánh bảy lửa: quá trình hình thành khúc bánh, phải trải qua 7 lần lửa: rang, hấp, sấy… Lửa thứ nhất: gạo ngâm nước để ráo, đem rang và xay thành bột khéo tay, công dung ngôn hạnh trổ tài. Nhà nghèo khổ cũng bận rộn, lo việc làm bánh với các loại bình dân ít tốn kém, để cho con cái cũng có mà vui xuân. Xin mời quí bà con, thử thưởng
khô. Lửa thứ 2: thắn đường để trộn vào bột, in thành khúc bánh hình trụ tròn, khuôn bánh làm bằng đoạn cây trảy 7 phân chẻ đôi, khi nhận bột đầy ống, tháo hai vòng niềng để lấy khúc bánh ra. Lửa thứ 3: hấp cách thủy bánh đã in để bột nở, đường thấm đều. Lửa thứ 4: sấy bánh cho vừa khô. Lửa thứ 5: rang hạt mè chà vỏ cho thơm, sàng sãy sạch sẽ đất cát, đổ trải đều một lớp mõng trên mặt cái mâm, chuẩn bị để đó. Lửa thứ 6: thắn nước đường đến độ sa cánh dơi, dẽo quẹo, nhúng từng khúc bánh vào nước đường, rồi đem lăn tròn lên lớp mè cho thật đều bao quanh. Lửa thứ 7: giai đoạn chót, sấy lửa cho thật khô dòn, đem cất vào quả dùng đựng bánh, kín gió và khô ráo.
Ngày nay, ở Khuê Trung Quận Hòa Vang có chỗ làm bánh để bán, dán nhãn hiệu: “Bánh khô mè – Đặc sản Quảng Nam/Đà Nẵng”. Hình dáng cũng đã biến đổi thành hình vuông dẹp, mất đi hình thù đặc biệt cố hữu xưa cũ. Nhận xét khách quan khi đem so sánh 2 chiếc bánh, nó khác xa từ hình dáng cho đến phẩm chất. Khúc bánh bảy lửa ngày xưa, ngoài phần thơm ngon, dòn bên trong, dẽo bên ngoài, cho chúng ta thấy được bản chất mộc mạc, ăn chắc mặc bền của người nông dân chất phác.
Bánh thuẩn: vật liệu gồm các thứ: bột gạo, đường cát Quảng Ngãi và trứng gà. Ba thứ nầy được pha trộn ngang nhau, theo tỷ lệ cân nặng. Người ta ngâm gạo cho mềm, đổ ra rổ cho ráo nước, giã thành bột rây cho thật mịn. Hột gà lấy cả tròng đỏ lẫn tròng trắng, cho vào chậu sành. Dùng một nắm đủa đánh cho trứng nổi (nhỏ vào nước để thử, thấy nổi trên mặt nước là được). Tiếp theo cho đường vào trộn cho thật đều. Khuôn đổ bánh bằng đồng, miệng khuôn bằng miệng chén chung uống trà. Dùng nồi bằng gang hay bằng đất, có chứa một mớ cát ở đáy nồi, sắp đặt các khuôn dìm sâu xuống cát. Nắp nồi đậy lộn ngược trở lại, bỏ than đỏ bên trên nắp vung. Đun nồi cát cho nóng, khuôn nóng theo, thoa chút ít dầu phụng vào lòng khuôn trước khi đổ bột vào. Bánh chín khi trên mặt thấy nở ren, màu tươi tự nhiên vàng hùm. Bánh còn cần phải sấy khô mới để dành được lâu ngày, cắn một miếng cảm thấy đượm đà, ngọt bùi, thơm lừng. Không như loại bánh đổ bằng bột mì, mềm xèo, thấy ra làm sao.
Xôi ngọt: đặc sản chính cống của quê hương, dễ dàng làm ra món ăn ngọt nầy. Ở miền nam gọi là xôi dị (vị), ở quê mình có nơi còn gọi xôi đường. Theo như cách gọi xôi ngọt thấy hợp lý nhất. Phân biệt được với xôi lạt, nấu bằng nếp, hoặc trộn đậu xanh cà vỏ, đậu đen, đậu phụng. Món xôi ngọt rất thông dụng trong ngày giỗ kỵ, đi đám giỗ mà người vụng về, chi bằng nấu khay xôi ngọt cũng tiện, không tốn kém bao nhiêu. Đậu đen hầm nấu thật chín mềm, đổ ra rổ hứng lấy nước cốt, màu đen sềnh sệch. Dùng nước đó mà nấu với nếp thành xôi màu sẩm đen. Chặt đường táng thành cục nhỏ, nấu chung với nước đậu còn lại, chừng nào thấy đường tan hết, lấy đậu đen đã nấu chín, và gừng tươi giã nhỏ cho vào, nấu rim rim cho đậu thấm đường, đợi cho khi nào rặt bớt nước mới xéo xôi vào. Trộn xôi lẹ tay cho thật đều với đậu, giữ lửa liu riu, nhỏ ngọn, hông tiếp tục cho khô dần, keo quánh, dẽo quẹo. Không để quá lửa, sẽ cháy khét mất ngon. Chuẩn bị khay bằng gỗ, lót lá chuối non hay ny lông vào khay, cả đáy và chung quanh cũng đều được lót. Bới xôi còn nóng vào khay, lẹ tay ép bằng mặt, rải lên trên mặt một lớp mè rang chà vỏ, đồng thời ém dính vào mặt xôi, cũng có thể rắt thêm bột quế nếu thấy thích. Dùng dao rạch cắt ra từng miếng nhỏ vừa ăn, vuông vắn, sắc cạnh, sắp đặt vào dĩa đem ra mời khách.
Bánh ít lá gai: được dịp giới thiệu, như sự bày tỏ tấm lòng thương nhớ hình ảnh Mẹ hiền. Mỗi lần làm ra bánh, kêu bầy con thưởng thức cái hương vị, mùi vị đặc biệt bánh ít lá gai ngon đến cở nào: thơm ngon mùi lá gai khác thường, nhưn đậu xanh bùi bùi, đường táng ngọt lịm, bột nếp dẽo mềm…Mọi công việc đều do bàn tay khéo léo mẹ làm ra, con khen ngon là mẹ vui lắm rồi.
Trước hết, ngâm nếp cho mềm, xay thành bột lỏng, đổ vào bao vải ép cho thật khô nước. Đường táng chặt cục và thắn lên thành nước sềnh sệch. Lá gai hái vào, lặt bỏ cộng, luộc cho chín, vắt khô bỏ nước có màu đen, xắt nhỏ như sợi thuốc rê, bỏ vào cối đá quếch cho thật nhuyển nhừ. Cho bột vào quếch một hồi nữa, rồi cho nước đường vào quếch tiếp tục, đến khi nào hổn hợp có màu xám xanh đều mới thôi. Khối bột làm bánh không quá khô và cũng không quá ướt, hơi nhão một tí là vừa. Viên bột thành từng viên tròn đều nhau, chuẩn bị sẵn sàng. Bánh ít phải có nhưn, đậu xanh không vỏ hông cho thật chín, tán cho nhuyển trước khi cho đường cát trắng vào, bắt lên bếp dáo và viên thành viên tròn. Lấy viên bột ép dẹp ra, đặt viên nhưn vào giữa, ém gọn viên tròn trơn tru, không dính tay nhờ có thoa dầu phụng khi viên. Sau cùng dùng lá chuối thoa chút dầu mà gói bánh, theo kiểu gấp hai đầu lá về phía bên dưới, rồi cột lại. Đợi cho nồi nước sôi vùng, đặt vĩ đã sắp bánh gói xong vào nồi, đậy nắp lại, hấp cách thủy, độ nửa giờ bánh chín biến đổi thành màu đen láng lứt. Vớt bánh ra, vỗ sửa thành hình ống, vặn xoắn hai đầu lá lại và cắt bỏ phần thừa. Cũng có thể cột chéo hai đầu lá lại với nhau, trông cái bánh xôm tụ nhiều hơn. Bánh ít lá gai bán ở Hội An, làm theo kiểu cách người thành phố, ăn lấy ngon in ít, nhỏ xíu, không như ở thôn quê cái nào cái nấy to bự, ăn một cái đã đời. Bây giờ ở Hoa Kỳ, muốn làm bánh ít lá gai quá dễ dàng, khỏe re. Bột nếp tinh khiết từng bao, đường bột vàng hảo hạng, đậu xanh không vỏ, tất cả đều có bán tại chợ Việt Nam. Muốn làm bánh ít lá gai, nên trồng một bụi lá gai để lấy lá, thì ngon hơn. Cũng dễ trồng, mùa hè lá ra xanh mượt, cứ hai tuần lễ cắt lấy lá non, luộc chín vắt khô để dồn trong ngăn đá, tủ lạnh cũng tiện. Dùng máy xay thay cối đá, khỏi mõi tay nhọc sức, tiện lợi vô cùng. Nên làm nhưn trước để vào tủ lạnh, đến khi viên phần vỏ bên ngoài, nên để cho hỗn hợp hơi nhão một chút, như thế khi bánh chín mới ngon. Nhân khi đề cập về bánh ít lá gai, món ăn đặc sản của quê mình, tôi sực nhớ câu vè ở vùng thôn quê, nghe cũng ngộ nghĩnh:
“ Bánh ít thì xít lá gai,
Có chồng ngoài Huế cho dài đường đi.”
Chắc chắn phải có chàng trai xứ Quảng nào đó, không muốn con gái của quê mình đi lấy chồng xứ người. Lại còn rào đón, cố giữ không cho lọt ra ngoài, sợ người ta rước đi, mất phần mình: “Trâu Ta ăn cỏ đồng Ta, đừng ham cỏ tốt ăn qua đồng Người”. Còn chàng thì mặc sức, hào hoa là sự thường tình! Như thế bất công quá - phải không Quý Vị?
“Học trò trong Quảng ra thi,
Thấy cô gái Huế bỏ đi không đành”
ĂN CƠM MỚI, NÓI CHUYỆN CŨ:
Rất
may mắn người Việt chúng ta được định cư tại Hoa Kỳ, một đất nước giàu mạnh nhất
thế giới về mọi mặt, trong đó phần thực phẩm phải công nhận thừa thải nhất.
Không biết vì quá dồi dào, dư dả nên ăn thấy dỡ hay sao? Có người cho rằng thịt
cá ở đây làm sao bằng ở quê mình. Câu hát bà ru cháu, mẹ ru con ngủ: “Ầu ơ. . . Con gà tục tác lá chanh, con lợn ủn
ỉn mua hành cho tôi. Con chó khóc đứng khóc ngồi, mẹ ơi đi chợ mua cho đồng riềng”, đã ghi sâu vào trí nhớ tuổi
thơ, hình ảnh quê mẹ ngọt ngào, yêu thương. Mặc dù ý nghĩa câu hát chưa chắc đã
thấu hiểu vào lứa tuổi thời bấy giờ.
Nhân ngày đầu năm mới ở quê người, xin nói lại chuyện cũ quê mình, tìm về quá khứ qua một số món ăn, mà thuở xa xưa thấy rằng độc đáo, ngon thật không phải chơi. Món ăn cũng tùy thuộc vào mùa, mới hợp khẩu vị: “vịt tháng ba, gà tháng mười”. Tại sao ăn vịt vào tháng ba âm lịch, thịt mới ngon. Đó thời điểm mùa gặt lúa, sau khi gặt ruộng bỏ hoang một thời gian dài, có nơi cho đàn vịt tha hồ tìm mồi. Nào là tha hồ nhặt lượm được nhiều hạt lúa rơi rải, trên khắp cánh đồng trơ gốc rạ, nào rúc tỉa bắt được mồi tươi: con cá, con ốc, con mòng mòng… Vịt vừa đủ lông gương, trơn lông mướt rượt, chỉ thoáng nhìn qua biết chắc dễ nhổ lông, thịt sẽ mềm thơm ngon. Mập mà thịt không bị nhão, béo ngậy, mới là điểm độc đáo ở chỗ đó. Thịt vịt luộc ra khổ 3cm, chặt ra từng miếng nhỏ dày 1cm1/2 sắp vào dĩa, lật úp để lớp da phô bày lên trên mặt, vô cùng hấp dẫn, rất bắt mắt. Chấm từng lát thịt vịt vào chén mắm thấm: mắm cái, gừng tươi giã nhỏ, ớt tỏi, chanh đường, dầu phụng khử hành phi và đậu phụng giã nhỏ. Ăn kèm theo chuối chát, khế, rau tầng… đưa cay thật là khoái khẩu, và không bao giờ thiếu câu nịnh vợ kèm theo lấy lòng: Ôi chà! Thịt vịt mùa nầy thơm ngon quá xá! Mẹ bầy trẻ khéo tay nấu bếp đấy nhé!
Rồi mùa hè lại tới, trời nóng oi bức rất khó chịu, con người, ai nấy cũng đều mệt nhừ ra. Nhìn bầy gà lẫn tránh vào bụi chuối, lùm cây, miệng hã thoi thóp trông rất tội nghiệp. Gà mùa nầy ốm nha, ốm nhách, vì thiếu con trùn, con mối, con dế… Tháng mười đến, không những vô số côn trùng, còn có cả một kho bông lúa trổ ngoài vườn. Bầy gà tha hồ xực đầy dều, trời chưa tối đã nhãy giàn chuồng heo, đi ngủ sớm hơn mọi ngày. Gà trống vừa trổ mã cất tiếng gáy te te, gà mái chạy lăng quăng kêu nhãy ổ tót tót. Bắt đem làm thịt và luộc theo cách thức: nước sôi vùng bỏ gà vào, đợi 5 phút lật trở bề, 5 phút nữa nhắt xuống đậy nắp vung lại. Một hồi sau gà vừa chín tới, không lũn, không dai. Thịt gà xé nhỏ lẫn lộn cả xương, trộn với hành tây ngâm dấm vớt để ráo, hoặc búp chuối sứ xắt nhỏ, thêm gia vị muối tiêu, tỏi, nước mắm và rau răm, lá chanh non. Chu choa! Ngon thật, ngậm mà nghe. Ăn thịt gà thường được nghe người ta hay khen: “nhứt phao câu, nhì đầu cánh” hoặc “Nhứt bì, nhì cốt” để đẩy đưa mời bạn hiền. Món lòng thả gà đáo để mát dạ, ăn không biết ớn, nhiều người đều ưa thích món ăn kiểu cách nầy. Lựa cho được con gà da vàng, mướt lông, mập mạp, không quá già và cũng không non quá. Lóc lấy thịt, xắt mõng cho vào cái “tiềm” có nắp đậy, ướp hành tiêu nước mắm cho thơm. Sau cùng vắt chanh vào cho thịt vừa tái, chờ khi nào ăn mới thêm nước cháo vào. Bộ xương còn lại nấu lấy nước, cho thêm vào ít gạo, đậu xanh cà mà nấu cháo cho thật lỏng. Nước cháo đương sôi, đem đổ vào tiềm thịt gà ướp sẵn, đồng thời đánh trứng gà cho thêm vào nếu thích. Đấy! cháo lòng thả là thế. Khi ăn bóp bánh tráng vào chén cháo lòng thả nóng hổi, tăng thêm phần phẩm lượng, đậm đà, hương vị thơm ngon quá chừng. Chỉ có quê mình mới có loại heo cỏ, loại heo nầy lớn đến cở 10 – 15 ký lô là cùng. Người ta nuôi heo, cho ăn bằng cám gạo nấu với rau lang, thịt mới ngon: thơm lừng, ít béo và khô dòn. Thịt heo luộc của “bảy đáp” khi nào cũng ngon hơn thịt ở nhà luộc, lý do nhà nghề là khi luộc người ta luộc cả đùi, cả nửa con. Thịt vừa chín hồng đào thuộc dạng ngon nhất. Cứ buổi sáng, đợi cho bà hàng thịt gánh đôi rổ có vành tròn làm chưn dưới đáy, và có nắp trẹt đậy bên trên, đi rao bán dạo. Kêu vào, thích chỗ nào chỉ bà ta cắt chỗ đó cho mình, xắt ra bỏ vào dĩa hay lẹ tay gói bằng lá chuối cho mình cũng tiện. Lát thịt heo còn nóng hổi, chấm vào nước mắm ăn sáng ngon ơi là ngon. Nếu thích cuốn bánh tráng, ra vườn cắt nắm rau muống ngọn dượt, nỏn nà, đem vào rửa sạch cuốn thịt heo với bánh tráng mõng, ăn chơi ngon hơn thiệt. Người sành ăn uống, không đời nào quên câu chỉ bảo truyền khẩu cho nhau: “trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo bộ lòng mới ngon.”, theo đó, thế nào cũng chọn được bửa nhậu đắt ý. Ngon thì có ngon đó, liệu sức mà ăn, nhất là vừa mới đau dậy, xực vào coi chừng bỏ mạng như chơi: “nhất trúng phòng, nhì lòng lợn” , quí bà con nhớ cho.
Đón chào năm mới, người viết xin ghi lại bài thơ nhan đề “Rắn Đầu Biếng Học” của Ông Lê Quí Đôn khi còn nhỏ, mới lên 3 lên 5 tuổi mà đã ứng khẩu làm thơ đầy ý nghĩa, để được cha tha cho tội lười biếng, trốn học rong chơi. Khi còn nhỏ thầy bắt học thuộc lòng, nay chép lại không sao tránh khỏi sai sót, bởi vì tam sao thất bổn (ba lần sao chép, mất chính bản), huống hồ chi trí nhớ lại càng sai nhiều hơn, rất mong được sự thông cảm bổ khuyết cho: “Chẳng phải liu điu cũng giống nhà. Rắn đầu biếng học lẽ không tha. Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ. Nay thét mai gầm rát cổ cha. Ráo mép chỉ quen lời lếu láo. Lằn lưng không những vệt năm ba. Từ nay Châu Lổ xin siêng học. Kẽo hổ mang danh tiếng thế gia.”.
Ông Lê Quí Đôn làm bài thơ thật tài tình, đủ các loại rắn: rắn liu điu, rắn hổ lửa, rắn mái gầm, rắn hổ mang, rắn lằn lưng (rắn lãi, rắn nẹp nia…). Riêng tôi còn có con rắn nước, gắn liền với đời sống tù tội trước kia. Năm xưa có học về chiến thuật, lối chạy chữ chi để tránh lằn đạn địch bắn xâu táo. Khi vào tù áp dụng đúng chỗ, bắt được rắn nước lột da xong, đặt lên kẹp tre theo hình ngoằn ngoèo qua lại mà nướng, thơm lừng, giải quyết được phần nào cơn đói thèm… và nói theo anh em bạn tù, con gì xây lưng lên trời đều ăn được tuốt luốt: “bồi dưỡng chất tươi” đó mà.
Nhân ngày đầu năm mới ở quê người, xin nói lại chuyện cũ quê mình, tìm về quá khứ qua một số món ăn, mà thuở xa xưa thấy rằng độc đáo, ngon thật không phải chơi. Món ăn cũng tùy thuộc vào mùa, mới hợp khẩu vị: “vịt tháng ba, gà tháng mười”. Tại sao ăn vịt vào tháng ba âm lịch, thịt mới ngon. Đó thời điểm mùa gặt lúa, sau khi gặt ruộng bỏ hoang một thời gian dài, có nơi cho đàn vịt tha hồ tìm mồi. Nào là tha hồ nhặt lượm được nhiều hạt lúa rơi rải, trên khắp cánh đồng trơ gốc rạ, nào rúc tỉa bắt được mồi tươi: con cá, con ốc, con mòng mòng… Vịt vừa đủ lông gương, trơn lông mướt rượt, chỉ thoáng nhìn qua biết chắc dễ nhổ lông, thịt sẽ mềm thơm ngon. Mập mà thịt không bị nhão, béo ngậy, mới là điểm độc đáo ở chỗ đó. Thịt vịt luộc ra khổ 3cm, chặt ra từng miếng nhỏ dày 1cm1/2 sắp vào dĩa, lật úp để lớp da phô bày lên trên mặt, vô cùng hấp dẫn, rất bắt mắt. Chấm từng lát thịt vịt vào chén mắm thấm: mắm cái, gừng tươi giã nhỏ, ớt tỏi, chanh đường, dầu phụng khử hành phi và đậu phụng giã nhỏ. Ăn kèm theo chuối chát, khế, rau tầng… đưa cay thật là khoái khẩu, và không bao giờ thiếu câu nịnh vợ kèm theo lấy lòng: Ôi chà! Thịt vịt mùa nầy thơm ngon quá xá! Mẹ bầy trẻ khéo tay nấu bếp đấy nhé!
Rồi mùa hè lại tới, trời nóng oi bức rất khó chịu, con người, ai nấy cũng đều mệt nhừ ra. Nhìn bầy gà lẫn tránh vào bụi chuối, lùm cây, miệng hã thoi thóp trông rất tội nghiệp. Gà mùa nầy ốm nha, ốm nhách, vì thiếu con trùn, con mối, con dế… Tháng mười đến, không những vô số côn trùng, còn có cả một kho bông lúa trổ ngoài vườn. Bầy gà tha hồ xực đầy dều, trời chưa tối đã nhãy giàn chuồng heo, đi ngủ sớm hơn mọi ngày. Gà trống vừa trổ mã cất tiếng gáy te te, gà mái chạy lăng quăng kêu nhãy ổ tót tót. Bắt đem làm thịt và luộc theo cách thức: nước sôi vùng bỏ gà vào, đợi 5 phút lật trở bề, 5 phút nữa nhắt xuống đậy nắp vung lại. Một hồi sau gà vừa chín tới, không lũn, không dai. Thịt gà xé nhỏ lẫn lộn cả xương, trộn với hành tây ngâm dấm vớt để ráo, hoặc búp chuối sứ xắt nhỏ, thêm gia vị muối tiêu, tỏi, nước mắm và rau răm, lá chanh non. Chu choa! Ngon thật, ngậm mà nghe. Ăn thịt gà thường được nghe người ta hay khen: “nhứt phao câu, nhì đầu cánh” hoặc “Nhứt bì, nhì cốt” để đẩy đưa mời bạn hiền. Món lòng thả gà đáo để mát dạ, ăn không biết ớn, nhiều người đều ưa thích món ăn kiểu cách nầy. Lựa cho được con gà da vàng, mướt lông, mập mạp, không quá già và cũng không non quá. Lóc lấy thịt, xắt mõng cho vào cái “tiềm” có nắp đậy, ướp hành tiêu nước mắm cho thơm. Sau cùng vắt chanh vào cho thịt vừa tái, chờ khi nào ăn mới thêm nước cháo vào. Bộ xương còn lại nấu lấy nước, cho thêm vào ít gạo, đậu xanh cà mà nấu cháo cho thật lỏng. Nước cháo đương sôi, đem đổ vào tiềm thịt gà ướp sẵn, đồng thời đánh trứng gà cho thêm vào nếu thích. Đấy! cháo lòng thả là thế. Khi ăn bóp bánh tráng vào chén cháo lòng thả nóng hổi, tăng thêm phần phẩm lượng, đậm đà, hương vị thơm ngon quá chừng. Chỉ có quê mình mới có loại heo cỏ, loại heo nầy lớn đến cở 10 – 15 ký lô là cùng. Người ta nuôi heo, cho ăn bằng cám gạo nấu với rau lang, thịt mới ngon: thơm lừng, ít béo và khô dòn. Thịt heo luộc của “bảy đáp” khi nào cũng ngon hơn thịt ở nhà luộc, lý do nhà nghề là khi luộc người ta luộc cả đùi, cả nửa con. Thịt vừa chín hồng đào thuộc dạng ngon nhất. Cứ buổi sáng, đợi cho bà hàng thịt gánh đôi rổ có vành tròn làm chưn dưới đáy, và có nắp trẹt đậy bên trên, đi rao bán dạo. Kêu vào, thích chỗ nào chỉ bà ta cắt chỗ đó cho mình, xắt ra bỏ vào dĩa hay lẹ tay gói bằng lá chuối cho mình cũng tiện. Lát thịt heo còn nóng hổi, chấm vào nước mắm ăn sáng ngon ơi là ngon. Nếu thích cuốn bánh tráng, ra vườn cắt nắm rau muống ngọn dượt, nỏn nà, đem vào rửa sạch cuốn thịt heo với bánh tráng mõng, ăn chơi ngon hơn thiệt. Người sành ăn uống, không đời nào quên câu chỉ bảo truyền khẩu cho nhau: “trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo bộ lòng mới ngon.”, theo đó, thế nào cũng chọn được bửa nhậu đắt ý. Ngon thì có ngon đó, liệu sức mà ăn, nhất là vừa mới đau dậy, xực vào coi chừng bỏ mạng như chơi: “nhất trúng phòng, nhì lòng lợn” , quí bà con nhớ cho.
Đón chào năm mới, người viết xin ghi lại bài thơ nhan đề “Rắn Đầu Biếng Học” của Ông Lê Quí Đôn khi còn nhỏ, mới lên 3 lên 5 tuổi mà đã ứng khẩu làm thơ đầy ý nghĩa, để được cha tha cho tội lười biếng, trốn học rong chơi. Khi còn nhỏ thầy bắt học thuộc lòng, nay chép lại không sao tránh khỏi sai sót, bởi vì tam sao thất bổn (ba lần sao chép, mất chính bản), huống hồ chi trí nhớ lại càng sai nhiều hơn, rất mong được sự thông cảm bổ khuyết cho: “Chẳng phải liu điu cũng giống nhà. Rắn đầu biếng học lẽ không tha. Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ. Nay thét mai gầm rát cổ cha. Ráo mép chỉ quen lời lếu láo. Lằn lưng không những vệt năm ba. Từ nay Châu Lổ xin siêng học. Kẽo hổ mang danh tiếng thế gia.”.
Ông Lê Quí Đôn làm bài thơ thật tài tình, đủ các loại rắn: rắn liu điu, rắn hổ lửa, rắn mái gầm, rắn hổ mang, rắn lằn lưng (rắn lãi, rắn nẹp nia…). Riêng tôi còn có con rắn nước, gắn liền với đời sống tù tội trước kia. Năm xưa có học về chiến thuật, lối chạy chữ chi để tránh lằn đạn địch bắn xâu táo. Khi vào tù áp dụng đúng chỗ, bắt được rắn nước lột da xong, đặt lên kẹp tre theo hình ngoằn ngoèo qua lại mà nướng, thơm lừng, giải quyết được phần nào cơn đói thèm… và nói theo anh em bạn tù, con gì xây lưng lên trời đều ăn được tuốt luốt: “bồi dưỡng chất tươi” đó mà.
VỀ QUÊ ĂN TẾT:
Ca dao truy nguyên về nguồn gốc con người, được thể hiện qua câu truyền khẩu như sau:
“Con người có Tổ có Tông,
Như cây có cội như sông có nguồn.”
Như thế, mỗi người đều có một nguồn gốc, nơi đó là quê hương riêng của mình. Khi xa quê hương, sống nơi đất khách quê người, mới thấy nhớ. Hình ảnh quê hương lúc nào cũng đeo đuổi, canh cánh trong lòng tôi, và hằng ao ước có một ngày về thăm nơi chôn nhau cắt rốn, để hội ngộ, hàn huyên cùng bà con, hàng xóm láng giềng, cho thỏa lòng khao khát bấy lâu nay.
Tết Nhâm Ngọ, tôi thực hiện chuyến đi về quê ăn tết. Đáp chuyến bay Thai Airways, bằng Boeing 767, đến hai ngày đêm mới đến Sài Gòn vào ngày 28 tết âm lịch. Chuyển sang tàu hỏa lúc 7 giờ tối ngày 28, mà mãi đến 8 giờ tối ngày hôm sau mới vào được ga Đà Nẵng. Thật là một cuộc hành trình ì à, ì ạch, làm trì hoãn thời gian mong đợi của mình. Thực ra, sau cây lụt năm Giáp Thìn (1964), gia đình tôi đành phải lìa bỏ làng quê Xuân Đài lần thứ hai. Kể từ đó, mất đi giờ đón giao thừa thiêng liêng đầu năm mới, với cung cách trịnh trọng mà ông bà đã bao đời truyền lại. Chuyến đi lần, tôi tha thiết dành ưu tiên đón giao thừa nơi quê nhà, tìm trở lại cảnh tượng tĩnh mịch, huyền diệu của đêm trừ tịch, mà tôi đã bao nhiêu lần chứng kiến khi còn trẻ thơ. Sáng 30 tết, tôi gọi đứa cháu trong quê, ra đón tôi vào thật sớm. Ngồi sau xe Honda, lần lượt qua các làng: Phú Bông, Đông Bàn, Cẩm Lậu, Bàn Lãnh. Đến khi xe trườn qua khỏi đường xe lửa, đấy là làng Xuân Đài thân yêu của tôi. Đưa mắt theo dõi, mọi sinh hoạt trong trạng thái bình thường, chợ tết không mấy nhộn nhịp, người bán kẽ mua thưa thớt, hàng thực phẩm mua để dành cho ba ngày tết, như không còn cần thiết. Thậm chí nồi bánh tét thông thường của từng nhà cũng không còn rầm rộ, đồng loạt như ngày xưa. Tiếng heo kêu eng éc bị bắt ra làm thịt lưa thưa, rời rạc. Lễ rước ông bà chiều 30 tết im lìm, vắng lạnh. Mùi hương trầm loãng mõng, hờ hững như buồn mời gọi ông bà quá cố, trở về sum họp với gia đình. Sáng mồng một, trẻ con lười biếng chạy chơi, không cần khoe bộ đồ mới. Trò chơi tập tục cổ truyền vui xuân không mấy có, buồn tênh… Sau tết, tôi còn một công việc đặt hàng đầu: “Sống cái nhà – già cái mồ”, người đời thường nói như vậy. Điều đó thúc giục tôi xây mộ cho song thân. Thời buổi nầy, toàn thể khu mộ Bạc Hà, thuộc quận Duy Xuyên, đều có khuynh hướng trùng tu, càng về sau càng làm to hơn, “cao nấm ấm mồ’, ông bà ta thường nói như vậy. Sau mười một ngày theo dõi thợ xây mộ, tôi rất hài lòng, thỏa mãn với công việc mình làm. Vào những buổi nghỉ trưa, sực nhớ thèm ăn tô mì. Nghe đâu vùng nầy nổi tiếng nhất, quán mì “Tiếng Quí” ở chợ La Tháp. Cái tên nghe cũng lạ nhỉ? Hỏi ra, mới hay trước đây là quán bà Quí, rất nổi tiếng mì gà ngon nhất chợ. Bà qua đời, con gái bà nối nghiệp, lấy tên của bà và thêm chữ tiếng, không ngoài mục đích cũng được nổi tiếng như quán mì của bà năm xưa. Vừa bước vào quán, tôi kêu liền: cho 3 tô mì gà thật ngon cô chủ! Dạ… tiếng dạ âm giọng quê hương Quảng Nam, sao mà thân thương triều mến quá, cảm tình quá vậy. Vừa dạ, cô vừa lẹ tay xếp hai mếp lá mì vào giữa, rồi gấp đôi và đặt lên thớt gỗ. Tay mặt cầm cán dao, tay trái tựa lên sống, thoăn thoắt chấn lá mì thành từng con đều hân hấn. Cô chúm lấy mớ mì bỏ vào vợt, chao qua nước sôi, đổ vào tô, chang lấp xấp in ít nước nhưn thịt gà. Rắt thêm chút ít đậu phụng rang giã nhỏ, hành ngò và bỏ kèm vào tô trái ớt xanh chìa vôi sau cùng. Tô mì bốc hơi nóng hổi, thơm lừng đưa tới, thực khách thêm vào búp chuối sứ xắt nhỏ trộn rau thơm, rãy tí nước mắm, dấm chua, bánh tráng nướng bóp nhỏ vào tô mì, bưng tô vừa ăn vừa trộn đều, cứ thế mà và ăn ngon lành, lối ăn chân quê như vậy mới đúng điệu, hợp gu, khoái khẩu ngon lành. Chiều về, ngang qua Cầu Mống đời nào bỏ qua quán “Ba lép”. Quán thịt bò thui đông khách nhất, đặc biệt mùi vị bò của quê hương chính cống, ngon hết sẫy, khỏi chỗ chê. No nê rồi, rẽ ngõ Đò Xu thẳng về Đà Nẵng. Nhìn đường Hoàng Diệu, Ông Ích Khiêm, Hùng Vương, Đống Đa… quá xa lạ, toàn là nhà lầu hai ba tầng, san sát liền nhau. Vĩa hè là quán nhậu, phong trào bán ốc hút rộ lên rần rần. Thứ ốc hút rẻ tiền, làm mồi nhậu rượu đế lấy gì hấp dẫn cho mấy? Thứ bia địa phương “La Rue” của Đà Nẵng dành cho khách nặng túi tiền. Hôm sau, tôi thức dậy thật sớm, để dành bụng đói, cố ăn cho kỳ được tô phở “Liến” trên đường Lê Lợi, mà khi còn đi học ở Hội An, bọn học sinh chúng tôi thường hay lui tới. Tiệm phở vẫn như xưa, có khác chăng tô phở giờ đây sao nhỏ lại quá vậy? Nhớ hồi ấy, với sức trai trẻ thế mà ăn vừa bụng. Còn bây giờ già rồi, sao lại chả thấy no? Dạo chơi thăm lại phố cũ một vòng, trong lòng đầy nhung nhớ, hình ảnh xa xưa đẹp từ con đường cho tới bờ sông… Ghé thăm chuyện trò một số bạn cũ còn ở lại, và không quên thăm mấy bà, đã từng nấu cơm tháng cho tôi ăn ở trọ. Không khỏi bùi ngùi, nhìn các bà lụm cụm, tóc bạc ngã màu phong sương. Tôi xin biếu chút ít tiền nhỏ mọn, như thể tỏ lòng cám ơn. Tạt xuống biển Cửa Đại, trong phút chốc đã đến lúc nào không hay. Nhớ khi xưa đi bằng xe đạp, đến đầu cầu gởi xe, đi bộ ra bãi biển, lội qua hàng dương liễu đến dãy nhà tôle ngồi nghỉ chân, nhìn sóng nước vỗ bờ lòng tràn đầy niềm vui. Bây giờ cảnh cũ còn đâu, tất cả đã lui về dĩ vãng nhạt nhòa… Kết thúc chuyến đi về quê ăn tết, hợp cảnh, hợp tình nhất bằng hai câu kết trong bài thơ Thăng Long Hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan:
“Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đó người đây luống đoạn trường.”
ĐOÀN NGỌC NAM
Ca dao truy nguyên về nguồn gốc con người, được thể hiện qua câu truyền khẩu như sau:
“Con người có Tổ có Tông,
Như cây có cội như sông có nguồn.”
Như thế, mỗi người đều có một nguồn gốc, nơi đó là quê hương riêng của mình. Khi xa quê hương, sống nơi đất khách quê người, mới thấy nhớ. Hình ảnh quê hương lúc nào cũng đeo đuổi, canh cánh trong lòng tôi, và hằng ao ước có một ngày về thăm nơi chôn nhau cắt rốn, để hội ngộ, hàn huyên cùng bà con, hàng xóm láng giềng, cho thỏa lòng khao khát bấy lâu nay.
Tết Nhâm Ngọ, tôi thực hiện chuyến đi về quê ăn tết. Đáp chuyến bay Thai Airways, bằng Boeing 767, đến hai ngày đêm mới đến Sài Gòn vào ngày 28 tết âm lịch. Chuyển sang tàu hỏa lúc 7 giờ tối ngày 28, mà mãi đến 8 giờ tối ngày hôm sau mới vào được ga Đà Nẵng. Thật là một cuộc hành trình ì à, ì ạch, làm trì hoãn thời gian mong đợi của mình. Thực ra, sau cây lụt năm Giáp Thìn (1964), gia đình tôi đành phải lìa bỏ làng quê Xuân Đài lần thứ hai. Kể từ đó, mất đi giờ đón giao thừa thiêng liêng đầu năm mới, với cung cách trịnh trọng mà ông bà đã bao đời truyền lại. Chuyến đi lần, tôi tha thiết dành ưu tiên đón giao thừa nơi quê nhà, tìm trở lại cảnh tượng tĩnh mịch, huyền diệu của đêm trừ tịch, mà tôi đã bao nhiêu lần chứng kiến khi còn trẻ thơ. Sáng 30 tết, tôi gọi đứa cháu trong quê, ra đón tôi vào thật sớm. Ngồi sau xe Honda, lần lượt qua các làng: Phú Bông, Đông Bàn, Cẩm Lậu, Bàn Lãnh. Đến khi xe trườn qua khỏi đường xe lửa, đấy là làng Xuân Đài thân yêu của tôi. Đưa mắt theo dõi, mọi sinh hoạt trong trạng thái bình thường, chợ tết không mấy nhộn nhịp, người bán kẽ mua thưa thớt, hàng thực phẩm mua để dành cho ba ngày tết, như không còn cần thiết. Thậm chí nồi bánh tét thông thường của từng nhà cũng không còn rầm rộ, đồng loạt như ngày xưa. Tiếng heo kêu eng éc bị bắt ra làm thịt lưa thưa, rời rạc. Lễ rước ông bà chiều 30 tết im lìm, vắng lạnh. Mùi hương trầm loãng mõng, hờ hững như buồn mời gọi ông bà quá cố, trở về sum họp với gia đình. Sáng mồng một, trẻ con lười biếng chạy chơi, không cần khoe bộ đồ mới. Trò chơi tập tục cổ truyền vui xuân không mấy có, buồn tênh… Sau tết, tôi còn một công việc đặt hàng đầu: “Sống cái nhà – già cái mồ”, người đời thường nói như vậy. Điều đó thúc giục tôi xây mộ cho song thân. Thời buổi nầy, toàn thể khu mộ Bạc Hà, thuộc quận Duy Xuyên, đều có khuynh hướng trùng tu, càng về sau càng làm to hơn, “cao nấm ấm mồ’, ông bà ta thường nói như vậy. Sau mười một ngày theo dõi thợ xây mộ, tôi rất hài lòng, thỏa mãn với công việc mình làm. Vào những buổi nghỉ trưa, sực nhớ thèm ăn tô mì. Nghe đâu vùng nầy nổi tiếng nhất, quán mì “Tiếng Quí” ở chợ La Tháp. Cái tên nghe cũng lạ nhỉ? Hỏi ra, mới hay trước đây là quán bà Quí, rất nổi tiếng mì gà ngon nhất chợ. Bà qua đời, con gái bà nối nghiệp, lấy tên của bà và thêm chữ tiếng, không ngoài mục đích cũng được nổi tiếng như quán mì của bà năm xưa. Vừa bước vào quán, tôi kêu liền: cho 3 tô mì gà thật ngon cô chủ! Dạ… tiếng dạ âm giọng quê hương Quảng Nam, sao mà thân thương triều mến quá, cảm tình quá vậy. Vừa dạ, cô vừa lẹ tay xếp hai mếp lá mì vào giữa, rồi gấp đôi và đặt lên thớt gỗ. Tay mặt cầm cán dao, tay trái tựa lên sống, thoăn thoắt chấn lá mì thành từng con đều hân hấn. Cô chúm lấy mớ mì bỏ vào vợt, chao qua nước sôi, đổ vào tô, chang lấp xấp in ít nước nhưn thịt gà. Rắt thêm chút ít đậu phụng rang giã nhỏ, hành ngò và bỏ kèm vào tô trái ớt xanh chìa vôi sau cùng. Tô mì bốc hơi nóng hổi, thơm lừng đưa tới, thực khách thêm vào búp chuối sứ xắt nhỏ trộn rau thơm, rãy tí nước mắm, dấm chua, bánh tráng nướng bóp nhỏ vào tô mì, bưng tô vừa ăn vừa trộn đều, cứ thế mà và ăn ngon lành, lối ăn chân quê như vậy mới đúng điệu, hợp gu, khoái khẩu ngon lành. Chiều về, ngang qua Cầu Mống đời nào bỏ qua quán “Ba lép”. Quán thịt bò thui đông khách nhất, đặc biệt mùi vị bò của quê hương chính cống, ngon hết sẫy, khỏi chỗ chê. No nê rồi, rẽ ngõ Đò Xu thẳng về Đà Nẵng. Nhìn đường Hoàng Diệu, Ông Ích Khiêm, Hùng Vương, Đống Đa… quá xa lạ, toàn là nhà lầu hai ba tầng, san sát liền nhau. Vĩa hè là quán nhậu, phong trào bán ốc hút rộ lên rần rần. Thứ ốc hút rẻ tiền, làm mồi nhậu rượu đế lấy gì hấp dẫn cho mấy? Thứ bia địa phương “La Rue” của Đà Nẵng dành cho khách nặng túi tiền. Hôm sau, tôi thức dậy thật sớm, để dành bụng đói, cố ăn cho kỳ được tô phở “Liến” trên đường Lê Lợi, mà khi còn đi học ở Hội An, bọn học sinh chúng tôi thường hay lui tới. Tiệm phở vẫn như xưa, có khác chăng tô phở giờ đây sao nhỏ lại quá vậy? Nhớ hồi ấy, với sức trai trẻ thế mà ăn vừa bụng. Còn bây giờ già rồi, sao lại chả thấy no? Dạo chơi thăm lại phố cũ một vòng, trong lòng đầy nhung nhớ, hình ảnh xa xưa đẹp từ con đường cho tới bờ sông… Ghé thăm chuyện trò một số bạn cũ còn ở lại, và không quên thăm mấy bà, đã từng nấu cơm tháng cho tôi ăn ở trọ. Không khỏi bùi ngùi, nhìn các bà lụm cụm, tóc bạc ngã màu phong sương. Tôi xin biếu chút ít tiền nhỏ mọn, như thể tỏ lòng cám ơn. Tạt xuống biển Cửa Đại, trong phút chốc đã đến lúc nào không hay. Nhớ khi xưa đi bằng xe đạp, đến đầu cầu gởi xe, đi bộ ra bãi biển, lội qua hàng dương liễu đến dãy nhà tôle ngồi nghỉ chân, nhìn sóng nước vỗ bờ lòng tràn đầy niềm vui. Bây giờ cảnh cũ còn đâu, tất cả đã lui về dĩ vãng nhạt nhòa… Kết thúc chuyến đi về quê ăn tết, hợp cảnh, hợp tình nhất bằng hai câu kết trong bài thơ Thăng Long Hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan:
“Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đó người đây luống đoạn trường.”
ĐOÀN NGỌC NAM
4. XUAN GIAP NGO
Xuân Giáp Ngọ
Xuân nầy khác hẵng mấy xuân qua
Đầu năm trổi dậy tiếng phèng la
Biểu ngữ giơ cao đòi quyền sống
Phản kháng biểu tình trẻ tới già
Lòng dân căm phẫn lên cao độ
Vận nước đến hồi sạch bóng ma
Cộng sản thế giới còn mấy mống
Giáp ngọ tân niên diệt ác tà
X
X X X
Năm nầy mã đáo chắc thành công
Chúc mừng năm mới quý bà ông
Cháu con sum họp về đông đủ
Việc làm học hành được hanh thông
Mong cho khỏe mạnh vui bè bạn
Đừng để ưu phiền ngồi ngóng trông
Đất khách quê người Tết lại đến
Đón xuân nào quên giống Tiên Rồng
ĐNN
Xuân nầy khác hẵng mấy xuân qua
Đầu năm trổi dậy tiếng phèng la
Biểu ngữ giơ cao đòi quyền sống
Phản kháng biểu tình trẻ tới già
Lòng dân căm phẫn lên cao độ
Vận nước đến hồi sạch bóng ma
Cộng sản thế giới còn mấy mống
Giáp ngọ tân niên diệt ác tà
X
X X X
Năm nầy mã đáo chắc thành công
Chúc mừng năm mới quý bà ông
Cháu con sum họp về đông đủ
Việc làm học hành được hanh thông
Mong cho khỏe mạnh vui bè bạn
Đừng để ưu phiền ngồi ngóng trông
Đất khách quê người Tết lại đến
Đón xuân nào quên giống Tiên Rồng
ĐNN
Vịnh Cây Nêu
Tủi phận thân tre ai đoái màng
May mà đến được cửa nhà quan
Dân làng kính nể lân đua múa
Cửa huyện khiêm cung địa bái đàn
Xóm dưới trông chờ lân dẫn lối
Làng trên mở hội pháo dòn tan
Trên rừng thui thủi thân cô quạnh
Đứng trước nha quan lắm kẻ màng
NHA
HỌA
Ngày thường tre có dám mơ màng
Tết thành nêu nhà dân tới quan
Trừ tà chúc phúc mừng năm mới
Làng huyện mở hội địa bái đàn
Nêu cao gió đưa khánh reo gọi
Lân múa hăng nhờ pháo dòn tan
Mồng bảy hạ nêu thân khô héo
Mất linh làm sào luồn treo màn
ĐNN
Phố cổ Hội An
Hôi An một đời ta yêu dấu!
Bao kỷ niệm nhớ thời thơ ấu.
Sóng vỗ rì rào biển Cửa Đại.
Guốc khua vang gõ ván chùa cầu.
Xa lìa phố thân trai thời loạn.
Cuộc chiến tàn ta lại về đâu?
Nét cổ kính ngàn năm xưa cũ.
Mãi còn đây Phố Cổ nhiệm mầu!
Tủi phận thân tre ai đoái màng
May mà đến được cửa nhà quan
Dân làng kính nể lân đua múa
Cửa huyện khiêm cung địa bái đàn
Xóm dưới trông chờ lân dẫn lối
Làng trên mở hội pháo dòn tan
Trên rừng thui thủi thân cô quạnh
Đứng trước nha quan lắm kẻ màng
NHA
HỌA
Ngày thường tre có dám mơ màng
Tết thành nêu nhà dân tới quan
Trừ tà chúc phúc mừng năm mới
Làng huyện mở hội địa bái đàn
Nêu cao gió đưa khánh reo gọi
Lân múa hăng nhờ pháo dòn tan
Mồng bảy hạ nêu thân khô héo
Mất linh làm sào luồn treo màn
ĐNN
Phố cổ Hội An
Hôi An một đời ta yêu dấu!
Bao kỷ niệm nhớ thời thơ ấu.
Sóng vỗ rì rào biển Cửa Đại.
Guốc khua vang gõ ván chùa cầu.
Xa lìa phố thân trai thời loạn.
Cuộc chiến tàn ta lại về đâu?
Nét cổ kính ngàn năm xưa cũ.
Mãi còn đây Phố Cổ nhiệm mầu!
Vườn Chè Ngày Ấy
Mấy khi ghé thăm rẫy chè,
Chè xanh non mượt lá che rợp vườn.
Tiếc thay em gái hậu phương,
Đi đâu vắng bóng dễ thương hỏi chào!
Phải chăng em đã phá rào,
Chè tươi chớm lứa ai vào viếng thăm?
Nhớ xưa hành quân lạnh căm,
Mời anh trà nóng sủi tăm bát đầy.
Chân quê mộc mạc thơ ngây,
Quân dân cá nước binh thầy bên nhau.
Chia tay dạo đó lòng đau,
Người xưa gia thất trầu cau mặn nồng?
Lâu rồi còn nhớ chi không?
Đây trong ký ức mong trông ngày dài.
Cơ may hội ngộ trùng lai,
Chè tươi quê Mẹ nắng mai uống mừng!!!
Mấy khi ghé thăm rẫy chè,
Chè xanh non mượt lá che rợp vườn.
Tiếc thay em gái hậu phương,
Đi đâu vắng bóng dễ thương hỏi chào!
Phải chăng em đã phá rào,
Chè tươi chớm lứa ai vào viếng thăm?
Nhớ xưa hành quân lạnh căm,
Mời anh trà nóng sủi tăm bát đầy.
Chân quê mộc mạc thơ ngây,
Quân dân cá nước binh thầy bên nhau.
Chia tay dạo đó lòng đau,
Người xưa gia thất trầu cau mặn nồng?
Lâu rồi còn nhớ chi không?
Đây trong ký ức mong trông ngày dài.
Cơ may hội ngộ trùng lai,
Chè tươi quê Mẹ nắng mai uống mừng!!!
Cõi Mộng Tình Ta
Mặt hồ phẳng lặng nước trong,
Tình nhân đôi lứa cõi lòng mộng mơ.
Cỏ xanh mềm mại như tơ,
Bên nhau giây phút đâu ngờ thời gian?
Nhìn nhau say đắm miên mang,
Chim kêu mặc kệ suối ngàn ngại chi!
Quanh bờ vắng bóng người đi,
Cơ hội diễm phúc ít khi thế nầy.
Tâm tình thoải mái vui lây,
Tình trong như đã ngất ngây má hồng.
Bây chừ em vẫn còn không,
Cậy mai làm chồng chẳng đợi được lâu!
ĐNN
Mặt hồ phẳng lặng nước trong,
Tình nhân đôi lứa cõi lòng mộng mơ.
Cỏ xanh mềm mại như tơ,
Bên nhau giây phút đâu ngờ thời gian?
Nhìn nhau say đắm miên mang,
Chim kêu mặc kệ suối ngàn ngại chi!
Quanh bờ vắng bóng người đi,
Cơ hội diễm phúc ít khi thế nầy.
Tâm tình thoải mái vui lây,
Tình trong như đã ngất ngây má hồng.
Bây chừ em vẫn còn không,
Cậy mai làm chồng chẳng đợi được lâu!
ĐNN
Chủi Đót
Đót hoang mọc tận núi đồi,
Lá dài cưng cứng đâm trồi trổ bông.
Gió đưa cong ngọn hướng đông,
Hạt bay sườn dốc mưa giông nẫy mầm.
Lớn dần hóc núi suối ngầm,
Lá dùng gói bánh tro dầm nếp than.
Ú tro tập tục thế gian,
Đoan ngọ đón Tết bình an được mùa.
Chủi đót đi chợ nhớ mua,
Trong nhà ngoài ngõ quét lùa rác đi.
Từ xưa nhắc nhở truyền ghi,
Nhà sạch thì mát nhờ chi quét nhà.
Bát sạch ngon cơm quá mà!
Ai người thời trước nghĩ ra cho đời?
ĐNN
Đót hoang mọc tận núi đồi,
Lá dài cưng cứng đâm trồi trổ bông.
Gió đưa cong ngọn hướng đông,
Hạt bay sườn dốc mưa giông nẫy mầm.
Lớn dần hóc núi suối ngầm,
Lá dùng gói bánh tro dầm nếp than.
Ú tro tập tục thế gian,
Đoan ngọ đón Tết bình an được mùa.
Chủi đót đi chợ nhớ mua,
Trong nhà ngoài ngõ quét lùa rác đi.
Từ xưa nhắc nhở truyền ghi,
Nhà sạch thì mát nhờ chi quét nhà.
Bát sạch ngon cơm quá mà!
Ai người thời trước nghĩ ra cho đời?
ĐNN
3. Một chút buồn Gửi Người
Một chút buồn vương gửi đến ai
Bao lâu nhung nhớ dáng anh tài
Vườn Thu trăng khuyết đêm mờ tỏ
Gối phượng canh dài mộng nhạt phai
Nhớ nước phương trời tim quặn thắt
Thương nhà đất khách cảnh bi ai
Đèn khuya một bóng đôi dòng lệ
Một chút buồn vương gửi đến ai...
LKC
HỌA
Đêm dài khó ngủ nhớ đến ai?
Làm sao quên được kẻ anh tài.
Về khuya trăng khuyết thêm mờ ảo.
Giấc ngủ chập chờn mộng đã phai!
Quê người xa lạ lòng quặn thắt!
Thương nhà nhớ nước cảnh bi ai!
Giật mình thức giấc hoen mi ướt.
Nỗi buồn da diết nhớ riêng ai?
ĐNN
GỬI NẮNG CHO ANH
Hãy gửi cho anh chút nắng hồng
Cho hồn sưởi ấm lúc vào đông
Bâng khuâng khấp khởi lòng nhung nhớ
Luyến tiếc mong chờ dạ ngóng trông
Đem gió trao tình câu luyến ái
Mang mây gửi phận chữ chờ mong
Cho anh thỏa chí ngày đêm đợi
Để nụ hôn say thật ấm nồng!
NHT--23/12/2013
HỌA
Em gởi đến anh tia nắng hồng
Tình ta ấm mãi suốt mùa đông
Đêm nằm thao thức lòng nhung nhớ
Xa nhau luyến tiếc dạ chờ trông
Gởi gió trao tình xa cách biệt
Nương mây gởi tận đâu viển vông
Mộng tình rạo rực hòng mong đợi
Nhớ nụ hôn đầu đắm say nồng
ĐNN
23/12/2013
ÂU SẦU...
Người mãi xa rồi, ta mãi đau.!
Tình xưa năm tháng đã nhạt màu
Bóng câu, chim Nhạn trong mong đợi
Để trái tim côi luôn mãi rầu.!
Gặp gỡ nhau chi để tủi sầu
Mộng mơ, tình lỡ đã chìm sâu
Nửa đời hương phấn hồn hoang lạnh
Cõi thực hằng mơ với tim nhàu...!!
Hoàng Kim Vũ
HỌA
Người bỏ đi rồi ta mãi đau
Tình xưa thắm thiết nay nhạt màu
Chim nhạn rẽ bầy mong chi đợi
Tim côi nhung nhớ gieo âu sầu
Gặp gỡ nhau chi đành cách biệt
Tình tan mộng vỡ rầu ẩn sâu
Nửa đời hương phấn buồn hiu quạnh
Dõi theo tình xưa tim héo nhàu
Đoàn Ngọc Nam
2. ÁO NÀNG XANH
Áo Em, Màu tím Hoa sim
Hoa sim chăm sóc sân nhà,
Cành tươi sắc tím mặn mà mến yêu.
Hoa rừng cằn cỗi rong rêu,
Làm sao sánh kịp gấm thêu lụa là.
Yêu em yêu cả màu hoa,
Dẫu rằng nhụy úa nhạt nhòa còn hương.
Một mai dày dạng gió sương,
Tấm lòng chung thủy nhập vườn mới hay.
Cuộc đời thi vị đắng cay,
Kinh qua mới tỏ rủi may mấy hồi.
Hoạn nạn nào nỡ than ôi,
Đời người phẳng lặng nổi trôi sự thường.
Thế gian hai mặt miên trường,*
Miễn sao hợp nhãn sáng đường ngại chi.
Cũng đừng lo nghĩ thị phi,
Được nầy mất nọ tâm ghi đeo phiền.
Áo em màu tím của riêng,
Màu hoa than tím trinh nguyên tình nồng.
ĐNN
*Xin chào nhau giữa con đường,
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau.
(Thi Sĩ Bùi Giáng)
Hoa sim chăm sóc sân nhà,
Cành tươi sắc tím mặn mà mến yêu.
Hoa rừng cằn cỗi rong rêu,
Làm sao sánh kịp gấm thêu lụa là.
Yêu em yêu cả màu hoa,
Dẫu rằng nhụy úa nhạt nhòa còn hương.
Một mai dày dạng gió sương,
Tấm lòng chung thủy nhập vườn mới hay.
Cuộc đời thi vị đắng cay,
Kinh qua mới tỏ rủi may mấy hồi.
Hoạn nạn nào nỡ than ôi,
Đời người phẳng lặng nổi trôi sự thường.
Thế gian hai mặt miên trường,*
Miễn sao hợp nhãn sáng đường ngại chi.
Cũng đừng lo nghĩ thị phi,
Được nầy mất nọ tâm ghi đeo phiền.
Áo em màu tím của riêng,
Màu hoa than tím trinh nguyên tình nồng.
ĐNN
*Xin chào nhau giữa con đường,
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau.
(Thi Sĩ Bùi Giáng)
Còn Đâu Thác Bản Giốc
dừng chân ngắm thác Người
biên giới hùng vĩ quá
nước Mỹ Ca na đa
bạn láng giềng hai xứ
mỗi bên trấn hùng cứ
đâu lấn chiếm dành riêng
cảnh đẹp chốn thiên nhiên
cùng nhau vui chiêm ngưỡng
thác Bản Giốc bức cưỡng
bởi nước xấu cận lân
dân đông lệch cán cân
lấy số đông đè người
dân dỡ khóc dỡ cười
dâng hiến lũ đười ươi
chúng say sưa nuốt tươi
đến bao giờ trả lại
đất nước được toàn cai
du lịch thăm nước ta
không đâu hơn quê nhà
Bản Giốc chốn bồng lai
ĐNN
dừng chân ngắm thác Người
biên giới hùng vĩ quá
nước Mỹ Ca na đa
bạn láng giềng hai xứ
mỗi bên trấn hùng cứ
đâu lấn chiếm dành riêng
cảnh đẹp chốn thiên nhiên
cùng nhau vui chiêm ngưỡng
thác Bản Giốc bức cưỡng
bởi nước xấu cận lân
dân đông lệch cán cân
lấy số đông đè người
dân dỡ khóc dỡ cười
dâng hiến lũ đười ươi
chúng say sưa nuốt tươi
đến bao giờ trả lại
đất nước được toàn cai
du lịch thăm nước ta
không đâu hơn quê nhà
Bản Giốc chốn bồng lai
ĐNN
Đò Ngang
“Con ơi nhớ lấy điều nầy,
Sông sâu chớ lội đó đầy đừng sang.”
Gặp nhau ở bến đò ngang,
Hà Thân bến đợi thênh thang sông Hàn.
Lỡ đò sinh chuyện luận bàn,
Hôm nay môn toán Thầy Hoan vắng giờ.
Hẹn nhau tới lúc lên bờ,
Dưới cây phượng vỹ tình cờ hôm xưa.
Đâu ngờ trời đổ trận mưa,
Cơn giông bất chợt xế trưa nửa ngày.
Áo dài màu trắng lộ ngay,
Tấm thân thiếu nữ rõ bày đường cong.
Liếc nhìn bụng thắt lưng ong,
Trông qua đã mến lòng trong khen thầm.
Nhớ lời mẹ dặn ghi tâm,
Trăm năm chọn bạn thanh âm rõ ràng.
Dung nhan tính nết đoan trang,
Người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe.
Ham chi cô gái theo ghe,
Đò dọc buôn chuyến khắt khe nhớ đừng.
Ban sơ mới gặp người dưng,
Sống lâu chung đụng đã từng bên nhau.
ĐNN
“Con ơi nhớ lấy điều nầy,
Sông sâu chớ lội đó đầy đừng sang.”
Gặp nhau ở bến đò ngang,
Hà Thân bến đợi thênh thang sông Hàn.
Lỡ đò sinh chuyện luận bàn,
Hôm nay môn toán Thầy Hoan vắng giờ.
Hẹn nhau tới lúc lên bờ,
Dưới cây phượng vỹ tình cờ hôm xưa.
Đâu ngờ trời đổ trận mưa,
Cơn giông bất chợt xế trưa nửa ngày.
Áo dài màu trắng lộ ngay,
Tấm thân thiếu nữ rõ bày đường cong.
Liếc nhìn bụng thắt lưng ong,
Trông qua đã mến lòng trong khen thầm.
Nhớ lời mẹ dặn ghi tâm,
Trăm năm chọn bạn thanh âm rõ ràng.
Dung nhan tính nết đoan trang,
Người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe.
Ham chi cô gái theo ghe,
Đò dọc buôn chuyến khắt khe nhớ đừng.
Ban sơ mới gặp người dưng,
Sống lâu chung đụng đã từng bên nhau.
ĐNN
01. XE GIO