và đi Quốc Học Huế để học đệ nhất sau khi đổ tú tài I, vì TQC chưa có đệ nhất
Đại Học Khoa Học mấy năm(vì đi du học bị trục trặc ) nên sau đó vào Ykhoa Huế,
Khi ra trường dạy trường Y và hành nghề Y, nhưng không ở Huế mà ở Đanang để hưóng dẩn cho các bác sỉ sắp ra trường(nội trú ) thực tâp ở bệnh viện Đanang,
Trong thời gian ở Đanang cùng các CHS TQC ở Đanang, đã lập hội aí hửu CHC TQC trong đó có:
ThầyThái Lộc (phó thị trưởng),
Hoàng Qui (trưởng đài phát thanh),
Hồ Minh (Thẩm phán phó Ủy Viên chính phủ toà án quân sự vùng I)
Thái Tú Hạp, Luân Hoán...vv.
Ngoài mục đích tuơng thân còn gây qủy để cho học bổng cho các học sinh TQC,và các sinh hoạt xả hội vvv....cho đến 1975, đi Mỹ rồi Canada,
Trở lại nghề Y ở Canada từ 1977 và hiện vẫn còn hành nghề Y tại Montreal ,Quebec, Canada,
Lập ban bảo trợ ty nạn, gây quỷ để lảnh đồng bào tỵ nạn và tranh đấu cho thuyền nhânvào thập niên 80
Hiện có vợ và 03 con.
Cầu Thệ Thủy, Quán Thu Phong.
Thu đã chín lắm rồi. Lá thu miên man rơi, gió thu đìu hiu tới và trời như một màu thu úa, dù nắng còn long lanh chút thủy tinh vàng trên cành kia cỏ nọ. Chiều chậm dần buông như cố níu kéo chút ngày mệt mỏi. Về thôi! Lòng nhủ thầm khi nhìn qua ráng trời pha sắc tím. Lại một ngày thu đi qua đời mình lặng lẽ. Tuổi đời chừng đã thấm đẫm những tang thương khi nhìn lại tháng ngày hải hồ vừa qua. Tuổi trung niên tri thiên mệnh đến thật nhẹ nhàng mà âm thầm không hẹn ước. Chẳng hiểu vì sao cứ cuối ngày khi nắng chiều buông là thấy lòng ngây ngây buồn. Cái buồn vu vơ nhè nhẹ như gió thu vỗ về liếp cửa. Những giọt nắng cuối ngày như nhắc nhủ lòng chưa làm được bao nhiêu, tình chưa đáp trọn chín chiều mong ngóng mà đêm đã thấp thoáng ngoài hiên. Ôi! Tà huy hay tháng ngày còn lại của đời mình - lay bay.
Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rũ tà huy
(Cung oán ngâm khúc-Nguyễn Gia Thiều)
Tuyệt vời làm sao khi trong tiếng thơ ai oán của nàng cung nữ có lời ước hẹn trôi xuôi theo dòng nước dưới chân cầu. Thệ thủy là lời ước nguyện son sắc thủy chung. Cầu thệ thủy thì còn trơ đó với ngàn năm cổ độ, mà nước dưới chân cầu thì xuôi mãi nơi mô. Dòng nước dưới chân cầu soi bóng tình yêu ngày nào, có nàng vân vê tà áo, có chàng ném hòn sỏi lao xao, làm những con sóng nhỏ xóa tan ánh chiều vàng vọt. Đầu dốc lên cầu có chiếc quán cóc liêu xiêu mái tranh phên tre. Dăm ba chiếc ghế đẩu, vài cốc rượu thuốc sẫm màu hổ phách lưu ly, chút đợi chờ háo hức nôn nao. Đó là quán thu phong. Quán đợi đầy gió mùa thu, đứng rũ tà huy. Nghe hoàng hôn xuống, trên hiên quán chiều. Chiếc cầu thì ngồi đợi. Quán vắng thì đứng trông. Cổ độ cho thời gian ngan ngát bay. Tà huy cho rũ hết xôn xao ánh ngày. Thật không có bức tranh nào đẹp lặng người như vậy. Từng con chữ ước lệ đẹp thâm sâu lồng lộng. Từng ý tứ tương phản đẩy đưa làm say đắm một chiều thu. Dẫu có ngậm ngùi cho nàng cung nữ khi bước chân vào Nội, là khi ngàn trùng thay đổi phận đời. Quân vương đó có mặn nồng mưa móc mấy thu mà lời hẹn ước như lá mục dưới chân cầu thao thiết chảy. Nàng cung nữ ấy hẳn còn quá son trẻ để nhìn bóng tà huy rũ xuống đời mình những được mất vàng son và cung cấm.
Khi cụ Nguyễn Du về Hà Tỉnh, nhìn con sông xưa bồi hồi nhớ người vợ cả đã mất. Niềm nhớ khôn nguôi khi dòng sông hẹn thề còn đó, mà người xưa đã quá vãng xa xăm. Nghĩ đến nhau ắt sẽ gặp nhau, tìm thấy nhau qua giấc mộng. Và bài thơ Ký Mộng ra đời. Những ghi chép lại qua giấc mộng. Cũng khởi đầu bằng dòng sông thệ thủy:
Thệ thủy nhật dạ lưu
Du tử hành vị quy
Kinh niên bất tương kiến
Hà dĩ úy tương tư
Dòng sông thề ngày đêm chảy mãi,
Du tử đi sao lại chữa về!
Bao năm vắng bóng ủ ê,
Cách gì an ủi đêm về nhớ nhau!
Nỗi nhớ như nhân gấp bội khi chiều xuống, ngày tàn. Khói sóng bâng khuâng hồn du tử. Sóng nhỏ ven bờ lao xao tình quân. Bóng chiếc cầu lẻ loi soi một ráng chiều ngan ngát tím. Tà huy về chết lịm những vần thơ. Những vần thơ xưa cô đọng như trầm tích hóa đá của nỗi lòng người chinh phụ. Hỏi lòng sao không rung động khi nghe khúc Chinh phụ ngâm, nhớ chồng ngoài chinh chiến, chờ mong tin nhạn biền biệt tháng ngày mòn mỏi. Thư năm trước chàng hẹn ngày về. Tiếng ngựa dừng đầu làng người phu trạm đưa lá thư chồng. Nắng cuối ngày le lói con chữ thương yêu, viết vội trên mảnh giấy còn nồng khói lửa chiến trường. Đời trai chinh chiến còn bận khói lửa binh đao. Giặc phương Bắc còn giày xéo biên cương. Thì hãy đợi! Ngày về còn xa lắm...
Thư quy nhân vị quy
Sa song tịch mịch chuyển tà huy
Tà huy, tà huy, hựu tà huy
Thập ước giai kỳ cửu độ vi
(Đặng trần Côn.)
Thư tới người chưa tới
Song the tịch mịch ánh chiều rơi
Chiều rơi, chiều rơi lại chiều rơi
Ước hẹn mười phen chín bận dời
(Bản dịch Nguyễn huy Hùng.)
Có một lần cảm khái với tà huy bay, để Bùi Giáng vẽ nên nàng thiếu nữ khỏa thân sau cuộc trở về đầy cát bụi phong trần (mà người viết đã có lần ca tụng trong bài Cho Tà Huy Bay), Phạm Thiên Thư cũng có vần thơ đẹp cho buổi chiều rơi trên mái tóc dài và con bướm vàng mộng mị:
Tóc dài cuối nội mây xa
Vàng con bướm nhụy lẫn tà huy bay
Dùng dằng tay lại cầm tay
Ơi! tà huy, tà huy lại tà huy. Như điệp khúc bi thương trong lòng người nhung nhớ. Cứ lập lại mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi con trăng hay mỗi mùa thu rụng. Để nỗi hờn trách cho buổi chiều rơi. Chiều rơi thì hẳn phải buông xuống cỏi này những thanh âm như lá rụng, nước chảy hay tiếng lòng thở dài theo gió thu. Mang mác những ngậm ngùi tàn phai. Như quán lá thu phong, lồng lộng gió thu hoài niệm. Như chiếc cầu nối hai bờ cách trở, nay làm sao soi bóng dáng tự tình một ngày xưa ước hẹn. Và nước cứ chảy dưới chân cầu, mây nội ngàn năm lơ lửng, tà huy cứ rũ úa mỗi chiều rơi. Còn đâu lời thệ ước như sỏi đá trơ vạn cổ niên sầu.
Chiều cuối thu xa xăm nơi đất khách bao dung, thấy đời mình có như là một quán vắng. Lòng chùng xuống khi tà huy chập chùng ngoài ngõ lặng. Về thôi! về bên bếp hồng bắc nồi cháo gạo lức. Kho nồi cá thệ để nghe nhức trong răng những hoài cảm nao lòng. A! con cá bống thệ mà thủy chung như lời thề. Thệ là thề hẹn, thệ cũng là chảy qua, đi qua, bay qua không trở lại. Con cá bống thệ vùng có nhiều khúc sông nước xoáy ở Vỹ Dạ, ở làng Truồi quê nội. (Mang tên thệ là rứa đó!) Mạ thường kho khô, con cá kho liu riu lửa, cứng và thấm đến cong đuôi. dáng chữ C như nụ cười móm đẹp của Mạ. Mùa thu lành lạnh. Buổi sáng hay buổi khuya, ăn tô cháo gạo hẻo rằn đỏ với cá thệ kho khô, kho với trái ớt chỉ thiên đỏ thắm. Nghe hoài niệm thấm như nồi cá thệ. Nghe mùa thu mang lời ru thệ thủy. Thấy đời mình như quán thu phong. Mặc tà huy cứ lay bay, ngày lại ngày tha thiết.
Bảo Sinh./.