PHẠM THÀNH CHÂU
19. Ðêm Giao Thừa Của Những Người Lính Mất Nước
Năm 1981, tôi được gọi tên ra khỏi nhà tù Cộng Sản. Hơn sáu năm tù là tiêu chuẩn thấp nhất cho tù quân, cán, chính, đảng phái, tôn giáo Việt Nam Cộng Hòa
Thông thường, tù được thả về vào những dịp lễ, tết. Tôi ở tù vùng núi rừng tây bắc Việt Nam, được thả về trước tết âm lịch. Ði xe lửa Hà Nội - Sài Gòn, về đến ga Bình Triệu thì đúng vào 29 tháng chạp âm lịch. Tôi đi bộ từ ga Bình Triệu về đường Võ Duy Nghi, Phú Nhuận (Sài Gòn). Khi đi tù, tôi có gửi thư về nhà cha mẹ vợ, ở đường Võ Duy Nghi, là nơi vợ tôi và hai đứa con tá túc, nhưng không thấy trả lời cũng chẳng được thăm nuôi trong mấy năm đi tù. Nhờ sức trai, tôi chịu đựng được chứ mấy ông lớn tuổi mà không có thăm nuôi, bịnh hoạn, đói lạnh, chết gần hết. Tôi từng thấy nhiều ông tù chết, được bó bằng cái chăn rách của ông ta, bỏ lên xe cải tiến, kéo đi trong sân, ra cổng. Hai cái chân khô đét, xanh lét thò ra khỏi xe, nhịp lên nhịp xuống theo bánh xe gập ghềnh, tưởng như người chết nằm rung chân khoái trá được vĩnh viễn ra khỏi nhà tù, lên gò nằm ngủ khỏe, khỏi phải “lao động là vinh quang"
Khi tôi đến nhà bên vợ, mới bước lên thềm, tôi đã dội ngược. Nghe giọng Bắc Kỳ 75, tôi biết gia đình cán bộ đang ở trong đó. Như vậy, gia đình bên vợ tôi đã bị đánh tư sản, tài sản bị tịch thu, cả nhà bị đưa lên kinh tế mới. Chẳng biết vợ con tôi bây giờ ra sao? Tôi ôm gói đồ tù, gồm quần đùi, khăn lau mặt và bàn chải đánh răng. (Người tù, khi được thả về, tất cả áo quần, mùng màng, lương thực thăm nuôi, thuốc men... đều để lại cho bạn tù, chỉ đem theo vật dụng đi đường) đi lang thang mà chẳng biết về đâu? Anh em ruột thịt chưa chắc đã dám chứa “tù ngụy” trong nhà vì sẽ bị công an các cấp đến hạch sách, hăm dọa thường xuyên, nên tôi chẳng hi vọng gì ở từ tâm của bà con, bạn bè. Có lẽ phải sau tết, tôi đến hàng xóm của gia đình bên vợ hỏi thăm tin tức thì họa may.
Tôi cứ đi lòng vòng trên đường Võ Duy Nghi, Hai Bà Trưng, Hiền Vương với cái bụng trống rỗng, nhìn ngơ ngáo mấy chậu bông tết người ta bày bán trước nhà thờ Tân Ðịnh, chứ không dám nhìn vào mấy tiệm bánh, hủ tiếu, phở. Ðói bụng nên mũi rất thính. Mùi thơm của thức ăn từ các tiệm đó làm chảy nước miếng. Khoảng mười giờ tối, đi rả chân, tôi nằm đại vào một hiên nhà người ta, trên đường Hai Bà Trưng, bên kia đường là nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi. Hai bên lề đường Hai Bà Trưng, giăng đầy mùng của dân kinh tế mới. Họ là dân Sài Gòn, sau năm 1975 bị đánh tư sản. Nhà nước Cộng Sản tịch thu tài sản, đẩy lên kinh tế mới với hai bàn tay trắng, nơi rừng núi hoang vu khai phá đất đai sinh sống, nhưng bịnh và đói, chết dần, họ bỏ về Sài Gòn, ngủ lề đường cùng với dân bụi đời, vô gia cư, cầu bơ cầu bất.
Vừa thiu thiu ngủ, tôi bỗng bị đá vào người rồi có tiếng nạt “Ông nầy. Chỗ của tụi tôi, ai cho ông nằm đây?” Tôi giật mình, lồm cồm ngồi lên, ôm gói đồ tù “Xin lỗi. Tôi tưởng không có ai”. Qua ánh đèn đường, tôi thấy hai cậu trung niên, khoảng bốn mươi tuổi, tướng bậm trợn, đứng chống nạnh nhìn tôi. Khi tôi bước xuống thềm, đi được mấy bước thì bị gọi giật lại “Chú!” Tôi dừng lại, yên lặng quay nhìn “Chú có phải đi tù về không?” “Phải. Mà sao?” “Chú cứ ngủ đây đi. Tụi nầy ngủ lề đường cũng được” “Sao cũng được. Cám ơn”
Làm phật lòng mấy tay nầy chỉ thêm phiền nên tôi phải vâng lời, quay lại, nằm xuống hiên, gối đầu lên bọc tù, nhắm mắt để đó chứ không ngủ tiếp được. Hai tay giang hồ nầy, lẽ ra, có thể nằm phần còn lại của hiên nhà nhưng lại giăng mùng ngủ trên lề đường, gần nơi tôi nằm. Cách giăng mùng của họ cũng đơn giản. Mấy cái túi hay xách, bị gì đó chắn trên đầu và dưới chân, đình mùng cao độ hai gang tay, không chạm mặt người nằm bên trong, thật nhanh và thuận tiện. Hai cậu nằm trong mùng vừa chuyện trò vừa chửi thề rồi cười hắc hắc nghe thật ngang tàng. Tôi nằm nhìn thiên hạ qua lại. Xe gắn máy chạy vù vù, người đi bộ lê dép lẹp xẹp. Tôi không biết ngày mai đi đâu với cái túi trống trơn và cái bụng xẹp lép? Mấy năm tù đã làm cho đầu óc tôi mụ mẫm, chẳng thèm lo nghĩ. Ðến đâu hay đó. Trong tù, sáng nghe kẻng báo thức, dậy ra ngồi trước cửa nhà tù để cán bộ coi tù đếm tù, lãnh mấy củ khoai mỳ hay trái bắp, ăn xong chờ kẻng để sắp hàng ra cổng, lao động. Chiều về, lại mấy củ khoai, trái bắp gì đó, ăn xong, ngồi cho cán bộ đếm tù rồi vô nhà tù nằm chờ giấc ngủ. Cán bộ khóa cửa nhà tù, bỏ đi. Khuya lại thường có bộ đội (vệ binh) mang súng đi tuần rỏn bên ngoài các nhà tù. Tù kiệt sức sau một ngày lao động, đói và mệt rả rời nên ngủ vùi, có thao thức mà nghĩ đến gia đình cũng vô ích. Trong tù, chẳng ai biết ngày giờ, chỉ khi nào được chén cơm trắng với chút mỡ heo hoặc miếng thịt trâu mới biết là ngày lễ lớn hoặc tết nhất. Nghỉ một ngày lao động, ăn chén cơm là biết một năm đã đi qua nhưng không bao giờ tự hỏi mình đã bao nhiêu tuổi rồi? Càng suy nghĩ càng mau chết vì mất ngủ. Nhiều ông lớn tuổi, bịnh hoạn, tối nhắm mắt để rồi sáng hôm sau không thèm mở mắt. Cứ thế mà vào cõi hư vô... Ðang suy nghĩ linh tinh thì có hai ông xuất hiện, dừng lại trước hiên, nơi tôi nằm. Thấy mỗi ông một gói đồ tù trên tay, tôi biết ngay là bạn “đồng tù” nhưng làm thinh. Một ông thấy tôi nằm lỏ mắt nhìn, bèn hỏi “Anh ơi. Chỗ nầy còn trống, cho tụi tôi nằm đỡ. Ðược không?” “Ðây đâu phải nhà của tôi. Mấy anh cứ tự nhiên” Hai ông bèn bước lên thềm, ngồi xuống, tựa lưng vào tường, duỗi chân, ẹo mình coi bộ mệt mỏi. Họ nói chuyện rù rì nhưng tôi nghe rõ và biết họ cũng từ ngoài Bắc về chung một chuyến xe lửa cuối năm với tôi. Họ đối đáp nhát gừng nhưng vẫn đậm đà tình thân. Họ kể về các trận đánh trong đó có bạn bè, người còn, người mất. Khi nhắc đến người bạn nào đã ngã gục ngoài chiến trường, họ tặc lưỡi, thì thầm “... Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Tôi cũng tốt nghiệp sĩ quan nhưng về bộ binh, nghe họ chuyện trò, tôi biết hai ông là lính dù, một ông là đại đội trưởng, ông kia là sĩ quan pháo binh tiểu đoàn dù. Hình như họ cùng tiểu đoàn nên chuyện trò rất thân mật. Trong câu chuyện, chẳng ai nhắc đến bóng hồng nào mà toàn chuyện lính tráng, đánh đấm. Tuổi trẻ miền Nam lớn lên, vừa xong trung học, buông bút là vào quân trường cầm súng. Họ, đa số chưa có người yêu. Ba lô, súng đạn như người bạn đời, sinh mạng phó mặc cho viên đạn nhỏ bằng mút đũa hay mảnh pháo có khi chỉ bằng cái móng tay quyết định... Tôi may mắn, có vợ con, nhưng bây giờ cũng như khôngï. Tôi yên lặng nghe hai ông bạn đồng tù trò chuyện và nghĩ vẩn vơ. Khi Cộng Sản miền bắc phát động chiến tranh, đánh chiếm miền Nam, hàng triệu thanh niên trai trẻ lên đường chiến đấu để chống xâm lăng, bảo vệ tự do, an lành cho đồng bào miền Nam với sự trợ giúp của nước Mỹ. Nước Mỹ giúp miền nam Việt Nam để “be bờ” Cộng Sản. Ðột nhiên, từ năm 1973, viện trợ Mỹ giảm dần rồi đến con số không. Một đô la cũng không có. “Nước Mỹ không có bạn, không có thù. Chỉ có quyền lợi của nước Mỹ”. Nghe nói họ bắt tay với Trung Cộng, để miền nam Viêït Nam cho Cộng Sản, đổi lấy gì đó. Thế là miền Nam bị bó tay. Súng không có đạn, máy bay, xe cộ, thiết giáp, tàu bè không có xăng, trong khi đó, cả một khối Cộng Sản quốc tế khổng lồ viện trợ tối đa cho Cộng Sản miền bắc, để họ kéo vào, thoải mái bắn giết quân dân miền nam. Người nào sống sót thì đưa đi tù cải tạo, không có ngày về... Thủ tướng Việt Cộng Phạm Văn Ðồng ra lịnh, đại ý “Không giết tên nào cả. Ðưa hết bọn chúng lên vùng rừng thiêng nước độc, bắt làm thật nhiều, ăn thật ít, chúng sẽ chết dần, thế giới không thể biết được”. (ngay cả khi tù chết, họ cũng cho vùi xác rải rác trong rừng chứ không chôn một nơi nhất định). Tôi nhớ, sau tháng tư năm 1975. Ngụy quân, ngụy quyền (quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa) phải trình diện ủy ban quân quản để được học tập cải tạo trong một tháng. Mấy tháng đầu chỉ lên hội trường học tập, nghe các cán bộ thuyết trình “mười bài”. Một lần, trong một buổi “lên hội trường”, cán bộ đứng trên bục chỉ tay xuống bọn tù ngồi phía dưới chửi “Các anh là rác rưởi của rác rưởi...” Chửi xong cán bộ hỏi “Có ai có ý kiến gì không?” Một ông tù xin phát biểu “Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia riêng biệt, có lãnh thổ, có dân, có chính quyền do dân bầu lên, được quốc tế công nhận, không gây thù chuốc oán gì với miền Bắc, vì sao các ông vào bắn giết chúng tôi, bỏ tù chúng tôi còn bảo rằng chúng tôi có nợ máu với nhân dân?...” Nghe đúng bài mình đã thuộc, cán bộ vui vẻ giảng rằng “Chúng tôi vào giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ. Các anh tiếp tay với đế quốc Mỹ, làm tay sai cho chúng để đàn áp, đánh phá sự nghiệp cách mạng, thống nhất đất nước của đảng và nhân dân ta. Các anh đáng bị xử bắn hàng trăm lần cũng chưa hết tội. Nay đảng và nhà nước khoan hồng, tập trung các anh vào đây để cách ly các anh khỏi bị nhân dân căm thù, đòi nợ máu các anh đồng thời tạo cơ hội để các anh nhận biết tội lỗi của mình mà lập công chuộc tội, ra sức lao động, học tập để tiến bộ thành công dân tốt xã hội chủ nghĩa, đuợc đảng và nhà nước khoan hồng cho về sum họp với gia đình. Các anh hiểu chưa? Có ai ý kiến gì nữa không?” Ông tù đó lại giơ tay, đứng lên “Theo như tài liệu cán bộ cho học tập thì. Năm 1959 miền bắc đã mở đường “Trường Sơn 59”, đưa quân vào nam. Năm 1960 đã lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mãi đến năm 1964, Mỹ mới đổ quân vào Ðà Nẵng. Như vậy, trước khi Mỹ vào Việt Nam, các ông đã nhận lệnh của Nga, Tàu, nhận súng đạn của Nga, Tàu vào bắn giết, giật mìn xe đò, pháo kích vào trường học, chôn sống đồng bào vô tội miền Nam. Như thế thì ai có nợ máu với nhân dân?...” Nghe chưa dứt câu, cán bộ giận xanh mặt rít lên “Ðem nó đi cùm!” Ông ta bị công an võ trang bao vây quanh đấy lôi đi. Tối đó ông ta bị công an thay phiên nhau đánh đến chết, vất xác trong rừng... (Sau nầy, trước đền thờ tổng bí thư Lê Duẫn có khắc câu mà Lê Duẫn thường nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô Trung Quốc” Câu nói khiến cho quân đội nhân dân Việt Nam (Việt Cộng) ngỡ ngàng. Cựu đại tá Tư Cúc (Lê Cúc) phải kêu lên “Hóa ra quân đội nhân dân Việt Nam là lính đánh thuê cho Liên Xô, Trung Quốc
Năm 1981, tôi được gọi tên ra khỏi nhà tù Cộng Sản. Hơn sáu năm tù là tiêu chuẩn thấp nhất cho tù quân, cán, chính, đảng phái, tôn giáo Việt Nam Cộng Hòa
Thông thường, tù được thả về vào những dịp lễ, tết. Tôi ở tù vùng núi rừng tây bắc Việt Nam, được thả về trước tết âm lịch. Ði xe lửa Hà Nội - Sài Gòn, về đến ga Bình Triệu thì đúng vào 29 tháng chạp âm lịch. Tôi đi bộ từ ga Bình Triệu về đường Võ Duy Nghi, Phú Nhuận (Sài Gòn). Khi đi tù, tôi có gửi thư về nhà cha mẹ vợ, ở đường Võ Duy Nghi, là nơi vợ tôi và hai đứa con tá túc, nhưng không thấy trả lời cũng chẳng được thăm nuôi trong mấy năm đi tù. Nhờ sức trai, tôi chịu đựng được chứ mấy ông lớn tuổi mà không có thăm nuôi, bịnh hoạn, đói lạnh, chết gần hết. Tôi từng thấy nhiều ông tù chết, được bó bằng cái chăn rách của ông ta, bỏ lên xe cải tiến, kéo đi trong sân, ra cổng. Hai cái chân khô đét, xanh lét thò ra khỏi xe, nhịp lên nhịp xuống theo bánh xe gập ghềnh, tưởng như người chết nằm rung chân khoái trá được vĩnh viễn ra khỏi nhà tù, lên gò nằm ngủ khỏe, khỏi phải “lao động là vinh quang"
Khi tôi đến nhà bên vợ, mới bước lên thềm, tôi đã dội ngược. Nghe giọng Bắc Kỳ 75, tôi biết gia đình cán bộ đang ở trong đó. Như vậy, gia đình bên vợ tôi đã bị đánh tư sản, tài sản bị tịch thu, cả nhà bị đưa lên kinh tế mới. Chẳng biết vợ con tôi bây giờ ra sao? Tôi ôm gói đồ tù, gồm quần đùi, khăn lau mặt và bàn chải đánh răng. (Người tù, khi được thả về, tất cả áo quần, mùng màng, lương thực thăm nuôi, thuốc men... đều để lại cho bạn tù, chỉ đem theo vật dụng đi đường) đi lang thang mà chẳng biết về đâu? Anh em ruột thịt chưa chắc đã dám chứa “tù ngụy” trong nhà vì sẽ bị công an các cấp đến hạch sách, hăm dọa thường xuyên, nên tôi chẳng hi vọng gì ở từ tâm của bà con, bạn bè. Có lẽ phải sau tết, tôi đến hàng xóm của gia đình bên vợ hỏi thăm tin tức thì họa may.
Tôi cứ đi lòng vòng trên đường Võ Duy Nghi, Hai Bà Trưng, Hiền Vương với cái bụng trống rỗng, nhìn ngơ ngáo mấy chậu bông tết người ta bày bán trước nhà thờ Tân Ðịnh, chứ không dám nhìn vào mấy tiệm bánh, hủ tiếu, phở. Ðói bụng nên mũi rất thính. Mùi thơm của thức ăn từ các tiệm đó làm chảy nước miếng. Khoảng mười giờ tối, đi rả chân, tôi nằm đại vào một hiên nhà người ta, trên đường Hai Bà Trưng, bên kia đường là nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi. Hai bên lề đường Hai Bà Trưng, giăng đầy mùng của dân kinh tế mới. Họ là dân Sài Gòn, sau năm 1975 bị đánh tư sản. Nhà nước Cộng Sản tịch thu tài sản, đẩy lên kinh tế mới với hai bàn tay trắng, nơi rừng núi hoang vu khai phá đất đai sinh sống, nhưng bịnh và đói, chết dần, họ bỏ về Sài Gòn, ngủ lề đường cùng với dân bụi đời, vô gia cư, cầu bơ cầu bất.
Vừa thiu thiu ngủ, tôi bỗng bị đá vào người rồi có tiếng nạt “Ông nầy. Chỗ của tụi tôi, ai cho ông nằm đây?” Tôi giật mình, lồm cồm ngồi lên, ôm gói đồ tù “Xin lỗi. Tôi tưởng không có ai”. Qua ánh đèn đường, tôi thấy hai cậu trung niên, khoảng bốn mươi tuổi, tướng bậm trợn, đứng chống nạnh nhìn tôi. Khi tôi bước xuống thềm, đi được mấy bước thì bị gọi giật lại “Chú!” Tôi dừng lại, yên lặng quay nhìn “Chú có phải đi tù về không?” “Phải. Mà sao?” “Chú cứ ngủ đây đi. Tụi nầy ngủ lề đường cũng được” “Sao cũng được. Cám ơn”
Làm phật lòng mấy tay nầy chỉ thêm phiền nên tôi phải vâng lời, quay lại, nằm xuống hiên, gối đầu lên bọc tù, nhắm mắt để đó chứ không ngủ tiếp được. Hai tay giang hồ nầy, lẽ ra, có thể nằm phần còn lại của hiên nhà nhưng lại giăng mùng ngủ trên lề đường, gần nơi tôi nằm. Cách giăng mùng của họ cũng đơn giản. Mấy cái túi hay xách, bị gì đó chắn trên đầu và dưới chân, đình mùng cao độ hai gang tay, không chạm mặt người nằm bên trong, thật nhanh và thuận tiện. Hai cậu nằm trong mùng vừa chuyện trò vừa chửi thề rồi cười hắc hắc nghe thật ngang tàng. Tôi nằm nhìn thiên hạ qua lại. Xe gắn máy chạy vù vù, người đi bộ lê dép lẹp xẹp. Tôi không biết ngày mai đi đâu với cái túi trống trơn và cái bụng xẹp lép? Mấy năm tù đã làm cho đầu óc tôi mụ mẫm, chẳng thèm lo nghĩ. Ðến đâu hay đó. Trong tù, sáng nghe kẻng báo thức, dậy ra ngồi trước cửa nhà tù để cán bộ coi tù đếm tù, lãnh mấy củ khoai mỳ hay trái bắp, ăn xong chờ kẻng để sắp hàng ra cổng, lao động. Chiều về, lại mấy củ khoai, trái bắp gì đó, ăn xong, ngồi cho cán bộ đếm tù rồi vô nhà tù nằm chờ giấc ngủ. Cán bộ khóa cửa nhà tù, bỏ đi. Khuya lại thường có bộ đội (vệ binh) mang súng đi tuần rỏn bên ngoài các nhà tù. Tù kiệt sức sau một ngày lao động, đói và mệt rả rời nên ngủ vùi, có thao thức mà nghĩ đến gia đình cũng vô ích. Trong tù, chẳng ai biết ngày giờ, chỉ khi nào được chén cơm trắng với chút mỡ heo hoặc miếng thịt trâu mới biết là ngày lễ lớn hoặc tết nhất. Nghỉ một ngày lao động, ăn chén cơm là biết một năm đã đi qua nhưng không bao giờ tự hỏi mình đã bao nhiêu tuổi rồi? Càng suy nghĩ càng mau chết vì mất ngủ. Nhiều ông lớn tuổi, bịnh hoạn, tối nhắm mắt để rồi sáng hôm sau không thèm mở mắt. Cứ thế mà vào cõi hư vô... Ðang suy nghĩ linh tinh thì có hai ông xuất hiện, dừng lại trước hiên, nơi tôi nằm. Thấy mỗi ông một gói đồ tù trên tay, tôi biết ngay là bạn “đồng tù” nhưng làm thinh. Một ông thấy tôi nằm lỏ mắt nhìn, bèn hỏi “Anh ơi. Chỗ nầy còn trống, cho tụi tôi nằm đỡ. Ðược không?” “Ðây đâu phải nhà của tôi. Mấy anh cứ tự nhiên” Hai ông bèn bước lên thềm, ngồi xuống, tựa lưng vào tường, duỗi chân, ẹo mình coi bộ mệt mỏi. Họ nói chuyện rù rì nhưng tôi nghe rõ và biết họ cũng từ ngoài Bắc về chung một chuyến xe lửa cuối năm với tôi. Họ đối đáp nhát gừng nhưng vẫn đậm đà tình thân. Họ kể về các trận đánh trong đó có bạn bè, người còn, người mất. Khi nhắc đến người bạn nào đã ngã gục ngoài chiến trường, họ tặc lưỡi, thì thầm “... Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Tôi cũng tốt nghiệp sĩ quan nhưng về bộ binh, nghe họ chuyện trò, tôi biết hai ông là lính dù, một ông là đại đội trưởng, ông kia là sĩ quan pháo binh tiểu đoàn dù. Hình như họ cùng tiểu đoàn nên chuyện trò rất thân mật. Trong câu chuyện, chẳng ai nhắc đến bóng hồng nào mà toàn chuyện lính tráng, đánh đấm. Tuổi trẻ miền Nam lớn lên, vừa xong trung học, buông bút là vào quân trường cầm súng. Họ, đa số chưa có người yêu. Ba lô, súng đạn như người bạn đời, sinh mạng phó mặc cho viên đạn nhỏ bằng mút đũa hay mảnh pháo có khi chỉ bằng cái móng tay quyết định... Tôi may mắn, có vợ con, nhưng bây giờ cũng như khôngï. Tôi yên lặng nghe hai ông bạn đồng tù trò chuyện và nghĩ vẩn vơ. Khi Cộng Sản miền bắc phát động chiến tranh, đánh chiếm miền Nam, hàng triệu thanh niên trai trẻ lên đường chiến đấu để chống xâm lăng, bảo vệ tự do, an lành cho đồng bào miền Nam với sự trợ giúp của nước Mỹ. Nước Mỹ giúp miền nam Việt Nam để “be bờ” Cộng Sản. Ðột nhiên, từ năm 1973, viện trợ Mỹ giảm dần rồi đến con số không. Một đô la cũng không có. “Nước Mỹ không có bạn, không có thù. Chỉ có quyền lợi của nước Mỹ”. Nghe nói họ bắt tay với Trung Cộng, để miền nam Viêït Nam cho Cộng Sản, đổi lấy gì đó. Thế là miền Nam bị bó tay. Súng không có đạn, máy bay, xe cộ, thiết giáp, tàu bè không có xăng, trong khi đó, cả một khối Cộng Sản quốc tế khổng lồ viện trợ tối đa cho Cộng Sản miền bắc, để họ kéo vào, thoải mái bắn giết quân dân miền nam. Người nào sống sót thì đưa đi tù cải tạo, không có ngày về... Thủ tướng Việt Cộng Phạm Văn Ðồng ra lịnh, đại ý “Không giết tên nào cả. Ðưa hết bọn chúng lên vùng rừng thiêng nước độc, bắt làm thật nhiều, ăn thật ít, chúng sẽ chết dần, thế giới không thể biết được”. (ngay cả khi tù chết, họ cũng cho vùi xác rải rác trong rừng chứ không chôn một nơi nhất định). Tôi nhớ, sau tháng tư năm 1975. Ngụy quân, ngụy quyền (quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa) phải trình diện ủy ban quân quản để được học tập cải tạo trong một tháng. Mấy tháng đầu chỉ lên hội trường học tập, nghe các cán bộ thuyết trình “mười bài”. Một lần, trong một buổi “lên hội trường”, cán bộ đứng trên bục chỉ tay xuống bọn tù ngồi phía dưới chửi “Các anh là rác rưởi của rác rưởi...” Chửi xong cán bộ hỏi “Có ai có ý kiến gì không?” Một ông tù xin phát biểu “Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia riêng biệt, có lãnh thổ, có dân, có chính quyền do dân bầu lên, được quốc tế công nhận, không gây thù chuốc oán gì với miền Bắc, vì sao các ông vào bắn giết chúng tôi, bỏ tù chúng tôi còn bảo rằng chúng tôi có nợ máu với nhân dân?...” Nghe đúng bài mình đã thuộc, cán bộ vui vẻ giảng rằng “Chúng tôi vào giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ. Các anh tiếp tay với đế quốc Mỹ, làm tay sai cho chúng để đàn áp, đánh phá sự nghiệp cách mạng, thống nhất đất nước của đảng và nhân dân ta. Các anh đáng bị xử bắn hàng trăm lần cũng chưa hết tội. Nay đảng và nhà nước khoan hồng, tập trung các anh vào đây để cách ly các anh khỏi bị nhân dân căm thù, đòi nợ máu các anh đồng thời tạo cơ hội để các anh nhận biết tội lỗi của mình mà lập công chuộc tội, ra sức lao động, học tập để tiến bộ thành công dân tốt xã hội chủ nghĩa, đuợc đảng và nhà nước khoan hồng cho về sum họp với gia đình. Các anh hiểu chưa? Có ai ý kiến gì nữa không?” Ông tù đó lại giơ tay, đứng lên “Theo như tài liệu cán bộ cho học tập thì. Năm 1959 miền bắc đã mở đường “Trường Sơn 59”, đưa quân vào nam. Năm 1960 đã lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mãi đến năm 1964, Mỹ mới đổ quân vào Ðà Nẵng. Như vậy, trước khi Mỹ vào Việt Nam, các ông đã nhận lệnh của Nga, Tàu, nhận súng đạn của Nga, Tàu vào bắn giết, giật mìn xe đò, pháo kích vào trường học, chôn sống đồng bào vô tội miền Nam. Như thế thì ai có nợ máu với nhân dân?...” Nghe chưa dứt câu, cán bộ giận xanh mặt rít lên “Ðem nó đi cùm!” Ông ta bị công an võ trang bao vây quanh đấy lôi đi. Tối đó ông ta bị công an thay phiên nhau đánh đến chết, vất xác trong rừng... (Sau nầy, trước đền thờ tổng bí thư Lê Duẫn có khắc câu mà Lê Duẫn thường nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô Trung Quốc” Câu nói khiến cho quân đội nhân dân Việt Nam (Việt Cộng) ngỡ ngàng. Cựu đại tá Tư Cúc (Lê Cúc) phải kêu lên “Hóa ra quân đội nhân dân Việt Nam là lính đánh thuê cho Liên Xô, Trung Quốc
Lúc đó đã về khuya, đường phố vắng tanh, hai cậu bụi đời đã im tiếng, hình như đang nằm lắng nghe hai ông bạn tù của tôi trò chuyện. Bỗng cái mùng động đậy và hai cậu chui ra, đứng dưới thềm, trước hai ông bạn tù, người thẳng đơ, đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh. Một cậu nói lớn “Trung sĩ nhất Nguyễn văn..., đại đội..., trung đội..., trình diện đích thân” Cậu kia cũng đứng nghiêm xưng tên họ, cấp bậc, đơn vị nhưng lại “Trình diện thẩm quyền”. Thông thường, lính gọi sĩ quan cấp trên trực tiếp bằng cấp bậc hoặc các chức danh tùy ý “Ông thầy, đích thân hoặc thẩm quyền...” Thì ra các cậu đều là lính dù. Như một phản xạ, hai ông bạn tù cũng chào tay “Chào hai anh. Hai anh ngồi xuống!”. Hai cậu ngồi trên hiên nhà, chân thòng xuống lề đường. “Tụi em nằm nghe mấy ông thầy nói chuyện mới biết là sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa đi tù về”. Một cậu ngậm ngùi “Từ ngày mất nước, các cấp chỉ huy đi tù, tụi em tan hàng, bơ vơ, buồn muốn chết. Tụi em nhớ đơn vị, nhớ cấp chỉ huy, nhớ súng đạn, ba lô... nhớ đủ thứ. Lúc nãy, nằm nghe hai ông thầy nói chuyện, tụi em mừng quá, tưởng như còn đang ở đơn vị”. “Bộ mấy cậu không bị tù cải tạo sao?” “Có, nhưng ở địa phương, tụi em bị tập trung một thời gian để nghe chửi là tay sai đế quốc Mỹ, rồi bắt đi nông trường làm thủy lợi, sau đó được đưa sang Căm Bu Chia vác đạn cho bộ đội làm nghĩa vụ quốc tế, đánh nhau với Khờ Me đỏ. Tụi em bỏ trốn về Sài Gòn” Tôi ngồi lên “Mình nói chuyện có làm phiền chủ nhà không?” “Ông thầy khỏi lo. Họ ngủ trên lầu. Hai ông bà chủ nhà có con là đảng viên làm lớn, được cấp nhà tịch thu của tư sản. Tụi em ngủ ở đây, giữ gìn sạch sẽ, khỏi sợ trộm cắp nên họ để yên”. Hai cậu bụi đời thì thầm với nhau rồi cậu trung sĩ đứng lên, trịnh trọng thưa “Thưa, mấy khi thầy trò được gặp lại nhau, tụi em có ý kiến như thế nầy. Tụi em đi kiếm rượu và mồi nhắm để mấy ông thầy và tụi em lai rai đón giao thừa...” Một ông cười khan “Nghe văn chương của cậu là hiểu ý rồi đó. Tụi nầy vô sản, mấy cậu kiếm xị đế là đủ rồi, khỏi mồi miết phiền phức, tốn kém” “Không bao nhiêu đâu. Mấy tiệm phở sắp đóng cửa, họ bán xí oách rẻ đui. Mình không lấy họ cũng đổ bỏ” “Khuya rồi, ai mà còn bán rượu nữa?” “Ông thầy khỏi lo. Tụi em là mấy con ma, chỗ nào không biết!”.
Buổi “tiệc đón giao thừa” gồm hai xị đế và thau xí oách (xương bò, xương gà) với một cái li nhỏ để trên một tờ báo được trải ra. Người nầy “dzô” xong một li thì rót cho người kế tiếp, cứ thế xoay vòng. Nhờ hơi men, những câu nói nhát gừng đã thành rôm rả. Những người lăn lộn chiến trường thường lầm lì, ít nói, chỉ khi có tiếng súng nổ mới kích động được họ xông lên phía trước. Trong chiến trận, chính những người trực tiếp chỉ huy trung đội, đại đội mới là người quyết định chiến trường. Sống chết bên nhau, họ thương yêu nhau còn hơn ruột thịt. Giờ đây, chiến trường đã im tiếng súng, họ là kẻ chiến bại, là kẻ mất nước, bị đối phương khinh miệt, tù đày, hành hạ để trả thù. Người lính Việt Nam Cộng Hòa đã biến mất, chỉ còn lại những con người sống ngoài lề xã hội, vất vưởng, bơ vơ. Nhưng trong tâm tưởng người dân miền Nam, người lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn là những người con thân yêu của đồng bào. Lòng biết ơn không hề phai nhạc.
Buổi “tiệc” cuối năm càng về khuya càng thân mật, thỉnh thoảng có tiếng cười. Trong cái gia đình nhảy dù nhỏ đó với bốn thầy trò cùng nhắc lại những ngày chiến đấu đầy gian khổ, sát cánh bên nhau, giúp đỡ, che chở nhau trong những giây phút hiểm nguy, đối diện với kẻ thù... Tất cả đã là dĩ vãng, đã là những kỷ niệm mà họ cố quên. Cả cuộc đời với tuổi thanh xuân đẹp đẽ, sung sức nhất, họ đã dâng cho Tổ Quốc để rồi thành kẻ mất nước. Họ hỏi thăm nhau, ai còn, ai mất, những “ông thầy” trong đơn vị nầy, đơn vị kia. Cấp chỉ huy không thể nhớ hết binh sĩ dưới quyền, nhưng lính thì không bao giờ quên những “thẩm quyền” đã chỉ huy mình. Ngoài đường đã vắng bóng người. Ðường phố như ngủ say dưới ánh đèn vàng vọt. Lúc đó đã vào khuya. Ðột nhiên, trong đêm vắng, vài tiếng pháo nổ lẻ tẻ, vang đến từø chợ Tân Ðịnh. Rồi như cùng hẹn trước, tiếng pháo đồng loạt nổ vang khắp nơi. Giờ giao thừa. Mọi người đón mừng chúa Xuân bằng những tràng pháo và lễ vật trên bàn thờ, trước cửa nhà. Bọn lính tráng chúng tôi, trước đây không bao giờ biết đến năm mới, năm cũ vì thường xuyên hành quân nơi rừng sâu, núi thẩm, họa hoằn đi ngang qua một xóm làng xơ xác nào đó, nhìn đồng bào nghèo khổ vì chiến tranh, thấy họ chẳng có gì để đón xuân mà ngậm ngùi, nay bỗng nhiên nghe tiếng pháo mà tưởng như thời còn chiến tranh, nhất là mùi thuốc súng mà người ta lấy thuốc đạn ra làm thuốc pháo. Suốt dọc hai bên đường Hiền Vương, đường Hai Bà Trưng tiếng pháo nổ liên tục chen lẫn với tiếng pháo tống, pháo đại khiến bản năng người lính bị kích động. Chúng tôi tưởng như mình đang bị bao vây bởi kẻ thù với những họng súng đang hướng về chúng tôi mà khạc đạn. Từ trên lầu, nơi chúng tôi đang ngồi, chủ nhà thòng xuống một dây pháo dài, nổ rang, những viên pháo đại rơi xuống đất, nổ chát chúa, xác pháo bắn vào chúng tôi, khói pháo mịt mù, nồng nặc mùi thuốc súng. Mùi thuốc súng khiến thần kinh những người lính chúng tôi càng thêm căng thẳng. Hai cậu cựu binh như bị đồng nhập, tay nắm lại, cằm bạnh ra, mắt trừng trừng nhìn hai ông cựu sĩ quan. Một cậu chồm tới, thét lên trong tiếng nổ hỗn loạn “Ðích thân! Ðích thân ban lệnh đi. Chả lẽ nằm đây chịu chết sao?”. Tôi quay nhìn. Hai ông cựu sĩ quan dù lắc đầu, mắt nhìn trừng trừng vào khoảng không trước mặt. Rồi nước mắt họ ứa ra, trào xuống gò má xương xẩu, long lanh ánh chớp của pháo nổ. Bỗng, một ông (sĩ quan dù) kêu lên, giọng điềm tỉnh. - “418, đây 314, xin tác xạ, hết”
Ông ngồi bên cạnh (sĩ quan pháo binh), trả lời.
- “314, đây 418, xin tác xạ, hết”.
Thế rồi cuộc trao đổi truyền tin diễn ra.
- “Lệ Hằng, phải 1.5, lên 2.3 một khói nổ chạm.
Bắn khi sẵn sàng, hết”
-“Lệ Hằng, phải 1.5 lên 2.3, một khói, hết”
- “Hướng 800, gần lại 100. Một khói, hết”.
- “Hướng 800, gần lại 100, một khói, hết”
- “Hỏa tập cận phòng. Năm tràng, bắn hiệu quả, hết.
- “Năm tràng, bắn hiệu quả, hết” ...
Giọng hai ông bạn tù của tôi vẫn mạch lạc, điều động nhịp nhàng pháo binh yểm trợ như trong một trận chiến sắp nổ ra. Tôi hình dung một đại đội dù đóng quân trên một ngọn đồi, địch quân theo dõi, bao vây và tìm cách tràn ngập. Các toán tiền đồn gọi về báo động. Toàn đơn vị đã sẵn sàng chờ địch. Hai ông cựu sĩ quan dù như đang cùng hồi tưởng lại một một kỷ niệm chiến đấu nào đó đã xảy ra và hai cậu cựu binh cũng là những người đã từng tham dự những trận đánh đẫm máu...
Cuộc trao đổi truyền tin trong tiếng pháo giao thừa vẫn tiếp tục. Hỏa tập như càng lúc càng kéo gần vị trí đóng quân trong khi tiếng pháo vẫn chát chúa, khi xa, khi gần. Rồi tiếng pháo cũng lơi dần. Người chủ nhà trên lầu đã đốt hết dây pháo, nhưng ông ta lại gắn thêm một dây pháo nữa, lần nầy ba bốn phong pháo được chập vào với nhau nên pháo nổ càng dữ dội, và như cao hứng, những căn nhà kế bên cũng đem pháo ra đốt tiếp. Tiếng nổ càng dồn dập, khói súng càng mịt mù. Ông bạn tù lại cao giọng
-“Các hỏa tập cũ đều kéo vào 50, sẵn sàng bắn, vị trí sắp bị tràn ngập, hết” -“Hỏa tập cũ kéo vào 50, bắn, hết” ...
Cuộc trao đổi trở nên căng thẳng, gấp rúc khiến tôi nhớ lại những trận tấn công biển người của đối phương. Hỏa tập thường được kéo vào sát vị trí phòng thủ để chặn địch tràn ngập. Hai cậu cựu binh ngồi chết sửng, thỉnh thoảng cựa quậy như không chịu đựng được các bắp thịt và thần kinh đang căng lên hết mức.
Vẫn giọng bình tỉnh.
-“418, đây 314, địch tràn ngập vị trí. Hỏa tập tối đa, nổ chụp ngay trên đầu tôi, hết” -“Xin 314 nhắc lại, hết”
-“418, đây 314, địch tràn ngập vị trí, hỏa tập tối đa ngay trên đầu tôi, hết” Giọng ông pháo binh khàn khàn, nghẹn ngào.
- “Bắn trên đầu bạn ư?”
-“418, đây 314. Có bao nhiêu ông phang hết lên đầu tôi. Ðó là lời cuối cùng” -“314, đây 418, xin xác nhận lại. Nghe tôi không?
Xin 314 trả lời... Vâng, hỏa tập tối đa trên đầu bạn. Vĩnh biệt 314”...
Tiếng pháo giao thừa đã dứt. Cả thành phố im lặng như đang mặc niệm tử sĩ. Vẳng lại từ xa vài tiếng nổ lẻ tẻ, rời rạc rồi lịm dần, tưởng chừng như chiến trường đã bị kéo trôi đi xa, chỉ còn lại cảnh bình địa hoang tàn.
Buổi “tiệc đón giao thừa” gồm hai xị đế và thau xí oách (xương bò, xương gà) với một cái li nhỏ để trên một tờ báo được trải ra. Người nầy “dzô” xong một li thì rót cho người kế tiếp, cứ thế xoay vòng. Nhờ hơi men, những câu nói nhát gừng đã thành rôm rả. Những người lăn lộn chiến trường thường lầm lì, ít nói, chỉ khi có tiếng súng nổ mới kích động được họ xông lên phía trước. Trong chiến trận, chính những người trực tiếp chỉ huy trung đội, đại đội mới là người quyết định chiến trường. Sống chết bên nhau, họ thương yêu nhau còn hơn ruột thịt. Giờ đây, chiến trường đã im tiếng súng, họ là kẻ chiến bại, là kẻ mất nước, bị đối phương khinh miệt, tù đày, hành hạ để trả thù. Người lính Việt Nam Cộng Hòa đã biến mất, chỉ còn lại những con người sống ngoài lề xã hội, vất vưởng, bơ vơ. Nhưng trong tâm tưởng người dân miền Nam, người lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn là những người con thân yêu của đồng bào. Lòng biết ơn không hề phai nhạc.
Buổi “tiệc” cuối năm càng về khuya càng thân mật, thỉnh thoảng có tiếng cười. Trong cái gia đình nhảy dù nhỏ đó với bốn thầy trò cùng nhắc lại những ngày chiến đấu đầy gian khổ, sát cánh bên nhau, giúp đỡ, che chở nhau trong những giây phút hiểm nguy, đối diện với kẻ thù... Tất cả đã là dĩ vãng, đã là những kỷ niệm mà họ cố quên. Cả cuộc đời với tuổi thanh xuân đẹp đẽ, sung sức nhất, họ đã dâng cho Tổ Quốc để rồi thành kẻ mất nước. Họ hỏi thăm nhau, ai còn, ai mất, những “ông thầy” trong đơn vị nầy, đơn vị kia. Cấp chỉ huy không thể nhớ hết binh sĩ dưới quyền, nhưng lính thì không bao giờ quên những “thẩm quyền” đã chỉ huy mình. Ngoài đường đã vắng bóng người. Ðường phố như ngủ say dưới ánh đèn vàng vọt. Lúc đó đã vào khuya. Ðột nhiên, trong đêm vắng, vài tiếng pháo nổ lẻ tẻ, vang đến từø chợ Tân Ðịnh. Rồi như cùng hẹn trước, tiếng pháo đồng loạt nổ vang khắp nơi. Giờ giao thừa. Mọi người đón mừng chúa Xuân bằng những tràng pháo và lễ vật trên bàn thờ, trước cửa nhà. Bọn lính tráng chúng tôi, trước đây không bao giờ biết đến năm mới, năm cũ vì thường xuyên hành quân nơi rừng sâu, núi thẩm, họa hoằn đi ngang qua một xóm làng xơ xác nào đó, nhìn đồng bào nghèo khổ vì chiến tranh, thấy họ chẳng có gì để đón xuân mà ngậm ngùi, nay bỗng nhiên nghe tiếng pháo mà tưởng như thời còn chiến tranh, nhất là mùi thuốc súng mà người ta lấy thuốc đạn ra làm thuốc pháo. Suốt dọc hai bên đường Hiền Vương, đường Hai Bà Trưng tiếng pháo nổ liên tục chen lẫn với tiếng pháo tống, pháo đại khiến bản năng người lính bị kích động. Chúng tôi tưởng như mình đang bị bao vây bởi kẻ thù với những họng súng đang hướng về chúng tôi mà khạc đạn. Từ trên lầu, nơi chúng tôi đang ngồi, chủ nhà thòng xuống một dây pháo dài, nổ rang, những viên pháo đại rơi xuống đất, nổ chát chúa, xác pháo bắn vào chúng tôi, khói pháo mịt mù, nồng nặc mùi thuốc súng. Mùi thuốc súng khiến thần kinh những người lính chúng tôi càng thêm căng thẳng. Hai cậu cựu binh như bị đồng nhập, tay nắm lại, cằm bạnh ra, mắt trừng trừng nhìn hai ông cựu sĩ quan. Một cậu chồm tới, thét lên trong tiếng nổ hỗn loạn “Ðích thân! Ðích thân ban lệnh đi. Chả lẽ nằm đây chịu chết sao?”. Tôi quay nhìn. Hai ông cựu sĩ quan dù lắc đầu, mắt nhìn trừng trừng vào khoảng không trước mặt. Rồi nước mắt họ ứa ra, trào xuống gò má xương xẩu, long lanh ánh chớp của pháo nổ. Bỗng, một ông (sĩ quan dù) kêu lên, giọng điềm tỉnh. - “418, đây 314, xin tác xạ, hết”
Ông ngồi bên cạnh (sĩ quan pháo binh), trả lời.
- “314, đây 418, xin tác xạ, hết”.
Thế rồi cuộc trao đổi truyền tin diễn ra.
- “Lệ Hằng, phải 1.5, lên 2.3 một khói nổ chạm.
Bắn khi sẵn sàng, hết”
-“Lệ Hằng, phải 1.5 lên 2.3, một khói, hết”
- “Hướng 800, gần lại 100. Một khói, hết”.
- “Hướng 800, gần lại 100, một khói, hết”
- “Hỏa tập cận phòng. Năm tràng, bắn hiệu quả, hết.
- “Năm tràng, bắn hiệu quả, hết” ...
Giọng hai ông bạn tù của tôi vẫn mạch lạc, điều động nhịp nhàng pháo binh yểm trợ như trong một trận chiến sắp nổ ra. Tôi hình dung một đại đội dù đóng quân trên một ngọn đồi, địch quân theo dõi, bao vây và tìm cách tràn ngập. Các toán tiền đồn gọi về báo động. Toàn đơn vị đã sẵn sàng chờ địch. Hai ông cựu sĩ quan dù như đang cùng hồi tưởng lại một một kỷ niệm chiến đấu nào đó đã xảy ra và hai cậu cựu binh cũng là những người đã từng tham dự những trận đánh đẫm máu...
Cuộc trao đổi truyền tin trong tiếng pháo giao thừa vẫn tiếp tục. Hỏa tập như càng lúc càng kéo gần vị trí đóng quân trong khi tiếng pháo vẫn chát chúa, khi xa, khi gần. Rồi tiếng pháo cũng lơi dần. Người chủ nhà trên lầu đã đốt hết dây pháo, nhưng ông ta lại gắn thêm một dây pháo nữa, lần nầy ba bốn phong pháo được chập vào với nhau nên pháo nổ càng dữ dội, và như cao hứng, những căn nhà kế bên cũng đem pháo ra đốt tiếp. Tiếng nổ càng dồn dập, khói súng càng mịt mù. Ông bạn tù lại cao giọng
-“Các hỏa tập cũ đều kéo vào 50, sẵn sàng bắn, vị trí sắp bị tràn ngập, hết” -“Hỏa tập cũ kéo vào 50, bắn, hết” ...
Cuộc trao đổi trở nên căng thẳng, gấp rúc khiến tôi nhớ lại những trận tấn công biển người của đối phương. Hỏa tập thường được kéo vào sát vị trí phòng thủ để chặn địch tràn ngập. Hai cậu cựu binh ngồi chết sửng, thỉnh thoảng cựa quậy như không chịu đựng được các bắp thịt và thần kinh đang căng lên hết mức.
Vẫn giọng bình tỉnh.
-“418, đây 314, địch tràn ngập vị trí. Hỏa tập tối đa, nổ chụp ngay trên đầu tôi, hết” -“Xin 314 nhắc lại, hết”
-“418, đây 314, địch tràn ngập vị trí, hỏa tập tối đa ngay trên đầu tôi, hết” Giọng ông pháo binh khàn khàn, nghẹn ngào.
- “Bắn trên đầu bạn ư?”
-“418, đây 314. Có bao nhiêu ông phang hết lên đầu tôi. Ðó là lời cuối cùng” -“314, đây 418, xin xác nhận lại. Nghe tôi không?
Xin 314 trả lời... Vâng, hỏa tập tối đa trên đầu bạn. Vĩnh biệt 314”...
Tiếng pháo giao thừa đã dứt. Cả thành phố im lặng như đang mặc niệm tử sĩ. Vẳng lại từ xa vài tiếng nổ lẻ tẻ, rời rạc rồi lịm dần, tưởng chừng như chiến trường đã bị kéo trôi đi xa, chỉ còn lại cảnh bình địa hoang tàn.
18. Chim đã bay
Ðiểu hoàn nhân diệc chi
(Người vắng bóng rồi, chim đã bay)
Lý Bạch
Năm 1985, tôi ra khỏi tù cải tạo. Trên xe lửa từ Bắc vô Nam, bạn đồng hành cũng là đồng tù với tôi là anh Thi.
Có một nguyên tắc là trong tù không được hỏi nhau về gốc gác. Làm gì, ở đâu, cấp bậc...? Và chuyện gia đình nữạ Ngay cả khi biết rõ về một người nào đó, tuyệt đối cũng không cho người khác biết. Thế nên, trong tù, tuy cùng chung lán, chung đội lao động, nằm cạnh nhau, tôi cũng không biết gì nhiều về anh Thi. Khi lên xe lửa, tôi mới hỏi "Anh về đâu?" "Tôi về Sài Gòn" "Vợ con còn ở đó?" "Có lẽ vậy". Nghe "Có lẽ vậy", tôi thấy là có vấn đề nên ngưng ngay và tự giới thiệu "Tôi cũng về Sài Gòn, ngã ba Cây Quéo" "Tôi về Hoàng Hoa Thám" "Vậy là mình ở gần nhau". Trong tù anh Thi lúc nào cũng vui vẻ, nhưng khi ngồi trên xe lửa, anh thường nhìn qua cửa sổ vẻ đăm chiêụ Mỗi hoàn cảnh, người tù phải đối phó một cách riêng. Về đời, bao nhiêu khó khăn đang chờ đợi, khác hẳn trong tù, vì bất lực nên phải gạt hết mọi suy nghĩ để cười mà sống. Người tù, muốn sống sót, nhất là những người không được gia đình thăm nuôi như anh Thi, phải đạt đến cái tâm cảnh của một thiền sư. Phải giữ tinh thần cho vững, phải quên tất cả, không nghĩ đến những gì ngoài tầm tay của mình, phải biết cười với người khác thì mới khỏi âu sầu, sinh bịnh, để rồi bị khiêng đi chôn.
Gần tối, xuống xe lửa, chúng tôi đi bộ về nhà. Ngang qua một tiệm phở, còn chút tiền, chúng tôi ghé vàọ Thấy anh Thi có vẻ tư lự, tôi tìm cách cho anh ta vui nên khi phở bưng ra, tôi xoa tay chào tô phở "Chà! Hơn mười năm mới gặp lại mầy". Anh Thi chỉ mỉm cười nhưng cũng sốt sắng cầm đũa Trong lúc trò chuyện với chủ hàng phở, chúng tôi mới biết hôm đó là ngày ba mươi tết. Khi ra đường, tôi đề nghị sẽ cùng đi đến nhà anh trước, để biết nhà, sau nầy dễ thăm nhau, sau đó tôi mới về nhà mình. Anh ngần ngừ một lúc rồi đồng ý. Ðến đường Hoàng Hoa Thám, chúng tôi vào một con hẻm tối mù. Nhờ ánh đèn các nhà hai bên, chúng tôi dò dẫm đi được một quãng ngắn thì anh Thi bảo "Anh đứng đây chờ tôị Trước đây chúng tôi ở nhờ bên gia đình vợ, hiện nay không hiểu tình trạng ra sao" "Vâng. Có gì anh ra cho tôi hay" Nói thế nhưng chờ anh ta đi được mấy bước, tôi cũng đi theo, không cho anh ta biết. Anh ta đến một căn nhà gạch nhỏ, còn để đèn, tần ngần một lúc rồi gõ cửa, nách vẫn kẹp cái bọc đồ tù. Một chị đàn bà bồng con đi ra, theo sau là một thằng bé trên mười tuổị Tôi nghĩ, nếu đó là vợ anh Thi, thì chị ta đã có chồng khác rồi, vì đứa bé trên tay chị ta, độ vài tuổi, không thể là con anh Thi được. Chị đàn bà nói gì đó. Anh Thi không trả lời, quay gót bước rạ Tôi lùi lại chỗ cũ, làm như không thấy gì. Anh ta yên lặng qua mặt tôị Tôi quay nhìn, thấy chị đàn bà bồng con và thằng bé ra đường đứng nhìn theọ Ra đường lớn, anh Thi hỏi tôi "Anh có thể cho tôi trọ đỡ một đêm được không?" Tôi sốt sắng "Ðược chứ! Nhưng đây không phải nhà của tôị Trước ba mươi tháng tư năm 1975, tôi đưa vợ con từ ngoài Trung vào ở nhờ người bà con, sau đó vợ con tôi về lại ngoài Trung, sống với gia đình bên vợ. Tôi sẽ nói với chủ nhà, nếu họ không chịu thì tôi với anh ra ngủ lề đường, rồi sẽ tính sau". Chúng tôi, mỗi đứa ôm một gói đồ tù, quay lại ngã ba Cây Quéo. Khi tìm được nhà người bà con thì thấy nhà đóng cửa, tắt đèn tối thuị Gõ cửa, không ai mở. Họ đi vắng cả rồị
Hai đứa tôi trở ra, lang thang xuống chợ Bà Chiểu xem chợ tết. Bánh trái, áo quần đầy chợ, tràn ra cả lề đường, người chen lấn nhaụ Chúng tôi qua cầu Sắt, lên chợ Ða Kao, qua chợ Tân Ðịnh, ra đường Hai Bà Trưng rồi ngồi nghỉ mệt trên hiên nhà người tạ Chuyện trò một lúc, thấy đã khuya, chúng tôi lấy dép làm gối, rồi mặc cho muỗi đốt, chúng tôi vừa đói vừa mỏi chân, ngủ vùi một giấc. Hôm sau tỉnh dậy thì trời đã sáng. Ngày tết ở Sài Gòn, đường phố vắng hoe, chỉ mấy gia đình kinh tế mới ngủ lề đường gần đó đang cuốn chiếu, gấp mùng, bỏ vào bị cói, đem gửi đâu đấy rồi tản mác khắp nơi để kiếm sống. Hai đứa tôi ngồi vấn thuốc hút, chuyện trò một lúc thì đứng lên, đến chợ Tân Ðịnh, tìm vòi nước, súc miệng rửa mặt xong mua mỗi đứa một ổ bánh mì không nhân (rẻ tiền), vừa đi vừa trẹo trạo nhai. Thật ra, tôi và anh Thi cũng có vài người thân quen ở Sài Gòn, nhưng mồng một tết mà mang thân tàn ma dại đến nhà người ta, chẳng ai vui. Thời đó, ít ai dám rây với tù cải tạo. Ða số bà con, bạn bè, thấy tù là họ làm mặt lạ, chứa trong nhà thì sợ công an đến hỏi thăm. Suốt ba ngày tết, mỗi ngày chúng tôi chỉ ăn một ổ bánh mì không nhân, tối ngủ hiên nhà người ta, sáng dậy đi. Ði rã chân thì ngồi bên đường nghỉ một lúc rồi đi tiếp. Cứ lang thang mà chẳng biết đi đâu. Sài Gòn ngày tết vắng vẻ và buồn quá! Chiều mồng ba tết, chúng tôi quyết định trở lại nhà người bà con ở Cây Quéo. Hóa ra, gia đình đó vẫn ở chỗ cũ, những ngày cuối năm mọi người đều ra chợ bán dưa hấu. Họ đang cúng đưa ông bà. Chúng tôi được tiếp đón rất thân tình, vui vẻ. Họ đem thức ăn trên bàn thờ xuống, giục chúng tôi đi tắm. Anh con trai lớn biếu chúng tôi, mỗi người một bộ đồ, cũ nhưng sạch sẽ, mặc vào, soi gương, thấy như vừa lột xác, thành người văn minh, hoạt bát.
Trong lúc ăn uống, chủ nhà hỏi chuyện gia đình, hỏi dự định sinh sống ra sao. Khi nghe anh bạn tôi nói bị vợ bỏ, không cho vô nhà, chủ nhà bảo, nên thông cảm cho người đàn bà, chân yếu tay mềm, chồng bị tù không biết ngày nào về hay bỏ xác trong tù, trong khi con cái phải cần cái ăn mới sống.
Lần đầu tiên, sau hơn mười năm, chúng tôi mới được thưởng thức một bữa cơm ngon lành nhờ không khí thân mật, ân cần của gia đình ân nhân đó. Có một tâm lý kỳ lạ mà phải mấy năm sau, người tù mới bớt bị ám ảnh, đó là thấy dọn nhiều món ăn, cứ thắc mắc sao không để dành cho ngày mai mà lại dọn cả lên, phí quá! Vì trong tù ngày nào cũng chỉ một ít khoai mì (hoạ hoằn mới có cơm), cùng với ca nước muối, lõng bõng vài cọng raụ (Sau nầy qua Mỹ, sống sung túc, trong bữa ăn chúng tôi cũng chỉ dọn vài món là tối đa). Sau bữa ăn, chủ nhà bảo, chúng tôi cứ ở lại đây, khi nào có việc làm, kiếm được tiền thì muốn ở đâu tùy ý. Chúng tôi xin được ngủ dưới đất hay sau hè cũng quí rồị Chủ nhà cho biết, nhà quá chật, nhưng có cái chuồng heo, nuôi heo nhưng bị bịnh dịch, đã bán hết cả, bây giờ chuồng bỏ trống, sẽ gác trên vách chuồng một cái sạp, làm chỗ ngủ tạm. Chủ nhà cũng quen với công an khu vực, hi vọng sẽ không bị làm khó dễ.
Thế là chỉ vài tuần sau, chúng tôi đã có việc làm. Tôi bán vé số bên đường chỗ Bộ Xã Hội cũ, trước nhà thờ Ðức Bà. Anh Thi, vốn cao lớn, lúc ra tù ốm trơ xương, sau nhờ được ăn uống đầy đủ, trở nên mạnh khỏe, nên hành nghề đạp xích lô. Tất cả là nhờ mọi người trong gia đình đó tận tâm giúp đỡ. Sáng sớm, chúng tôi dậy, ra đầu ngõ uống li cà phê rồi lên đường kiếm sống, buổi chiều, chúng tôi về nhà ăn cơm. Mỗi tháng chúng tôi gửi chủ nhà ít tiền. Vợ tôi được tin chồng ra tù, bèn dẫn con vào thăm. Vợ tôi khuyên nên ở lại Sài Gòn, không khí dễ thở hơn (cô sẽ tìm cách vào với tôi sau), đừng về ngoài Trung, chính quyền địa phương rất khó khăn. Bạn tôi thỉnh thoảng có đến trường gặp thằng con, (là thằng bé mà tôi thấy hôm anh ta đến nhà vợ) cho ít tiền ăn quà và dặn đừng cho mẹ nó biết. Anh ta dự định sẽ đón con về ở chung, nhưng không cách nào thực hiện được vì chính bản thân anh ta còn chưa biết sẽ ra saỏ
Ðiểu hoàn nhân diệc chi
(Người vắng bóng rồi, chim đã bay)
Lý Bạch
Năm 1985, tôi ra khỏi tù cải tạo. Trên xe lửa từ Bắc vô Nam, bạn đồng hành cũng là đồng tù với tôi là anh Thi.
Có một nguyên tắc là trong tù không được hỏi nhau về gốc gác. Làm gì, ở đâu, cấp bậc...? Và chuyện gia đình nữạ Ngay cả khi biết rõ về một người nào đó, tuyệt đối cũng không cho người khác biết. Thế nên, trong tù, tuy cùng chung lán, chung đội lao động, nằm cạnh nhau, tôi cũng không biết gì nhiều về anh Thi. Khi lên xe lửa, tôi mới hỏi "Anh về đâu?" "Tôi về Sài Gòn" "Vợ con còn ở đó?" "Có lẽ vậy". Nghe "Có lẽ vậy", tôi thấy là có vấn đề nên ngưng ngay và tự giới thiệu "Tôi cũng về Sài Gòn, ngã ba Cây Quéo" "Tôi về Hoàng Hoa Thám" "Vậy là mình ở gần nhau". Trong tù anh Thi lúc nào cũng vui vẻ, nhưng khi ngồi trên xe lửa, anh thường nhìn qua cửa sổ vẻ đăm chiêụ Mỗi hoàn cảnh, người tù phải đối phó một cách riêng. Về đời, bao nhiêu khó khăn đang chờ đợi, khác hẳn trong tù, vì bất lực nên phải gạt hết mọi suy nghĩ để cười mà sống. Người tù, muốn sống sót, nhất là những người không được gia đình thăm nuôi như anh Thi, phải đạt đến cái tâm cảnh của một thiền sư. Phải giữ tinh thần cho vững, phải quên tất cả, không nghĩ đến những gì ngoài tầm tay của mình, phải biết cười với người khác thì mới khỏi âu sầu, sinh bịnh, để rồi bị khiêng đi chôn.
Gần tối, xuống xe lửa, chúng tôi đi bộ về nhà. Ngang qua một tiệm phở, còn chút tiền, chúng tôi ghé vàọ Thấy anh Thi có vẻ tư lự, tôi tìm cách cho anh ta vui nên khi phở bưng ra, tôi xoa tay chào tô phở "Chà! Hơn mười năm mới gặp lại mầy". Anh Thi chỉ mỉm cười nhưng cũng sốt sắng cầm đũa Trong lúc trò chuyện với chủ hàng phở, chúng tôi mới biết hôm đó là ngày ba mươi tết. Khi ra đường, tôi đề nghị sẽ cùng đi đến nhà anh trước, để biết nhà, sau nầy dễ thăm nhau, sau đó tôi mới về nhà mình. Anh ngần ngừ một lúc rồi đồng ý. Ðến đường Hoàng Hoa Thám, chúng tôi vào một con hẻm tối mù. Nhờ ánh đèn các nhà hai bên, chúng tôi dò dẫm đi được một quãng ngắn thì anh Thi bảo "Anh đứng đây chờ tôị Trước đây chúng tôi ở nhờ bên gia đình vợ, hiện nay không hiểu tình trạng ra sao" "Vâng. Có gì anh ra cho tôi hay" Nói thế nhưng chờ anh ta đi được mấy bước, tôi cũng đi theo, không cho anh ta biết. Anh ta đến một căn nhà gạch nhỏ, còn để đèn, tần ngần một lúc rồi gõ cửa, nách vẫn kẹp cái bọc đồ tù. Một chị đàn bà bồng con đi ra, theo sau là một thằng bé trên mười tuổị Tôi nghĩ, nếu đó là vợ anh Thi, thì chị ta đã có chồng khác rồi, vì đứa bé trên tay chị ta, độ vài tuổi, không thể là con anh Thi được. Chị đàn bà nói gì đó. Anh Thi không trả lời, quay gót bước rạ Tôi lùi lại chỗ cũ, làm như không thấy gì. Anh ta yên lặng qua mặt tôị Tôi quay nhìn, thấy chị đàn bà bồng con và thằng bé ra đường đứng nhìn theọ Ra đường lớn, anh Thi hỏi tôi "Anh có thể cho tôi trọ đỡ một đêm được không?" Tôi sốt sắng "Ðược chứ! Nhưng đây không phải nhà của tôị Trước ba mươi tháng tư năm 1975, tôi đưa vợ con từ ngoài Trung vào ở nhờ người bà con, sau đó vợ con tôi về lại ngoài Trung, sống với gia đình bên vợ. Tôi sẽ nói với chủ nhà, nếu họ không chịu thì tôi với anh ra ngủ lề đường, rồi sẽ tính sau". Chúng tôi, mỗi đứa ôm một gói đồ tù, quay lại ngã ba Cây Quéo. Khi tìm được nhà người bà con thì thấy nhà đóng cửa, tắt đèn tối thuị Gõ cửa, không ai mở. Họ đi vắng cả rồị
Hai đứa tôi trở ra, lang thang xuống chợ Bà Chiểu xem chợ tết. Bánh trái, áo quần đầy chợ, tràn ra cả lề đường, người chen lấn nhaụ Chúng tôi qua cầu Sắt, lên chợ Ða Kao, qua chợ Tân Ðịnh, ra đường Hai Bà Trưng rồi ngồi nghỉ mệt trên hiên nhà người tạ Chuyện trò một lúc, thấy đã khuya, chúng tôi lấy dép làm gối, rồi mặc cho muỗi đốt, chúng tôi vừa đói vừa mỏi chân, ngủ vùi một giấc. Hôm sau tỉnh dậy thì trời đã sáng. Ngày tết ở Sài Gòn, đường phố vắng hoe, chỉ mấy gia đình kinh tế mới ngủ lề đường gần đó đang cuốn chiếu, gấp mùng, bỏ vào bị cói, đem gửi đâu đấy rồi tản mác khắp nơi để kiếm sống. Hai đứa tôi ngồi vấn thuốc hút, chuyện trò một lúc thì đứng lên, đến chợ Tân Ðịnh, tìm vòi nước, súc miệng rửa mặt xong mua mỗi đứa một ổ bánh mì không nhân (rẻ tiền), vừa đi vừa trẹo trạo nhai. Thật ra, tôi và anh Thi cũng có vài người thân quen ở Sài Gòn, nhưng mồng một tết mà mang thân tàn ma dại đến nhà người ta, chẳng ai vui. Thời đó, ít ai dám rây với tù cải tạo. Ða số bà con, bạn bè, thấy tù là họ làm mặt lạ, chứa trong nhà thì sợ công an đến hỏi thăm. Suốt ba ngày tết, mỗi ngày chúng tôi chỉ ăn một ổ bánh mì không nhân, tối ngủ hiên nhà người ta, sáng dậy đi. Ði rã chân thì ngồi bên đường nghỉ một lúc rồi đi tiếp. Cứ lang thang mà chẳng biết đi đâu. Sài Gòn ngày tết vắng vẻ và buồn quá! Chiều mồng ba tết, chúng tôi quyết định trở lại nhà người bà con ở Cây Quéo. Hóa ra, gia đình đó vẫn ở chỗ cũ, những ngày cuối năm mọi người đều ra chợ bán dưa hấu. Họ đang cúng đưa ông bà. Chúng tôi được tiếp đón rất thân tình, vui vẻ. Họ đem thức ăn trên bàn thờ xuống, giục chúng tôi đi tắm. Anh con trai lớn biếu chúng tôi, mỗi người một bộ đồ, cũ nhưng sạch sẽ, mặc vào, soi gương, thấy như vừa lột xác, thành người văn minh, hoạt bát.
Trong lúc ăn uống, chủ nhà hỏi chuyện gia đình, hỏi dự định sinh sống ra sao. Khi nghe anh bạn tôi nói bị vợ bỏ, không cho vô nhà, chủ nhà bảo, nên thông cảm cho người đàn bà, chân yếu tay mềm, chồng bị tù không biết ngày nào về hay bỏ xác trong tù, trong khi con cái phải cần cái ăn mới sống.
Lần đầu tiên, sau hơn mười năm, chúng tôi mới được thưởng thức một bữa cơm ngon lành nhờ không khí thân mật, ân cần của gia đình ân nhân đó. Có một tâm lý kỳ lạ mà phải mấy năm sau, người tù mới bớt bị ám ảnh, đó là thấy dọn nhiều món ăn, cứ thắc mắc sao không để dành cho ngày mai mà lại dọn cả lên, phí quá! Vì trong tù ngày nào cũng chỉ một ít khoai mì (hoạ hoằn mới có cơm), cùng với ca nước muối, lõng bõng vài cọng raụ (Sau nầy qua Mỹ, sống sung túc, trong bữa ăn chúng tôi cũng chỉ dọn vài món là tối đa). Sau bữa ăn, chủ nhà bảo, chúng tôi cứ ở lại đây, khi nào có việc làm, kiếm được tiền thì muốn ở đâu tùy ý. Chúng tôi xin được ngủ dưới đất hay sau hè cũng quí rồị Chủ nhà cho biết, nhà quá chật, nhưng có cái chuồng heo, nuôi heo nhưng bị bịnh dịch, đã bán hết cả, bây giờ chuồng bỏ trống, sẽ gác trên vách chuồng một cái sạp, làm chỗ ngủ tạm. Chủ nhà cũng quen với công an khu vực, hi vọng sẽ không bị làm khó dễ.
Thế là chỉ vài tuần sau, chúng tôi đã có việc làm. Tôi bán vé số bên đường chỗ Bộ Xã Hội cũ, trước nhà thờ Ðức Bà. Anh Thi, vốn cao lớn, lúc ra tù ốm trơ xương, sau nhờ được ăn uống đầy đủ, trở nên mạnh khỏe, nên hành nghề đạp xích lô. Tất cả là nhờ mọi người trong gia đình đó tận tâm giúp đỡ. Sáng sớm, chúng tôi dậy, ra đầu ngõ uống li cà phê rồi lên đường kiếm sống, buổi chiều, chúng tôi về nhà ăn cơm. Mỗi tháng chúng tôi gửi chủ nhà ít tiền. Vợ tôi được tin chồng ra tù, bèn dẫn con vào thăm. Vợ tôi khuyên nên ở lại Sài Gòn, không khí dễ thở hơn (cô sẽ tìm cách vào với tôi sau), đừng về ngoài Trung, chính quyền địa phương rất khó khăn. Bạn tôi thỉnh thoảng có đến trường gặp thằng con, (là thằng bé mà tôi thấy hôm anh ta đến nhà vợ) cho ít tiền ăn quà và dặn đừng cho mẹ nó biết. Anh ta dự định sẽ đón con về ở chung, nhưng không cách nào thực hiện được vì chính bản thân anh ta còn chưa biết sẽ ra saỏ
Ðến đầu năm 1990, có chương trình HO đi Mỹ. Với tôi thì lo hồ sơ không khó khăn lắm, nhưng anh Thi thì bị kẹt vì vợ anh ta không cho mượn hộ khẩu để làm giấy tờ. Anh ta đến năn nỉ vợ, hứa lập danh sách vợ, các con và cả bà mẹ vợ nữa để cùng đi, khi đến Mỹ anh ta sẽ làm giấy li dị để chị ta về lại Việt Nam làm hôn thú đón chồng sau qua Mỹ. Nhưng nói gì, chị ta cũng nhất quyết lắc đầu, mời anh ta ra khỏi nhà. Không cho mượn là không! Cuối cùng nhờ chạy chọt, hồ sơ anh ta cũng được chấp nhận, trong đó có tên thằng con.
Nhờ người bạn tù vượt biên qua trước bảo trợ, gia đình tôi và anh Thi được qua cùng tiểu bang, nhà gần nhau. Vừa đến Mỹ là anh Thi lăn lưng vào việc kiếm tiền. Anh ta làm hai jobs "Tôi phải có một căn nhà cho con tôị Phải chuẩn bị tiền nong khi nó vào đại học. Lúc ở Việt Nam, nó đã bị đói khổ, bị đánh đập, nay nó phải được đền bù". Thời đó, khoảng thập niên 1990, nhà ở Mỹ còn rẻ. Bạn tôi mua nhà, sắm xe mới cho con, nhưng anh vẫn lùi xùi như lúc còn ở Việt Nam. Anh ta đi làm từ sáng sớm, gần khuya mới về. Thằng con anh ta, đi học về là đến thẳng nhà tôi ăn cơm. Vợ tôi còn bới thức ăn để nó mang về cho bố nó.
Sau bao nhiêu năm tù đày, nay được đến xứ tự do cùng gia đình, chúng tôi dốc hết sức lực còn lại để kiếm tiền cho con cái theo đuổi việc học hành. Mục tiêu, ước vọng của chúng tôi là các con nên người, đủ sức đua chen với đời. Khi đứa con anh Thi tốt nghiệp đại học, có việc làm ổn định, theo đề nghị của chúng tôi, anh ta chỉ làm một job. Buổi sáng, tôi và anh ta ra tiệm cà phê ngồi chuyện trò, cuối tuần, chúng tôi nấu nướng, cùng với các bạn khác, ra sau nhà ăn uống, chuyện trò.
Thấy anh Thi độc thân, chúng tôi dự định tìm cho anh ta một người đàn bà, làm bạn, để giúp đỡ, nương tựa nhau trong quãng đời còn lạị
Vợ tôi có một cô bạn, chủ một tiệm nail (làm móng tay), tuổi trên bốn mươi, chồng chết đã hơn năm năm nay, tính tình đàng hoàng, hiền lành, dung nhan còn đẹp đẽ, hấp dẫn. Với chủ ý cho anh Thi và cô bạn tìm hiểu nhau nên mỗi khi tổ chức ăn uống cuối tuần, chúng tôi mời cô ta đến chung vui, rồi làm như vô tình, sắp xếp cho hai người ngồi gần nhaụ Khi biết anh Thi còn cô đơn, cô ta không còn e ngại, giữ kẽ nữa mà vui vẻ góp chuyện với mọi ngườị Anh Thi, đã bớt trầm tư mà trở nên hoạt bát, lịch sự tiếp món ăn cho cô ta, đôi khi lại thì thầm như có chuyện riêng tư với người đẹp. Khoảng vài tháng sau, theo thường lệ, vợ tôi gọi điện thoại mời hai người đến dự bữa cơm gia đình thì cả hai đều trả lời rằng bận việc, không đến được. Hóa ra họ đưa nhau đi nhà hàng. Cô bạn tâm sự với vợ tôi. Em thấy vẻ mặt ảnh buồn buồn, em thương quá! Em mời ảnh đi ăn riêng để tìm hiểu tâm sự ảnh, nhưng ảnh chỉ cười bảo, tính ảnh vậy thôi chứ không có gì đáng nói " Vợ tôi trấn an ". Chị đừng bận tâm. Mấy ông "mất nước" lâu lâu xụ mặt, thở ra, nhưng sau đó lại vui vẻ như thường. Ông xã em cũng vậỵ Nhưng theo yêu cầu của chị, để em hỏi ông xã em, xem anh ta có chuyện gì ấp ủ trong lòng mà không nói ra. Chị có biết gì về cô vợ trước của ảnh không? Theo ảnh kể thì cô ta đối xử rất tệ bạc với ảnh khi ảnh đi tù về. Có thật vậy không? Chuyện nầy thì chắc chắn, vì ông xã em ra tù cùng một ngày, cùng đến nhà vợ anh ta, ông xã em thấy tận mắt chị ta đuổi ảnh, không cho vô nhà. Dù sao em cũng sẽ hỏi lại thằng con ảnh xem nội vụ ra sao rồi sẽ báo với chị sau" "Em thương ảnh thì em cũng chấp nhận hoàn cảnh, tâm sự của ảnh. Em chỉ muốn biết để an ủi ảnh, làm cho ảnh vuị Chị biết không, khi có em bên cạnh, ảnh rất vui, thương em và chiều chuộng em nhiều lắm. Vậy thì được rồi. Biết ảnh thương yêu chị là đủ rồi. Người đàn ông nào cũng vậy, mình hết lòng, hết dạ với họ thì dù có tâm sự, chuyện riêng tư họ cũng bỏ hết mà về với mình, chỉ biết một mình mình thôị Chị yên tâm mà vui với ảnh. Cứ thắc mắc, lo lắng hoài chi cho mệt trí. Ðời người có bao lâu đâu. Vui lên đi chị ơi!. Cô bạn nhắc đến chuyện tư lự của anh Thi, chúng tôi mới nhớ lại, khi đến nhà chúng tôi ăn cơm, nhiều lúc, đang chuyện trò, anh ta bỗng nhiên ngưng nói, trông như người mất hồn. Ăn xong, anh ta mang lon bia ra sau nhà, đứng một mình cả giờ đồng hồ.
Tuy nói thế nhưng vợ tôi cũng gọi thằng con anh Thi đến để hỏi về mẹ nó ở Việt Nam hiện nay ra sao, có thường liên lạc với ba nó không? Thằng nhỏ kể "Mấy lần mẹ con bên Việt Nam gọi điện thoại cho con, nhờ con thưa với ba con, xin ba con tha thứ và bảo lãnh cho mẹ con qua đây để săn sóc cho ba con. Mẹ con nói hiện nay ở Việt Nam, mẹ con không có khó khăn gì về đời sống, chỉ sợ ba con đã lớn tuổi, khi đau ốm không ai săn sóc, lo cơm nước. Mẹ con có dặn là đừng gởi tiền về, mẹ con không nhận đâụ Mẹ con cứ nhắc con thưa với ba con nhiều lần mà con không dám. Một lần con chỉ thưa với ba con là mẹ con có gọi điện thoại hỏi thăm. Chỉ mới chừng đó thôi mà ba con nổi nóng, ba con la "Nói bà ấy đừng gọi điện thoại qua đây nữa". Một buổi tối, mẹ con gọi điện thoại nhằm lúc ba con ở nhà, ba con bắt máỵ Không biết mẹ con nói gì mà ba con la hét vào máy như người nổi cơn điên "Xin xỏ gì? Lỗi phải gì? Bát nước đổ xuống đất rồi, có hốt lại được không? Bà đừng hòng năn nỉ, khóc lóc vô ích. Bà thử xét lại lương tâm bà đị Từ nay tôi cấm bà không được gọi điện thoại cho thằng con tôi, không được gọi điện thoại về nhà nầỵ Bà nhớ chưả Tôi cấm bà. Tôi cấm bà!..." Ba con đập cái điện thoại bể tan rồi ngồi ôm đầu, gục xuống. Con sợ quá, vào phòng đóng cửa lạị Từ đó, thỉnh thoảng mẹ con chỉ gọi điện thoại cho con hỏi thăm chuyện ăn uống, sức khỏe ba con ra sao, nhưng dặn đừng nói lại với ba con, sợ ba con giận" "Con có nói với mẹ con về chuyện ba con có bạn gái chưả" "Hôm trước con có kể là ba con vừa quen được một bà, hai người thường đưa nhau đi ăn tiệm. Mẹ con hỏi tính tình người đàn bà đó ra saỏ Công việc làm ăn của bà ta thế nàỏ Có để ý săn sóc cho ba con không hay chỉ đưa nhau đi ăn rồi ai về nhà nấỷ Mẹ con hỏi nhiều lắm, sau đó mẹ con nói cũng mừng cho ba con, mong cho hai người sống chung để ba con có người săn sóc, lo lắng miếng ăn giấc ngủ. Ba con đi tù về, tuổi cũng lớn rồi, sức khỏe suy yếu, cần có người đàn bà bên cạnh. Mẹ con vừa nói vừa khóc. Không hiểu sao con cũng khóc theọ Con rất nhớ mẹ con nhưng ba con cấm con về Việt Nam thăm mẹ con. Ba con giận mẹ con nhiều lắm" "Con có biết gì về người chồng sau nầy của mẹ con không?" "Lúc con ở chung với mẹ con, ổng chẳng tử tế gì với con. Bị bỏ đói và bị bợp tai, đá đít hoài, nhưng con biết thân phận, im lặng chịu đựng. Lần trước, mẹ con gọi điện thoại kể với con rằng hai người đã chia tay, ông ta đi đâu mất, không hề gặp lại. Con chỉ nghe vậy thôi chứ không hỏi thêm".
Vợ tôi gọi đến cô bạn kể rằng, Anh Thi coi bộ thù chứ không chỉ giận cô vợ ở Việt Nam và đề nghị hai người nên về sống với nhau. Cứ đi ăn tiệm rồi ai về nhà nấy mãi sao. Cô bạn nói "Có mấy lần ảnh mời em về nhà, nhưng em cũng chỉ đến thăm một lát rồi về. Em có bàn với ảnh, nếu muốn sống chung thì nên cưới hỏi đàng hoàng. Em không muốn bị dị nghị nầy nọ. Ảnh nói cũng được, nhưng còn ngại, nếu cưới hỏi, làm hôn thú thì ảnh không muốn rắc rối chuyện của cải, tài sản của em. Ảnh sợ mang tiếng mà các con em cũng không bằng lòng" "Nếu vậy thì làm một buổi tiệc nho nhỏ ở nhà hàng, mời bà con, bạn bè đến dự, coi như ra mắt đểâ hợp thức hóa chuyện hai người sống chung nhau"
Tiệc cưới hôm đó có khoảng năm mươi người tham dự, gồm bạn bè và cả con cái của hai ngườị Thế là cô ta dọn về ở với anh Thị Những ngày đầu, hai người có vẻ hạnh phúc lắm. Cô ta thường gọi điện thoại kể chuyện sinh hoạt trong gia đình, việc nấu nướng, săn sóc, chiều chuộng nhaụ Hai người còn đưa nhau đi du lịch bên Châu Âu nữạ Thấy họ vui vẻ, thân ái, quấn quít nhau như vợ chồng trẻ, chúng tôi cũng mừng.
Nhưng rồi, khoảng một năm sau, cô ta gọi điện thoại tâm sự với vợ tôi "Lối rày hình như ảnh trở lại vẻ suy tư, lơ đãng. Em nói chuyện với ảnh cả buổi, ảnh ậm ừ mà chẳng biết em nói gì? Buổi tối, ăn cơm xong, ảnh đem bia ra sau nhà, ngồi uống một mình, đến khuya mới vô. Em chẳng hiểu ra sao cả!?" Vợ tôi tưởng chuyện chẳng có gì quan trọng nên an ủi "Ông xã em cũng thường uống rượu một mình. Ðàn ông đôi khi thích suy nghĩ những chuyện trên trời dưới đất. Em cũng thường để cho ổng những phút riêng tư, coi như tôn trọng họ vậy thôi chứ không sao đâụ Chị đừng để ý đến!"
Không ngờ, một buổi chiều, đi làm về, tôi thấy cô vợ của anh Thi ngồi tỉ tê, mếu máo với vợ tôị Hỏi ra mới biết là vì anh chồng uống rượu mà cô ta giận, xách va li về nhà mình. Khi đi ngang nhà tôi, cô ta ghé vào tâm sự. "Vợ chồng, tuy chưa sống với nhau đủ để có cái nghĩa thì cũng có cái tình. Em thương ảnh, ảnh biết nên cũng tỏ vẻ chiều chuộng, săn sóc, lo lắng cho em, nhưng em linh cảm như ảnh làm bổn phận. Em thấy như xa cách, như không thật tình. Em với ảnh đâu còn trẻ dại, sống với nhau là để sau nầy nương tựa nhau, giúp đỡ nhau trong lúc tuổi già, ốm đau, bịnh hoạn, vui buồn có nhau thì những gì riêng tư thầm kín cũng nên cho nhau biết để an ủi, chia sớt nhau mới nhẹ lòng. Vậy mà em hỏị Sao ảnh buồn? Ảnh lắc đầụ Em giận quá mới nói "Em về nhà, cho anh được yên tĩnh mà suy tư". Vậy là em xách va li về đâỵ Có lẽ hồn vía ảnh bị cô, bà nào bắt mất rồi chị ơi!". Vợ tôi vọt miệng "Dám ảnh bị hồn ma bóng quế nào ám rồị Phải mời thầy đến cúng, cho bùa trừ mẳ" Tôi la vợ tôi "Em hay tin nhảm nhí!" Rồi tôi trấn an cô vợ bạn "Vợ chồng trẻ nhìn tương lai toàn màu hồng, thấy cuộc sống dễ dàng quá, nhưng đến tuổi gần về chiều thì mất tự tin, bị ám ảnh bởi tuổi già với những bất trắc, bịnh hoạn, tử biệt sanh ly nên thường lo sợ, buồn phiền vu vơ. Tôi với ông xã chị bị tù cả chục năm, tâm trí không còn bình thường nữa, khi về với xã hội vẫn còn vụng về trong cư xử. Hơn nữa ảnh đã trải qua quá nhiều đau khổ vì chuyện gia đình, nay có chị bên cạnh là một an ủi lớn cho ảnh. Chị yên tâm. Ngoài chị ra, ảnh không thương yêu ai đâụ Nên trở về mà lo cơm nước, kẻo ảnh bị đói tội nghiệp". Cô có vẻ xiêu lòng nhưng vẫn lắc đầu. Tôi bảo "Hay là chị cứ ngồi đâỵ Tôi đến kêu ảnh qua rước chị".
Tôi ra xe, vợ tôi chạy theo, thì thầm "Tối nào cũng say mềm rồi lăn ra ngủ! Hỏi ảnh có phải vì chuyện đó thì tìm cho ảnh ít thuốc" Tôi phì cười "Cũng có thể. Ðể anh xem".
Tôi lái xe qua, đẩy cửa bước vàọ Anh Thi đang ngồi uống bia, nhìn cái TV., chỉ chiếu hình chứ không có tiếng nói. Cũng không chắc anh ta nhìn cái màn hình hay nhìn vách tường sau TV. Tôi ngồi xuống bên cạnh. Anh ta mở cho tôi một lon bia. Tôi yên lặng cầm lon bi. Một lát, tôi nói "Bà xã anh qua nhà tôị..". Anh ta vẫn nhìn cái TV. "Tôi biết. Trước sau gì bả cũng bỏ tôi. Tôi muốn xin lỗi bả từ lâu" "Tôi thấy hai người đâu có gì trở ngạị.." Anh ta lắc đầu như muốn xua đuổi một ý nghĩ, muốn ngăn mình đừng nói ra một điều gì. Tôi nói "Qua nhà tôi đón bả về", rồi yên lặng chờ đợị
Anh Thi cầm lon bia lên nhưng lại để xuống, bàn tay rung lên nhè nhẹ. Rồi bỗng anh ta ôm mặt, cúi xuống.
Một lúc thật lâu, anh ta thở ra, giọng lạc hẳn "Tôi thương nhớ vợ tôi. Tôi không thể nào nguôi thương nhớ vợ tôi".
************************************************************************************************************************
Một món quà Xuân, quà Sinh Nhật thanh cao,
trang nhã dành cho bạn bè, người thân.
Ðã Phát Hành.
Ba tập truyện ngắn của Phạm Thành Châu
- Bức Họa Khỏa Thân (248 trang)
- Nhớ Huế (248 trang)
- Lý lẽ của trái tim (275 trang)
Giá mỗi tập 12 USD. (trong nước Mỹ)
Mua ba (3) tập trở lên, giá mỗi tập 10 USD kể cả cước phí. Gửi sách trước, trả tiền saụ
Liên Lạc:
Phạm Thành Châu 7004 Beverly Lane Springfield VA 22150
Phone (H) (703) 569-0124 (571) 480 - 3276) (c)
(xin để lại lời nhắn)
Nhờ người bạn tù vượt biên qua trước bảo trợ, gia đình tôi và anh Thi được qua cùng tiểu bang, nhà gần nhau. Vừa đến Mỹ là anh Thi lăn lưng vào việc kiếm tiền. Anh ta làm hai jobs "Tôi phải có một căn nhà cho con tôị Phải chuẩn bị tiền nong khi nó vào đại học. Lúc ở Việt Nam, nó đã bị đói khổ, bị đánh đập, nay nó phải được đền bù". Thời đó, khoảng thập niên 1990, nhà ở Mỹ còn rẻ. Bạn tôi mua nhà, sắm xe mới cho con, nhưng anh vẫn lùi xùi như lúc còn ở Việt Nam. Anh ta đi làm từ sáng sớm, gần khuya mới về. Thằng con anh ta, đi học về là đến thẳng nhà tôi ăn cơm. Vợ tôi còn bới thức ăn để nó mang về cho bố nó.
Sau bao nhiêu năm tù đày, nay được đến xứ tự do cùng gia đình, chúng tôi dốc hết sức lực còn lại để kiếm tiền cho con cái theo đuổi việc học hành. Mục tiêu, ước vọng của chúng tôi là các con nên người, đủ sức đua chen với đời. Khi đứa con anh Thi tốt nghiệp đại học, có việc làm ổn định, theo đề nghị của chúng tôi, anh ta chỉ làm một job. Buổi sáng, tôi và anh ta ra tiệm cà phê ngồi chuyện trò, cuối tuần, chúng tôi nấu nướng, cùng với các bạn khác, ra sau nhà ăn uống, chuyện trò.
Thấy anh Thi độc thân, chúng tôi dự định tìm cho anh ta một người đàn bà, làm bạn, để giúp đỡ, nương tựa nhau trong quãng đời còn lạị
Vợ tôi có một cô bạn, chủ một tiệm nail (làm móng tay), tuổi trên bốn mươi, chồng chết đã hơn năm năm nay, tính tình đàng hoàng, hiền lành, dung nhan còn đẹp đẽ, hấp dẫn. Với chủ ý cho anh Thi và cô bạn tìm hiểu nhau nên mỗi khi tổ chức ăn uống cuối tuần, chúng tôi mời cô ta đến chung vui, rồi làm như vô tình, sắp xếp cho hai người ngồi gần nhaụ Khi biết anh Thi còn cô đơn, cô ta không còn e ngại, giữ kẽ nữa mà vui vẻ góp chuyện với mọi ngườị Anh Thi, đã bớt trầm tư mà trở nên hoạt bát, lịch sự tiếp món ăn cho cô ta, đôi khi lại thì thầm như có chuyện riêng tư với người đẹp. Khoảng vài tháng sau, theo thường lệ, vợ tôi gọi điện thoại mời hai người đến dự bữa cơm gia đình thì cả hai đều trả lời rằng bận việc, không đến được. Hóa ra họ đưa nhau đi nhà hàng. Cô bạn tâm sự với vợ tôi. Em thấy vẻ mặt ảnh buồn buồn, em thương quá! Em mời ảnh đi ăn riêng để tìm hiểu tâm sự ảnh, nhưng ảnh chỉ cười bảo, tính ảnh vậy thôi chứ không có gì đáng nói " Vợ tôi trấn an ". Chị đừng bận tâm. Mấy ông "mất nước" lâu lâu xụ mặt, thở ra, nhưng sau đó lại vui vẻ như thường. Ông xã em cũng vậỵ Nhưng theo yêu cầu của chị, để em hỏi ông xã em, xem anh ta có chuyện gì ấp ủ trong lòng mà không nói ra. Chị có biết gì về cô vợ trước của ảnh không? Theo ảnh kể thì cô ta đối xử rất tệ bạc với ảnh khi ảnh đi tù về. Có thật vậy không? Chuyện nầy thì chắc chắn, vì ông xã em ra tù cùng một ngày, cùng đến nhà vợ anh ta, ông xã em thấy tận mắt chị ta đuổi ảnh, không cho vô nhà. Dù sao em cũng sẽ hỏi lại thằng con ảnh xem nội vụ ra sao rồi sẽ báo với chị sau" "Em thương ảnh thì em cũng chấp nhận hoàn cảnh, tâm sự của ảnh. Em chỉ muốn biết để an ủi ảnh, làm cho ảnh vuị Chị biết không, khi có em bên cạnh, ảnh rất vui, thương em và chiều chuộng em nhiều lắm. Vậy thì được rồi. Biết ảnh thương yêu chị là đủ rồi. Người đàn ông nào cũng vậy, mình hết lòng, hết dạ với họ thì dù có tâm sự, chuyện riêng tư họ cũng bỏ hết mà về với mình, chỉ biết một mình mình thôị Chị yên tâm mà vui với ảnh. Cứ thắc mắc, lo lắng hoài chi cho mệt trí. Ðời người có bao lâu đâu. Vui lên đi chị ơi!. Cô bạn nhắc đến chuyện tư lự của anh Thi, chúng tôi mới nhớ lại, khi đến nhà chúng tôi ăn cơm, nhiều lúc, đang chuyện trò, anh ta bỗng nhiên ngưng nói, trông như người mất hồn. Ăn xong, anh ta mang lon bia ra sau nhà, đứng một mình cả giờ đồng hồ.
Tuy nói thế nhưng vợ tôi cũng gọi thằng con anh Thi đến để hỏi về mẹ nó ở Việt Nam hiện nay ra sao, có thường liên lạc với ba nó không? Thằng nhỏ kể "Mấy lần mẹ con bên Việt Nam gọi điện thoại cho con, nhờ con thưa với ba con, xin ba con tha thứ và bảo lãnh cho mẹ con qua đây để săn sóc cho ba con. Mẹ con nói hiện nay ở Việt Nam, mẹ con không có khó khăn gì về đời sống, chỉ sợ ba con đã lớn tuổi, khi đau ốm không ai săn sóc, lo cơm nước. Mẹ con có dặn là đừng gởi tiền về, mẹ con không nhận đâụ Mẹ con cứ nhắc con thưa với ba con nhiều lần mà con không dám. Một lần con chỉ thưa với ba con là mẹ con có gọi điện thoại hỏi thăm. Chỉ mới chừng đó thôi mà ba con nổi nóng, ba con la "Nói bà ấy đừng gọi điện thoại qua đây nữa". Một buổi tối, mẹ con gọi điện thoại nhằm lúc ba con ở nhà, ba con bắt máỵ Không biết mẹ con nói gì mà ba con la hét vào máy như người nổi cơn điên "Xin xỏ gì? Lỗi phải gì? Bát nước đổ xuống đất rồi, có hốt lại được không? Bà đừng hòng năn nỉ, khóc lóc vô ích. Bà thử xét lại lương tâm bà đị Từ nay tôi cấm bà không được gọi điện thoại cho thằng con tôi, không được gọi điện thoại về nhà nầỵ Bà nhớ chưả Tôi cấm bà. Tôi cấm bà!..." Ba con đập cái điện thoại bể tan rồi ngồi ôm đầu, gục xuống. Con sợ quá, vào phòng đóng cửa lạị Từ đó, thỉnh thoảng mẹ con chỉ gọi điện thoại cho con hỏi thăm chuyện ăn uống, sức khỏe ba con ra sao, nhưng dặn đừng nói lại với ba con, sợ ba con giận" "Con có nói với mẹ con về chuyện ba con có bạn gái chưả" "Hôm trước con có kể là ba con vừa quen được một bà, hai người thường đưa nhau đi ăn tiệm. Mẹ con hỏi tính tình người đàn bà đó ra saỏ Công việc làm ăn của bà ta thế nàỏ Có để ý săn sóc cho ba con không hay chỉ đưa nhau đi ăn rồi ai về nhà nấỷ Mẹ con hỏi nhiều lắm, sau đó mẹ con nói cũng mừng cho ba con, mong cho hai người sống chung để ba con có người săn sóc, lo lắng miếng ăn giấc ngủ. Ba con đi tù về, tuổi cũng lớn rồi, sức khỏe suy yếu, cần có người đàn bà bên cạnh. Mẹ con vừa nói vừa khóc. Không hiểu sao con cũng khóc theọ Con rất nhớ mẹ con nhưng ba con cấm con về Việt Nam thăm mẹ con. Ba con giận mẹ con nhiều lắm" "Con có biết gì về người chồng sau nầy của mẹ con không?" "Lúc con ở chung với mẹ con, ổng chẳng tử tế gì với con. Bị bỏ đói và bị bợp tai, đá đít hoài, nhưng con biết thân phận, im lặng chịu đựng. Lần trước, mẹ con gọi điện thoại kể với con rằng hai người đã chia tay, ông ta đi đâu mất, không hề gặp lại. Con chỉ nghe vậy thôi chứ không hỏi thêm".
Vợ tôi gọi đến cô bạn kể rằng, Anh Thi coi bộ thù chứ không chỉ giận cô vợ ở Việt Nam và đề nghị hai người nên về sống với nhau. Cứ đi ăn tiệm rồi ai về nhà nấy mãi sao. Cô bạn nói "Có mấy lần ảnh mời em về nhà, nhưng em cũng chỉ đến thăm một lát rồi về. Em có bàn với ảnh, nếu muốn sống chung thì nên cưới hỏi đàng hoàng. Em không muốn bị dị nghị nầy nọ. Ảnh nói cũng được, nhưng còn ngại, nếu cưới hỏi, làm hôn thú thì ảnh không muốn rắc rối chuyện của cải, tài sản của em. Ảnh sợ mang tiếng mà các con em cũng không bằng lòng" "Nếu vậy thì làm một buổi tiệc nho nhỏ ở nhà hàng, mời bà con, bạn bè đến dự, coi như ra mắt đểâ hợp thức hóa chuyện hai người sống chung nhau"
Tiệc cưới hôm đó có khoảng năm mươi người tham dự, gồm bạn bè và cả con cái của hai ngườị Thế là cô ta dọn về ở với anh Thị Những ngày đầu, hai người có vẻ hạnh phúc lắm. Cô ta thường gọi điện thoại kể chuyện sinh hoạt trong gia đình, việc nấu nướng, săn sóc, chiều chuộng nhaụ Hai người còn đưa nhau đi du lịch bên Châu Âu nữạ Thấy họ vui vẻ, thân ái, quấn quít nhau như vợ chồng trẻ, chúng tôi cũng mừng.
Nhưng rồi, khoảng một năm sau, cô ta gọi điện thoại tâm sự với vợ tôi "Lối rày hình như ảnh trở lại vẻ suy tư, lơ đãng. Em nói chuyện với ảnh cả buổi, ảnh ậm ừ mà chẳng biết em nói gì? Buổi tối, ăn cơm xong, ảnh đem bia ra sau nhà, ngồi uống một mình, đến khuya mới vô. Em chẳng hiểu ra sao cả!?" Vợ tôi tưởng chuyện chẳng có gì quan trọng nên an ủi "Ông xã em cũng thường uống rượu một mình. Ðàn ông đôi khi thích suy nghĩ những chuyện trên trời dưới đất. Em cũng thường để cho ổng những phút riêng tư, coi như tôn trọng họ vậy thôi chứ không sao đâụ Chị đừng để ý đến!"
Không ngờ, một buổi chiều, đi làm về, tôi thấy cô vợ của anh Thi ngồi tỉ tê, mếu máo với vợ tôị Hỏi ra mới biết là vì anh chồng uống rượu mà cô ta giận, xách va li về nhà mình. Khi đi ngang nhà tôi, cô ta ghé vào tâm sự. "Vợ chồng, tuy chưa sống với nhau đủ để có cái nghĩa thì cũng có cái tình. Em thương ảnh, ảnh biết nên cũng tỏ vẻ chiều chuộng, săn sóc, lo lắng cho em, nhưng em linh cảm như ảnh làm bổn phận. Em thấy như xa cách, như không thật tình. Em với ảnh đâu còn trẻ dại, sống với nhau là để sau nầy nương tựa nhau, giúp đỡ nhau trong lúc tuổi già, ốm đau, bịnh hoạn, vui buồn có nhau thì những gì riêng tư thầm kín cũng nên cho nhau biết để an ủi, chia sớt nhau mới nhẹ lòng. Vậy mà em hỏị Sao ảnh buồn? Ảnh lắc đầụ Em giận quá mới nói "Em về nhà, cho anh được yên tĩnh mà suy tư". Vậy là em xách va li về đâỵ Có lẽ hồn vía ảnh bị cô, bà nào bắt mất rồi chị ơi!". Vợ tôi vọt miệng "Dám ảnh bị hồn ma bóng quế nào ám rồị Phải mời thầy đến cúng, cho bùa trừ mẳ" Tôi la vợ tôi "Em hay tin nhảm nhí!" Rồi tôi trấn an cô vợ bạn "Vợ chồng trẻ nhìn tương lai toàn màu hồng, thấy cuộc sống dễ dàng quá, nhưng đến tuổi gần về chiều thì mất tự tin, bị ám ảnh bởi tuổi già với những bất trắc, bịnh hoạn, tử biệt sanh ly nên thường lo sợ, buồn phiền vu vơ. Tôi với ông xã chị bị tù cả chục năm, tâm trí không còn bình thường nữa, khi về với xã hội vẫn còn vụng về trong cư xử. Hơn nữa ảnh đã trải qua quá nhiều đau khổ vì chuyện gia đình, nay có chị bên cạnh là một an ủi lớn cho ảnh. Chị yên tâm. Ngoài chị ra, ảnh không thương yêu ai đâụ Nên trở về mà lo cơm nước, kẻo ảnh bị đói tội nghiệp". Cô có vẻ xiêu lòng nhưng vẫn lắc đầu. Tôi bảo "Hay là chị cứ ngồi đâỵ Tôi đến kêu ảnh qua rước chị".
Tôi ra xe, vợ tôi chạy theo, thì thầm "Tối nào cũng say mềm rồi lăn ra ngủ! Hỏi ảnh có phải vì chuyện đó thì tìm cho ảnh ít thuốc" Tôi phì cười "Cũng có thể. Ðể anh xem".
Tôi lái xe qua, đẩy cửa bước vàọ Anh Thi đang ngồi uống bia, nhìn cái TV., chỉ chiếu hình chứ không có tiếng nói. Cũng không chắc anh ta nhìn cái màn hình hay nhìn vách tường sau TV. Tôi ngồi xuống bên cạnh. Anh ta mở cho tôi một lon bia. Tôi yên lặng cầm lon bi. Một lát, tôi nói "Bà xã anh qua nhà tôị..". Anh ta vẫn nhìn cái TV. "Tôi biết. Trước sau gì bả cũng bỏ tôi. Tôi muốn xin lỗi bả từ lâu" "Tôi thấy hai người đâu có gì trở ngạị.." Anh ta lắc đầu như muốn xua đuổi một ý nghĩ, muốn ngăn mình đừng nói ra một điều gì. Tôi nói "Qua nhà tôi đón bả về", rồi yên lặng chờ đợị
Anh Thi cầm lon bia lên nhưng lại để xuống, bàn tay rung lên nhè nhẹ. Rồi bỗng anh ta ôm mặt, cúi xuống.
Một lúc thật lâu, anh ta thở ra, giọng lạc hẳn "Tôi thương nhớ vợ tôi. Tôi không thể nào nguôi thương nhớ vợ tôi".
************************************************************************************************************************
Một món quà Xuân, quà Sinh Nhật thanh cao,
trang nhã dành cho bạn bè, người thân.
Ðã Phát Hành.
Ba tập truyện ngắn của Phạm Thành Châu
- Bức Họa Khỏa Thân (248 trang)
- Nhớ Huế (248 trang)
- Lý lẽ của trái tim (275 trang)
Giá mỗi tập 12 USD. (trong nước Mỹ)
Mua ba (3) tập trở lên, giá mỗi tập 10 USD kể cả cước phí. Gửi sách trước, trả tiền saụ
Liên Lạc:
Phạm Thành Châu 7004 Beverly Lane Springfield VA 22150
Phone (H) (703) 569-0124 (571) 480 - 3276) (c)
(xin để lại lời nhắn)
17. LỄ BỎ MÃ
Câu chuyện tôi kể dưới đây bắt đầu khi tôi học năm thứ hai ban Anh Văn ở Ðại Học Văn Khoa Huế. Tôi có khiếu về sinh ngữ nên việc học của tôi không mấy khó khăn. Nhưng học mà không thực hành thì khó kết quả. Như môn Anh Văn đa số viết và đọc rất giỏi nhưng nghe và nói, thật vất vả. Nhân dịp Tổng Hội Sinh Viên Huế làm công tác xã hội ở một ấp đồng bào thiểu số, tôi làm quen với một mục sư người Mỹ đang phụ trách truyền giáo ở đó. Tôi đề nghị được giúp ông trong việc phân phối phẩm vật cứu trợ cho đồng bào, thế là tôi có một chỗ thực tập tiếng Anh ngon lành. Ở tỉnh Thừa Thiên đồng bào sắc tộc chỉ có hai ấp Tà Rầu 1 và Tà Rầu 2 thuộc quận Nam Hòa, phía tây của tỉnh, cách Huế độ mười cây số. Vùng nầy tập trung các lăng tẩm và thắng cảnh đẹp nhất Huế. Ðịa giới quận bao gồm một phần dãy Trường Sơn với các địa danh A Sao, A Lưới, các căn cứ Bastogne, Birmingham. Cả một vùng rừng núi mênh mông đó đã thành hoang địa vì thuốc khai quang, chỉ phần đất thuộc chính quyền kiểm soát còn giữ được nguyên trạng. Hai ấp của người thiểu số nằm hai bên bờ sông Hương. Ấp Tà Rầu 1 nằm cạnh lăng Minh Mạng phía tả ngạn. Ấp Tà Rầu 2 nằm gần đồi Vọng Cảnh phía hữu ngạn. Theo tôi biết thì trước đây, số đồng bào nầy ở trong rừng sâu, để tránh bom đạn họ chạy đến vùng Quốc Gia và được tạm cư ở đây. Mỗi ấp gồm bốn dãy nhà lợp tôn vách ván. Mỗi gia đình được chia một ngăn. Vì quen sống đơn giản, họ chẳng quan tâm đến tiện nghi. Có điều, bỏ họ vào sống chung với đồng bào kinh, họ hoàn toàn lạc lõng. Mà dù họ muốn sống như đồng bào kinh cũng không được. Họ không có đất để trồng trọt, chăn nuôi. Cho nên cứ mỗi buổi sáng, theo thói quen, đàn ông móc chà gạt trên vai, miệng ngậm ống vố, lang thang, nghiêng ngó đó đây, rồi lần mò trong bờ, bụi, bắt chuột, rắn, ếch, nhái về nướng làm mồi uống rượu. Riêng đám thanh niên trai tráng đều đi biệt kích Mỹ. Mỗi tháng đến kỳ lương, họ về với gia đình. Bất kỳ đang ở đâu, trong đồn hay trên đường hành quân, hễ nhận được lương là họ bỏ mặc, kéo nhau về nhà, mua rượu, gà, chè chén say sưa cho đến sạch túi mới vác súng về lại đơn vị.
Nhiệm vụ tôi là mỗi sáng thứ bảy đến hội thánh chuyển phẩm vật cứu trợ lên xe, đến nơi đem xuống. Ðồng bào, theo lệ thường đã tập trung sẵn trước sân, ngồi nghe giảng đạo xong, lên nhận quà, thường là những gói “bột dẹp”, “bột xếp”, sữa bột, gạo, đôi khi có cả áo quần, đồ hộp nữa. Ðể dễ thuyết phục đồng bào, ông mục sư học tiếng thượng, tôi cũng học theo ông. Người cán bộ của ty Phát Triển Sắc Tộc dạy rất tận tình nên chúng tôi tiến bộ nhanh. Từ khi ông giảng kinh thánh bằng tiếng thượng, đồng bào rất thích thú, nghe chăm chú hơn. Riêng tôi những lúc đó thường ra góc sân với lũ trẻ bập bẹ chuyện trò.
Một lần, cũng vào giờ giảng kinh, tôi lang thang đến các dãy nhà của đồng bào. Mọi người đều tập trung cả trước sân nên vắng ngắt. Lúc đến gần cuối dãy, tôi chợt thấy một cô bé thò đầu ra cửa sổ nhìn tôi và cười. Tuổi em độ mười hai, mười ba, có đôi mắt đen nhánh, miệng rất tươi, tóc em đen rẽ qua hai bên tai để lộ vầng trán cao và đôi lông mày đậm và dài. Trông em cùng cỡ với một em học lớp đệ thất trung học. Giá như em đi học, có lẽ em là hình ảnh nhí nhảnh, trong sáng nhất trường. Khi tôi đến gần, định hỏi chuyện thì em biến mất sau khung cửa sổ. Tôi ngạc nhiên, sao giờ nầy em lại ở đây, cửa chính lại đóng kín? Tôi tảng lờ đi quá cuối dãy rồi từ từ quay lên nhưng phía đối diện nhà em. Tôi liếc qua, thấy em đã nhô đầu lên chỉ vừa tầm đôi mắt nhìn tôi. Tôi cười với em. Mắt em sáng rực, đuôi mi kéo dài ra, rạng rỡ. Tôi biết em cũng đang cười. Tôi ra dấu rằng tôi sẽ đến gần em, em lắc đầu. Tôi lại ra dấu em ra với tôi, em cũng lắc đầu. Tôi thấy có gì bất thường. Em bị tật nguyền hay em không thích chỗ đông người? Tôi quay về nhưng đôi mắt vẫn còn làm tôi xao xuyến. Người thiểu số, nhất là phái nữ có đôi mắt rất đẹp, đen láy và đoan chính. Cả khi họ để ngực trần và nếu ta nhìn vào đôi mắt họ, tự nhiên lòng ta như được rửa sạch những ý nghĩ vẫn đục, những ham muốn thấp hèn.
Những buổi gặp gỡ và nói chuyện câm như thế kéo dài được vài tháng. Ngày thường, thỉnh thoảng tôi có vào ấp của em để liên hệ với trưởng ấp những việc linh tinh mà vị mục sư nhờ tôi. Những lúc đó em có nhìn tôi nhưng vờ như không quen biết.
Môt buổi sáng đi ngang qua đồi Vọng Cảnh, lúc cho xe xuống giốc cầu, tôi chợt thấy một toán phụ nữ sắc tộc đang bì bõm dưới giòng nước để bắt ốc, hái rau gì đó. Chỉ nhìn thoáng qua, tôi biết ngay có em vì dáng em rất gầy và mái tóc kiểu học trò đó không lẫn được với ai cả. Tôi vội dựng xe gắn máy và lần xuống bờ suối. Hình như nhận ra tôi nên em chậm lại để đi sau cùng. Em mặc một quần đùi màu đen, ống dài quá gối và một chiếc áo hoa rộng thùng thình, đó là đồ cứu trợ do các hội thiện cấp phát. Khi tôi đến gần, em đứng thẳng người nhìn tôi đăm đăm, đôi mắt đen sâu thẩm sáng lên một nụ cười ngây thơ, hoan hỉ. Hình ảnh đó, suốt đời vẫn còn trong tôi. Tôi cũng vui mừng được gặp em, người bạn nhỏ bé. Tôi tiến xuống bờ suối định chào hỏi thì em lắc đầu và chạy băng lên phía trước. Tiếng chân em bì bõm khiến những người đàn bà quay lại. Họ giăng tay ra cản tôi. Tôi bảo.
- Tôi muốn nói chuyện với em bé kia được không?
Họ lắc đầu vừa nói vừa ra dấu.
- Không được, nó sẽ bị đánh vào đầu, vào người. Mầy đi đi!
Tôi dừng lại và hiểu lờ mờ rằng nếu tôi tiếp xúc với em, em sẽ gặp chuyện không may. Tôi quay lên, đứng nấp vào một bụi cây. Em đi chậm lại và dõi mắt lên cầu như tìm kiếm. Tôi bước ra khỏi bụi cây cho em thấy rõ. Em nhìn tôi và cười. Nụ cười và ánh mắt em như tràn ngập nổi buồn của lưu luyến và tuyệt vọng. Tôi vẫy tay, em cũng vừa thụt lùi vừa vẫy tay rồi vụt chạy đi.
Hôm đó, như thường lệ, đồng bào ở cả trước sân với vị mục sư, tôi lẻn ra đi qua căn nhà của em. Cửa chính vẫn đóng, cửa sổ vẫn mở, nhưng không thấy em đâu. Tôi đi qua, lại mấy lần vẫn thế, cuối cùng tôi đi thẳng đến cửa sổ và nhìn vào trong. Tôi bàng hoàng, không tin ở mắt mình. Em đã bị lột trần, chỉ còn chiếc quần đùi. Hai tay, hai chân bị trói chặt vào chân giường. em ngồi gục đầu trong hai cánh tay bị treo lên. Người em ốm tong, thấy rõ cả dãy xương sườn bên hông với những vết hằn đỏ bầm, rớm máu. Em xây lưng ra ngoài, hai chân bị trói cố co lên che lấy ngực nhưng vẫn để lộ ra chiếc vú nhỏ xíu như nửa trái chanh. Tôi gọi nho nhỏ “Em, em!” Em nghe thấy nhưng lắc đầu và vẫn giấu đầu với mái tóc lòa xòa vào giữa hai cánh tay. Rồi đôi vai em bỗng rung động mạnh, tiếng nức nở bị kìm chặt giữa hai hàm răng nghe rên rỉ, tức tưởi. Tôi quay lại, lên xe gắn máy, chạy thẳng ra trụ sở xã. Ông xã trưởng đang bàn chuyện gì đó với một anh cảnh sát và vài người nữa. Tôi xin lỗi họ và trình bày.
- Tôi thấy trong ấp Tà Rầu có một em bé bị trói tay chân vào giường, qúi ông phải giải cứu nó ra chứ.
Tôi chưa dứt lời, ông xã trưởng đã bảo.
- Chúng tôi đang nói chuyện đó, đó.
- Nhưng chính quyền phải can thiệp...
- Cậu ngồi xuống đây, rồi ông cảnh sát giải thích cho cậu nghe. Chuyện nầy đâu phải xảy ra lần đầu. Hôm qua tôi có nghe ông trưởng ấp báo cáo rồi, tôi đã cho người lên mời Ty Sắc Tộc xuống giải quyết, họ hẹn sáng nay đến nên chúng tôi phải ngồi chờ đây, chứ thứ bảy ai mà làm việc. Nhờ ông cảnh sát giải thích cho cậu đây rõ.
Anh cảnh sát rót cho tôi tách trà rồi nhẫn nha nói.
- Anh làm bên hội thánh phải không? Ông mục sư cũng biết chuyện nầy rồi. Ai cũng biết, chỉ có anh chưa rõ thôi. Nó rắc rối ở chỗ đó tục lệ của đồng bào thiểu số mà luật pháp mình không áp dụng được. Ép nó, nó quậy lên, chẳng hại gì mình nhưng đồng bào bị vạ lây.
Tôi sốt ruột.
- Nhưng dù tục lệ gì cũng phải cởi trói cho người ta chứ!
- Năm kia, ông quận có xuống cởi trói cho con nhỏ, mấy bữa sau bị đau sao đó. Nghe đồn bị thư bùa ngãi, bụng bị sưng lên, phải ra ngoài Hương Hóa, Quảng Trị rước thầy ngãi về trị mới khỏi.
- Nhưng nó là ai mà ngang ngược như thế?
- Là ai? Chồng con nhỏ đó chứ ai!
- Trời đất!
- Năm kia, con người ta mới mười một tuổi mà nó đòi ngủ, con nhỏ nửa đêm vùng bỏ chạy, la khóc. Nó lôi vô lột áo quần, trói ở chân giường mấy ngày, bỏ đói, bỏ khát. Ông quận xuống xử, nó không chịu, ông phải đích thân cởi trói, đem con nhỏ gửi nhà khác, nhưng không ai dám nhận, sợ nó thư bùa ngải. Cuối cùng phải năn nỉ, giải thích cho nó biết là con nhỏ còn con nít, phải chờ đủ mười ba tuổi mới được. Năm nay con nhỏ vừa đủ mười ba, nó lại giở trò cũ. Nó trói lại đánh đập cách nào con nhỏ cũng không chịu. Chẳng biết lát nữa Ty Sắc Tộc xuống giải quyết thế nào đây?!
- Nhưng muốn có vợ thì thiếu khối gì đàn bà, con gái lớn tuổi, sao lại nhè đứa con nít. Nói đồng bào trong ấp cưới cho nó con vợ.
- Nó cũng có vợ đấy chứ. Vợ nó là chị con nhỏ kia.
Tôi ngớ ra, chẳng hiểu gì cả. Anh cảnh sát cười.
- Bây giờ rãnh rỗi ,tôi tóm tắt cho anh nghe. Gia đình con nhỏ đó có ba chị em. Hai con chị đã lớn chỉ có con út nầy còn nhỏ thôi. Chị lớn nó có chồng đang ở bên Tà Rầu một, con chị kế có chồng là thằng cô hồn dịch vật đang nói đây. Lâu rồi, lúc còn ở trong buôn sóc ở trong A Sao, A Lưới kia, ông già của ba cô gái nầy chết, nhà nghèo quá, không có trâu, gà, chiêng, cồng để cúng Yang, làm ma chay đãi làng. Thằng rễ cô hồn nầy mới mua cô út bằng mấy trâu gà gì đó về làm vợ. Vậy là nó có hai vợ, một đứa lớn và một đứa năm bảy tuổi. Nghe nói trong buôn nó là đứa quyền hành, giàu có kiểu như cường hào, ác bá vậy, Bây giờ ở đây, nó không làm gì nhưng ai cũng sợ nó, cả đến đồng bào kinh cũng không dám rây vào. Chính quyền cũng chịu thua, chẳng có cách nào trừng trị nó cả.
- Dù sao cũng phải cứu em nhỏ ra. Ðể vậy nó bỏ đói, đánh đập riết, em chắc chết.
- Ðể chờ Ty Sắc Tộc xuống xem sao.Năm kia, đem ra xử, nó nói con chị lớn muốn bắt em lại phải trả đủ trâu bò, chiêng cồng gì đó. Mà tiền đâu chị nó chuộc em ra.
Một ý nghĩ thoáng trong đầu, tôi hỏi tên em nhỏ và tên người chị lớn rồi cám ơn, lên xe qua Tà Rầu một. Chị ta phảng phất giống em nên tôi nhận ra ngay. Tôi bảo.
- Này, em của chị là Hrao bị cột chân tay, bị đánh đau, bị đói bụng bên Tà Rầu hai chị biết không?
- Tao biết mà không làm gì được. Nó là vợ thằng K’hiu rồi.
- Nhưng phải cứu Hrao ra, chị không thương Hrao sao?
- Tao thương Hrao đầy một bụng, nhưng không có tiền trả cho nó.
- Nếu tôi đưa tiền cho chị, chị có chuộc được Hrao ra không?
Chị bỗng lôi tuột tôi vào góc nhà, thì thầm.
- Thằng K’hiu nó có cái tai nghe xa lắm. Nó ác như con cọp, con rắn. Nó giết mầy chết. Mầy có tiền muốn mua Hrao phải đưa tiền cho tao. Khi Hrao về nhà tao, mầy đến dẫn về nhà mầy làm vợ, không cho thằng K’hiu biết mầy ở đâu.
- Tôi không có tiền ngay, phải ít hôm nữa. Bây giờ tôi đưa chị qua bên xã, bên đó có nhiều người lắm. Ông xã trưởng, ông cảnh sát, ông sắc tộc làm chứng, khi K’hiu đòi tiền chuộc, chị hỏi nó bao nhiêu rồi cho tôi biết. Chị nhớ hẹn nó ba ngày nữa đưa tiền. Nhớ mời nhiều người đến cho họ thấy chị đưa tiền rồi dẫn Hrao về.
Chị ta mừng rỡ.
- Mầy chở tao qua xã thôi, còn mầy đi đi, đừng cho thằng K’hiu thấy.
Tôi đưa chị qua xã rồi về Huế dọ giá chiếc xe gắn máy của tôi. Hôm sau tôi lên hỏi chị và thấy số tiền cũng vào khoảng chiếc xe. Tôi về bán xe đưa tiền cho chị, còn một ít tôi mua chiếc xe đạp.
Nhiệm vụ tôi là mỗi sáng thứ bảy đến hội thánh chuyển phẩm vật cứu trợ lên xe, đến nơi đem xuống. Ðồng bào, theo lệ thường đã tập trung sẵn trước sân, ngồi nghe giảng đạo xong, lên nhận quà, thường là những gói “bột dẹp”, “bột xếp”, sữa bột, gạo, đôi khi có cả áo quần, đồ hộp nữa. Ðể dễ thuyết phục đồng bào, ông mục sư học tiếng thượng, tôi cũng học theo ông. Người cán bộ của ty Phát Triển Sắc Tộc dạy rất tận tình nên chúng tôi tiến bộ nhanh. Từ khi ông giảng kinh thánh bằng tiếng thượng, đồng bào rất thích thú, nghe chăm chú hơn. Riêng tôi những lúc đó thường ra góc sân với lũ trẻ bập bẹ chuyện trò.
Một lần, cũng vào giờ giảng kinh, tôi lang thang đến các dãy nhà của đồng bào. Mọi người đều tập trung cả trước sân nên vắng ngắt. Lúc đến gần cuối dãy, tôi chợt thấy một cô bé thò đầu ra cửa sổ nhìn tôi và cười. Tuổi em độ mười hai, mười ba, có đôi mắt đen nhánh, miệng rất tươi, tóc em đen rẽ qua hai bên tai để lộ vầng trán cao và đôi lông mày đậm và dài. Trông em cùng cỡ với một em học lớp đệ thất trung học. Giá như em đi học, có lẽ em là hình ảnh nhí nhảnh, trong sáng nhất trường. Khi tôi đến gần, định hỏi chuyện thì em biến mất sau khung cửa sổ. Tôi ngạc nhiên, sao giờ nầy em lại ở đây, cửa chính lại đóng kín? Tôi tảng lờ đi quá cuối dãy rồi từ từ quay lên nhưng phía đối diện nhà em. Tôi liếc qua, thấy em đã nhô đầu lên chỉ vừa tầm đôi mắt nhìn tôi. Tôi cười với em. Mắt em sáng rực, đuôi mi kéo dài ra, rạng rỡ. Tôi biết em cũng đang cười. Tôi ra dấu rằng tôi sẽ đến gần em, em lắc đầu. Tôi lại ra dấu em ra với tôi, em cũng lắc đầu. Tôi thấy có gì bất thường. Em bị tật nguyền hay em không thích chỗ đông người? Tôi quay về nhưng đôi mắt vẫn còn làm tôi xao xuyến. Người thiểu số, nhất là phái nữ có đôi mắt rất đẹp, đen láy và đoan chính. Cả khi họ để ngực trần và nếu ta nhìn vào đôi mắt họ, tự nhiên lòng ta như được rửa sạch những ý nghĩ vẫn đục, những ham muốn thấp hèn.
Những buổi gặp gỡ và nói chuyện câm như thế kéo dài được vài tháng. Ngày thường, thỉnh thoảng tôi có vào ấp của em để liên hệ với trưởng ấp những việc linh tinh mà vị mục sư nhờ tôi. Những lúc đó em có nhìn tôi nhưng vờ như không quen biết.
Môt buổi sáng đi ngang qua đồi Vọng Cảnh, lúc cho xe xuống giốc cầu, tôi chợt thấy một toán phụ nữ sắc tộc đang bì bõm dưới giòng nước để bắt ốc, hái rau gì đó. Chỉ nhìn thoáng qua, tôi biết ngay có em vì dáng em rất gầy và mái tóc kiểu học trò đó không lẫn được với ai cả. Tôi vội dựng xe gắn máy và lần xuống bờ suối. Hình như nhận ra tôi nên em chậm lại để đi sau cùng. Em mặc một quần đùi màu đen, ống dài quá gối và một chiếc áo hoa rộng thùng thình, đó là đồ cứu trợ do các hội thiện cấp phát. Khi tôi đến gần, em đứng thẳng người nhìn tôi đăm đăm, đôi mắt đen sâu thẩm sáng lên một nụ cười ngây thơ, hoan hỉ. Hình ảnh đó, suốt đời vẫn còn trong tôi. Tôi cũng vui mừng được gặp em, người bạn nhỏ bé. Tôi tiến xuống bờ suối định chào hỏi thì em lắc đầu và chạy băng lên phía trước. Tiếng chân em bì bõm khiến những người đàn bà quay lại. Họ giăng tay ra cản tôi. Tôi bảo.
- Tôi muốn nói chuyện với em bé kia được không?
Họ lắc đầu vừa nói vừa ra dấu.
- Không được, nó sẽ bị đánh vào đầu, vào người. Mầy đi đi!
Tôi dừng lại và hiểu lờ mờ rằng nếu tôi tiếp xúc với em, em sẽ gặp chuyện không may. Tôi quay lên, đứng nấp vào một bụi cây. Em đi chậm lại và dõi mắt lên cầu như tìm kiếm. Tôi bước ra khỏi bụi cây cho em thấy rõ. Em nhìn tôi và cười. Nụ cười và ánh mắt em như tràn ngập nổi buồn của lưu luyến và tuyệt vọng. Tôi vẫy tay, em cũng vừa thụt lùi vừa vẫy tay rồi vụt chạy đi.
Hôm đó, như thường lệ, đồng bào ở cả trước sân với vị mục sư, tôi lẻn ra đi qua căn nhà của em. Cửa chính vẫn đóng, cửa sổ vẫn mở, nhưng không thấy em đâu. Tôi đi qua, lại mấy lần vẫn thế, cuối cùng tôi đi thẳng đến cửa sổ và nhìn vào trong. Tôi bàng hoàng, không tin ở mắt mình. Em đã bị lột trần, chỉ còn chiếc quần đùi. Hai tay, hai chân bị trói chặt vào chân giường. em ngồi gục đầu trong hai cánh tay bị treo lên. Người em ốm tong, thấy rõ cả dãy xương sườn bên hông với những vết hằn đỏ bầm, rớm máu. Em xây lưng ra ngoài, hai chân bị trói cố co lên che lấy ngực nhưng vẫn để lộ ra chiếc vú nhỏ xíu như nửa trái chanh. Tôi gọi nho nhỏ “Em, em!” Em nghe thấy nhưng lắc đầu và vẫn giấu đầu với mái tóc lòa xòa vào giữa hai cánh tay. Rồi đôi vai em bỗng rung động mạnh, tiếng nức nở bị kìm chặt giữa hai hàm răng nghe rên rỉ, tức tưởi. Tôi quay lại, lên xe gắn máy, chạy thẳng ra trụ sở xã. Ông xã trưởng đang bàn chuyện gì đó với một anh cảnh sát và vài người nữa. Tôi xin lỗi họ và trình bày.
- Tôi thấy trong ấp Tà Rầu có một em bé bị trói tay chân vào giường, qúi ông phải giải cứu nó ra chứ.
Tôi chưa dứt lời, ông xã trưởng đã bảo.
- Chúng tôi đang nói chuyện đó, đó.
- Nhưng chính quyền phải can thiệp...
- Cậu ngồi xuống đây, rồi ông cảnh sát giải thích cho cậu nghe. Chuyện nầy đâu phải xảy ra lần đầu. Hôm qua tôi có nghe ông trưởng ấp báo cáo rồi, tôi đã cho người lên mời Ty Sắc Tộc xuống giải quyết, họ hẹn sáng nay đến nên chúng tôi phải ngồi chờ đây, chứ thứ bảy ai mà làm việc. Nhờ ông cảnh sát giải thích cho cậu đây rõ.
Anh cảnh sát rót cho tôi tách trà rồi nhẫn nha nói.
- Anh làm bên hội thánh phải không? Ông mục sư cũng biết chuyện nầy rồi. Ai cũng biết, chỉ có anh chưa rõ thôi. Nó rắc rối ở chỗ đó tục lệ của đồng bào thiểu số mà luật pháp mình không áp dụng được. Ép nó, nó quậy lên, chẳng hại gì mình nhưng đồng bào bị vạ lây.
Tôi sốt ruột.
- Nhưng dù tục lệ gì cũng phải cởi trói cho người ta chứ!
- Năm kia, ông quận có xuống cởi trói cho con nhỏ, mấy bữa sau bị đau sao đó. Nghe đồn bị thư bùa ngãi, bụng bị sưng lên, phải ra ngoài Hương Hóa, Quảng Trị rước thầy ngãi về trị mới khỏi.
- Nhưng nó là ai mà ngang ngược như thế?
- Là ai? Chồng con nhỏ đó chứ ai!
- Trời đất!
- Năm kia, con người ta mới mười một tuổi mà nó đòi ngủ, con nhỏ nửa đêm vùng bỏ chạy, la khóc. Nó lôi vô lột áo quần, trói ở chân giường mấy ngày, bỏ đói, bỏ khát. Ông quận xuống xử, nó không chịu, ông phải đích thân cởi trói, đem con nhỏ gửi nhà khác, nhưng không ai dám nhận, sợ nó thư bùa ngải. Cuối cùng phải năn nỉ, giải thích cho nó biết là con nhỏ còn con nít, phải chờ đủ mười ba tuổi mới được. Năm nay con nhỏ vừa đủ mười ba, nó lại giở trò cũ. Nó trói lại đánh đập cách nào con nhỏ cũng không chịu. Chẳng biết lát nữa Ty Sắc Tộc xuống giải quyết thế nào đây?!
- Nhưng muốn có vợ thì thiếu khối gì đàn bà, con gái lớn tuổi, sao lại nhè đứa con nít. Nói đồng bào trong ấp cưới cho nó con vợ.
- Nó cũng có vợ đấy chứ. Vợ nó là chị con nhỏ kia.
Tôi ngớ ra, chẳng hiểu gì cả. Anh cảnh sát cười.
- Bây giờ rãnh rỗi ,tôi tóm tắt cho anh nghe. Gia đình con nhỏ đó có ba chị em. Hai con chị đã lớn chỉ có con út nầy còn nhỏ thôi. Chị lớn nó có chồng đang ở bên Tà Rầu một, con chị kế có chồng là thằng cô hồn dịch vật đang nói đây. Lâu rồi, lúc còn ở trong buôn sóc ở trong A Sao, A Lưới kia, ông già của ba cô gái nầy chết, nhà nghèo quá, không có trâu, gà, chiêng, cồng để cúng Yang, làm ma chay đãi làng. Thằng rễ cô hồn nầy mới mua cô út bằng mấy trâu gà gì đó về làm vợ. Vậy là nó có hai vợ, một đứa lớn và một đứa năm bảy tuổi. Nghe nói trong buôn nó là đứa quyền hành, giàu có kiểu như cường hào, ác bá vậy, Bây giờ ở đây, nó không làm gì nhưng ai cũng sợ nó, cả đến đồng bào kinh cũng không dám rây vào. Chính quyền cũng chịu thua, chẳng có cách nào trừng trị nó cả.
- Dù sao cũng phải cứu em nhỏ ra. Ðể vậy nó bỏ đói, đánh đập riết, em chắc chết.
- Ðể chờ Ty Sắc Tộc xuống xem sao.Năm kia, đem ra xử, nó nói con chị lớn muốn bắt em lại phải trả đủ trâu bò, chiêng cồng gì đó. Mà tiền đâu chị nó chuộc em ra.
Một ý nghĩ thoáng trong đầu, tôi hỏi tên em nhỏ và tên người chị lớn rồi cám ơn, lên xe qua Tà Rầu một. Chị ta phảng phất giống em nên tôi nhận ra ngay. Tôi bảo.
- Này, em của chị là Hrao bị cột chân tay, bị đánh đau, bị đói bụng bên Tà Rầu hai chị biết không?
- Tao biết mà không làm gì được. Nó là vợ thằng K’hiu rồi.
- Nhưng phải cứu Hrao ra, chị không thương Hrao sao?
- Tao thương Hrao đầy một bụng, nhưng không có tiền trả cho nó.
- Nếu tôi đưa tiền cho chị, chị có chuộc được Hrao ra không?
Chị bỗng lôi tuột tôi vào góc nhà, thì thầm.
- Thằng K’hiu nó có cái tai nghe xa lắm. Nó ác như con cọp, con rắn. Nó giết mầy chết. Mầy có tiền muốn mua Hrao phải đưa tiền cho tao. Khi Hrao về nhà tao, mầy đến dẫn về nhà mầy làm vợ, không cho thằng K’hiu biết mầy ở đâu.
- Tôi không có tiền ngay, phải ít hôm nữa. Bây giờ tôi đưa chị qua bên xã, bên đó có nhiều người lắm. Ông xã trưởng, ông cảnh sát, ông sắc tộc làm chứng, khi K’hiu đòi tiền chuộc, chị hỏi nó bao nhiêu rồi cho tôi biết. Chị nhớ hẹn nó ba ngày nữa đưa tiền. Nhớ mời nhiều người đến cho họ thấy chị đưa tiền rồi dẫn Hrao về.
Chị ta mừng rỡ.
- Mầy chở tao qua xã thôi, còn mầy đi đi, đừng cho thằng K’hiu thấy.
Tôi đưa chị qua xã rồi về Huế dọ giá chiếc xe gắn máy của tôi. Hôm sau tôi lên hỏi chị và thấy số tiền cũng vào khoảng chiếc xe. Tôi về bán xe đưa tiền cho chị, còn một ít tôi mua chiếc xe đạp.
Một buổi sáng, chờ trong ấp vắng người, tôi đến nhà chị. Chị lại lôi tôi vào sau nhà. Em Hrao đang ngồi nấu gì đấy, ngẩn lên thấy tôi, em đứng dậy, nhìn sửng tôi. Người chị bảo.
- Vợ mầy đó, Hrao ưng mầy lắm. Mầy và Hrao nằm đây.
Chị chỉ chiếc giường rồi đóng các cửa lại và đi ra ngoài. Tôi dìu em Hrao đến bên giường ngồi xuống. Em vòng tay ôm lấy tôi, úp mặt vào ngực tôi yên lặng. Tôi không nghe em khóc nhưng nước mắt thấm ướt cả áo tôi. Em Hrao nhỏ quá, ốm quá. Tôi ôm vai em mà xương vai cộm rõ trong bàn tay tôi. Em vẫn mặc chiếc áo hoa rộng thùng thình như hôm trước, một chiếc váy vải đen thô, dài phủ cả bàn chân, có lẽ là váy của người chị.
- Em được về đây, anh mừng lắm. Anh ngồi với em một lát rồi anh về.
Em ngước nhìn tôi, ngạc nhiên.
- Em không về nhà anh à?
- Không, em vẫn ở đây với chị em, thỉnh thoảng anh ghé thăm em.
- Nó sẽ giết anh, giết em. Nó nói, em nói chuyện với ai, nó sẽ giết hai đứa.
- Anh sẽ ít gặp em, em đừng sợ.
Em vẫn lắc đầu.
- Không. Em là vợ anh mà!
- Anh còn đi học, không có tiền nuôi em, không có nhà để ở. Em còn nhỏ quá, làm vợ chưa được. Em chờ anh hai năm nữa, học xong, anh sẽ đi làm, có tiền cưới em về sống với anh.
Ấp Tà Rầu một nằm cạnh lăng Minh Mạng. Lăng xây trên một ngọn đồi, chung quanh có tường thành bao bọc, lại có những giòng nước, hồ sen. Phụ nữ sắc tộc thường đi dọc các con suối, bắt ốc, hái rau. Họ đi buổi sáng đến trưa thì về. Tôi hẹn với em Hrao mỗi tuần vài ba buổi chiều gặp em ở sau lăng. Em cũng đi hái rau với các bạn. Thấy tôi họ vẫy tay bảo.
- Mầy giữ nó, tụi tao về trước.
Chúng tôi ngồi trên bờ suối, khuất sau những đám cỏ tranh hoang vu. Tôi giở trong xách tay ra một số quà rong. Ít trái cây, bánh và nước lạnh trong chai nhựa. Em Hrao rất thích những trái cây chua như cốc, me, ổi...Với chút muối ớt, đem bao nhiêu em giành ăn hết cả. Chúng tôi vừa ăn quà vừa chuyện trò. Tôi thích hỏi em đủ thứ chuyện để nghe em trả lời một cách ngây thơ, buồn cười. Em xem tôi như người anh đồng thời em dâng tôi thứ bản năng thiết tha, nồng nàn của một người vợ theo như truyền thống của sắc tộc em, đã là vợ khi còn rất trẻ.
Từ ngày em về với người chị, em là con chim sổ lồng. Em như cây hoa được chăm sóc, vun xới và bắt đầu có những nụ hàm tiếu. Em lớn nhanh và nẩy nở đến độ chỉ hơn một năm mà em đã đứng đến vai tôi rồi. Tâm hồn em cũng trưởng thành theo. Những lần gặp nhau, em vui mừng theo cách của một thiếu nữ đến với người yêu. Em thường bạo dạn ngồi sát bên tôi, tựa đầu vào vai tôi yên lặng thật lâu...
Tôi về Hội Thánh lấy một số áo quần vừa tầm cho em. Hôm nào đến hẹn, em mặc áo đẹp ở trong, ngoài khoác một áo cũ. Khi chỉ còn hai chúng tôi ở bờ suối, em cởi áo ngoài, hãnh diện đến trước mặt tôi, nhìn tôi để chờ được khen. Tôi ngắm em sửng sờ.
- Hrao! Em đẹp như tiên!
- Em Hrao chỉ mặc áo đẹp cho anh nhìn thôi, không ai biết em đẹp hết.
Hai mắt em long lanh tuổi dậy thì, má em hồng, ngực em đã nhô cao, phập phồng sức sống, đùi em nở tròn, hằn rõ dưới lần vải. Tôi nhìn thấy và hãnh diện khi nghĩ đến khu rừng trinh nguyên, quí giá đó, trong một ngày trọng đại, tôi và em sẽ cùng nhau khai phá, thưởng thức sự huyền nhiệm của tình yêu vợ chồng. Tôi thường dặn em phải ăn và ngủ thật nhiều để mau lớn. Em vâng lời và khoe với tôi.
- Ở nhà, em Hrao no rồi mà còn ăn nữa, hết buồn ngủ rồi mà còn nhắm mắt ngủ nữa.
Tôi khen em giỏi, em bảo.
- Nhưng khi Hrao về ở với anh, Hrao ít ngủ để anh ngủ nhiều, ít ăn để anh ăn nhiều.
- Ðể làm gì?
- Hrao ra nương rẫy bứt lúa về nấu cho anh ăn no.
Em lúc nào cũng mơ đến một khung trời hoang dã, như con chim rừng cùng bạn đời tung cánh trong cõi tự do, bao la.
Mùa Xuân năm 1975, miền Nam bị tấn công. Dân Huế hoảng hốt chạy cả vào Ðà Nẳng. Năm Mậu Thân kinh hoàng với những vụ thảm sát tập thể khiến cho những người dù không liên hệ đến chính quyền cũng bồng bế nhau chạy giặc. Tôi cũng chạy vào Ðà Nẳng, nhưng mấy hôm sau thành phố cũng bị chiếm nốt. Rồi có thông cáo đồng bào phải trở về quê cũ. Ðáng lẽ tôi về quê ở Quảng Ngãi, nhưng tôi lại ra Huế, định dẫn em Hrao về với gia dình. Cha mẹ tôi chỉ sinh được tôi là con trai nên rất yêu thương. Tôi tin rằng em Hrao sẽ được chấp nhận như một nàng dâu, tuy còn trẻ nhưng xinh đẹp, hiền lành. Tôi về lại nhà trọ trong thành nội vào buổi chiều, qua sáng hôm sau ra đường Trần Hưng Ðạo định đón xe lên Tà Rầu thì bị việt cộng chận bắt. Một tên bạn học trở cờ đã báo cáo tôi là tay sai C.I.A, trực tiếp chỉ huy là vị mục sư Tin Lành. Tôi bị nhốt vào lao Thừa Phủ. Họ đưa giấy bút bắt tôi thành thật khai báo. Viết xong họ không chịu, bắt tôi viết lại, hàng chục lần, nhưng tôi có biết gì về C.I.A đâu! Lúc đầu họ dỗ dành, sau hăm dọa, rồi họ bắt đầu tra tấn tôi, chết đi sống lại mấy lần. Suốt bốn tháng trường, đến khi nghĩ rằng mình không thể sống được, tôi đâm ù lì, bảo họ.
- Cứ giết tôi đi, tôi chẳng có gì để khai cả.
Thế rồi họ thả tôi ra. Tôi về nhà trọ nằm liệt, chỉ còn da với xương. Người chủ nhà rất tốt, săn sóc tôi tận tình. Một thời gian sau đã khá, có thể đi vững, tôi ra đón xe lam lên Tà Rầu tìm em Hrao. Xuống xe ở chợ Tuần, tôi đi đò qua sông Hương, qua ngã lăng Minh Mạng đến ấp Tà Rầu. Tôi đi rất đúng đường, nhưng trước mặt tôi là quả đồi trọc, không còn chút dấu vết gì của đồng bào thiểu số cả! Họ đã đi sạch. Tôi lên đỉnh đồi nhìn quanh, chỉ thấy một cõi mênh mông vắng lặng. Tôi đi theo lối mòn và tìm thấy nền nhà của em. Tôi ngồi xuống, cảm thấy được gần gủi em. Ðến chiều, tôi xuống đồi vào lăng Minh Mạng, đến bờ suối cũ và lại chờ em. Tôi lấy trong xách tay ra một ít trái cây cho em, để đấy và dõi mắt tìm quanh...
Thấy trời gần tối, tôi đành quay về.
Những ngày sau đó, tuy người còn yếu, tôi vẫn lên vùng Nam Hòa, lang thang vào các nơi cũ, hi vọng được gặp em. Một buổi chiều, đang đứng trên đồi, chợt tôi thấy bên kia, nơi những ngôi mộ người thiểu số, thấp thoáng bóng người sắc tộc. Tôi mừng rỡ, chạy băng qua, họ sẽ giúp tôi biết được em Hrao ở đâu. Khi tôi đến nơi thì hình như họ vừa cúng lễ gì đó xong. Một dám lửa gần tàn, một ít đồ gia dụng, áo quần, ống vố, chà gạt...để cạnh một ngôi mộ. Ðó là những người trong ấp trước đây, chúng tôi mừng rỡ khi nhận ra nhau.
- Ðồng bào cúng gì đó?
- Tao cúng bỏ mả, tao không ở đây nữa, không đem cơm, đem thịt cho nó nữa. Tao cúng bỏ nó, nó theo Yang để có cái ăn, cái uống.
- Bây giờ đồng bào về lại trong núi rồi hả?
- Tao về lại buôn rồi.
- Có xa không?
- Tao đi từ lúc con gà gáy, bây giờ về lại trong buôn.
- Gia đình người chị và em Hrao có về đó không?
- Chị Hrao về đó nhưng Hrao không về.
- Sao vậy? Bây giờ em Hrao ở đâu?
- Nó ở đằng kia. Nó chết rồi. Mộ nó kia kìa.
Tôi cảm tưởng như thình lình bị rút hết sức sống trong người. Tôi run lên, choáng váng.
- Không phải đâu. Em Hrao nầy nhỏ và đẹp lắm. Em ở với người chị.
- Hrao đó, tao biết, mầy ưng nó lắm, mầy mua nó làm vợ, ai cũng biết.
-Nhưng vì sao Hrao chết?
- Thằng K’hiu giết nó.
- Tại sao lại giết em, nó đã lấy đủ tiền trâu, tiền cồng rồi mà.
- Tao không biết, ngày mai chị của Hrao ra đây làm lễ bỏ mã, mầy hỏi nó.
Tôi đến bên mộ em, quì xuống, vuốt ve nấm mộ.
- Anh vẫn không tin rằng em đã chết. Em hứa với anh sẽ ra rẫy, ra nương làm việc, sẽ nấu cho anh ăn, sẽ sinh cho anh nhiều con. Em quên rồi sao? Dậy với anh đi em. Em ra suối bắt ốc, hái rau. Anh ngồi chờ em mấy bữa nay ngoài đó.
Tôi cứ lảm nhảm một mình cho đến tối mịt mới về. Chiều hôm sau lên mộ em, tôi đem theo một ít hoa và những trái cây em thích. Tôi đặt các thứ lên một tờ báo, thắp nhang và quì lạy em. Tôi cứ quì như thế, lòng mơ tưởng đến hình bóng em, nhớ lại những ngày em và tôi bên nhau...Khi trời vềø chiều, có tiếng chân lên đồi, tôi quay lại, thấy chị của Hrao và chồng đang đi tới. Họ thấy tôi, giật mình sợ hãi, lùi lại.
- Mầy là ma phải không? Mầy chết rồi mà.
- Không, tôi còn sống đây.
- Mầy giống con ma, mầy ốm quá.
- Chị nói tôi nghe, em Hrao còn sống phải không? Người chết trong mộ nầy không phải Hrao mà.
- Hrao chết rồi, nó nằm đó. Tao đến đây làm lễ bỏ mả nó.
- Chị kể tôi nghe, vì sao Hrao chết?
Hôm súng nổ, đồng bào kinh sợ lắm, chạy trốn hết. Rồi bộ đội lên làm ấp trưởng, xã trưởng. Ít lâu sau có mấy thằng bộ đội lên hỏi về mầy, về ông mục sư. Ai nó cũng hỏi. Sau nó biết Hrao là vợ mầy, nó hỏi Hrao nhiều lắm. Tao nghe nó nói với Hrao “Mầy phải nói hết cho tao. Nó mua mầy làm vợ để mầy làm gì cho nó, cho thằng mục sư? Mầy đừng sợ nó, thằng chồng người kinh của mầy chết rồi, nó không đòi trâu, đòi chiêng cồng được nữa. Mầy cứ nói thật cho tao nghe” Hrao hỏi “Tại sao mầy biết chồng tao chết?” Thằng bộ đội nói “Chính mắt tao thấy” Hrao kêu lên “Mầy giết chết chồng tao rồi!” Và ngã xuống đất. Một lúc sau tỉnh dậy, chỉ khóc chứ không ăn gì hết. Hrao kêu tên mầy mấy ngày mấy đêm rồi chết. Tao biết thằng K’hiu đã sai con ma bóp cổ Hrao, nó không ăn được, không thở được.
Tôi lặng người vì đau khổ và xót thương em. Tình em đối với tôi đơn sơ biết bao! Em tưởng tôi đã chết nên nhịn đói để chết theo tôi.
Vợ chồng chị lôi trong gùi ra những lễ vật. Người chồng chôn một cây cọc và cột một con gà nhỏ còn sống bên mộ em, xếp một đống củi và bắt đầu đốt lửa lên. Chị thì đặt trên những tàu lá chuối cơm và thức ăn, bên cạnh là tài sản sơ sài của riêng em. Mấy cái chén, đĩa, vài cái áo quần, một số kẹp tóc và hai cái nịt ngực mà tôi nhớ trước đây đã mua cho em “Anh không muốn ai nhìn thấy ngực em cả” Nhưng hôm sau em bảo “Hrao không mặc được, thở không được” Tôi nói với chị xin giữ lại chiếc áo hoa và chiếc quần đùi mà em đã mặc lần đầu tôi gặp ở dưới suối.
- Không được đâu, mầy lấy áo quần của Hrao, nó sẽ theo mầy về nhà đó.
- Thật không, nếu vậy em Hrao sẽ ở bên tôi suốt đời.
Chị ngồi xuống, người chồng ngồi bên cạnh, dùng cái dùi quấn vải gõ lên cái cồng bắt nhịp và chị bắt đầu khấn vái. Giọng chị đều đều, buồn thảm trong tiếng gió lộng, tiếng lửa cháy tí tách và tiếng cồng ngân nga vang vọng. Tôi quì xuống, chấp tay, nhắm mắt lại. Tôi thấy em Hrao đứng nhìn tôi, đôi mắt đen lánh, ngập tràn yêu thương, rồi em sà vào lòng tôi, đầu tựa vào ngực tôi. Từ mái tóc em, từ người em mùi thơm trinh nữ quen thuộc, ngọt ngào. Tôi hôn em, thì thầm “Hrao, em yên lặng nghe chị em làm lễ cầu hồn cho em”.
“Ơi em Hrao!
“Hôm nay, áo quan đã làm rồi, đã đóng lại rồi, đã buộc lại rồi, các kút cũng đã được tạc rồi. Chị đem cơm đến đây cho em ăn, đem rượu đến đây cho em uống, bởi vì từ nay chị sẽ bỏ em, chị sẽ quay lưng lại em.
“Ðất đỏ ở dưới, đất đen ở trên, em ở trong áo quan, em ở trong mả, nhà của em ở giữa rừng tranh, ở giữa rừng sậy, em ở một miền đất khác, em uống những giòng nước khác.
“Xin em đừng kêu gọi, đừng lại gần, đừng thương yêu chị, đừng thương yêu cháu của em nữa.
“Từ nay chị sẽ không còn mang cơm, không còn mang nước, chị sẽ bỏ mả và không còn săn sóc mả nữa.
“Nếu em muốn ăn cơm, xin em hỏi thần những vì sao, nếu em muốn ăn thịt gà, xin em hỏi thần mặt trăng, nếu em muốn ăn cá, xin em hỏi thần cai quản trên trời. Một vị thần khác sẽ săn sóc, trông nom em.
“Em đã chết thật rồi, đã tan rã thật rồi, em là chim Hrao ở trong rừng rậm, em là chim Tlang Hêă sống ở phương Nam.
“Chị đã sữa sang mả rồi, đã tạc những cột kút, cột klao, đã vẽ những hình vẽ bằng máu trâu máu bò rồi.
“Thôi, từ nay thếù là hết. Thôi, từ nay thế là hết! Như lá M’nang đã lìa cành, lá M’tôi đã tàn úa.
“Từ nay không còn đào lỗ, không còn làm nhà chòi, không còn than, không còn khóc nữa. Sẽ không đem của, đem tôm, đem cơm, đem rau đến mả nữa. Sẽ không còn để tang, không còn kiêng cử nữa. Chóe rượu cúng Ngokbu đã đặt xuống mả rồi, cây chuối, cây khoai đã được trồng lên mả rồi, con gà đã được thả bay đi rồi. Chị đã quên em rồi, đã bỏ em rồi!
“Ơi em Hrao, chị đã bỏ em rồi!”
Chị đã dứt lời mà tôi vẫn còn quì và nhắm mắt. Tôi và em Hrao đang chìm đắm trong hạnh phúc của bao kỉ niệm cũ, bao ước mơ về một ngày thành vợ thành chồng, quấn quít bên nhau.
Chị đến bên tôi hỏi nho nhỏ.
- Mầy thương Hrao lắm sao? Mầy nhớ Hrao lắm hả?
Bấy lâu nay tôi đã nuốt những giọt nước mắt vào lòng. Tôi cô đơn quá! Giờ đây, nghe chị hỏi, tất cả nổi buồn trong lòng, tôi không kèm được nữa. Tôi ôm chị khóc say sưa.
------------------------------
- Vợ mầy đó, Hrao ưng mầy lắm. Mầy và Hrao nằm đây.
Chị chỉ chiếc giường rồi đóng các cửa lại và đi ra ngoài. Tôi dìu em Hrao đến bên giường ngồi xuống. Em vòng tay ôm lấy tôi, úp mặt vào ngực tôi yên lặng. Tôi không nghe em khóc nhưng nước mắt thấm ướt cả áo tôi. Em Hrao nhỏ quá, ốm quá. Tôi ôm vai em mà xương vai cộm rõ trong bàn tay tôi. Em vẫn mặc chiếc áo hoa rộng thùng thình như hôm trước, một chiếc váy vải đen thô, dài phủ cả bàn chân, có lẽ là váy của người chị.
- Em được về đây, anh mừng lắm. Anh ngồi với em một lát rồi anh về.
Em ngước nhìn tôi, ngạc nhiên.
- Em không về nhà anh à?
- Không, em vẫn ở đây với chị em, thỉnh thoảng anh ghé thăm em.
- Nó sẽ giết anh, giết em. Nó nói, em nói chuyện với ai, nó sẽ giết hai đứa.
- Anh sẽ ít gặp em, em đừng sợ.
Em vẫn lắc đầu.
- Không. Em là vợ anh mà!
- Anh còn đi học, không có tiền nuôi em, không có nhà để ở. Em còn nhỏ quá, làm vợ chưa được. Em chờ anh hai năm nữa, học xong, anh sẽ đi làm, có tiền cưới em về sống với anh.
Ấp Tà Rầu một nằm cạnh lăng Minh Mạng. Lăng xây trên một ngọn đồi, chung quanh có tường thành bao bọc, lại có những giòng nước, hồ sen. Phụ nữ sắc tộc thường đi dọc các con suối, bắt ốc, hái rau. Họ đi buổi sáng đến trưa thì về. Tôi hẹn với em Hrao mỗi tuần vài ba buổi chiều gặp em ở sau lăng. Em cũng đi hái rau với các bạn. Thấy tôi họ vẫy tay bảo.
- Mầy giữ nó, tụi tao về trước.
Chúng tôi ngồi trên bờ suối, khuất sau những đám cỏ tranh hoang vu. Tôi giở trong xách tay ra một số quà rong. Ít trái cây, bánh và nước lạnh trong chai nhựa. Em Hrao rất thích những trái cây chua như cốc, me, ổi...Với chút muối ớt, đem bao nhiêu em giành ăn hết cả. Chúng tôi vừa ăn quà vừa chuyện trò. Tôi thích hỏi em đủ thứ chuyện để nghe em trả lời một cách ngây thơ, buồn cười. Em xem tôi như người anh đồng thời em dâng tôi thứ bản năng thiết tha, nồng nàn của một người vợ theo như truyền thống của sắc tộc em, đã là vợ khi còn rất trẻ.
Từ ngày em về với người chị, em là con chim sổ lồng. Em như cây hoa được chăm sóc, vun xới và bắt đầu có những nụ hàm tiếu. Em lớn nhanh và nẩy nở đến độ chỉ hơn một năm mà em đã đứng đến vai tôi rồi. Tâm hồn em cũng trưởng thành theo. Những lần gặp nhau, em vui mừng theo cách của một thiếu nữ đến với người yêu. Em thường bạo dạn ngồi sát bên tôi, tựa đầu vào vai tôi yên lặng thật lâu...
Tôi về Hội Thánh lấy một số áo quần vừa tầm cho em. Hôm nào đến hẹn, em mặc áo đẹp ở trong, ngoài khoác một áo cũ. Khi chỉ còn hai chúng tôi ở bờ suối, em cởi áo ngoài, hãnh diện đến trước mặt tôi, nhìn tôi để chờ được khen. Tôi ngắm em sửng sờ.
- Hrao! Em đẹp như tiên!
- Em Hrao chỉ mặc áo đẹp cho anh nhìn thôi, không ai biết em đẹp hết.
Hai mắt em long lanh tuổi dậy thì, má em hồng, ngực em đã nhô cao, phập phồng sức sống, đùi em nở tròn, hằn rõ dưới lần vải. Tôi nhìn thấy và hãnh diện khi nghĩ đến khu rừng trinh nguyên, quí giá đó, trong một ngày trọng đại, tôi và em sẽ cùng nhau khai phá, thưởng thức sự huyền nhiệm của tình yêu vợ chồng. Tôi thường dặn em phải ăn và ngủ thật nhiều để mau lớn. Em vâng lời và khoe với tôi.
- Ở nhà, em Hrao no rồi mà còn ăn nữa, hết buồn ngủ rồi mà còn nhắm mắt ngủ nữa.
Tôi khen em giỏi, em bảo.
- Nhưng khi Hrao về ở với anh, Hrao ít ngủ để anh ngủ nhiều, ít ăn để anh ăn nhiều.
- Ðể làm gì?
- Hrao ra nương rẫy bứt lúa về nấu cho anh ăn no.
Em lúc nào cũng mơ đến một khung trời hoang dã, như con chim rừng cùng bạn đời tung cánh trong cõi tự do, bao la.
Mùa Xuân năm 1975, miền Nam bị tấn công. Dân Huế hoảng hốt chạy cả vào Ðà Nẳng. Năm Mậu Thân kinh hoàng với những vụ thảm sát tập thể khiến cho những người dù không liên hệ đến chính quyền cũng bồng bế nhau chạy giặc. Tôi cũng chạy vào Ðà Nẳng, nhưng mấy hôm sau thành phố cũng bị chiếm nốt. Rồi có thông cáo đồng bào phải trở về quê cũ. Ðáng lẽ tôi về quê ở Quảng Ngãi, nhưng tôi lại ra Huế, định dẫn em Hrao về với gia dình. Cha mẹ tôi chỉ sinh được tôi là con trai nên rất yêu thương. Tôi tin rằng em Hrao sẽ được chấp nhận như một nàng dâu, tuy còn trẻ nhưng xinh đẹp, hiền lành. Tôi về lại nhà trọ trong thành nội vào buổi chiều, qua sáng hôm sau ra đường Trần Hưng Ðạo định đón xe lên Tà Rầu thì bị việt cộng chận bắt. Một tên bạn học trở cờ đã báo cáo tôi là tay sai C.I.A, trực tiếp chỉ huy là vị mục sư Tin Lành. Tôi bị nhốt vào lao Thừa Phủ. Họ đưa giấy bút bắt tôi thành thật khai báo. Viết xong họ không chịu, bắt tôi viết lại, hàng chục lần, nhưng tôi có biết gì về C.I.A đâu! Lúc đầu họ dỗ dành, sau hăm dọa, rồi họ bắt đầu tra tấn tôi, chết đi sống lại mấy lần. Suốt bốn tháng trường, đến khi nghĩ rằng mình không thể sống được, tôi đâm ù lì, bảo họ.
- Cứ giết tôi đi, tôi chẳng có gì để khai cả.
Thế rồi họ thả tôi ra. Tôi về nhà trọ nằm liệt, chỉ còn da với xương. Người chủ nhà rất tốt, săn sóc tôi tận tình. Một thời gian sau đã khá, có thể đi vững, tôi ra đón xe lam lên Tà Rầu tìm em Hrao. Xuống xe ở chợ Tuần, tôi đi đò qua sông Hương, qua ngã lăng Minh Mạng đến ấp Tà Rầu. Tôi đi rất đúng đường, nhưng trước mặt tôi là quả đồi trọc, không còn chút dấu vết gì của đồng bào thiểu số cả! Họ đã đi sạch. Tôi lên đỉnh đồi nhìn quanh, chỉ thấy một cõi mênh mông vắng lặng. Tôi đi theo lối mòn và tìm thấy nền nhà của em. Tôi ngồi xuống, cảm thấy được gần gủi em. Ðến chiều, tôi xuống đồi vào lăng Minh Mạng, đến bờ suối cũ và lại chờ em. Tôi lấy trong xách tay ra một ít trái cây cho em, để đấy và dõi mắt tìm quanh...
Thấy trời gần tối, tôi đành quay về.
Những ngày sau đó, tuy người còn yếu, tôi vẫn lên vùng Nam Hòa, lang thang vào các nơi cũ, hi vọng được gặp em. Một buổi chiều, đang đứng trên đồi, chợt tôi thấy bên kia, nơi những ngôi mộ người thiểu số, thấp thoáng bóng người sắc tộc. Tôi mừng rỡ, chạy băng qua, họ sẽ giúp tôi biết được em Hrao ở đâu. Khi tôi đến nơi thì hình như họ vừa cúng lễ gì đó xong. Một dám lửa gần tàn, một ít đồ gia dụng, áo quần, ống vố, chà gạt...để cạnh một ngôi mộ. Ðó là những người trong ấp trước đây, chúng tôi mừng rỡ khi nhận ra nhau.
- Ðồng bào cúng gì đó?
- Tao cúng bỏ mả, tao không ở đây nữa, không đem cơm, đem thịt cho nó nữa. Tao cúng bỏ nó, nó theo Yang để có cái ăn, cái uống.
- Bây giờ đồng bào về lại trong núi rồi hả?
- Tao về lại buôn rồi.
- Có xa không?
- Tao đi từ lúc con gà gáy, bây giờ về lại trong buôn.
- Gia đình người chị và em Hrao có về đó không?
- Chị Hrao về đó nhưng Hrao không về.
- Sao vậy? Bây giờ em Hrao ở đâu?
- Nó ở đằng kia. Nó chết rồi. Mộ nó kia kìa.
Tôi cảm tưởng như thình lình bị rút hết sức sống trong người. Tôi run lên, choáng váng.
- Không phải đâu. Em Hrao nầy nhỏ và đẹp lắm. Em ở với người chị.
- Hrao đó, tao biết, mầy ưng nó lắm, mầy mua nó làm vợ, ai cũng biết.
-Nhưng vì sao Hrao chết?
- Thằng K’hiu giết nó.
- Tại sao lại giết em, nó đã lấy đủ tiền trâu, tiền cồng rồi mà.
- Tao không biết, ngày mai chị của Hrao ra đây làm lễ bỏ mã, mầy hỏi nó.
Tôi đến bên mộ em, quì xuống, vuốt ve nấm mộ.
- Anh vẫn không tin rằng em đã chết. Em hứa với anh sẽ ra rẫy, ra nương làm việc, sẽ nấu cho anh ăn, sẽ sinh cho anh nhiều con. Em quên rồi sao? Dậy với anh đi em. Em ra suối bắt ốc, hái rau. Anh ngồi chờ em mấy bữa nay ngoài đó.
Tôi cứ lảm nhảm một mình cho đến tối mịt mới về. Chiều hôm sau lên mộ em, tôi đem theo một ít hoa và những trái cây em thích. Tôi đặt các thứ lên một tờ báo, thắp nhang và quì lạy em. Tôi cứ quì như thế, lòng mơ tưởng đến hình bóng em, nhớ lại những ngày em và tôi bên nhau...Khi trời vềø chiều, có tiếng chân lên đồi, tôi quay lại, thấy chị của Hrao và chồng đang đi tới. Họ thấy tôi, giật mình sợ hãi, lùi lại.
- Mầy là ma phải không? Mầy chết rồi mà.
- Không, tôi còn sống đây.
- Mầy giống con ma, mầy ốm quá.
- Chị nói tôi nghe, em Hrao còn sống phải không? Người chết trong mộ nầy không phải Hrao mà.
- Hrao chết rồi, nó nằm đó. Tao đến đây làm lễ bỏ mả nó.
- Chị kể tôi nghe, vì sao Hrao chết?
Hôm súng nổ, đồng bào kinh sợ lắm, chạy trốn hết. Rồi bộ đội lên làm ấp trưởng, xã trưởng. Ít lâu sau có mấy thằng bộ đội lên hỏi về mầy, về ông mục sư. Ai nó cũng hỏi. Sau nó biết Hrao là vợ mầy, nó hỏi Hrao nhiều lắm. Tao nghe nó nói với Hrao “Mầy phải nói hết cho tao. Nó mua mầy làm vợ để mầy làm gì cho nó, cho thằng mục sư? Mầy đừng sợ nó, thằng chồng người kinh của mầy chết rồi, nó không đòi trâu, đòi chiêng cồng được nữa. Mầy cứ nói thật cho tao nghe” Hrao hỏi “Tại sao mầy biết chồng tao chết?” Thằng bộ đội nói “Chính mắt tao thấy” Hrao kêu lên “Mầy giết chết chồng tao rồi!” Và ngã xuống đất. Một lúc sau tỉnh dậy, chỉ khóc chứ không ăn gì hết. Hrao kêu tên mầy mấy ngày mấy đêm rồi chết. Tao biết thằng K’hiu đã sai con ma bóp cổ Hrao, nó không ăn được, không thở được.
Tôi lặng người vì đau khổ và xót thương em. Tình em đối với tôi đơn sơ biết bao! Em tưởng tôi đã chết nên nhịn đói để chết theo tôi.
Vợ chồng chị lôi trong gùi ra những lễ vật. Người chồng chôn một cây cọc và cột một con gà nhỏ còn sống bên mộ em, xếp một đống củi và bắt đầu đốt lửa lên. Chị thì đặt trên những tàu lá chuối cơm và thức ăn, bên cạnh là tài sản sơ sài của riêng em. Mấy cái chén, đĩa, vài cái áo quần, một số kẹp tóc và hai cái nịt ngực mà tôi nhớ trước đây đã mua cho em “Anh không muốn ai nhìn thấy ngực em cả” Nhưng hôm sau em bảo “Hrao không mặc được, thở không được” Tôi nói với chị xin giữ lại chiếc áo hoa và chiếc quần đùi mà em đã mặc lần đầu tôi gặp ở dưới suối.
- Không được đâu, mầy lấy áo quần của Hrao, nó sẽ theo mầy về nhà đó.
- Thật không, nếu vậy em Hrao sẽ ở bên tôi suốt đời.
Chị ngồi xuống, người chồng ngồi bên cạnh, dùng cái dùi quấn vải gõ lên cái cồng bắt nhịp và chị bắt đầu khấn vái. Giọng chị đều đều, buồn thảm trong tiếng gió lộng, tiếng lửa cháy tí tách và tiếng cồng ngân nga vang vọng. Tôi quì xuống, chấp tay, nhắm mắt lại. Tôi thấy em Hrao đứng nhìn tôi, đôi mắt đen lánh, ngập tràn yêu thương, rồi em sà vào lòng tôi, đầu tựa vào ngực tôi. Từ mái tóc em, từ người em mùi thơm trinh nữ quen thuộc, ngọt ngào. Tôi hôn em, thì thầm “Hrao, em yên lặng nghe chị em làm lễ cầu hồn cho em”.
“Ơi em Hrao!
“Hôm nay, áo quan đã làm rồi, đã đóng lại rồi, đã buộc lại rồi, các kút cũng đã được tạc rồi. Chị đem cơm đến đây cho em ăn, đem rượu đến đây cho em uống, bởi vì từ nay chị sẽ bỏ em, chị sẽ quay lưng lại em.
“Ðất đỏ ở dưới, đất đen ở trên, em ở trong áo quan, em ở trong mả, nhà của em ở giữa rừng tranh, ở giữa rừng sậy, em ở một miền đất khác, em uống những giòng nước khác.
“Xin em đừng kêu gọi, đừng lại gần, đừng thương yêu chị, đừng thương yêu cháu của em nữa.
“Từ nay chị sẽ không còn mang cơm, không còn mang nước, chị sẽ bỏ mả và không còn săn sóc mả nữa.
“Nếu em muốn ăn cơm, xin em hỏi thần những vì sao, nếu em muốn ăn thịt gà, xin em hỏi thần mặt trăng, nếu em muốn ăn cá, xin em hỏi thần cai quản trên trời. Một vị thần khác sẽ săn sóc, trông nom em.
“Em đã chết thật rồi, đã tan rã thật rồi, em là chim Hrao ở trong rừng rậm, em là chim Tlang Hêă sống ở phương Nam.
“Chị đã sữa sang mả rồi, đã tạc những cột kút, cột klao, đã vẽ những hình vẽ bằng máu trâu máu bò rồi.
“Thôi, từ nay thếù là hết. Thôi, từ nay thế là hết! Như lá M’nang đã lìa cành, lá M’tôi đã tàn úa.
“Từ nay không còn đào lỗ, không còn làm nhà chòi, không còn than, không còn khóc nữa. Sẽ không đem của, đem tôm, đem cơm, đem rau đến mả nữa. Sẽ không còn để tang, không còn kiêng cử nữa. Chóe rượu cúng Ngokbu đã đặt xuống mả rồi, cây chuối, cây khoai đã được trồng lên mả rồi, con gà đã được thả bay đi rồi. Chị đã quên em rồi, đã bỏ em rồi!
“Ơi em Hrao, chị đã bỏ em rồi!”
Chị đã dứt lời mà tôi vẫn còn quì và nhắm mắt. Tôi và em Hrao đang chìm đắm trong hạnh phúc của bao kỉ niệm cũ, bao ước mơ về một ngày thành vợ thành chồng, quấn quít bên nhau.
Chị đến bên tôi hỏi nho nhỏ.
- Mầy thương Hrao lắm sao? Mầy nhớ Hrao lắm hả?
Bấy lâu nay tôi đã nuốt những giọt nước mắt vào lòng. Tôi cô đơn quá! Giờ đây, nghe chị hỏi, tất cả nổi buồn trong lòng, tôi không kèm được nữa. Tôi ôm chị khóc say sưa.
------------------------------
16. Hai Con Quỉ
Chuyện kỳ lạ
Vợ chồng tôi ở quận Cam (Orange County) thuộc tiểu bang California. Nói quận Cam cho dễ biết, chứ chúng tôi ở cách đó gần một giờ lái xe, là nơi quê mùa vắng vẻ, toàn người Mễ và người da đen nghèo khổ. Người Việt chỉ có gia đình tôi. Vợ chồng tôi đã già, lãnh tiền hưu trí, thêm chút tiền các con tặng bố mẹ, cũng đắp đổi.
Nhà không rộng nhưng nhiều phòng, khi mấy đứa con học hành nên người, chúng lập gia đình, ra ở riêng, các phòng bỏ trống, chỉ có hai vợ chồng già, ra vô lặng lẽ, cũng buồn. Có người gợi ý, nên cho mướn mấy phòng trống, vừa có tiền vừa bớt vắng vẻ. Thế nên tôi kêu thợ đến trổ hai cửa ra vào cho hai phòng sau nhà (lối đi riêng), làm phòng vệ sinh, phòng tắm riêng. Ðủ tiện nghi như vậy mới có người chịu mướn.
Chỉ mới đăng báo cho mướn phòng một tuần mà có đến chục người gọi. Người đến trước là một cô, tuổi trên ba mươi, là công nhân hay nhân viên văn phòng gì đó, người thứ hai là một bà sồn sồn, tuổi chưa đến năm mươi, mặt mũi hồng hào, chân tay, thân hình tròn trịa, mơn mởn, hai mắt ướt rượt, coi bộ lả lơi ngầm. Bà ta năn nỉ, xin trả thêm tiền mướn để cho hai người, bà ta và "ông xã" được thuê phòng. Theo lời bà ta kể thì hai vợ chồng ở chung với con gái, nhưng thằng rễ không tốt nên tìm chỗ ở riêng. Chúng tôi chỉ hỏi lấy lệ rằng từ đâu đến, làm gì, làm ở đâu? Bà ta bảo, hai người từ tiểu bang Arizona đến California được vài tuần nay, "ông chồng" vừa xin được việc làm ở tiệm buôn nào đó. Chúng tôi chưa quyết định thì hôm sau, bà ta đưa "chồng" đến. Ông ta khoảng năm mươi tuổi, người hơi thấp, mạnh khỏe, sung sức như một trung niên nhưng ít nói, chỉ ngồi cười xã giao. Thấy ông ta hiền lành, chúng tôi đồng ý. Hai ông bà rối rít cám ơn, xin trả trước vài tháng tiền mướn phòng.
Sau khi cho mướn hai phòng phía sau nhà, tuy bớt vắng vẻ nhưng chủ nhà và người mướn phòng ít khi trò chuyện. Họ đi vòng từ sau nhà ra chỗ đậu xe, chẳng phiền ai, có tình cờ gặp nhau, cũng chỉ vài câu về thời tiết, gió mưa vớ vẩn. Cô gái đi làm từ sáng, chiều mới về, thỉnh thoảng mới gặp vợ tôi tâm sự chuyện đàn bà với nhau, tôi không quan tâm. Riêng, cặp vợ chồng lớn tuổi nầy thì ít khi ra khỏi phòng, nghe nói ông chồng có việc làm nhưng chẳng biết giờ giấc. Thỉnh thoảng hai người ra ngồi ngắm hoa, trò chuyện trên chiếc ghế dài sau vườn.
Tôi có một vườn hoa sau nhà. Buổi sáng, trước khi ra chợ Phước Lộc Thọ uống cà phê, trò chuyện với mấy ông bạn già, tôi thường ra tưới nước, chăm sóc, nhưng hễ thấy cặp vợ chồng kia ngồi đó thì tôi bỏ đi, để họ được thoải mái. Tôi thấy, họ có vẻ âu yếm, quấn quít như đôi tình nhân hơn là vợ chồng.
Không bao giờ thấy người đàn bà đi đâu. Cần gì, bà ta nhờ vợ tôi đi chợ mua giùm, từ gạo cơm, mắm muối, thịt cá, rau cỏ cho đến các vật thường dùng khác.
Nếu đây là một đôi tình nhân lớn tuổi, chắp vá nhau mà tìm được hạnh phúc như vậy cũng thật hiếm thấy. Nhưng một hôm ngồi uống cà phê ngoài chợ, tôi nghe bàn bên cạnh có hai ông bàn tán về một ông, từ tiểu bang Arizona đến các chợ ở California tìm vợ. Ông ta đi rảo khắp các chợ người Việt, rình các bãi đậu xe, tìm bắt cho được bà vợ bỏ chồng, bỏ con theo trai. Tôi đoán, có lẽ người đàn bà bỏ chồng "theo trai" là người mướn phòng đang ở với tình nhân sau nhà tôi, nhưng tôi không nói gì, chỉ về kể cho vợ tôi nghe. Vợ tôi bảo, cũng đoán như thế ngay từ hôm đầu họ đến mướn phòng, nhưng vợ tôi trấn an tôi rằng, cô mướn phòng bên cạnh có nghe họ đánh chửi nhau, như vậy chỉ ít lâu sau, họ sẽ tan hàng, khỏi cần mời họ đi chỗ khác.
Chúng tôi ở nhà trên, cách các phòng cho mướn một bức tường gạch rất dày nên cặp tình nhân đó có cãi vả to tiếng cũng không cách nào nghe được. Chỉ cô mướn phòng bên cạnh lãnh đủ! Cô phàn nàn rằng, đi làm suốt ngày, buổi tối cần yên tĩnh nghỉ ngơi, vậy mà thỉnh thoảng, nửa đêm giật mình thức giấc vì tiếng chửi rủa rồi tiếng dộng vô vách, rầm rầm như hai người đánh nhau, vật nhau. Thời gian đầu, họ chỉ rù rì chửi nhau, sau nầy họ không thèm giữ ý, chửi to tiếng. Tôi có ý định sẽ bảo họ có cãi nhau cũng nên nhỏ nhẹ, để người khác được yên tĩnh nghỉ ngơi.
Một hôm, giữa khuya, cô mướn phòng gọi điện thoại cho chúng tôi, bảo xuống mà can thiệp, có thể họ đang giết nhau. Vợ chồng tôi ra sau nhà, cô ta ra dấu, bảo chúng tôi vào phòng cô, áp tai vô vách mà nghe. Chẳng cần áp tai chúng tôi cũng nghe rõ tiếng động, tiếng chửi rủa nhau, tiếng bôm bốp, tiếng hự hự... để hình dung ra được hai ông bà kia đang lăn xả vào nhau, đánh chửi nhau với tất cả căm thù, quyết giết cho được đối phương. Có lẽ người đàn ông vừa tát tai vừa bóp cổ người đàn bà, miệng gầm gừ, răng rít lại "Ðịt mẹ, con đĩ mẹ mầy! Mầy tưởng tao không dám giết mầy chắc? Tao tẩn mầy cho mầy chừa. Tao giết mầy! Mầy chửi đi! Tao đâm mầy một phát là mầy rồi đời nghe con!" Rồi tiếng bốp (tát tai!) liên hồi. Người đàn bà chửi lại, giọng èng ẹt, có lẽ bị bóp cổ "Tổ cha con đĩ mẹ mầy. Mầy tưởng tao sợ mầy. Mầy dám giết tao không? Mầy đâm tao đi! Dám không? Ðâm đi! Ðâm đi!...Trời ơi là trời! Nó giết tôi rồi! Nó đâm tôi. Nó đâm tôi!..." Thật quá sức tưởng tượng! Chúng tôi không ngờ hai người nầy, đã lớn tuổi, mặt mũi sáng sủa, ra người có học mà lại đánh chửi nhau như hàng tôm hàng cá. Nghe la “Nó đâm tôi!” mà giọng tỉnh rụi, tôi đoán người đàn bà chả bị đâm, chém gì. Tôi bảo cô gái thử lấy một vật cứng dộng vô vách để lưu ý họ xem sao. Cô ta lấy chiếc guốc dộng vô vách thật mạnh, chỉ "cộp, cộp" mấy tiếng là phòng bên kia im re!? Tôi hỏi cô gái "Họ có thường đánh chửi nhau như thế nầy không?" Cô bảo "Cứ năm ba ngày họ đánh chửi nhau một lần. Ban ngày em đi làm nên không rõ, nhưng ban đêm, em cứ bị đánh thức kiểu nầy hoài!" Tôi bảo "Mỗi khi hai người đánh chửi nhau lớn tiếng, cô nhớ lấy guốc dộng vô vách như lúc nãy là yên ngay. Ðể sáng mai, tôi sẽ gặp họ và báo trước, nếu còn gấu ó nhau kiểu đó thì xin mời đi chỗ khác".
Sáng hôm sau, vợ chồng tôi ra sau nhà định đến gõ cửa phòng hai ông bà tình nhân nầy để nói phải trái với họ thì thấy hai người đang ngồi trên ghế sau vườn ngắm hoa, rủ rỉ chuyện trò. Chị đàn bà ngồi tựa đầu vào vai ông bồ. ông ta cũng ôm vai người yêu. Tuy hai người xây lưng về phía chúng tôi, nhưng tôi cũng thấy rõ một bên má người đàn bà tím bầm, sưng to như quả trứng. Người đàn ông thì có mấy miếng băng dán ở cổ, có lẽ bị "đối phương" cào, cắn chảy máu. Chúng tôi chả hiểu ra làm sao? Mới đánh chửi nhau lại làm lành ngay, giống như trẻ con! Sợ quấy rầy giây phút thần tiên của họ, chúng tôi rút lui, định chờ dịp thuận tiện khác.
Mấy hôm sau, cô gái thuê phòng khoe với vợ tôi là hễ nghe hai người đánh chửi nhau, cô lấy cây dộng vào vách là họ im tiếng ngay. Nhưng hai người đàn bà (vợ tôi và cô thuê phòng), lại lo sợ rằng đánh nhau kịch liệt kiểu đó, có ngày cũng gây án mạng, nên tốt nhất là mời họ tìm nơi khác mà mướn
Ðược vài tháng sau, một lần, cũng vào nửa khuya, cô gái lại gọi điện thoại phàn nàn "Em dộng cây vào vách mà họ vẫn đánh chửi nhau!" Lần nầy thì tôi nổi giận thực sự.
Vợ chồng tôi đi vòng ra sau nhà, đến phòng cô thuê phòng. Quả nhiên, từ phòng bên kia, hai người đang đánh chửi nhau với những lời lẽ hàng tôm hàng cá. Tuy cũng vẫn những lời đòi giết nhau với tiếng động như vật nhau, đụng vô vách rầm rầm, tiếng hự hự, khò khè như bị bóp họng... nhưng rõ ràng cả hai đang hồi quyết liệt lại có vẻ nguy cấp cho chị đàn bà. Vợ tôi và cô mướn phòng, mắc cỡ vì nghe những lời chửi rất vô học và tục tỉu, lại sợ có chuyện không may cho chị đàn bà nên thúc hối tôi qua can thiệp hoặc gọi cảnh sát ngay. Tôi qua phòng của hai người. Vợ tôi và cô mướn phòng tò mò theo sau. Ngoài trời tối đen, trong phòng đó hình như cũng không có đèn vì qua cửa kính, không thấy ánh sáng hắt ra. Tiếng chửi rủa, đánh đấm nhau nghe càng rõ, giống như âm thanh một phim bạo động mở hết công suất.
Tôi gõ cửa và chờ đợi. Hai người như say sưa chiến đấu nên không nghe. Tôi gõ mạnh hơn. Vẫn không ai mở cửa mà tiếng đánh chửi nhau không giảm. Tôi thử vặn nắm đấm cửa. Cửa không khóa. Tôi đẩy nhẹ cửa, hé mở và nhìn vào. Trong phòng tối mù. Ðèn ngủ không đủ ánh sáng nên tôi chẳng thấy gì! Tôi đoán chừng hai người đang nằm xem phim bạo động, trinh thám gì đó nên mới nghe kêu gào giết nhau như vậy. Tôi cố nhìn cho rõ để lưu ý họ vặn bớt âm thanh.
Và rồi tôi thấy được hai người. Họ nằm trên giường, đầu hướng về phía cửa nên không thấy tôi đang thò đầu vô nhìnï.
Hóa ra họ thực sự đánh nhau chứ không phải trong phim. Người đàn bà nằm dưới, trắng hếu, hai tay cào cấu người đàn ông rồi đập tay xuống giường thình thịch, hai chân như bơi vào khoảng không rồi chống xuống giường, nẩy ngược lên như cố thoát ra khỏi sự kềm chế của người đàn ông, miệng chửi rủa vừa rên rỉ "Mầy đâm tao đi! Ðâm đi! Trời ơi là trời! Nó đâm tôi! Nó giết tôi! Tôi chết. Tôi chết!..." Người đàn ông, cũng trần như nhộng, một tay bóp họng chị đàn bà, tay kia nắm tóc, dập mạnh đầu bà ta xuống nệm. Hai người vừa đánh nhau vừa gào lên, liếu lưỡi như bị quỷ ám. Họ quên cả thế gian. Có lẽ trời sâïp họ cũng không buông nhau ra.
Tôi khép cửa lại, quay về. Vợ tôi và cô mướn phòng, vì đứng xa, mà cửa chỉ hé mở, trong phòng lại tối mò nên không thấy gì, cứ theo hỏi tôi "Sao không vô can thiệp? Hay là gọi cảnh sát?" Tôi bảo "Ðó là hai con quỉ. Mặc kệ họ!" Hai người có vẻ yên tâm nhưng vẫn hỏi "Nói gì chẳng hiểu! Hai con quỉ gì lại cứ đánh chửi nhau?" Tôi muốn nói huỵch tẹt ra là hai người đó không mặc áo quần gì cả, nhưng giữ miệng kịp.
-------------------------------------------------
Vợ chồng tôi ở quận Cam (Orange County) thuộc tiểu bang California. Nói quận Cam cho dễ biết, chứ chúng tôi ở cách đó gần một giờ lái xe, là nơi quê mùa vắng vẻ, toàn người Mễ và người da đen nghèo khổ. Người Việt chỉ có gia đình tôi. Vợ chồng tôi đã già, lãnh tiền hưu trí, thêm chút tiền các con tặng bố mẹ, cũng đắp đổi.
Nhà không rộng nhưng nhiều phòng, khi mấy đứa con học hành nên người, chúng lập gia đình, ra ở riêng, các phòng bỏ trống, chỉ có hai vợ chồng già, ra vô lặng lẽ, cũng buồn. Có người gợi ý, nên cho mướn mấy phòng trống, vừa có tiền vừa bớt vắng vẻ. Thế nên tôi kêu thợ đến trổ hai cửa ra vào cho hai phòng sau nhà (lối đi riêng), làm phòng vệ sinh, phòng tắm riêng. Ðủ tiện nghi như vậy mới có người chịu mướn.
Chỉ mới đăng báo cho mướn phòng một tuần mà có đến chục người gọi. Người đến trước là một cô, tuổi trên ba mươi, là công nhân hay nhân viên văn phòng gì đó, người thứ hai là một bà sồn sồn, tuổi chưa đến năm mươi, mặt mũi hồng hào, chân tay, thân hình tròn trịa, mơn mởn, hai mắt ướt rượt, coi bộ lả lơi ngầm. Bà ta năn nỉ, xin trả thêm tiền mướn để cho hai người, bà ta và "ông xã" được thuê phòng. Theo lời bà ta kể thì hai vợ chồng ở chung với con gái, nhưng thằng rễ không tốt nên tìm chỗ ở riêng. Chúng tôi chỉ hỏi lấy lệ rằng từ đâu đến, làm gì, làm ở đâu? Bà ta bảo, hai người từ tiểu bang Arizona đến California được vài tuần nay, "ông chồng" vừa xin được việc làm ở tiệm buôn nào đó. Chúng tôi chưa quyết định thì hôm sau, bà ta đưa "chồng" đến. Ông ta khoảng năm mươi tuổi, người hơi thấp, mạnh khỏe, sung sức như một trung niên nhưng ít nói, chỉ ngồi cười xã giao. Thấy ông ta hiền lành, chúng tôi đồng ý. Hai ông bà rối rít cám ơn, xin trả trước vài tháng tiền mướn phòng.
Sau khi cho mướn hai phòng phía sau nhà, tuy bớt vắng vẻ nhưng chủ nhà và người mướn phòng ít khi trò chuyện. Họ đi vòng từ sau nhà ra chỗ đậu xe, chẳng phiền ai, có tình cờ gặp nhau, cũng chỉ vài câu về thời tiết, gió mưa vớ vẩn. Cô gái đi làm từ sáng, chiều mới về, thỉnh thoảng mới gặp vợ tôi tâm sự chuyện đàn bà với nhau, tôi không quan tâm. Riêng, cặp vợ chồng lớn tuổi nầy thì ít khi ra khỏi phòng, nghe nói ông chồng có việc làm nhưng chẳng biết giờ giấc. Thỉnh thoảng hai người ra ngồi ngắm hoa, trò chuyện trên chiếc ghế dài sau vườn.
Tôi có một vườn hoa sau nhà. Buổi sáng, trước khi ra chợ Phước Lộc Thọ uống cà phê, trò chuyện với mấy ông bạn già, tôi thường ra tưới nước, chăm sóc, nhưng hễ thấy cặp vợ chồng kia ngồi đó thì tôi bỏ đi, để họ được thoải mái. Tôi thấy, họ có vẻ âu yếm, quấn quít như đôi tình nhân hơn là vợ chồng.
Không bao giờ thấy người đàn bà đi đâu. Cần gì, bà ta nhờ vợ tôi đi chợ mua giùm, từ gạo cơm, mắm muối, thịt cá, rau cỏ cho đến các vật thường dùng khác.
Nếu đây là một đôi tình nhân lớn tuổi, chắp vá nhau mà tìm được hạnh phúc như vậy cũng thật hiếm thấy. Nhưng một hôm ngồi uống cà phê ngoài chợ, tôi nghe bàn bên cạnh có hai ông bàn tán về một ông, từ tiểu bang Arizona đến các chợ ở California tìm vợ. Ông ta đi rảo khắp các chợ người Việt, rình các bãi đậu xe, tìm bắt cho được bà vợ bỏ chồng, bỏ con theo trai. Tôi đoán, có lẽ người đàn bà bỏ chồng "theo trai" là người mướn phòng đang ở với tình nhân sau nhà tôi, nhưng tôi không nói gì, chỉ về kể cho vợ tôi nghe. Vợ tôi bảo, cũng đoán như thế ngay từ hôm đầu họ đến mướn phòng, nhưng vợ tôi trấn an tôi rằng, cô mướn phòng bên cạnh có nghe họ đánh chửi nhau, như vậy chỉ ít lâu sau, họ sẽ tan hàng, khỏi cần mời họ đi chỗ khác.
Chúng tôi ở nhà trên, cách các phòng cho mướn một bức tường gạch rất dày nên cặp tình nhân đó có cãi vả to tiếng cũng không cách nào nghe được. Chỉ cô mướn phòng bên cạnh lãnh đủ! Cô phàn nàn rằng, đi làm suốt ngày, buổi tối cần yên tĩnh nghỉ ngơi, vậy mà thỉnh thoảng, nửa đêm giật mình thức giấc vì tiếng chửi rủa rồi tiếng dộng vô vách, rầm rầm như hai người đánh nhau, vật nhau. Thời gian đầu, họ chỉ rù rì chửi nhau, sau nầy họ không thèm giữ ý, chửi to tiếng. Tôi có ý định sẽ bảo họ có cãi nhau cũng nên nhỏ nhẹ, để người khác được yên tĩnh nghỉ ngơi.
Một hôm, giữa khuya, cô mướn phòng gọi điện thoại cho chúng tôi, bảo xuống mà can thiệp, có thể họ đang giết nhau. Vợ chồng tôi ra sau nhà, cô ta ra dấu, bảo chúng tôi vào phòng cô, áp tai vô vách mà nghe. Chẳng cần áp tai chúng tôi cũng nghe rõ tiếng động, tiếng chửi rủa nhau, tiếng bôm bốp, tiếng hự hự... để hình dung ra được hai ông bà kia đang lăn xả vào nhau, đánh chửi nhau với tất cả căm thù, quyết giết cho được đối phương. Có lẽ người đàn ông vừa tát tai vừa bóp cổ người đàn bà, miệng gầm gừ, răng rít lại "Ðịt mẹ, con đĩ mẹ mầy! Mầy tưởng tao không dám giết mầy chắc? Tao tẩn mầy cho mầy chừa. Tao giết mầy! Mầy chửi đi! Tao đâm mầy một phát là mầy rồi đời nghe con!" Rồi tiếng bốp (tát tai!) liên hồi. Người đàn bà chửi lại, giọng èng ẹt, có lẽ bị bóp cổ "Tổ cha con đĩ mẹ mầy. Mầy tưởng tao sợ mầy. Mầy dám giết tao không? Mầy đâm tao đi! Dám không? Ðâm đi! Ðâm đi!...Trời ơi là trời! Nó giết tôi rồi! Nó đâm tôi. Nó đâm tôi!..." Thật quá sức tưởng tượng! Chúng tôi không ngờ hai người nầy, đã lớn tuổi, mặt mũi sáng sủa, ra người có học mà lại đánh chửi nhau như hàng tôm hàng cá. Nghe la “Nó đâm tôi!” mà giọng tỉnh rụi, tôi đoán người đàn bà chả bị đâm, chém gì. Tôi bảo cô gái thử lấy một vật cứng dộng vô vách để lưu ý họ xem sao. Cô ta lấy chiếc guốc dộng vô vách thật mạnh, chỉ "cộp, cộp" mấy tiếng là phòng bên kia im re!? Tôi hỏi cô gái "Họ có thường đánh chửi nhau như thế nầy không?" Cô bảo "Cứ năm ba ngày họ đánh chửi nhau một lần. Ban ngày em đi làm nên không rõ, nhưng ban đêm, em cứ bị đánh thức kiểu nầy hoài!" Tôi bảo "Mỗi khi hai người đánh chửi nhau lớn tiếng, cô nhớ lấy guốc dộng vô vách như lúc nãy là yên ngay. Ðể sáng mai, tôi sẽ gặp họ và báo trước, nếu còn gấu ó nhau kiểu đó thì xin mời đi chỗ khác".
Sáng hôm sau, vợ chồng tôi ra sau nhà định đến gõ cửa phòng hai ông bà tình nhân nầy để nói phải trái với họ thì thấy hai người đang ngồi trên ghế sau vườn ngắm hoa, rủ rỉ chuyện trò. Chị đàn bà ngồi tựa đầu vào vai ông bồ. ông ta cũng ôm vai người yêu. Tuy hai người xây lưng về phía chúng tôi, nhưng tôi cũng thấy rõ một bên má người đàn bà tím bầm, sưng to như quả trứng. Người đàn ông thì có mấy miếng băng dán ở cổ, có lẽ bị "đối phương" cào, cắn chảy máu. Chúng tôi chả hiểu ra làm sao? Mới đánh chửi nhau lại làm lành ngay, giống như trẻ con! Sợ quấy rầy giây phút thần tiên của họ, chúng tôi rút lui, định chờ dịp thuận tiện khác.
Mấy hôm sau, cô gái thuê phòng khoe với vợ tôi là hễ nghe hai người đánh chửi nhau, cô lấy cây dộng vào vách là họ im tiếng ngay. Nhưng hai người đàn bà (vợ tôi và cô thuê phòng), lại lo sợ rằng đánh nhau kịch liệt kiểu đó, có ngày cũng gây án mạng, nên tốt nhất là mời họ tìm nơi khác mà mướn
Ðược vài tháng sau, một lần, cũng vào nửa khuya, cô gái lại gọi điện thoại phàn nàn "Em dộng cây vào vách mà họ vẫn đánh chửi nhau!" Lần nầy thì tôi nổi giận thực sự.
Vợ chồng tôi đi vòng ra sau nhà, đến phòng cô thuê phòng. Quả nhiên, từ phòng bên kia, hai người đang đánh chửi nhau với những lời lẽ hàng tôm hàng cá. Tuy cũng vẫn những lời đòi giết nhau với tiếng động như vật nhau, đụng vô vách rầm rầm, tiếng hự hự, khò khè như bị bóp họng... nhưng rõ ràng cả hai đang hồi quyết liệt lại có vẻ nguy cấp cho chị đàn bà. Vợ tôi và cô mướn phòng, mắc cỡ vì nghe những lời chửi rất vô học và tục tỉu, lại sợ có chuyện không may cho chị đàn bà nên thúc hối tôi qua can thiệp hoặc gọi cảnh sát ngay. Tôi qua phòng của hai người. Vợ tôi và cô mướn phòng tò mò theo sau. Ngoài trời tối đen, trong phòng đó hình như cũng không có đèn vì qua cửa kính, không thấy ánh sáng hắt ra. Tiếng chửi rủa, đánh đấm nhau nghe càng rõ, giống như âm thanh một phim bạo động mở hết công suất.
Tôi gõ cửa và chờ đợi. Hai người như say sưa chiến đấu nên không nghe. Tôi gõ mạnh hơn. Vẫn không ai mở cửa mà tiếng đánh chửi nhau không giảm. Tôi thử vặn nắm đấm cửa. Cửa không khóa. Tôi đẩy nhẹ cửa, hé mở và nhìn vào. Trong phòng tối mù. Ðèn ngủ không đủ ánh sáng nên tôi chẳng thấy gì! Tôi đoán chừng hai người đang nằm xem phim bạo động, trinh thám gì đó nên mới nghe kêu gào giết nhau như vậy. Tôi cố nhìn cho rõ để lưu ý họ vặn bớt âm thanh.
Và rồi tôi thấy được hai người. Họ nằm trên giường, đầu hướng về phía cửa nên không thấy tôi đang thò đầu vô nhìnï.
Hóa ra họ thực sự đánh nhau chứ không phải trong phim. Người đàn bà nằm dưới, trắng hếu, hai tay cào cấu người đàn ông rồi đập tay xuống giường thình thịch, hai chân như bơi vào khoảng không rồi chống xuống giường, nẩy ngược lên như cố thoát ra khỏi sự kềm chế của người đàn ông, miệng chửi rủa vừa rên rỉ "Mầy đâm tao đi! Ðâm đi! Trời ơi là trời! Nó đâm tôi! Nó giết tôi! Tôi chết. Tôi chết!..." Người đàn ông, cũng trần như nhộng, một tay bóp họng chị đàn bà, tay kia nắm tóc, dập mạnh đầu bà ta xuống nệm. Hai người vừa đánh nhau vừa gào lên, liếu lưỡi như bị quỷ ám. Họ quên cả thế gian. Có lẽ trời sâïp họ cũng không buông nhau ra.
Tôi khép cửa lại, quay về. Vợ tôi và cô mướn phòng, vì đứng xa, mà cửa chỉ hé mở, trong phòng lại tối mò nên không thấy gì, cứ theo hỏi tôi "Sao không vô can thiệp? Hay là gọi cảnh sát?" Tôi bảo "Ðó là hai con quỉ. Mặc kệ họ!" Hai người có vẻ yên tâm nhưng vẫn hỏi "Nói gì chẳng hiểu! Hai con quỉ gì lại cứ đánh chửi nhau?" Tôi muốn nói huỵch tẹt ra là hai người đó không mặc áo quần gì cả, nhưng giữ miệng kịp.
-------------------------------------------------
15. Bí Ẩn Của Một Câu Kinh Phật
Vừa rồi, chúng tôi, những người bạn chí thân từ thời còn đi học ở Việt Nam trước 1975, rủ nhau qua Canada thăm mấy ông bạn khác. Chúng tôi đến thành phố Montreal vào mùa hè nên không lạnh lắm. Ở Mỹ hay Canada, nhà cửa, cách sinh hoạt không khác nhau mấy. Và việc đi thăm bạn bè thì cũng chẳng có gì đáng kể ra đây nếu không có một câu chuyện, mà nếu bạn nghe được, chắc cũng sẽ ngạc nhiên, đặt nhiều câu hỏi.
Chuyện hơi dài dòng, xin bạn kiên nhẫn.
Chúng tôi gồm ba cặp vợ chồng, được gia đình người bạn tiếp đón rất thân tình. Ông ta còn gọi các bạn khác ở gần đó, kéo đến, nên buổi họp mặt thật đông vui.
Khi bữa cơm gia đình đã mãn, các bà lo dọn dẹp chén bát để pha trà và các ông đang chuyện trò sôi nổi, thì ông bạn chủ nhà đổi đề tài "Có một chuyện thực, xảy ra ở Việt Nam, khoảng năm 1982. Một chuyện kỳ lạ mà bà chị tôi vừa là người trong cuộc vừa là nhân chứng. Lúc còn ở Việt Nam, chị tôi dấu kín vì sợ đến tai công an thì sẽ bị tra hỏi, có thể bị tù cũng nên. Nay chị tôi đến xứ tự do, sẽ kể thoải mái. Trong câu chuyện, có gì thắc mắc, xin cứ hỏi chị tôi"
Người chị của chủ nhà, đang ngồi với các bà, được yêu cầu kể chuyện. Chị ta xin phép vài phút để lên lầu, lát sau đi xuống, tay cầm một phong bì đặt trước mặt và bắt đầu kể. Mọi người yên lặng, lắng nghe.
"Gia đình tôi, sau bảy lăm (1975), chỉ còn đàn bà vì đàn ông đều vô tù cải tạo hết cả. Khoảng năm tám mươi (1980), chúng tôi được móc nối để vượt biên nhưng vẫn phải chờ ít nhất một người đàn ông đi tù cải tạo về mới quyết định được. Năm đó, cậu em tôi được thả về, chúng tôi báo cho người tổ chức, họ bảo, có một chuyến, phải đi ngay. Từ Sài Gòn chúng tôi đón xe về Cà Mau dự đám cưới. Ðám cưới thật nhưng ăn cưới chỉ là cái cớ. Dân địa phương thấy người lạ từ Sài Gòn về ăn cưới thì biết ngay, nhưng rình bắt là công việc của công an. Thế nên, ai cũng chờ đợi màn thứ hai là khuya nay, công an sẽ phục ở bãi đáp để tóm gọn quí vị quan khách nầy. Trò nầy xảy ra thường xuyên, nhưng họ không biết rằng vụ vượt biên nầy lại do chính công an địa phương đứng ra tổ chức, nên tối đó quí vị công an với các viên chức xã ấp có nhiệm vụ phải nốc rượu cho thật say, để sáng ra, ai cũng không biết gì cả!
Khuya đó, chúng tôi bị gọi dậy, cấp tốc lên đường. Từ nhà ra biển chỉ vài cây số. Trời quá tối. Chúng tôi âm thầm theo người trước mặt, đi vòng vèo trên các con đường đất. Trong bóng đêm tối đen, thỉnh thoảng, bên đường lại có một toán chui ra nhập bọn, tôi đoán, cả đoàn chúng tôi, ít ra cũng hơn trăm người. Mặc dù đã được dặn trước là khi xuống thuyền phải tuyệt đối yên lặng và trật tự, không được chen lấn cãi cọ, nhưng khi thấy mấy chiếc tắc xi (thuyền nhỏ đưa ra thuyền lớn), người ta ùa nhau lội xuống nước, tranh nhau leo lên thuyền. Cậu em tôi đi trước, tay bồng hai đứa con, vợ nó níu lưng đi sau, tôi níu áo cô ta để khỏi lạc nhau. Chỗ bãi đó toàn sình, ngập đến đầu gối khiến ai nấy bì bọp mãi mà chưa đến thuyền. Cậu em tôi phải kéo hai người đàn bà chúng tôi phía sau nên càng vướng víu, chậm chạp. Mọi người như những bóng ma âm thầm, chen nhau leo lên thuyền.
Khi cậu em tôi bỏ được hai đứa nhỏ lên thuyền, đẩy được vợ nó lên, đến lượt tôi thì bỗng có tiếng súng, tiếng la hét "Tất cả đứng yên! Ðưa hai tay lên. Ai bỏ chạy sẽ bị bắn bỏ". Tôi thấy ánh đèn pin loang loáng cách chỗ chúng tôi vài trăm thước. Chủ thuyền vội đẩy thuyền ra. Cậu em tôi chỉ kịp níu lấy be thuyền, người vẫn còn ở dưới nước. Tôi và khoảng vài chục người đành đứng nhìn mấy chiếc thuyền lẫn vào bóng tối, mờ dần ngoài biển khơi. Lúc đó tiếng súng và tiếng hô hoán "Ðứng yên! Bỏ chạy bắn bỏ" càng như gần hơn khiến mọi người vội chạy ngược về phía bờ. Như đã dặn trước "Khi bị bể, phải chạy tránh xa ánh đèn của công an, trốn cho kỹ, chờ vài hôm, yên tĩnh mới tìm cách ra lộ đón xe về" Vậy là mạnh ai nấy chạy. Tôi bương đại lên bờ, chạy ngược hướng tiếng súng. Vừa chạy vừa run, miệng niệm "Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Ðại Linh Cảm Quan Thế Ân Bồ Tát". Cứ nhắm mắt, nhắm mũi chạy đại, vấp mô đất hay gốc cây té xuống thì vùng dậy chạy tiếp. Lúc đầu hình như có người cùng chạy với tôi, quay lại thì không thấy ai cả! Tôi chạy độ nửa tiếng, thấy đã xa, vừa hoàn hồn thì hai chân rã rời, nhấc không lên. Tôi ngồi đại xuống đất, thở dốc. Lúc đó khoảng một giờ sáng. Tôi nhìn quanh. Một bên là biển đen sì, rì rào tiếng sóng, một bên là bờ rừng, với hàng cây là những khối đen, cao hơn đầu người, trông như những con ác thú đang chờ mồi. Tôi đoán, có lẽ công an rình bắt một vụ vượt biên khác, cách chúng tôi vài ba trăm mét, chủ thuyền tưởng bị bể, nên bỏ chạy, vì thế mọi người mới chạy thoát.
Từ lúc lên xe ở Sài Gòn đến khi về Cà Mau, tôi hoàn toàn không biết mình đang ở đâu? Bây giờ ngồi bơ vơ giữa đồng không mông quạnh, chung quanh tối mù, tôi tự hỏi mình sẽ làm gì, hay phải ngồi như thế nầy cho đến sáng? Lúc nãy, chạy, người toát mồ hôi, bây giờ, gió biển thổi vào, tôi lạnh run cầm cập. Tôi thầm ước cho công an đến bắt mình, có người cùng bị bắt với nhau cũng yên tâm, rồi sau đó muốn ra sao thì ra! Cái xách nhỏ trên vai tôi vẫn còn. Tôi tìm chai nước lạnh, uống mấy ngụm. Trong xách chỉ có vài chai nước lạnh, mấy viên thuốc say sóng, mấy hộp sữa đặc, cái khăn nhỏ, một mớ đô la và vàng cùng quyển kinh Phật. Không hiểu sao, trong lúc hoảng loạn mà tôi còn giữ được cái xách?
Ðang ngồi rầu rĩ, bỗng nhiên, tôi thấy từ xa, có ánh đèn thấp thoáng, có lẽ là đèn dầu hôi, loại thường thấy ở thôn quê, cách tôi hơn một cây sốâ. Tôi mừng rỡ, quên cả mệt, đứng lên, nhắm ánh đèn mà đi. Tôi đi như chạy, té lên, té xuống, mà không thấy đau, cứ nhắm ánh đèn bương tới, vì sợ người ta tắt đèn thì không biết làm sao tìm đến. Ðộ nửa giờ sau, tôi đến nơi. Ðó là một nhà lá, cửa mở, một cây đèn bão, (loại đèn để đi trong gió mà không sợ tắt) đặt trên một chiếc ghế nhỏ, để ngay trước cửa, nhờ vậy mà từ hướng bên trái ngôi nhà, tôi vẫn thấy được.
Khi đến trước cửa, tôi kêu lên "Có ai trong nhà không? Cho tôi vào với". Có tiếng đàn ông nói lớn "Vào đi! Ðừng sợ!" Khi bước vô cửa tôi mới nhận ra là có một người đàn ông đang ngồi hút thuốc lào, cạnh một cái bàn để giữa nhà. Người đàn ông đứng lên, ra đem cây đèn bão và chiếc ghế vào. Nghe giọng lơ lớ, với cách dùng chữ, tôi đoán ông ta là người Bắc giả giọng Nam. Tôi bước vào nhà. Nhà không rộng lắm nhưng đặt ba nơi ba chiếc giường rộng, có trải chiếu tươm tất. Ông ta chỉ chiếc ghế "Ngồi đấy đi!" Tôi nói cám ơn, vì áo quần dính sình, không dám ngồi, sợ dơ ghế. Ông ta bảo, giọng bình thản như việc nầy đã từng xảy ra nhiều lần "Thế thì đi tắm đi! Tôi có sẵn áo quần của bà xã tôi, thay tạm. Áo quần bẩn thì giặt đi, phơi ra ngoài gió, sáng mai khô ngay, thay trả lại cho tôi, rồi tôi sẽ đưa ra bến xe, đón xe về Sài Gòn" Nghe nói sáng mai đón xe về Sài Gòn, tôi mừng quính, không ngờ mình may mắn gặp được cứu tinh. Tôi thấy có cảm tình với người đàn ông tử tế đó, định nói lời cám ơn, nhưng nhìn thấy hai con mắt của ông ta, tôi rùng mình khiếp sợ. Ông ta khoảng năm mươi tuổi, dáng người tầm thước, mặt sạm nắng, hai gò má cao, tóc ngắn, chân tay gân guốc...nghĩa là ông ta đúng là một nông dân, chỉ đôi mắt là khủng khiếp. Tuy đèn dầu tù mù nhưng đôi mắt vẫn ánh lên những tia sáng lạnh lẽo, vừa uy quyền, tàn nhẫn vừa như giễu cợt. Tôi sợ quá, cảm tưởng như mình là con chuột đã bị con mèo chộp được trong móng vuốt nhưng vẫn giữ đấy chờ con mồi chết khiếp mới từ từ thưởng thức. Thấy tôi đứng bất động vì sợ, ông ta cười, giọng dịu dàng nhưng vẫn uy quyền, như ra lệnh "Tôi không hại cô đâu. Cô đừng sợ. Tôi nghe tiếng súng nổ là biết ngay vượt biên bị bể nên thắp đèn lên để ai chạy thoát thì đến đây tá túc, sáng mai tôi lấy thuyền đưa ra bến xe về nhà. Tôi đã cứu hàng mấy trăm người rồi. Ai cũng về nhà an toàn. Ðừng sợ. Ðể tôi lấy áo quần cho cô thay tạm. Hôm nay vợ tôi ra chợ thăm đứa con gái, sáng mai, tôi đưa đi, nhân tiện đón vợ tôi về. Ðói bụng thì có cơm nguội trong nồi với con cá khô trong bếp, lấy ra mà ăn" Ông ta nói nhỏ nhẹ, từ tốn nhưng tôi vẫn sợ, răm rắp theo lệnh. Ông ta vào buồng đem ra một bộ đồ đàn bà màu đen, trao cho tôi rồi thắp một cây đèn cầy, chỉ lối đi ra sau chái nhà "Có cái phòng tắm sau kia. Sẵn nước với khăn lau. Tắm xong, mặc tạm, còn bộ đồ bẩn thì giặt đi, phơi lên, sáng mai khô, mặc vào, trả lại bộ đồ cho vợ tôi" Tôi riu ríu cầm áo quần và cây đèn cầy, ra nhà sau, vào phòng tắm, đóng cửa lại, gắn cây đèn sáp lên bệ, xây lưng về phía đèn, cởi đồ ra, dội nước. Tôi làm một cách vô thức, như bị thôi miên bởi cặp mắt của ông ta, tôi đoán, đang nhìn tôi qua khe hở của vách phòng. Tôi tắm qua loa, mặc áo quần vào. Còn nửa thùng nước, tôi đổ ra cái thau nhỏ sẵn đó, vò bộ đồ dính sình rồi treo lên một sợi dây kẽm trong phòng tắm. Khi tôi lên nhà trên thì ông ta chỉ cái giường, có giăng sẵn mùng "Cô ngủ trên giường nầy. Tôi ngủ trong phòng. Ngủ đi cho khỏe, đừng sợ mà thao thức. Mai đi sớm" Tôi nói "Dạ. Cám ơn!" rồi chui vô mùng. Ông ta tắt đèn, đi vào buồng.
Chuyện hơi dài dòng, xin bạn kiên nhẫn.
Chúng tôi gồm ba cặp vợ chồng, được gia đình người bạn tiếp đón rất thân tình. Ông ta còn gọi các bạn khác ở gần đó, kéo đến, nên buổi họp mặt thật đông vui.
Khi bữa cơm gia đình đã mãn, các bà lo dọn dẹp chén bát để pha trà và các ông đang chuyện trò sôi nổi, thì ông bạn chủ nhà đổi đề tài "Có một chuyện thực, xảy ra ở Việt Nam, khoảng năm 1982. Một chuyện kỳ lạ mà bà chị tôi vừa là người trong cuộc vừa là nhân chứng. Lúc còn ở Việt Nam, chị tôi dấu kín vì sợ đến tai công an thì sẽ bị tra hỏi, có thể bị tù cũng nên. Nay chị tôi đến xứ tự do, sẽ kể thoải mái. Trong câu chuyện, có gì thắc mắc, xin cứ hỏi chị tôi"
Người chị của chủ nhà, đang ngồi với các bà, được yêu cầu kể chuyện. Chị ta xin phép vài phút để lên lầu, lát sau đi xuống, tay cầm một phong bì đặt trước mặt và bắt đầu kể. Mọi người yên lặng, lắng nghe.
"Gia đình tôi, sau bảy lăm (1975), chỉ còn đàn bà vì đàn ông đều vô tù cải tạo hết cả. Khoảng năm tám mươi (1980), chúng tôi được móc nối để vượt biên nhưng vẫn phải chờ ít nhất một người đàn ông đi tù cải tạo về mới quyết định được. Năm đó, cậu em tôi được thả về, chúng tôi báo cho người tổ chức, họ bảo, có một chuyến, phải đi ngay. Từ Sài Gòn chúng tôi đón xe về Cà Mau dự đám cưới. Ðám cưới thật nhưng ăn cưới chỉ là cái cớ. Dân địa phương thấy người lạ từ Sài Gòn về ăn cưới thì biết ngay, nhưng rình bắt là công việc của công an. Thế nên, ai cũng chờ đợi màn thứ hai là khuya nay, công an sẽ phục ở bãi đáp để tóm gọn quí vị quan khách nầy. Trò nầy xảy ra thường xuyên, nhưng họ không biết rằng vụ vượt biên nầy lại do chính công an địa phương đứng ra tổ chức, nên tối đó quí vị công an với các viên chức xã ấp có nhiệm vụ phải nốc rượu cho thật say, để sáng ra, ai cũng không biết gì cả!
Khuya đó, chúng tôi bị gọi dậy, cấp tốc lên đường. Từ nhà ra biển chỉ vài cây số. Trời quá tối. Chúng tôi âm thầm theo người trước mặt, đi vòng vèo trên các con đường đất. Trong bóng đêm tối đen, thỉnh thoảng, bên đường lại có một toán chui ra nhập bọn, tôi đoán, cả đoàn chúng tôi, ít ra cũng hơn trăm người. Mặc dù đã được dặn trước là khi xuống thuyền phải tuyệt đối yên lặng và trật tự, không được chen lấn cãi cọ, nhưng khi thấy mấy chiếc tắc xi (thuyền nhỏ đưa ra thuyền lớn), người ta ùa nhau lội xuống nước, tranh nhau leo lên thuyền. Cậu em tôi đi trước, tay bồng hai đứa con, vợ nó níu lưng đi sau, tôi níu áo cô ta để khỏi lạc nhau. Chỗ bãi đó toàn sình, ngập đến đầu gối khiến ai nấy bì bọp mãi mà chưa đến thuyền. Cậu em tôi phải kéo hai người đàn bà chúng tôi phía sau nên càng vướng víu, chậm chạp. Mọi người như những bóng ma âm thầm, chen nhau leo lên thuyền.
Khi cậu em tôi bỏ được hai đứa nhỏ lên thuyền, đẩy được vợ nó lên, đến lượt tôi thì bỗng có tiếng súng, tiếng la hét "Tất cả đứng yên! Ðưa hai tay lên. Ai bỏ chạy sẽ bị bắn bỏ". Tôi thấy ánh đèn pin loang loáng cách chỗ chúng tôi vài trăm thước. Chủ thuyền vội đẩy thuyền ra. Cậu em tôi chỉ kịp níu lấy be thuyền, người vẫn còn ở dưới nước. Tôi và khoảng vài chục người đành đứng nhìn mấy chiếc thuyền lẫn vào bóng tối, mờ dần ngoài biển khơi. Lúc đó tiếng súng và tiếng hô hoán "Ðứng yên! Bỏ chạy bắn bỏ" càng như gần hơn khiến mọi người vội chạy ngược về phía bờ. Như đã dặn trước "Khi bị bể, phải chạy tránh xa ánh đèn của công an, trốn cho kỹ, chờ vài hôm, yên tĩnh mới tìm cách ra lộ đón xe về" Vậy là mạnh ai nấy chạy. Tôi bương đại lên bờ, chạy ngược hướng tiếng súng. Vừa chạy vừa run, miệng niệm "Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Ðại Linh Cảm Quan Thế Ân Bồ Tát". Cứ nhắm mắt, nhắm mũi chạy đại, vấp mô đất hay gốc cây té xuống thì vùng dậy chạy tiếp. Lúc đầu hình như có người cùng chạy với tôi, quay lại thì không thấy ai cả! Tôi chạy độ nửa tiếng, thấy đã xa, vừa hoàn hồn thì hai chân rã rời, nhấc không lên. Tôi ngồi đại xuống đất, thở dốc. Lúc đó khoảng một giờ sáng. Tôi nhìn quanh. Một bên là biển đen sì, rì rào tiếng sóng, một bên là bờ rừng, với hàng cây là những khối đen, cao hơn đầu người, trông như những con ác thú đang chờ mồi. Tôi đoán, có lẽ công an rình bắt một vụ vượt biên khác, cách chúng tôi vài ba trăm mét, chủ thuyền tưởng bị bể, nên bỏ chạy, vì thế mọi người mới chạy thoát.
Từ lúc lên xe ở Sài Gòn đến khi về Cà Mau, tôi hoàn toàn không biết mình đang ở đâu? Bây giờ ngồi bơ vơ giữa đồng không mông quạnh, chung quanh tối mù, tôi tự hỏi mình sẽ làm gì, hay phải ngồi như thế nầy cho đến sáng? Lúc nãy, chạy, người toát mồ hôi, bây giờ, gió biển thổi vào, tôi lạnh run cầm cập. Tôi thầm ước cho công an đến bắt mình, có người cùng bị bắt với nhau cũng yên tâm, rồi sau đó muốn ra sao thì ra! Cái xách nhỏ trên vai tôi vẫn còn. Tôi tìm chai nước lạnh, uống mấy ngụm. Trong xách chỉ có vài chai nước lạnh, mấy viên thuốc say sóng, mấy hộp sữa đặc, cái khăn nhỏ, một mớ đô la và vàng cùng quyển kinh Phật. Không hiểu sao, trong lúc hoảng loạn mà tôi còn giữ được cái xách?
Ðang ngồi rầu rĩ, bỗng nhiên, tôi thấy từ xa, có ánh đèn thấp thoáng, có lẽ là đèn dầu hôi, loại thường thấy ở thôn quê, cách tôi hơn một cây sốâ. Tôi mừng rỡ, quên cả mệt, đứng lên, nhắm ánh đèn mà đi. Tôi đi như chạy, té lên, té xuống, mà không thấy đau, cứ nhắm ánh đèn bương tới, vì sợ người ta tắt đèn thì không biết làm sao tìm đến. Ðộ nửa giờ sau, tôi đến nơi. Ðó là một nhà lá, cửa mở, một cây đèn bão, (loại đèn để đi trong gió mà không sợ tắt) đặt trên một chiếc ghế nhỏ, để ngay trước cửa, nhờ vậy mà từ hướng bên trái ngôi nhà, tôi vẫn thấy được.
Khi đến trước cửa, tôi kêu lên "Có ai trong nhà không? Cho tôi vào với". Có tiếng đàn ông nói lớn "Vào đi! Ðừng sợ!" Khi bước vô cửa tôi mới nhận ra là có một người đàn ông đang ngồi hút thuốc lào, cạnh một cái bàn để giữa nhà. Người đàn ông đứng lên, ra đem cây đèn bão và chiếc ghế vào. Nghe giọng lơ lớ, với cách dùng chữ, tôi đoán ông ta là người Bắc giả giọng Nam. Tôi bước vào nhà. Nhà không rộng lắm nhưng đặt ba nơi ba chiếc giường rộng, có trải chiếu tươm tất. Ông ta chỉ chiếc ghế "Ngồi đấy đi!" Tôi nói cám ơn, vì áo quần dính sình, không dám ngồi, sợ dơ ghế. Ông ta bảo, giọng bình thản như việc nầy đã từng xảy ra nhiều lần "Thế thì đi tắm đi! Tôi có sẵn áo quần của bà xã tôi, thay tạm. Áo quần bẩn thì giặt đi, phơi ra ngoài gió, sáng mai khô ngay, thay trả lại cho tôi, rồi tôi sẽ đưa ra bến xe, đón xe về Sài Gòn" Nghe nói sáng mai đón xe về Sài Gòn, tôi mừng quính, không ngờ mình may mắn gặp được cứu tinh. Tôi thấy có cảm tình với người đàn ông tử tế đó, định nói lời cám ơn, nhưng nhìn thấy hai con mắt của ông ta, tôi rùng mình khiếp sợ. Ông ta khoảng năm mươi tuổi, dáng người tầm thước, mặt sạm nắng, hai gò má cao, tóc ngắn, chân tay gân guốc...nghĩa là ông ta đúng là một nông dân, chỉ đôi mắt là khủng khiếp. Tuy đèn dầu tù mù nhưng đôi mắt vẫn ánh lên những tia sáng lạnh lẽo, vừa uy quyền, tàn nhẫn vừa như giễu cợt. Tôi sợ quá, cảm tưởng như mình là con chuột đã bị con mèo chộp được trong móng vuốt nhưng vẫn giữ đấy chờ con mồi chết khiếp mới từ từ thưởng thức. Thấy tôi đứng bất động vì sợ, ông ta cười, giọng dịu dàng nhưng vẫn uy quyền, như ra lệnh "Tôi không hại cô đâu. Cô đừng sợ. Tôi nghe tiếng súng nổ là biết ngay vượt biên bị bể nên thắp đèn lên để ai chạy thoát thì đến đây tá túc, sáng mai tôi lấy thuyền đưa ra bến xe về nhà. Tôi đã cứu hàng mấy trăm người rồi. Ai cũng về nhà an toàn. Ðừng sợ. Ðể tôi lấy áo quần cho cô thay tạm. Hôm nay vợ tôi ra chợ thăm đứa con gái, sáng mai, tôi đưa đi, nhân tiện đón vợ tôi về. Ðói bụng thì có cơm nguội trong nồi với con cá khô trong bếp, lấy ra mà ăn" Ông ta nói nhỏ nhẹ, từ tốn nhưng tôi vẫn sợ, răm rắp theo lệnh. Ông ta vào buồng đem ra một bộ đồ đàn bà màu đen, trao cho tôi rồi thắp một cây đèn cầy, chỉ lối đi ra sau chái nhà "Có cái phòng tắm sau kia. Sẵn nước với khăn lau. Tắm xong, mặc tạm, còn bộ đồ bẩn thì giặt đi, phơi lên, sáng mai khô, mặc vào, trả lại bộ đồ cho vợ tôi" Tôi riu ríu cầm áo quần và cây đèn cầy, ra nhà sau, vào phòng tắm, đóng cửa lại, gắn cây đèn sáp lên bệ, xây lưng về phía đèn, cởi đồ ra, dội nước. Tôi làm một cách vô thức, như bị thôi miên bởi cặp mắt của ông ta, tôi đoán, đang nhìn tôi qua khe hở của vách phòng. Tôi tắm qua loa, mặc áo quần vào. Còn nửa thùng nước, tôi đổ ra cái thau nhỏ sẵn đó, vò bộ đồ dính sình rồi treo lên một sợi dây kẽm trong phòng tắm. Khi tôi lên nhà trên thì ông ta chỉ cái giường, có giăng sẵn mùng "Cô ngủ trên giường nầy. Tôi ngủ trong phòng. Ngủ đi cho khỏe, đừng sợ mà thao thức. Mai đi sớm" Tôi nói "Dạ. Cám ơn!" rồi chui vô mùng. Ông ta tắt đèn, đi vào buồng.
Tôi nằm trên giường, mắt mở thao láo, không dám ngủ. Có chiếc mền mỏng, tôi lấy quấn chặt quanh người rồi nằm lắng nghe, không biết chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi chỉ mong được ông ta tịch thu hết số đô la và vàng tôi mang theo rồi tha cho tôi về nhà. Tôi cứ lẩm nhẩm niệm Quán Thế Âm, cầu Phật Bà cứu khổ cứu nạn. Trong đêm tối, tất cả im lặng, chỉ có tiếng sóng biển rì rầm nghe như tiếng xe chạy rất xa. Bấy giờ tôi mới thấy người rã rời, vừa mỏi vừa đau ê ẩm khắp nơi, nhất là những chỗ bị mô đất hay gốc cây đập mạnh vào khi tôi chạy bị ngã. Suy nghĩ miên man, tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay.
Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng. Vừa xếp mùng, mền xong thì ông ta từ trong buồng bước ra "Ngủ có được không?" "Dạ. Ði mệt quá nên ngủ say một giấc đến sáng" Tôi nói mà không dám nhìn ông ta, sợ thấy đôi mắt kinh khiếp đó "Cô thay đồ rồi chúng ta đi ngay. Tôi chở cô ra bến xe ngoài chợ, họ sẽ đưa cô lên bến xe tỉnh, đón xe về Sài Gòn. Cô viết vào miếng giấy trên bàn kia, tên họ địa chỉ của cô. Tôi cần biết về cô để sau nầy dễ xác nhận" Tôi ra sau nhà, thay đồ, đem bộ đồ của vợ ông ta để trên giường, đến chỗ cái bàn, viết tên họ, địa chỉ vào miếng giấy. Ông ta chỉ cái xách nhỏ của tôi "Ðừng quên cái xách tay" Tôi thấy quyển kinh của tôi để ra ngoài nhưng không dám lấy bỏ vào xách, mà làm như không thấy, chỉ vơ vội cái xách, cầm đi theo ông ta. Ra ngoài sân, tôi mới biết, trước nhà là một con sông rất rộng, có lẽ là cửa sông, còn biển thì nằm bên trái căn nhà, cách một cây số. Nhà ông ta nằm giữa một vùng hoàn toàn hoang vắng, chung quanh là sình lầy với cây đước, vẹt, sú gì đó mọc mênh mông, chạy đến mút mắt. Tôi không hiểu vì sao vợ chồng ông ta lại đem nhau ra ở chỗ nầy? Không ruộng vườn, không thuyền bè đánh cá, không có người chung quanh, ngay đến con chim cũng không thấy bay qua. Có chăng là mấy con cua còng gì đó nằm trên mặt sình dương mắt nhìn tôi. Con đường từ nhà ra bến sông được đắp cao, có lẽ là lối duy nhất đưa ông ta ra chiếc thuyền, đến với xã hội loài người.
Ông ta xuống thuyền, tôi bước theo. Nhờ mấy miếng bê tông làm thành tam cấp nên tôi xuống thuyền không khó khăn lắm. Chiếc thuyền nhỏ, dài khoảng sáu, bảy mét, rộng hơn hai mét, gắn máy đuôi tôm. Ông ta tháo dây cột thuyền, giật máy, đưa thuyền ra giữa giòng sông.
Chiếc thuyền chạy giữa hai bờ rừng vắng vẻ, hoang vu. Một lúc thật lâu thì xa xa thấp thoáng mấy mái nhà sau hàng dừa nước, rồi vài chiếc thuyền xuất hiện, chạy ngược chiều. Thuyền ghé vào một bến đò, có nhà cửa, quán ăn, một chợ thôn quê nhỏ và một bến xe lam (xe Lambretta, ba bánh dùng chở khách). Ông ta cột chuyền, ra dấu cho tôi cùng lên bờ. Mọi người thấy ông ta thì cúi đầu chào vẻ kính cẩn và sợ hãi. Ông ta không thèm nhìn ai, đi thẳng đến chiếc xe lam, nói gì đấy với người chủ xe. Người chủ xe khúm núm gật đầu, miệng dạ nhịp, rồi đến nói với tôi "Mời cô lên xe. Xe chạy ngay bây giờ". Ông ân nhân không để ý đến lời cám ơn của tôi, cũng không nói với ai tiếng nào, xuống thuyền, giật máy, quay thuyền ra giữa giòng. Khi ngồi trong xe lam, tôi thấy mọi người đang tò mò nhìn tôi với vẻ sợ hãi rồi thì thầm với nhau gì đấy. Ông xe lam nổ máy, chở một mình tôi, vòng vèo trên đường đất trong xóm rồi đưa xe ra đường lớn, chạy vào thành phố. Ông ta chạy thẳng đến bến xe khách, ngừng cạnh một xe đầy khách, mời tôi xuống, đưa tôi đến ông tài xế, thì thầm với ông ta. Ông tài xế mời tôi lên ngồi ghế trước. Tôi lục trong xách nhỏ, thấy gói đô la và vàng còn nguyên, lấy ra một mớ tiền Việt đưa trả cho hai người, nhưng ai cũng khoát tay "Anh Năm dặn rõ là ảnh sẽ trả tiền xe cho cô. chúng tôi đâu dám nhận".
Chiều hôm đó, tôi về đến nhà.
Khoảng một tháng sau, người tổ chức đến gặp tôi, báo tin là mọi người đến đảo an toàn, thân nhân sẽ gửi thư sau. Ông ta hỏi tôi rất tỉ mỉ về vụ những người không kịp lên thuyền, tôi kể lại sự việc. Ông ta bảo những người kẹt lại đã bị công an bắt, chỉ thiếu hai gia đình, gồm bốn người, không có tin tức. Hai gia đình nầy thì tôi biết, họ là thương gia xuất nhập cảng trước bảy lăm, rất giàu. Trước khi đi, họ đã bán nhà, vì tin chắc sẽ đi lọt, như vậy, họ ôm của cải theo (vàng và đô la), phải nhiều lắm.
Chuyến vượt biển lần đó khiến tôi sợ quá, không dám nghĩ đến, ai rủ đi cũng lắc đầu.
Khoảng một năm sau, tôi nhận được một lá thư, tên người gửi lạ hoắc. Tôi hoàn toàn không biết ai đã gửi đến"
Chị ta cầm lá thư đưa lên "Mấy năm sau, chồng tôi đi tù về. Chúng tôi qua Mỹ theo diện HO. Vợ chồng tôi qua Canada ở chơi với gia đình cậu em. Gần mười năm mà tôi vẫn còn giữ lá thư nầy. Ðể tôi đọc cho quí vị nghe
"Gửi bà H. (là tên tôi). Bà còn nhớ, lần vượt biển ở Cà Mau, bị bể và bà được tôi cho trọ qua đêm, hôm sau đưa ra bến xe, về thành phố Hồ Chí Minh. Tôi biết bà thắc mắc. Tôi là ai? Tại sao lại ở nơi vắng vẻ? Tôi sinh sống bằng cách nào?
Tôi cho bà rõ. Tôi là công an, có nhiệm vụ ở đó để đón lỏng những người vượt biên bị bể chạy thoát được. Công an chúng tôi làm nhà cách nhau một vài cây số, dọc bờ biển, nơi thường có bến bãi vượt biên, có thuyền con đón ra thuyền lớn. Như vậy, khi công an đến bắt vượt biên, người nào chạy thoát cũng chỉ quanh quẩn đâu đấy, thấy đèn là tìm đến, thế là nộp mạng cho chúng tôi. Tôi bảo rằng có vợ ở chung nhưng thật ra, vợ con tôi đều ở ngoài Bắc, tôi vào đây công tác đã được bốn năm, khi nào ổn định sẽ đưa gia đình vào thành phố Hồ Chí Minh, vì chẳng ai có thể ở nơi hoang vắng nầy.
Mỗi công an chúng tôi đã chuẩn bị sẵn các tiện nghi, nước nôi, lương thực, giường chiếu để đón những người vượt biên tìm đến nhờ cứu giúp. Tôi cho ăn uống, ngủ lại, sáng hôm sau, cho họ xuống thuyền, nói là chở ra bến xe để họ về nhà, nhưng kỳ thực, thuyền đi được nửa đường là bị công an chận bắt. Tôi cũng bị bắt để không ai nghi ngờ.
Thông thường, nếu nhiều người tìm đến thì tôi bảo họ, có gì đem theo nên kê rõ, nhất là tiền bạc, quí kim, để tránh chuyện lấy cắp của nhau. Nếu chỉ một người thì tôi chờ lúc người đó đi tắm sẽ lục xách tay, kiểm tra những gì đem theo. Tôi còn rình nhìn lúc họ đi tắm, cởi đồ ra, sẽ thấy những gì họ lận theo người?
Tôi không bao giờ lấy của ai bất cứ gì, nên khi giải giao họ (đưa lên thuyền để bị công an chận bắt),ï công an chấp pháp lấy lời khai, sẽ thấy rằng tôi rất trong sạch. Tôi từng được công an tỉnh và trung ương biểu dương nhiều lần về thành tích chận bắt người vượt biên cũng như tinh thần chí công vô tư, không tơ hào đến của cải, vật chất của người bị bắt. Nhưng không ai biết rằng, hễ người nào đem nhiều đô la, vàng ngọc, hột xoàn là tôi thủ tiêu, chôn xác trong rừng. Tôi đào sẵn những cái hố, muốn giết ai, khuya đó, tôi lận súng trong người, bảo họ đi theo tôi để tôi chỉ đường mà đi ra đường chính đón xe về. Vào rừng, tôi bắn chết, đạp xuống hố, hôm sau ra lấp đất lại. Không người nào thoát khỏi tay tôi, vì chung quanh toàn sình lầy, có bỏ chạy một quãng là ngập người dưới sình, tôi chỉ rọi đèn pin, đi tìm và bắn họ rất dễ dàng.
Tôi có nói bao nhiêu người bị tôi thủ tiêu với bà cũng chỉ làm bà kinh hoàng chứ chẳng ích lợi gì. Tất cả của cải cướp được, tôi đưa cho vợ tôi đem về quê chôn giấu. Hột xoàn, đô la, vàng ngọc, châu báu... Nghĩa là vợ chồng tôi rất giàu. Vợ tôi bảo, có thể bỏ vốn lập những công ty, mua máy móc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu hoặc mua nhà cửa ở Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh cũng không hết của. Dĩ nhiên gia đình tôi ngoài Bắc vẫn sống đạm bạc như bao nhiêu người khác, để tránh bị nghi ngờ.
Tôi dự định sẽ làm thêm vài năm, kiếm một số tiền vàng nữa rồi xin ra khỏi ngành.
Tính ra, tôi ở đó đã được bốn năm, cho đến cái đêm bà tìm đến nạp mạng cho tôi.
Như mọi khi, lúc bà đi tắm, tôi rình xem bà cởi đồ (để biết của cải lận theo người) rồi lên kiểm tra xách tay của bà. Tôi thấy trong xách có nhiều vàng và đô la. Như vậy, số phận của bà đã được tôi quyết định. Bà sẽ bị tôi thủ tiêu. Trong lúc lục xét xách tay tôi thấy có một quyển kinh, khổ lớn hơn những quyển kinh khác, mà những người vượt biên khác thường đem theo. Quyển kinh lớn đó khiến tôi tò mò.Theo thông lệ, tất cả kinh Phật của những người vượt biên, tôi giữ lại, khi nào lên tỉnh, tôi tặng cho người bạn đang trụ trì một ngôi chùa lớn, gần chợ. Anh ta là công an, đi tu là công tác, vẫn lãnh lương công an. Tôi tặng các quyển kinh Phật cho chùa để ai đến lễ chùa mà "thỉnh" những kinh đó thì biết ngay, người đó sẽ vượt biên và chúng tôi theo dõi. Vì tò mò và vì nghiệp vụ, tôi mở quyển kinh của bà ra, để sát ngọn đèn cho dễ đọc. Tôi đọc một cách tình cờ, một câu kinh nằm ngay giữa trang kinh. Chỉ một câu thôi. Câu duy nhất đó khiến tôi lạnh toát người vì kinh sợ. Tôi sợ đến choáng váng, muốn té xỉu, đến độ ngồi chết lặng một lúc thật lâu. Tối đó, tôi không ngủ được...
Hiện nay tôi đã ra khỏi ngành công an. Tôi đã đi tu ở một vùng núi miền Tây Nguyên, rất hẻo lánh, xa hẳn phố phường, làng xóm. Ngôi chùa nhỏ được cất bên góc núi. Rất xa, dưới chân núi, cách nơi tôi ở, thấp thoáng những nhà sàn của những người thuộc sắc tộc thiểu số. Mỗi buổi sáng, tôi lạy Phật, tụng kinh, rồi lên đồi cuốc đất, trồng khoai sắn, rau quả. Buổi tối tôi lại tụng kinh và suy ngẫm lời Phật dạy. Tôi bảo với vợ tôi là tôi làm nhiệm vụ trên giao, không nên gặp nhau nhiều, thỉnh thoảng lên tiếp tế lương thực mà thôi. Của cải mà tôi kiếm được (vợ tôi đang giữ), tôi dặn, nên trích ra một phần, khi nào có thiên tai bão lụt thì đem cứu giúp người hoạn nạn, giúp bà con, bạn bè khi họ cần, giúp các người già lão, bịnh tật, không nơi nương tựa, giúp các trại mồ côi, các trại cùi hủi...
Tôi viết để bà rõ, nay tôi đã chọn con đường khác. Tôi chỉ muốn biến mất trên thế gian, nhưng còn các con tôi? Chúng là nguồn sống của tôi. Tôi lo sợ cho chúng...
Nếu bà là một Phật tử, xin bà đến chùa, cùng góp lời cầu xin Phật Tổ cho tôi sớm tìm được con đường giải thoát.
Chúc bà sức khỏe."
Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng. Vừa xếp mùng, mền xong thì ông ta từ trong buồng bước ra "Ngủ có được không?" "Dạ. Ði mệt quá nên ngủ say một giấc đến sáng" Tôi nói mà không dám nhìn ông ta, sợ thấy đôi mắt kinh khiếp đó "Cô thay đồ rồi chúng ta đi ngay. Tôi chở cô ra bến xe ngoài chợ, họ sẽ đưa cô lên bến xe tỉnh, đón xe về Sài Gòn. Cô viết vào miếng giấy trên bàn kia, tên họ địa chỉ của cô. Tôi cần biết về cô để sau nầy dễ xác nhận" Tôi ra sau nhà, thay đồ, đem bộ đồ của vợ ông ta để trên giường, đến chỗ cái bàn, viết tên họ, địa chỉ vào miếng giấy. Ông ta chỉ cái xách nhỏ của tôi "Ðừng quên cái xách tay" Tôi thấy quyển kinh của tôi để ra ngoài nhưng không dám lấy bỏ vào xách, mà làm như không thấy, chỉ vơ vội cái xách, cầm đi theo ông ta. Ra ngoài sân, tôi mới biết, trước nhà là một con sông rất rộng, có lẽ là cửa sông, còn biển thì nằm bên trái căn nhà, cách một cây số. Nhà ông ta nằm giữa một vùng hoàn toàn hoang vắng, chung quanh là sình lầy với cây đước, vẹt, sú gì đó mọc mênh mông, chạy đến mút mắt. Tôi không hiểu vì sao vợ chồng ông ta lại đem nhau ra ở chỗ nầy? Không ruộng vườn, không thuyền bè đánh cá, không có người chung quanh, ngay đến con chim cũng không thấy bay qua. Có chăng là mấy con cua còng gì đó nằm trên mặt sình dương mắt nhìn tôi. Con đường từ nhà ra bến sông được đắp cao, có lẽ là lối duy nhất đưa ông ta ra chiếc thuyền, đến với xã hội loài người.
Ông ta xuống thuyền, tôi bước theo. Nhờ mấy miếng bê tông làm thành tam cấp nên tôi xuống thuyền không khó khăn lắm. Chiếc thuyền nhỏ, dài khoảng sáu, bảy mét, rộng hơn hai mét, gắn máy đuôi tôm. Ông ta tháo dây cột thuyền, giật máy, đưa thuyền ra giữa giòng sông.
Chiếc thuyền chạy giữa hai bờ rừng vắng vẻ, hoang vu. Một lúc thật lâu thì xa xa thấp thoáng mấy mái nhà sau hàng dừa nước, rồi vài chiếc thuyền xuất hiện, chạy ngược chiều. Thuyền ghé vào một bến đò, có nhà cửa, quán ăn, một chợ thôn quê nhỏ và một bến xe lam (xe Lambretta, ba bánh dùng chở khách). Ông ta cột chuyền, ra dấu cho tôi cùng lên bờ. Mọi người thấy ông ta thì cúi đầu chào vẻ kính cẩn và sợ hãi. Ông ta không thèm nhìn ai, đi thẳng đến chiếc xe lam, nói gì đấy với người chủ xe. Người chủ xe khúm núm gật đầu, miệng dạ nhịp, rồi đến nói với tôi "Mời cô lên xe. Xe chạy ngay bây giờ". Ông ân nhân không để ý đến lời cám ơn của tôi, cũng không nói với ai tiếng nào, xuống thuyền, giật máy, quay thuyền ra giữa giòng. Khi ngồi trong xe lam, tôi thấy mọi người đang tò mò nhìn tôi với vẻ sợ hãi rồi thì thầm với nhau gì đấy. Ông xe lam nổ máy, chở một mình tôi, vòng vèo trên đường đất trong xóm rồi đưa xe ra đường lớn, chạy vào thành phố. Ông ta chạy thẳng đến bến xe khách, ngừng cạnh một xe đầy khách, mời tôi xuống, đưa tôi đến ông tài xế, thì thầm với ông ta. Ông tài xế mời tôi lên ngồi ghế trước. Tôi lục trong xách nhỏ, thấy gói đô la và vàng còn nguyên, lấy ra một mớ tiền Việt đưa trả cho hai người, nhưng ai cũng khoát tay "Anh Năm dặn rõ là ảnh sẽ trả tiền xe cho cô. chúng tôi đâu dám nhận".
Chiều hôm đó, tôi về đến nhà.
Khoảng một tháng sau, người tổ chức đến gặp tôi, báo tin là mọi người đến đảo an toàn, thân nhân sẽ gửi thư sau. Ông ta hỏi tôi rất tỉ mỉ về vụ những người không kịp lên thuyền, tôi kể lại sự việc. Ông ta bảo những người kẹt lại đã bị công an bắt, chỉ thiếu hai gia đình, gồm bốn người, không có tin tức. Hai gia đình nầy thì tôi biết, họ là thương gia xuất nhập cảng trước bảy lăm, rất giàu. Trước khi đi, họ đã bán nhà, vì tin chắc sẽ đi lọt, như vậy, họ ôm của cải theo (vàng và đô la), phải nhiều lắm.
Chuyến vượt biển lần đó khiến tôi sợ quá, không dám nghĩ đến, ai rủ đi cũng lắc đầu.
Khoảng một năm sau, tôi nhận được một lá thư, tên người gửi lạ hoắc. Tôi hoàn toàn không biết ai đã gửi đến"
Chị ta cầm lá thư đưa lên "Mấy năm sau, chồng tôi đi tù về. Chúng tôi qua Mỹ theo diện HO. Vợ chồng tôi qua Canada ở chơi với gia đình cậu em. Gần mười năm mà tôi vẫn còn giữ lá thư nầy. Ðể tôi đọc cho quí vị nghe
"Gửi bà H. (là tên tôi). Bà còn nhớ, lần vượt biển ở Cà Mau, bị bể và bà được tôi cho trọ qua đêm, hôm sau đưa ra bến xe, về thành phố Hồ Chí Minh. Tôi biết bà thắc mắc. Tôi là ai? Tại sao lại ở nơi vắng vẻ? Tôi sinh sống bằng cách nào?
Tôi cho bà rõ. Tôi là công an, có nhiệm vụ ở đó để đón lỏng những người vượt biên bị bể chạy thoát được. Công an chúng tôi làm nhà cách nhau một vài cây số, dọc bờ biển, nơi thường có bến bãi vượt biên, có thuyền con đón ra thuyền lớn. Như vậy, khi công an đến bắt vượt biên, người nào chạy thoát cũng chỉ quanh quẩn đâu đấy, thấy đèn là tìm đến, thế là nộp mạng cho chúng tôi. Tôi bảo rằng có vợ ở chung nhưng thật ra, vợ con tôi đều ở ngoài Bắc, tôi vào đây công tác đã được bốn năm, khi nào ổn định sẽ đưa gia đình vào thành phố Hồ Chí Minh, vì chẳng ai có thể ở nơi hoang vắng nầy.
Mỗi công an chúng tôi đã chuẩn bị sẵn các tiện nghi, nước nôi, lương thực, giường chiếu để đón những người vượt biên tìm đến nhờ cứu giúp. Tôi cho ăn uống, ngủ lại, sáng hôm sau, cho họ xuống thuyền, nói là chở ra bến xe để họ về nhà, nhưng kỳ thực, thuyền đi được nửa đường là bị công an chận bắt. Tôi cũng bị bắt để không ai nghi ngờ.
Thông thường, nếu nhiều người tìm đến thì tôi bảo họ, có gì đem theo nên kê rõ, nhất là tiền bạc, quí kim, để tránh chuyện lấy cắp của nhau. Nếu chỉ một người thì tôi chờ lúc người đó đi tắm sẽ lục xách tay, kiểm tra những gì đem theo. Tôi còn rình nhìn lúc họ đi tắm, cởi đồ ra, sẽ thấy những gì họ lận theo người?
Tôi không bao giờ lấy của ai bất cứ gì, nên khi giải giao họ (đưa lên thuyền để bị công an chận bắt),ï công an chấp pháp lấy lời khai, sẽ thấy rằng tôi rất trong sạch. Tôi từng được công an tỉnh và trung ương biểu dương nhiều lần về thành tích chận bắt người vượt biên cũng như tinh thần chí công vô tư, không tơ hào đến của cải, vật chất của người bị bắt. Nhưng không ai biết rằng, hễ người nào đem nhiều đô la, vàng ngọc, hột xoàn là tôi thủ tiêu, chôn xác trong rừng. Tôi đào sẵn những cái hố, muốn giết ai, khuya đó, tôi lận súng trong người, bảo họ đi theo tôi để tôi chỉ đường mà đi ra đường chính đón xe về. Vào rừng, tôi bắn chết, đạp xuống hố, hôm sau ra lấp đất lại. Không người nào thoát khỏi tay tôi, vì chung quanh toàn sình lầy, có bỏ chạy một quãng là ngập người dưới sình, tôi chỉ rọi đèn pin, đi tìm và bắn họ rất dễ dàng.
Tôi có nói bao nhiêu người bị tôi thủ tiêu với bà cũng chỉ làm bà kinh hoàng chứ chẳng ích lợi gì. Tất cả của cải cướp được, tôi đưa cho vợ tôi đem về quê chôn giấu. Hột xoàn, đô la, vàng ngọc, châu báu... Nghĩa là vợ chồng tôi rất giàu. Vợ tôi bảo, có thể bỏ vốn lập những công ty, mua máy móc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu hoặc mua nhà cửa ở Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh cũng không hết của. Dĩ nhiên gia đình tôi ngoài Bắc vẫn sống đạm bạc như bao nhiêu người khác, để tránh bị nghi ngờ.
Tôi dự định sẽ làm thêm vài năm, kiếm một số tiền vàng nữa rồi xin ra khỏi ngành.
Tính ra, tôi ở đó đã được bốn năm, cho đến cái đêm bà tìm đến nạp mạng cho tôi.
Như mọi khi, lúc bà đi tắm, tôi rình xem bà cởi đồ (để biết của cải lận theo người) rồi lên kiểm tra xách tay của bà. Tôi thấy trong xách có nhiều vàng và đô la. Như vậy, số phận của bà đã được tôi quyết định. Bà sẽ bị tôi thủ tiêu. Trong lúc lục xét xách tay tôi thấy có một quyển kinh, khổ lớn hơn những quyển kinh khác, mà những người vượt biên khác thường đem theo. Quyển kinh lớn đó khiến tôi tò mò.Theo thông lệ, tất cả kinh Phật của những người vượt biên, tôi giữ lại, khi nào lên tỉnh, tôi tặng cho người bạn đang trụ trì một ngôi chùa lớn, gần chợ. Anh ta là công an, đi tu là công tác, vẫn lãnh lương công an. Tôi tặng các quyển kinh Phật cho chùa để ai đến lễ chùa mà "thỉnh" những kinh đó thì biết ngay, người đó sẽ vượt biên và chúng tôi theo dõi. Vì tò mò và vì nghiệp vụ, tôi mở quyển kinh của bà ra, để sát ngọn đèn cho dễ đọc. Tôi đọc một cách tình cờ, một câu kinh nằm ngay giữa trang kinh. Chỉ một câu thôi. Câu duy nhất đó khiến tôi lạnh toát người vì kinh sợ. Tôi sợ đến choáng váng, muốn té xỉu, đến độ ngồi chết lặng một lúc thật lâu. Tối đó, tôi không ngủ được...
Hiện nay tôi đã ra khỏi ngành công an. Tôi đã đi tu ở một vùng núi miền Tây Nguyên, rất hẻo lánh, xa hẳn phố phường, làng xóm. Ngôi chùa nhỏ được cất bên góc núi. Rất xa, dưới chân núi, cách nơi tôi ở, thấp thoáng những nhà sàn của những người thuộc sắc tộc thiểu số. Mỗi buổi sáng, tôi lạy Phật, tụng kinh, rồi lên đồi cuốc đất, trồng khoai sắn, rau quả. Buổi tối tôi lại tụng kinh và suy ngẫm lời Phật dạy. Tôi bảo với vợ tôi là tôi làm nhiệm vụ trên giao, không nên gặp nhau nhiều, thỉnh thoảng lên tiếp tế lương thực mà thôi. Của cải mà tôi kiếm được (vợ tôi đang giữ), tôi dặn, nên trích ra một phần, khi nào có thiên tai bão lụt thì đem cứu giúp người hoạn nạn, giúp bà con, bạn bè khi họ cần, giúp các người già lão, bịnh tật, không nơi nương tựa, giúp các trại mồ côi, các trại cùi hủi...
Tôi viết để bà rõ, nay tôi đã chọn con đường khác. Tôi chỉ muốn biến mất trên thế gian, nhưng còn các con tôi? Chúng là nguồn sống của tôi. Tôi lo sợ cho chúng...
Nếu bà là một Phật tử, xin bà đến chùa, cùng góp lời cầu xin Phật Tổ cho tôi sớm tìm được con đường giải thoát.
Chúc bà sức khỏe."
Chị đàn bà giơ lá thư lên và nói "Thư chỉ viết thế thôi". Chúng tôi hỏi "Chị có nhớ mình mang theo quyển kinh Phật tên gì không?" "Ðúng ra, lúc nào tôi cũng để sẵn quyển kinh "Quán Thế Âm Bồ Tát" trên bàn thờ, hễ hô "đi!" là tôi chỉ việc bỏ vô xách tay và lên đường. Hôm đó, cô em dâu tôi đây, lại lấy quyển kinh đó trước, tôi vội quá, mở tủ kinh Phật của ba tôi để gần đó, vơ đại một quyển, nghĩ rằng "Phật nào cũng là Phật, vị nào cũng phù hộ, độ trì cho chúng sinh tai qua nạn khỏi". Ba tôi, khi còn sinh thời, tu tại gia, nghiên cứu kinh Phật. Ngoài chữ Việt, ông cụ còn biết chữ Hán, chữ Nôm nên thỉnh rất nhiều kinh về nghiên cứu. Thế nên, đến bây giờ tôi cũng không biết mình đã mang theo quyển kinh nào khi vượt biên. Ðiều tôi tin chắc rằng. Chính quyển kinh đó đã cứu mạng tôi và câu kinh trong đó, như một lời phán của Ðức Phật hoặc đấng Hộ Pháp, bảo thẳng với kẻ ác hãy ngừng tay lại. Lời phán đó phải có uy lực mạnh mẽ đến nỗi một kẻ giết người phải khiếp đảm".
Trong bọn chúng tôi, chẳng ai là đệ tử nhà Phật mặc dầu, thỉnh thoảng có đi chùa lạy Phật, tụng kinh trong những ngày lễ, tết. Chúng tôi hỏi nhau rồi phán đoán đủ thứ,. Câu "buông đao thành Phật" quá tầm thường, chẳng làm ai động tâm. Muốn biết bí mật của câu kinh đó, chỉ còn cách đi hỏi các nhà sư thì họa may.
Vì bị câu chuyện trên ám ảnh, nên trên đường từ Canada về lại miền Ðông Bắc nước Mỹ, chúng tôi quyết định, ghé vào một ngôi chùa của sư PT để thăm và hỏi cho ra lẽ. Sư trạc tuổi chúng tôi, là chỗ quen biết nên rất thân tình. Sư PT xuất gia từ lúc mười một tuổi tại chùa Diệu Ðế ở Huế. Vượt biên qua Mỹ, sư học và tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Tuy còn trẻ, nhưng sư PT thông hiểu Phật pháp và có một cuộc sống rất đạo hạnh.
Trưa hôm đó, chúng tôi được sư khoản đãi cơm chay. Trong lúc thọ trai, chúng tôi kể lại câu chuyện trên cho sư nghe và hỏi sư có biết câu kinh nào đã khiến một người vô thần phải buông đao giết người và đi tu không? Nhà sư suy nghĩ một lúc và nói "Nếu lý luận theo Phật pháp thuần túy ở đây thì không thích hợp với một người cộng sản. Họ đã được dạy căm thù và được huấn luyện cách giết người, nên dù có cả một bầy quỉ dữ từ địa ngục chui lên, hay hàng nghìn Ðức Phật hiện ra thuyết pháp, chưa chắc ông công an nầy phải sợ mà ngưng tay. Ông ta chẳng thù hận gì những người vượt biên, nhưng giết họ để cướp của, ông ta làm thản nhiên như người đồ tể giết heo, giết bò. Mục đích là để có nhiều tiền của cho con cái được sung sướng. Cán bộ cộng sản thường bảo nhau "Hi sinh đời bố, cũng cố đời con" là thế. Kinh Phật chỉ nói về cái nghiệp và cái quả. Ai làm nấy chịu. Nhưng người Việt mình lại có câu "Ðời cha ăn mặn, đời con khát nước". Cha mẹ thương con cháu thì ăn ở nhân đức, để phước cho chúng. Con cháu, nhớ ơn đó mà thờ phụng các vị một cách thành tâm. Ðó là "Ðạo Thờ Ông Bà". Ông công an cộng sản nầy thì làm ngược lại, nên ông ta bị ám ảnh bởi việc ác của mình, "quả báo nhãn tiền", con cháu sẽ lãnh đủ. Có thể, con cái ông ta bị đâm chém hay bị giết chóc sao đó, khiến ông ta nghĩ rằng "Mình giết người ta thì con mình bị người ta giết" nên ông ta sợ". "Nhưng Phật đâu có dạy về chuyện quả báo cho đời con cháu mà ông ta, khi đọc một câu nào đó trong kinh Phật lại sợ hãi đến nỗi phải bỏ nghề, đi tu?" "Ða số những người vượt biên đều đem theo người là kinh A Di Ðà hoặc Bạch Y Thần Chú, coi như có Thần Phật hộ trì bên cạnh. Khi gặp chuyện hiểm nguy thì niệm "Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Quảng Ðại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát" chỉ đọc tới đọc lui câu đó thôi, coi như tiếng kêu cứu, các vị Bồ Tát sẽ ra tay tế độ, giúp cho tai qua nạn khỏi. Những quyển kinh mà ông ta tịch thu, không nhất thiết đều giống nhau. Có thể người đàn bà kia đã mang một quyển kinh khác. Hơn nữa ở một nơi hoàn toàn vắng vẻ, không có gì giải trí ngoài việc đọc các quyển kinh Phật, quả thật, ông ta đang bước về hướng của giải thoát. Chính cái ý niệm muốn giải thoát khiến ông ta bỏ nghề, và câu kinh Phật kia chỉ như vật xúc tác, như cái nút điện mà ông ta đang mò mẩm trong bóng tối, đã bật sáng, cho ông ta thấy được con đường phải đi. Mỗi người là Phật chưa thành là vậy. Con người dù độc ác, mê muội đến đâu, cũng còn le lói một chút ánh sáng của lương tri. Ðúng ra, phải gọi ông ta là "ông đạo" chứ không phải là "ông sư". Vì ngoài việc nghiên cứu, tụng niệm kinh Phật, sư, sãi phải có thầy giảng giải, hướng dẫn trên đường tu tập" "Giả dụ như ông công an đó đến xin thọ giáo với thầy. Thầy sẽ giảng những gì cho một người vô thần như ông ta hiểu về Phật pháp?" Nhà sư cười "Thoát được "tham, sân, si" là tự giải thoát rồi. Chính tôi phải học ông ta, làm cách nào đã bỏ được chữ "tham"? Chữ "tham" đơn giản, thường tình thôi, không cần phải triết lý xa vời. Tiền của vô tay dồi dào, dễ dàng như vậy mà lại bỏ hết, mấy ai làm được? Còn hai chữ "sân, si", bản thân tôi như đang nằm trong cái rọ, không biết bao giờ mới thoát ra! Ông ta là thầy tôi mới đúng" "Thầy có thể đoán được câu kinh nào nằm trong quyển kinh nào, đã khiến ông ta phải sợ mà đi tu không?" Nhà sư lắc đầu "Chỉ riêng ông ta biết được mà thôi. Có thể chỉ một câu tình cờ, bình thường nào đó ông ta đọc được nhưng giải thích đúng những băn khoăn, thắc mắc, sợ hãi bấy lâu của ông ta, nó đánh động lương tâm ông ta, hướng dẫn ông ta tìm con đường giải thoát. Xưa kia, lục tổ Huệ năng chỉ nghe một câu trong kinh Kim Cang liền ngộ được đạo"
"Nhưng nhất định phải có một câu kinh nào đó. Thầy thử nhớ xem sao?" Nhà sư lắc đầu "Bị hỏi thình lình, tôi không nhớ ra ngay. Hay là thế nầy. Bây giờ mời quí vị ra vườn sau chùa uống trà, ngắm hoa. Tôi xin được ít phút tập trung tư tưởng, họa may sẽ nhớ được điều gì chăng? Mục đích không phải tìm hiểu mà chỉ như trò chuyện cho vui vậy thôi. Tôi không đủ trình độ để giải thích câu chuyện kỳ lạ nầy". Nhà sư lên chánh điện. Chúng tôi ra sau chùa, vừa chuyện trò vừa lang thang ngắm hoa cảnh.
Có tiếng chuông ngân vang từ chánh điện, rồi tất cả yên lặng. Có lẽ nhà sư đang lễ Phật và trầm tư...
Ðộ một giờ sau, nhà sư xuất hiện ở ngưỡng cửa với nụ cười. Sư tiến đến, ngồi xuống với chúng tôi ở một bàn nhỏ dưới gốc cây. Chúng tôi vội hỏi "Tìm được câu kinh nào chưa thầy?" Sư lắc đầu và cười "Kinh Phật chẳng có câu nào hăm dọa người ta, bắt người ta phải đi tu cả! Ðể nói về cái nghiệp báo thì kinh Thủy Sám Pháp có nói nhiều, nhưng tôi chỉ nhớ chính xác được vài câu ở các quyển kinh khác, chẳng hạn, trong kinh Ðề Bà Ðạt Ma (Devadata-suta) có câu "Những việc ác mà ngươi đã phạm, không phải là tại cha ngươi, không phải tại mẹ ngươi, không phải tại thầy, chủ ngươi. Chính một mình ngươi đã phạm, và một mình ngươi phải chịu quả báo". Trong kinh Pháp Cú (Damma-pada) cũng có câu "Dẫu rằng ngươi chạy lên trời cao, ẩn dưới biển sâu, trốn trong núi thẳm, không có nơi nào mà ngươi tránh khỏi cái quả ghê gớm về tội ác của ngươi"...
Nói xong nhà sư lộ vẻ bối rối "Rất tiếc, vì sự vô minh của tôi mà câu kinh đó vẫn còn là một bí ẩn. Xin lỗi đã làm quí vị thất vọng. Theo tôi nghĩ, sự thống hối của ông ta quá thành khẩn, đã cảm động đến đức Phật, và Ngài đã ra tay tế độ, đã khai ngộ cho ông ta.
Nhưng phải là người thật thành khẩn thì đức Phật mới làm được việc đó".
-----------------------------------------------------------
***
Một món quà Xuân, quà Sinh Nhật thanh cao,
trang nhã dành cho bạn bè, người thân.
Ðã Phát Hành.
Ba tập truyện ngắn của Phạm Thành Châu
- Bức Họa Khỏa Thân
- Nhớ Huế
- Lý lẽ của trái tim
Giá mỗi tập 12 USD. (trong nước Mỹ)
Mua ba (3) tập trở lên, giá mỗi tập 10 USD kể cả cước phí. Gửi sách trước, trả tiền sau.
Liên Lạc:
Phạm Thành Châu 7004 Beverly Lane
Springfield VA 22150
Phone (703) 569-0124 (571) 480 - 3276) (c)
Trong bọn chúng tôi, chẳng ai là đệ tử nhà Phật mặc dầu, thỉnh thoảng có đi chùa lạy Phật, tụng kinh trong những ngày lễ, tết. Chúng tôi hỏi nhau rồi phán đoán đủ thứ,. Câu "buông đao thành Phật" quá tầm thường, chẳng làm ai động tâm. Muốn biết bí mật của câu kinh đó, chỉ còn cách đi hỏi các nhà sư thì họa may.
Vì bị câu chuyện trên ám ảnh, nên trên đường từ Canada về lại miền Ðông Bắc nước Mỹ, chúng tôi quyết định, ghé vào một ngôi chùa của sư PT để thăm và hỏi cho ra lẽ. Sư trạc tuổi chúng tôi, là chỗ quen biết nên rất thân tình. Sư PT xuất gia từ lúc mười một tuổi tại chùa Diệu Ðế ở Huế. Vượt biên qua Mỹ, sư học và tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Tuy còn trẻ, nhưng sư PT thông hiểu Phật pháp và có một cuộc sống rất đạo hạnh.
Trưa hôm đó, chúng tôi được sư khoản đãi cơm chay. Trong lúc thọ trai, chúng tôi kể lại câu chuyện trên cho sư nghe và hỏi sư có biết câu kinh nào đã khiến một người vô thần phải buông đao giết người và đi tu không? Nhà sư suy nghĩ một lúc và nói "Nếu lý luận theo Phật pháp thuần túy ở đây thì không thích hợp với một người cộng sản. Họ đã được dạy căm thù và được huấn luyện cách giết người, nên dù có cả một bầy quỉ dữ từ địa ngục chui lên, hay hàng nghìn Ðức Phật hiện ra thuyết pháp, chưa chắc ông công an nầy phải sợ mà ngưng tay. Ông ta chẳng thù hận gì những người vượt biên, nhưng giết họ để cướp của, ông ta làm thản nhiên như người đồ tể giết heo, giết bò. Mục đích là để có nhiều tiền của cho con cái được sung sướng. Cán bộ cộng sản thường bảo nhau "Hi sinh đời bố, cũng cố đời con" là thế. Kinh Phật chỉ nói về cái nghiệp và cái quả. Ai làm nấy chịu. Nhưng người Việt mình lại có câu "Ðời cha ăn mặn, đời con khát nước". Cha mẹ thương con cháu thì ăn ở nhân đức, để phước cho chúng. Con cháu, nhớ ơn đó mà thờ phụng các vị một cách thành tâm. Ðó là "Ðạo Thờ Ông Bà". Ông công an cộng sản nầy thì làm ngược lại, nên ông ta bị ám ảnh bởi việc ác của mình, "quả báo nhãn tiền", con cháu sẽ lãnh đủ. Có thể, con cái ông ta bị đâm chém hay bị giết chóc sao đó, khiến ông ta nghĩ rằng "Mình giết người ta thì con mình bị người ta giết" nên ông ta sợ". "Nhưng Phật đâu có dạy về chuyện quả báo cho đời con cháu mà ông ta, khi đọc một câu nào đó trong kinh Phật lại sợ hãi đến nỗi phải bỏ nghề, đi tu?" "Ða số những người vượt biên đều đem theo người là kinh A Di Ðà hoặc Bạch Y Thần Chú, coi như có Thần Phật hộ trì bên cạnh. Khi gặp chuyện hiểm nguy thì niệm "Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Quảng Ðại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát" chỉ đọc tới đọc lui câu đó thôi, coi như tiếng kêu cứu, các vị Bồ Tát sẽ ra tay tế độ, giúp cho tai qua nạn khỏi. Những quyển kinh mà ông ta tịch thu, không nhất thiết đều giống nhau. Có thể người đàn bà kia đã mang một quyển kinh khác. Hơn nữa ở một nơi hoàn toàn vắng vẻ, không có gì giải trí ngoài việc đọc các quyển kinh Phật, quả thật, ông ta đang bước về hướng của giải thoát. Chính cái ý niệm muốn giải thoát khiến ông ta bỏ nghề, và câu kinh Phật kia chỉ như vật xúc tác, như cái nút điện mà ông ta đang mò mẩm trong bóng tối, đã bật sáng, cho ông ta thấy được con đường phải đi. Mỗi người là Phật chưa thành là vậy. Con người dù độc ác, mê muội đến đâu, cũng còn le lói một chút ánh sáng của lương tri. Ðúng ra, phải gọi ông ta là "ông đạo" chứ không phải là "ông sư". Vì ngoài việc nghiên cứu, tụng niệm kinh Phật, sư, sãi phải có thầy giảng giải, hướng dẫn trên đường tu tập" "Giả dụ như ông công an đó đến xin thọ giáo với thầy. Thầy sẽ giảng những gì cho một người vô thần như ông ta hiểu về Phật pháp?" Nhà sư cười "Thoát được "tham, sân, si" là tự giải thoát rồi. Chính tôi phải học ông ta, làm cách nào đã bỏ được chữ "tham"? Chữ "tham" đơn giản, thường tình thôi, không cần phải triết lý xa vời. Tiền của vô tay dồi dào, dễ dàng như vậy mà lại bỏ hết, mấy ai làm được? Còn hai chữ "sân, si", bản thân tôi như đang nằm trong cái rọ, không biết bao giờ mới thoát ra! Ông ta là thầy tôi mới đúng" "Thầy có thể đoán được câu kinh nào nằm trong quyển kinh nào, đã khiến ông ta phải sợ mà đi tu không?" Nhà sư lắc đầu "Chỉ riêng ông ta biết được mà thôi. Có thể chỉ một câu tình cờ, bình thường nào đó ông ta đọc được nhưng giải thích đúng những băn khoăn, thắc mắc, sợ hãi bấy lâu của ông ta, nó đánh động lương tâm ông ta, hướng dẫn ông ta tìm con đường giải thoát. Xưa kia, lục tổ Huệ năng chỉ nghe một câu trong kinh Kim Cang liền ngộ được đạo"
"Nhưng nhất định phải có một câu kinh nào đó. Thầy thử nhớ xem sao?" Nhà sư lắc đầu "Bị hỏi thình lình, tôi không nhớ ra ngay. Hay là thế nầy. Bây giờ mời quí vị ra vườn sau chùa uống trà, ngắm hoa. Tôi xin được ít phút tập trung tư tưởng, họa may sẽ nhớ được điều gì chăng? Mục đích không phải tìm hiểu mà chỉ như trò chuyện cho vui vậy thôi. Tôi không đủ trình độ để giải thích câu chuyện kỳ lạ nầy". Nhà sư lên chánh điện. Chúng tôi ra sau chùa, vừa chuyện trò vừa lang thang ngắm hoa cảnh.
Có tiếng chuông ngân vang từ chánh điện, rồi tất cả yên lặng. Có lẽ nhà sư đang lễ Phật và trầm tư...
Ðộ một giờ sau, nhà sư xuất hiện ở ngưỡng cửa với nụ cười. Sư tiến đến, ngồi xuống với chúng tôi ở một bàn nhỏ dưới gốc cây. Chúng tôi vội hỏi "Tìm được câu kinh nào chưa thầy?" Sư lắc đầu và cười "Kinh Phật chẳng có câu nào hăm dọa người ta, bắt người ta phải đi tu cả! Ðể nói về cái nghiệp báo thì kinh Thủy Sám Pháp có nói nhiều, nhưng tôi chỉ nhớ chính xác được vài câu ở các quyển kinh khác, chẳng hạn, trong kinh Ðề Bà Ðạt Ma (Devadata-suta) có câu "Những việc ác mà ngươi đã phạm, không phải là tại cha ngươi, không phải tại mẹ ngươi, không phải tại thầy, chủ ngươi. Chính một mình ngươi đã phạm, và một mình ngươi phải chịu quả báo". Trong kinh Pháp Cú (Damma-pada) cũng có câu "Dẫu rằng ngươi chạy lên trời cao, ẩn dưới biển sâu, trốn trong núi thẳm, không có nơi nào mà ngươi tránh khỏi cái quả ghê gớm về tội ác của ngươi"...
Nói xong nhà sư lộ vẻ bối rối "Rất tiếc, vì sự vô minh của tôi mà câu kinh đó vẫn còn là một bí ẩn. Xin lỗi đã làm quí vị thất vọng. Theo tôi nghĩ, sự thống hối của ông ta quá thành khẩn, đã cảm động đến đức Phật, và Ngài đã ra tay tế độ, đã khai ngộ cho ông ta.
Nhưng phải là người thật thành khẩn thì đức Phật mới làm được việc đó".
-----------------------------------------------------------
***
Một món quà Xuân, quà Sinh Nhật thanh cao,
trang nhã dành cho bạn bè, người thân.
Ðã Phát Hành.
Ba tập truyện ngắn của Phạm Thành Châu
- Bức Họa Khỏa Thân
- Nhớ Huế
- Lý lẽ của trái tim
Giá mỗi tập 12 USD. (trong nước Mỹ)
Mua ba (3) tập trở lên, giá mỗi tập 10 USD kể cả cước phí. Gửi sách trước, trả tiền sau.
Liên Lạc:
Phạm Thành Châu 7004 Beverly Lane
Springfield VA 22150
Phone (703) 569-0124 (571) 480 - 3276) (c)
14 Trường Trần Quý Cáp
Phạm Thành Châu
Thành phố cổ Hội An, thuộc tỉnh Quảng Nam, được Liên Hiệp Quốc xếp vào tài sản văn hóa của nhân loại. Hội An có trường trung học Trần Quí Cáp. Trước 1975, trường nào cũng giống nhau, học trò cũng giống nhau. Hi vọng bạn đọc, lớn tuổi (dù không học trường Trần Quí Cáp) sẽ thấy trường mình và chính mình trong bài nầy.
Trường Trần Quí Cáp 60 tuổi, chỉ còn cái tên thì tôi cũng chỉ còn cái tên. Cái tên (của tôi) sắp được khắc vào bia mộ. Già quá rồi! Các “cơ quan đoàn thể” trong người đều rả rệu, chẳng dùng được vào việc gì. Nhất là đầu óc, ngày càng lú lẩn, nói trước quên sau. Tay cầm cái kiếng lão mà đi tìm quanh cái kiếng để đọc sách!
Có điều kỳ lạ khiến tôi ngạc nhiên là ngay giờ đây, khi bắt đầu viết thì chuyện cũ ùn ùn kéo đến nhưng lộn xộn như lũ kiến bị động ổ, lung tung, loạn xà ngậu. Tôi định nhớ đâu viết đó rồi sắp xếp lại theo thứ tự thời gian. Rồi bỏ bớt. Viết nhiều, bạn đọc mất thì giờ chứ chẳng tốt lành gì!
Mời quí bạn nghe tôi kể chuyện trường Trần Quí Cáp.
Trường Trần Quí Cáp là trường trung học. Tôi xin bắt đầu từ lớp thấp nhất là lớp đệ thất
Năm đệ thất có thầy Tước dạy Anh Văn, quyển Anglai Vivant. “This is the dog, the dog is an animal. This is the pencil, the pencil a thing...” (Ðây là con chó, con chó là súc vật. Ðây là cây bút chì, cây bút chì là đồ vật) Thầy rất hiền, học trò làm ồn, thầy nói “Keep silence!”, học trò vẫn làm ồn, thầy không nói gì. Năm tôi lên đệ ngũ, thầy vẫn dạy Anh Văn. Năm đó thầy cưới vợ, là một nữ sinh rất đẹp. Sau tuần trăng mật, thầy về dạy tiếp. Thầy có vẻ bơ phờ. Bọn (cô hồn các đảng) ngồi cuối lớp, giả giọng Huế của người đẹp “Nựa, nựa!” (nữa, nữa!) đứa khác giả giọng Bắc của thầy “Anh mệt nã người zồi”. Cả lớp cười ồ làm thầy ngạc nhiên không hiểu chuyện gì?
Cô Huỳnh Tân dạy Pháp Văn. Cô đã lớn tuổi mà vẫn còn đẹp. Nghe nói thời còn đi học ở Hà Nội, cô là hoa hậu Hà Thành (thời Pháp thuộc). Một lần, cô dạy về thuốc hút. Tabac, ciga, cigarette... gì đó. Trò Hồ Ngọc Ða đưa tay lên thưa
“Thưa cô, còn có xi-ba-rê nữa cô”
Cô hỏi “Xi-ba-rê là gì?”
“Thưa cô, là thuốc hút” “
Cô không biết tiếng đó. Ðể cô về tra tự điển xem sao”
Mấy bữa sau, vào lớp, cô nói
“Anh nào nói chữ xi-ba-rê. Cô tra tự điển không có. Có phải thuốc hút không?”
Trò Ða đứng lên thưa
“Thưa cô, xi-ba-rê là thuốc rê. Tiếng Anh gọi là bốc-xe-lăng-le”
Cô càng ngạc nhiên “Tiếng Anh? Cô không biết!”
“Thưa cô, là bốc thuốc để lên tờ giấy quyến, xe lại, le lưỡi liếm rồi hút. Là thuốc rê đó cô”
Cả lớp cười rần rần, cô cũng cười (rất đẹp).
Thời tiểu học, tôi với Nguyễn Hồng Hà thay nhau đứng nhất nhì lớp, được phần thưởng cuối năm. Lên đệ thất, tôi cũng được phần thưởng nhưng từ năm đệ ngũ đến đệ nhất, tôi đứng bét lớp vì không thuộc bài và “đút vở bụi tre” (trốn học) nhiều quá. Ðang học, lúc đổi giờ, thầy chưa vô, tôi nhảy cửa sổ, chui hàng rào (lúc đó trường chưa xây tường rào), cùng với vài thằng bạn (hẹn trước) đi tắm sông, lểu rểu ngoài đường chán chê, chui rào vô học tiếp. Trốn học một số giờ nào đó phải thi lên lớp, vì vậy tôi phải thi lên đệ tam cùng với những đứa thiếu điểm thi “lục cá nguyệt”. Cũng may, năm đó tôi thi đậu trung học đệ nhất cấp nên vào phòng thi, tôi hỏi thầy giám thị “Thưa thầy, con có bằng trung học đệ nhất cấp có phải thi không thầy?” Thầy giám thị nói ” Về đi. Khỏi thi”
Cuối niên học, trước khi nghỉ hè có lễ phát phần thưởng. Buổi lễ tổ chức ở rạp Phi Anh. Có nhiều loại phần thưởng. Phần thưởng học sinh giỏi toàn trường, phần thưởng hạnh kiểm toàn trường, các lớp có phần thưởng danh dự, phần thưởng hạng nhất, nhì, ba. Chỉ có phần thưởng danh dự và hạng nhất, là trao trên sân khấu, các hạng kia, giáo sư hướng dẫn trao (lặng lẽ) sau hậu trường. Các phần thưởng (trao trên sân khấu) được gói bằng giấy dầu xanh, đỏ rất đẹp. Phần thưởng nào có quyển tự điển lớn, quả địa cầu, hoặc cây đàn măng đô lin thì rất “đồ sộ”, che cả mặt người lãnh thưởng, không thấy lối đi. Sung sướng và hãnh diện nhất là gia đình cô, cậu được lãnh thưỡng. Nhiều gia đình có con được phần thưởng thường mua quà (bút máy, đồng hồ, sách) nhờ nhà trường bỏ vô phần thưởng cho con mình. Trong buổi lễ phát thưởng có văn nghệ, ca hát do học sinh trình diễn nên người xem rất đông…. Tôi chỉ được lãnh thưởng hạng nhì một lần duy nhất năm đệ thất, ra sau hậu trường sân khấu nhận mấy quyển sách vở tào lao gì đó, được cột bằng dây ni-lông trông rất thảm hại. Tôi nhét phần thưởng vô trong áo, trước bụng cho người ta khỏi thấy, đỡ mắc cỡ rồi theo cửa sau ra về. Tôi mồ côi cha, má tôi lo chạy gạo cho lũ con, hơi sức đâu mà để ý đến chuyện học hành của con cái. Thời tiểu học tôi nhất lớp, má tôi không biết, lên trung học tôi bét lớp, má tôi cũng chẳng để ý. Thấy tôi ngày nào cũng đi học là bà yên tâm.
Tôi và lũ bạn, không đứa nào có phần thưởng nên coi khinh chuyện đó. Có chuyện lạ là đứa nào học giỏi, học riết cũng chỉ làm giáo viên, giáo sư là cùng, vì các cô cậu đó chỉ biết sách vở. Học như con vẹt. Sách vở viết gì thì biết chừng đó, ra đời gặp chuyện không có trong các bài học thì đành ngớ ra, trong khi bọn lười biếng, đứng bét lớp, ra đời khôn lanh, xoay xở rất tài nên thường gặp may. Cậu nào vào quân đội thì phải biết, tung hoành ngang dọc trong lửa đạn, mà vẫn an toàn. Bọn học dở chúng tôi phét lác “Lấp biển, vá trời, kinh bang tế thế” (?!) mới là chuyện của các đấng nam nhi (chúng tôi), học hành để lãnh thưởng là chuyện đàn bà, trẻ con nên chúng tôi không thèm đến xem lễ phát thưởng.
Thời đó nam, nữ học sinh có thích nhau cũng không dám gặp gỡ chuyện trò, cùng lắm là viết thư, nhờ bạn bè trao giùm. Có cậu Hoàng Dũng, ở xóm giếng Bá Lễ, học trên tôi mấy lớp, viết thư tỏ tình lung tung, cô nào cũng gửi. Có cô được thư tỏ tình đem khoe với bạn, cô bạn nầy cũng khoe, mình cũng có người gửi thư. Trao nhau đọc. Hóa ra, hai lá thư giống hệt nhau, chỉ khác tên người nhận.
Tôi cũng từng viết thư tỏ tình vài cô nữ sinh. Ðó là cuối năm đệ nhất. Tôi viết bảy, tám trang. Lần đầu, tôi gửi cho cô L. T. T (như tôi đã kể trong chuyện Phố Hội Của Tôi), bị cô trả lại, nhưng không có ác ý gì nhiều. Lần sau, với cô khác, tôi gặp xui. Số là, lá thư tỏ tình mà cô L.T.T. trả lại, tôi chép lại, nắn nót, sửa chữa, thêm bớt cho thật hoàn hảo rồi ngân nga, lên bổng xuống trầm, nghe rất lâm ly, thống thiết để tự thưởng thức và để “khẳng định”, chắc chắn (trong tưởng tượng) lần nầy, người đẹp sẽ cảm động đến rơi lệ, sẽ tìm tôi mà nghẹn ngào “Em không ngờ anh yêu em tha thiết như thế nầy. Em xin thưa. Em cũng để ý và yêu anh từ lâu...” (đại khái như thế). Tôi đâu có ngờ nàng cũng đem lá tình thư của tôi cho mọi người nghiên cứu đến nhàu rách mới long trọng trả lại tôi. Bên lề mấy trang tình thư đó, chi chít những lời nhận xét, như một bài “nghị luận văn chương”. Có những câu rất mê li, thắm thiết dễ làm nhỏ lệ những con tim yếu mềm thì lại bị “chơi” bằng cách gạch đít rồi có mũi tên chỉ ra lề lá thư với lời chú thích (y như bạn bè cô L.T.T. đã làm). Chẳng hạn câu “Anh nguyện hiến dâng cuộc đời anh cho em” thì được phụ đề “Cám ơn, nhưng em không quen nhận quà rẻ tiền”. Câu “Anh nguyện đi cùng trời cuối đất vì em” cũng được phụ đề “Anh hãy lên đường ngay. Ði đi và ... đi luôn. ‘Xin đừng quay lại nhìn em nữa. Em biết anh đi chẳng trở về’ (thơ Thái Can)”, nhiều lắm, tôi nhớ hết nhưng không kể ra đây, không phải vì mắc cỡ mà vì không đáng để cho quí vị biết trình độ thưởng ngoạn văn chương “ấu trỉ” của những người đã đọc “tuyệt tác” của tôi.
Tình yêu học trò bao giờ cũng được ca tụng vì rất lãng mạn nhưng trong trắng. Các nhà văn, nhà thơ cả đến ca, kịch, cải lương cũng khai thác triệt để. Ở hải ngoại, xem mấy cái DVD ca nhạc thường có cảnh chị ca sĩ (già khú) mặc áo dài trắng, ôm cặp đứng trên hiên lớp học liếc mắt đưa tình với ông ca sĩ (còn già hơn nữa!) quần xanh áo trắng rồi cùng nhau hát những bài “Nỗi Buồn Hoa Phượng”, “Ngày Xưa Hoàng Thị” gì đó. Khổ nỗi, “già không thể già hơn nữa” mà làm bộ ngây thơ, nhí nhảnh... khiến tôi nổi da gà! Lại còn cảnh đuổi bắt nhau, chạy quanh gốc cây trong sân trường mấy vòng, miệng nàng cười hắc hắc như mụ điên rồi quay lại hót cổ chàng, một chân co lên như trong phim Ðại Hàn. Thấy mà ghê! Vậy chứ mấy bà xem, cảm động lắm, ngồi sững sờ vì tưởng nhớ đến người xưa với bao kỷ niệm êm đềm (!?) cách đây hơn nửa thế kỷ, thời mình còn là cô nữ sinh ngây thơ, ... để rồi thở dài áo não, ước sao mình có đôi cánh để bay đi tìm chàng, để nói biết bao lời nhớ nhung, đau khổ. “Nay biết chàng nơi đâu?”. Quí bà muốn biết chàng nơi đâu không? Tôi chỉ cho! Trong nursing-home, trong nhà già, trong nhà dưỡng lão, trong “rehab.” (nhà chờ chết) đó! Nếu không thấy thì ra “nghĩa trang buồn”... Xin can mấy bà! Làm ơn bảo cháu nội, cháu ngoại bắt cho cái ghế để leo lên bàn thờ mà ngồi nhìn chúng sì sụp lạy.
Phạm Thành Châu
Thành phố cổ Hội An, thuộc tỉnh Quảng Nam, được Liên Hiệp Quốc xếp vào tài sản văn hóa của nhân loại. Hội An có trường trung học Trần Quí Cáp. Trước 1975, trường nào cũng giống nhau, học trò cũng giống nhau. Hi vọng bạn đọc, lớn tuổi (dù không học trường Trần Quí Cáp) sẽ thấy trường mình và chính mình trong bài nầy.
Trường Trần Quí Cáp 60 tuổi, chỉ còn cái tên thì tôi cũng chỉ còn cái tên. Cái tên (của tôi) sắp được khắc vào bia mộ. Già quá rồi! Các “cơ quan đoàn thể” trong người đều rả rệu, chẳng dùng được vào việc gì. Nhất là đầu óc, ngày càng lú lẩn, nói trước quên sau. Tay cầm cái kiếng lão mà đi tìm quanh cái kiếng để đọc sách!
Có điều kỳ lạ khiến tôi ngạc nhiên là ngay giờ đây, khi bắt đầu viết thì chuyện cũ ùn ùn kéo đến nhưng lộn xộn như lũ kiến bị động ổ, lung tung, loạn xà ngậu. Tôi định nhớ đâu viết đó rồi sắp xếp lại theo thứ tự thời gian. Rồi bỏ bớt. Viết nhiều, bạn đọc mất thì giờ chứ chẳng tốt lành gì!
Mời quí bạn nghe tôi kể chuyện trường Trần Quí Cáp.
Trường Trần Quí Cáp là trường trung học. Tôi xin bắt đầu từ lớp thấp nhất là lớp đệ thất
Năm đệ thất có thầy Tước dạy Anh Văn, quyển Anglai Vivant. “This is the dog, the dog is an animal. This is the pencil, the pencil a thing...” (Ðây là con chó, con chó là súc vật. Ðây là cây bút chì, cây bút chì là đồ vật) Thầy rất hiền, học trò làm ồn, thầy nói “Keep silence!”, học trò vẫn làm ồn, thầy không nói gì. Năm tôi lên đệ ngũ, thầy vẫn dạy Anh Văn. Năm đó thầy cưới vợ, là một nữ sinh rất đẹp. Sau tuần trăng mật, thầy về dạy tiếp. Thầy có vẻ bơ phờ. Bọn (cô hồn các đảng) ngồi cuối lớp, giả giọng Huế của người đẹp “Nựa, nựa!” (nữa, nữa!) đứa khác giả giọng Bắc của thầy “Anh mệt nã người zồi”. Cả lớp cười ồ làm thầy ngạc nhiên không hiểu chuyện gì?
Cô Huỳnh Tân dạy Pháp Văn. Cô đã lớn tuổi mà vẫn còn đẹp. Nghe nói thời còn đi học ở Hà Nội, cô là hoa hậu Hà Thành (thời Pháp thuộc). Một lần, cô dạy về thuốc hút. Tabac, ciga, cigarette... gì đó. Trò Hồ Ngọc Ða đưa tay lên thưa
“Thưa cô, còn có xi-ba-rê nữa cô”
Cô hỏi “Xi-ba-rê là gì?”
“Thưa cô, là thuốc hút” “
Cô không biết tiếng đó. Ðể cô về tra tự điển xem sao”
Mấy bữa sau, vào lớp, cô nói
“Anh nào nói chữ xi-ba-rê. Cô tra tự điển không có. Có phải thuốc hút không?”
Trò Ða đứng lên thưa
“Thưa cô, xi-ba-rê là thuốc rê. Tiếng Anh gọi là bốc-xe-lăng-le”
Cô càng ngạc nhiên “Tiếng Anh? Cô không biết!”
“Thưa cô, là bốc thuốc để lên tờ giấy quyến, xe lại, le lưỡi liếm rồi hút. Là thuốc rê đó cô”
Cả lớp cười rần rần, cô cũng cười (rất đẹp).
Thời tiểu học, tôi với Nguyễn Hồng Hà thay nhau đứng nhất nhì lớp, được phần thưởng cuối năm. Lên đệ thất, tôi cũng được phần thưởng nhưng từ năm đệ ngũ đến đệ nhất, tôi đứng bét lớp vì không thuộc bài và “đút vở bụi tre” (trốn học) nhiều quá. Ðang học, lúc đổi giờ, thầy chưa vô, tôi nhảy cửa sổ, chui hàng rào (lúc đó trường chưa xây tường rào), cùng với vài thằng bạn (hẹn trước) đi tắm sông, lểu rểu ngoài đường chán chê, chui rào vô học tiếp. Trốn học một số giờ nào đó phải thi lên lớp, vì vậy tôi phải thi lên đệ tam cùng với những đứa thiếu điểm thi “lục cá nguyệt”. Cũng may, năm đó tôi thi đậu trung học đệ nhất cấp nên vào phòng thi, tôi hỏi thầy giám thị “Thưa thầy, con có bằng trung học đệ nhất cấp có phải thi không thầy?” Thầy giám thị nói ” Về đi. Khỏi thi”
Cuối niên học, trước khi nghỉ hè có lễ phát phần thưởng. Buổi lễ tổ chức ở rạp Phi Anh. Có nhiều loại phần thưởng. Phần thưởng học sinh giỏi toàn trường, phần thưởng hạnh kiểm toàn trường, các lớp có phần thưởng danh dự, phần thưởng hạng nhất, nhì, ba. Chỉ có phần thưởng danh dự và hạng nhất, là trao trên sân khấu, các hạng kia, giáo sư hướng dẫn trao (lặng lẽ) sau hậu trường. Các phần thưởng (trao trên sân khấu) được gói bằng giấy dầu xanh, đỏ rất đẹp. Phần thưởng nào có quyển tự điển lớn, quả địa cầu, hoặc cây đàn măng đô lin thì rất “đồ sộ”, che cả mặt người lãnh thưởng, không thấy lối đi. Sung sướng và hãnh diện nhất là gia đình cô, cậu được lãnh thưỡng. Nhiều gia đình có con được phần thưởng thường mua quà (bút máy, đồng hồ, sách) nhờ nhà trường bỏ vô phần thưởng cho con mình. Trong buổi lễ phát thưởng có văn nghệ, ca hát do học sinh trình diễn nên người xem rất đông…. Tôi chỉ được lãnh thưởng hạng nhì một lần duy nhất năm đệ thất, ra sau hậu trường sân khấu nhận mấy quyển sách vở tào lao gì đó, được cột bằng dây ni-lông trông rất thảm hại. Tôi nhét phần thưởng vô trong áo, trước bụng cho người ta khỏi thấy, đỡ mắc cỡ rồi theo cửa sau ra về. Tôi mồ côi cha, má tôi lo chạy gạo cho lũ con, hơi sức đâu mà để ý đến chuyện học hành của con cái. Thời tiểu học tôi nhất lớp, má tôi không biết, lên trung học tôi bét lớp, má tôi cũng chẳng để ý. Thấy tôi ngày nào cũng đi học là bà yên tâm.
Tôi và lũ bạn, không đứa nào có phần thưởng nên coi khinh chuyện đó. Có chuyện lạ là đứa nào học giỏi, học riết cũng chỉ làm giáo viên, giáo sư là cùng, vì các cô cậu đó chỉ biết sách vở. Học như con vẹt. Sách vở viết gì thì biết chừng đó, ra đời gặp chuyện không có trong các bài học thì đành ngớ ra, trong khi bọn lười biếng, đứng bét lớp, ra đời khôn lanh, xoay xở rất tài nên thường gặp may. Cậu nào vào quân đội thì phải biết, tung hoành ngang dọc trong lửa đạn, mà vẫn an toàn. Bọn học dở chúng tôi phét lác “Lấp biển, vá trời, kinh bang tế thế” (?!) mới là chuyện của các đấng nam nhi (chúng tôi), học hành để lãnh thưởng là chuyện đàn bà, trẻ con nên chúng tôi không thèm đến xem lễ phát thưởng.
Thời đó nam, nữ học sinh có thích nhau cũng không dám gặp gỡ chuyện trò, cùng lắm là viết thư, nhờ bạn bè trao giùm. Có cậu Hoàng Dũng, ở xóm giếng Bá Lễ, học trên tôi mấy lớp, viết thư tỏ tình lung tung, cô nào cũng gửi. Có cô được thư tỏ tình đem khoe với bạn, cô bạn nầy cũng khoe, mình cũng có người gửi thư. Trao nhau đọc. Hóa ra, hai lá thư giống hệt nhau, chỉ khác tên người nhận.
Tôi cũng từng viết thư tỏ tình vài cô nữ sinh. Ðó là cuối năm đệ nhất. Tôi viết bảy, tám trang. Lần đầu, tôi gửi cho cô L. T. T (như tôi đã kể trong chuyện Phố Hội Của Tôi), bị cô trả lại, nhưng không có ác ý gì nhiều. Lần sau, với cô khác, tôi gặp xui. Số là, lá thư tỏ tình mà cô L.T.T. trả lại, tôi chép lại, nắn nót, sửa chữa, thêm bớt cho thật hoàn hảo rồi ngân nga, lên bổng xuống trầm, nghe rất lâm ly, thống thiết để tự thưởng thức và để “khẳng định”, chắc chắn (trong tưởng tượng) lần nầy, người đẹp sẽ cảm động đến rơi lệ, sẽ tìm tôi mà nghẹn ngào “Em không ngờ anh yêu em tha thiết như thế nầy. Em xin thưa. Em cũng để ý và yêu anh từ lâu...” (đại khái như thế). Tôi đâu có ngờ nàng cũng đem lá tình thư của tôi cho mọi người nghiên cứu đến nhàu rách mới long trọng trả lại tôi. Bên lề mấy trang tình thư đó, chi chít những lời nhận xét, như một bài “nghị luận văn chương”. Có những câu rất mê li, thắm thiết dễ làm nhỏ lệ những con tim yếu mềm thì lại bị “chơi” bằng cách gạch đít rồi có mũi tên chỉ ra lề lá thư với lời chú thích (y như bạn bè cô L.T.T. đã làm). Chẳng hạn câu “Anh nguyện hiến dâng cuộc đời anh cho em” thì được phụ đề “Cám ơn, nhưng em không quen nhận quà rẻ tiền”. Câu “Anh nguyện đi cùng trời cuối đất vì em” cũng được phụ đề “Anh hãy lên đường ngay. Ði đi và ... đi luôn. ‘Xin đừng quay lại nhìn em nữa. Em biết anh đi chẳng trở về’ (thơ Thái Can)”, nhiều lắm, tôi nhớ hết nhưng không kể ra đây, không phải vì mắc cỡ mà vì không đáng để cho quí vị biết trình độ thưởng ngoạn văn chương “ấu trỉ” của những người đã đọc “tuyệt tác” của tôi.
Tình yêu học trò bao giờ cũng được ca tụng vì rất lãng mạn nhưng trong trắng. Các nhà văn, nhà thơ cả đến ca, kịch, cải lương cũng khai thác triệt để. Ở hải ngoại, xem mấy cái DVD ca nhạc thường có cảnh chị ca sĩ (già khú) mặc áo dài trắng, ôm cặp đứng trên hiên lớp học liếc mắt đưa tình với ông ca sĩ (còn già hơn nữa!) quần xanh áo trắng rồi cùng nhau hát những bài “Nỗi Buồn Hoa Phượng”, “Ngày Xưa Hoàng Thị” gì đó. Khổ nỗi, “già không thể già hơn nữa” mà làm bộ ngây thơ, nhí nhảnh... khiến tôi nổi da gà! Lại còn cảnh đuổi bắt nhau, chạy quanh gốc cây trong sân trường mấy vòng, miệng nàng cười hắc hắc như mụ điên rồi quay lại hót cổ chàng, một chân co lên như trong phim Ðại Hàn. Thấy mà ghê! Vậy chứ mấy bà xem, cảm động lắm, ngồi sững sờ vì tưởng nhớ đến người xưa với bao kỷ niệm êm đềm (!?) cách đây hơn nửa thế kỷ, thời mình còn là cô nữ sinh ngây thơ, ... để rồi thở dài áo não, ước sao mình có đôi cánh để bay đi tìm chàng, để nói biết bao lời nhớ nhung, đau khổ. “Nay biết chàng nơi đâu?”. Quí bà muốn biết chàng nơi đâu không? Tôi chỉ cho! Trong nursing-home, trong nhà già, trong nhà dưỡng lão, trong “rehab.” (nhà chờ chết) đó! Nếu không thấy thì ra “nghĩa trang buồn”... Xin can mấy bà! Làm ơn bảo cháu nội, cháu ngoại bắt cho cái ghế để leo lên bàn thờ mà ngồi nhìn chúng sì sụp lạy.
Ði học là nhiệm vụ. Ðứa nào cũng đi học, mình không thể ở nhà. Không đi học là ăn đòn, chỉ vậy thôi, chứ không cậu nào nghĩ mình đi học để sau nầy làm vương, làm tướng gì. Ngược lại, được nghỉ học (hợp pháp) mới là hạnh phúc. Hợp pháp là trường cho nghỉ. Ngồi trong lớp, giờ kế tiếp mà thầy giám thị vào bảo “Giáo sư không dạy giờ nầy, các trò ngồi yên, không được làm ồn” Ngồi yên cũng sướng, nhưng khi thầy giám thị vừa bước ra là lớp học ồn ào còn hơn cái chợ. Ở Hội An còn có cái thú được nghỉ học vì nước lụt. Dù biết nước lụt đã lên cao nhưng học trò phải đến lớp điểm danh rồi ngồi chờ, khi thầy giám thị nói to “Về!” là ùa nhau tuông ra khỏi lớp. Tôi còn nhớ, năm đệ tứ, có tên Dương Hữu Bá lớp tôi, cũng tuông chạy như thế, bị vấp chân bàn, té nhào về phía trước, quơ tay chụp đại, rủi chộp nhằm ống quần của một nữ sinh phía trước, cũng may, cô lanh tay níu được lưng quần, hơn nữa con gái mặc áo dài nên “cảnh vật” không đến nỗi “nguy nga, tráng lệ” cho lắm. Trừ những đứa con nhà gia giáo, chúng tôi rủ nhau lội nước lụt. Cứ bì bỏm trên đường Nguyễn Thái Học, từ chợ Hội An lên đến Chùa Cầu, quần áo ướt mem. Lũ học trò tiểu học nhét vở vô bụng, chỗ lưng quần, lội một lúc, vở rớt xuống nước, chữ nghĩa “nhạt nhòa”! Vì chúng mặc quần đùi đi học, lưng bằng giây thun, dễ tụt. Bọn trung học mặc “quần tây”, có nịt giữ cứng, không thể rớt sách vở được.
Ðược nghỉ hè, đã sướng còn được đi trại hè thì quá tuyệt. Từ tiểu học đến trung học, tôi thường được đi trại hè, có lẽ trường tội nghiệp bọn con nhà nghèo. Ði trại hè Huế, Quảng Trị, Lăng Cô... Trại hè Lăng Cô thích nhất vì ăn xong là tắm biển, leo núi, lên suối Cô Ba, gần ga xe lửa tắm suối. Tôi còn nhớ một trại hè nữa. Năm tôi học đệ nhị (lớp mười một) đi trại hè Mỹ Khê, Ðà Nẵng. Buổi sáng, học sinh tập trung ở sân trường Trần Quí Cáp chờ xe đến chở đi. Thầy hiệu trưởng Hoàng Trung thấy tôi, kêu lại “Mi giở mũ tao coi” Tôi giở mũ. Thấy tóc dài phủ ót, thầy móc túi cho tiền “Mi đi hớt tóc ngắn tao mới cho lên xe”. Tôi cầm tiền đi loanh quanh chẳng thấy chỗ hớt tóc mà xe thì đến rồi, tôi phóng lên xe, chui vào trốn im trong đó, thầy không thấy. Tôi học ban C, gọi là ban Văn Chương lại để tóc dài cho ra “ta đây nghệ sĩ”! Ra Mỹ Khê, lúc tắm biển, tôi muốn biểu diễn tài nghệ cho thiên hạ “lé mắt” nên bơi thẳng một mạch ra ngoài khơi xa, nhìn vô bờ, thấy người nhỏ chút xíu. Giáo sư hướng dẫn sợ quá mới nhờ một anh ở cái chòi cao, trạm cấp cứu của ty Thanh Niên bơi ra kêu vào. Anh ta bơi đến sau lưng tôi rồi quay vào nói “Có anh thanh niên nào đó, tóc dài lắm, chứ không phải học sinh, nên tôi không biểu anh ta bơi vô”.
Tôi biết, đọc đến đây, bạn muốn hỏi ”Ông trốn học, lười biếng...Làm sao thi đậu tú tài? trong khi nhiều cô, cậu học xanh mặt mà lại rớt?” Xin thưa trước là tôi không thông minh, học một hiểu mười, học đâu nhớ đó mà sự thực, tôi cũng học bù đầu, thức khuya dậy sớm như mọi cô, cậu học trò khác, chỉ có điều tôi chơi ra chơi, học ra học, không ngồi ngủ gục mà coi như là học bài. Gần đến ngày thi, độ ba, bốn tháng tôi mới bắt đầu “gạo”. Ngoài giờ học ở trường, tôi tự ra lịnh cho mình phải học thêm tám tiếng nữa. Tôi để sẵn một thời hóa biểu, ngày nào học môn gì. Học được năm phút, ghi vào năm phút, một giờ ghi một giờ, nếu không đủ tám tiếng (học thêm) thì hôm sau phải học bù. Buồn ngủ thì lăn ra ngủ, đồng hồ reo dậy học tiếp. Học không vô nữa thì ra đường lang thang cho tỉnh trí. Bọn học trụ điện (thời đó có phong trào học trò ngồi học dưới trụ đèn điện, mỗi cậu một trụ đèn, cho đỡ buồn ngủ), về khuya còn thấy tôi cà lơ, thất thểu ngoài đường vắng, không hiểu tôi đi đâu mà không về nhà học thi? Tôi còn biết cách học của sinh viên đại học bằng cách gạch xanh đỏ những câu quan trọng trong bài, chép riêng ra một tờ giấy nhỏ, chỉ học ôn trên tờ giấy đó. Nhờ vậy bài nào tôi cũng thuộc nhưng thuộc đại khái nên đi thi tôi cầu cho được đậu vớt là may rồi. Thời còn trung học, nghe hai tiếng “sinh viên” mê lắm. Ðậu tú tài hai, tôi vô Sài Gòn, ghi danh học luật, cầm cái thẻ sinh viên của mình, ngắm hoài không chán. Ðôi khi, khoái quá, tôi đạp xe vô đường ngược chiều để cảnh sát chận lại xét giấy, tôi đưa thẻ sinh viên ra và nói “Em ngoài trung vô học “đại học” (!), không biết đường” Anh cảnh sát cười nói ”Ði ngược chiều rồi. Quay lại kẻo xe tung”
Chuyện thời đi học, kể cả năm không hết. Mỗi lớp là một chuỗi kỷ niệm, mỗi người bạn cũng có biết bao chuyện để kể, vì từ nhỏ đến lớn tôi chỉ ở Hội An, học trường Ông Voi rồi lên trường Trần Quí Cáp, loay hoay với cũng chừng đó đứa bạn, lang thang cũng chừng đó con đường trong cái thành phố còm cỏi, già nua. Gia cảnh giàu, nghèo có khác nhưng tâm hồn, suy nghĩ, tình cảm của cô, cậu học trò nào cũng giống nhau. Ðến khi trưởng thành, xa trường, xa thành phố, lăn vào đời vì sinh kế, đôi khi bị đời đá lên, đá xuống, te tua như cái mền rách, tưởng chừng mình ngã gục, không gượng dậy nỗi. Lúc đó mà gặp được một người bạn cũ thì tay bắt mặt mừng, quí còn hơn ruột thịt, chuyện trò sôi nổi, vui vẻ như thời còn đi học. Khi chia tay bỗng nhiên lại thấy như vừa được bạn tặng cho một nguồn sinh lực mới với những niềm vui. Thế là lại thấy mình yêu đời và tự tin như ngày xưa vô tư. Lại cố mà đứng lên, lại lăn vào đời.
Nếu bạn có về Hội An thăm lại trường Trần quí Cáp thì sẽ cảm thấy mình rất xa lạ với trường. Bạn muốn vào sân trường, chưa chắc bảo vệ cho bạn vào. Nếu được vào để mơ màng về thời thanh xuân của tuổi học trò mà vô phước gặp lúc thầy, cô đang trích dẫn trong tác phẩm “Từ Tuyến Ðầu Tổ Quốc”, có bài “Mỹ Diệm Ăn Thịt Người”, để giảng cho các em học sinh biết bọn Mỹ Diệm tàn ác như thế nào, thì làm gì các em sẽ kinh hoàng mà hỏi “Bọn Mỹ Diệm mặt mũi ra sao mà hung ác đến độ ăn thịt chiến sĩ cách mạng?” Tất nhiên chúng sẽ được thầy cô chỉ cái tên đứng ngơ ngáo ngoài sân trường (là bạn), như một điển hình “Nó đứng ngoài kia kìa! Là bọn Việt kiều ở hải ngoại đang ra sức đánh phá sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa của đảng và nhân dân ta”...
Trường Trần Quí Cáp của chúng ta, giờ đây chỉ là cái xác không hồn. Kỷ niệm sáu mươi năm trường xưa chỉ như kỷ niệm ngày sinh của một người bạn đã quá cố với tấm hình trên bàn thờ.
Ðược nghỉ hè, đã sướng còn được đi trại hè thì quá tuyệt. Từ tiểu học đến trung học, tôi thường được đi trại hè, có lẽ trường tội nghiệp bọn con nhà nghèo. Ði trại hè Huế, Quảng Trị, Lăng Cô... Trại hè Lăng Cô thích nhất vì ăn xong là tắm biển, leo núi, lên suối Cô Ba, gần ga xe lửa tắm suối. Tôi còn nhớ một trại hè nữa. Năm tôi học đệ nhị (lớp mười một) đi trại hè Mỹ Khê, Ðà Nẵng. Buổi sáng, học sinh tập trung ở sân trường Trần Quí Cáp chờ xe đến chở đi. Thầy hiệu trưởng Hoàng Trung thấy tôi, kêu lại “Mi giở mũ tao coi” Tôi giở mũ. Thấy tóc dài phủ ót, thầy móc túi cho tiền “Mi đi hớt tóc ngắn tao mới cho lên xe”. Tôi cầm tiền đi loanh quanh chẳng thấy chỗ hớt tóc mà xe thì đến rồi, tôi phóng lên xe, chui vào trốn im trong đó, thầy không thấy. Tôi học ban C, gọi là ban Văn Chương lại để tóc dài cho ra “ta đây nghệ sĩ”! Ra Mỹ Khê, lúc tắm biển, tôi muốn biểu diễn tài nghệ cho thiên hạ “lé mắt” nên bơi thẳng một mạch ra ngoài khơi xa, nhìn vô bờ, thấy người nhỏ chút xíu. Giáo sư hướng dẫn sợ quá mới nhờ một anh ở cái chòi cao, trạm cấp cứu của ty Thanh Niên bơi ra kêu vào. Anh ta bơi đến sau lưng tôi rồi quay vào nói “Có anh thanh niên nào đó, tóc dài lắm, chứ không phải học sinh, nên tôi không biểu anh ta bơi vô”.
Tôi biết, đọc đến đây, bạn muốn hỏi ”Ông trốn học, lười biếng...Làm sao thi đậu tú tài? trong khi nhiều cô, cậu học xanh mặt mà lại rớt?” Xin thưa trước là tôi không thông minh, học một hiểu mười, học đâu nhớ đó mà sự thực, tôi cũng học bù đầu, thức khuya dậy sớm như mọi cô, cậu học trò khác, chỉ có điều tôi chơi ra chơi, học ra học, không ngồi ngủ gục mà coi như là học bài. Gần đến ngày thi, độ ba, bốn tháng tôi mới bắt đầu “gạo”. Ngoài giờ học ở trường, tôi tự ra lịnh cho mình phải học thêm tám tiếng nữa. Tôi để sẵn một thời hóa biểu, ngày nào học môn gì. Học được năm phút, ghi vào năm phút, một giờ ghi một giờ, nếu không đủ tám tiếng (học thêm) thì hôm sau phải học bù. Buồn ngủ thì lăn ra ngủ, đồng hồ reo dậy học tiếp. Học không vô nữa thì ra đường lang thang cho tỉnh trí. Bọn học trụ điện (thời đó có phong trào học trò ngồi học dưới trụ đèn điện, mỗi cậu một trụ đèn, cho đỡ buồn ngủ), về khuya còn thấy tôi cà lơ, thất thểu ngoài đường vắng, không hiểu tôi đi đâu mà không về nhà học thi? Tôi còn biết cách học của sinh viên đại học bằng cách gạch xanh đỏ những câu quan trọng trong bài, chép riêng ra một tờ giấy nhỏ, chỉ học ôn trên tờ giấy đó. Nhờ vậy bài nào tôi cũng thuộc nhưng thuộc đại khái nên đi thi tôi cầu cho được đậu vớt là may rồi. Thời còn trung học, nghe hai tiếng “sinh viên” mê lắm. Ðậu tú tài hai, tôi vô Sài Gòn, ghi danh học luật, cầm cái thẻ sinh viên của mình, ngắm hoài không chán. Ðôi khi, khoái quá, tôi đạp xe vô đường ngược chiều để cảnh sát chận lại xét giấy, tôi đưa thẻ sinh viên ra và nói “Em ngoài trung vô học “đại học” (!), không biết đường” Anh cảnh sát cười nói ”Ði ngược chiều rồi. Quay lại kẻo xe tung”
Chuyện thời đi học, kể cả năm không hết. Mỗi lớp là một chuỗi kỷ niệm, mỗi người bạn cũng có biết bao chuyện để kể, vì từ nhỏ đến lớn tôi chỉ ở Hội An, học trường Ông Voi rồi lên trường Trần Quí Cáp, loay hoay với cũng chừng đó đứa bạn, lang thang cũng chừng đó con đường trong cái thành phố còm cỏi, già nua. Gia cảnh giàu, nghèo có khác nhưng tâm hồn, suy nghĩ, tình cảm của cô, cậu học trò nào cũng giống nhau. Ðến khi trưởng thành, xa trường, xa thành phố, lăn vào đời vì sinh kế, đôi khi bị đời đá lên, đá xuống, te tua như cái mền rách, tưởng chừng mình ngã gục, không gượng dậy nỗi. Lúc đó mà gặp được một người bạn cũ thì tay bắt mặt mừng, quí còn hơn ruột thịt, chuyện trò sôi nổi, vui vẻ như thời còn đi học. Khi chia tay bỗng nhiên lại thấy như vừa được bạn tặng cho một nguồn sinh lực mới với những niềm vui. Thế là lại thấy mình yêu đời và tự tin như ngày xưa vô tư. Lại cố mà đứng lên, lại lăn vào đời.
Nếu bạn có về Hội An thăm lại trường Trần quí Cáp thì sẽ cảm thấy mình rất xa lạ với trường. Bạn muốn vào sân trường, chưa chắc bảo vệ cho bạn vào. Nếu được vào để mơ màng về thời thanh xuân của tuổi học trò mà vô phước gặp lúc thầy, cô đang trích dẫn trong tác phẩm “Từ Tuyến Ðầu Tổ Quốc”, có bài “Mỹ Diệm Ăn Thịt Người”, để giảng cho các em học sinh biết bọn Mỹ Diệm tàn ác như thế nào, thì làm gì các em sẽ kinh hoàng mà hỏi “Bọn Mỹ Diệm mặt mũi ra sao mà hung ác đến độ ăn thịt chiến sĩ cách mạng?” Tất nhiên chúng sẽ được thầy cô chỉ cái tên đứng ngơ ngáo ngoài sân trường (là bạn), như một điển hình “Nó đứng ngoài kia kìa! Là bọn Việt kiều ở hải ngoại đang ra sức đánh phá sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa của đảng và nhân dân ta”...
Trường Trần Quí Cáp của chúng ta, giờ đây chỉ là cái xác không hồn. Kỷ niệm sáu mươi năm trường xưa chỉ như kỷ niệm ngày sinh của một người bạn đã quá cố với tấm hình trên bàn thờ.
13. NĂM MÙI NÓI CHUYỆN DÊ
Phạm Thành Châu
Dê là con vật được thuần dưỡng rất sớm, có thể trước thời kỳ đồ đá, cách nay khoảng 6, 7 nghìn năm. Trên những mảnh đất nung ở Trung Hoa, người ta thấy có hình chạm con dê. Chữ “dương” trong Hán tự ra đời cách nay 3 nghìn năm vẽ hình con dê có 2 sừng và chòm râu. Dê hay cừu đều là “dương” dù ở núi hay đồng bằng. Chữ miên dương là con dê mặc áo bông... là con cừu. Linh dương là con dê có sừng cong về phía sau. Căn cứ vào chữ “dương” là “dê” ta có thể “dịch” như sau: Dê to lớn, có quốc tịch Pháp gọi là “Ðại Tây Dương”. Dê không thích đánh nhau gọi là “Thái Bình Dương”. Dê đi nước ngoài gọi là “xuất dương”. Dê bị cạo sạch lông (no hair) gọi là “dương trần”. Dê không ngay thẳng gọi là “dương gian”. Dê có học, sống đời văn minh tiến bộ gọi là “Dương văn Minh”... Không chỉ người Việt nói dê là “dê gái” mà người Anh, Pháp cũng vậy. Chữ goat trong tiếng Anh cũng dùng để chỉ người có máu dê (a lecherous man), old goat là ông già dê. Tiếng Pháp, chữ bouc cũng chỉ mấy ông có máu dê. Cà tím giống dái con dê (đực!) nên gọi là cà dái dê. Ðánh số đề, nếu thấy con dê trong giấc mơ hay ngoài đời thì đánh số 35 thường “rất” trật lất. Con số 35 phát nguồn từ các sòng bài Kim Chung và Ðại Thế Giới ở Sài Gòn (sau nầy là “khu dân sinh”) của tướng cướp Bảy Viễn thời Pháp thuộc. Giới nhà nghèo thường vô đó đánh bạc với hi vọng đổi đời. Họ không biết chữ nên dưới mỗi con số có hình vẽ một con vật tượng trưng để tiện đặt tiền. Ví dụ số 1 mang hình con cọp, số 2 hình con trâu, số 3 hình con chuột... và số 35 mang hình con dê. Người chơi cứ theo hình đó mà mua một con số. Nhà cái xổ ra con (số) gì mà mình có thì cứ việc lượm tiền. Dê nhà thả đi rong ít lâu sau sẽ thành dê núi, dê rừng. (Các ông cũng vậy, thả ra khỏi nhà là đi hoang, thấy gái là thả dê, hết tiền mới mò về!) Giống dê được thuần hóa đầu tiên là giống Pasang, phát xuất từ trung Á. Ấn Ðộ nuôi dê sớm nhất. Vì Ấn Ðộ có hai tôn giáo chính, Ấn giáo và Hồi giáo. Ấn giáo không ăn thịt bò, Hồi giáo không ăn thịt heo. Thịt dê được cả hai tôn giáo chiếu cố. Việc nuôi dê phát triển ở Ai Cập, sang châu Âu, châu Á rồi mới đến châu Phi. Dê rất dễ nuôi, ăn bất cứ loại lá nào, ăn cả giấy báo, nhưng lại sợ ăn trên các cánh đồng có phân bón. Tại các đảo ngoài khơi miền nam California, như đảo Santa Rosa, Santa Cruz, San Clemente... là những nơi nghiên cứu các loại vũ khí bí mật, dê thường được thả chung quanh các căn cứ để chúng ăn cây cỏ cho quang đãng. Các thành phố Upland, Fontana, khi cỏ và cây dại mọc nhiều quá, người ta chở dê đến quanh các hồ nước, thả ra để dê ăn bớt. Nuôi dê để lấy thịt và lấy sữa. Nuôi để lấy lông, dệt len thì có giống Angora và Cashmere (nuôi ở Cashmere, Ấn Ðộ). Ở châu Phi, người ta vắt sữa hai lần trong ngày, nếu vắt trễ, căng sữa, dê về nhà chủ, gõ chân vào cửa nhắc nhở. Cho ăn no, dê có thể cho một lít sữa mỗi ngày. Ở Ai Cập, phụ nữ dắt dê đi bán sữa. Ai mua. Vắt sữa ngay vào bình. Trước 1975, quanh chợ Bến Thành, trên các đường phố chính như Nguyễn Huệ, Tự Do... các tiệm vải đều do các anh Bảy Chà gốc Bombay hay Calcutta làm chủ. Ngoài mấy tiệm vải họ còn hành nghề cho vay cắt cổ (chà Sét ty), và nuôi dê lấy sữa. Các anh Bảy Chà nầy thường giao sữa dê vào buổi sáng. Họ dùng xe mobylette chở từng bao bố lớn, có túi chứa các chai thủy tinh đựng sữa dê. Họ đến giao sữa từng nhà, dĩ nhiên nhà của mấy chú Bảy Chà giàu có, sang trọng, không thích uống sữa bò. Mấy con dê già, chú Bảy làm thịt, chế biến thành cà ry dê, ngon nhưng cay toát mồ hôi. Người ta nuôi dê ở các vùng đất cằn cỗi, gần núi. Dê leo núi rất giỏi. Ở châu Âu, vùng núi, người ta thả dê suốt mùa ấm, thỉnh thoảng có người đến cho ăn muối. Ðến mùa đông, lùa vào chuồng. Dê thích đánh nhau (húc sừng. Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa) có khi đến nửa giờ. Dê rất mau lớn, 6 tháng tuổi có thể cho 30 Lbs thịt ròng. Thịt dê chiếm 5,7% sản lượng thịt trên toàn thế giới. Tiểu bang Texas nuôi khoảng nửa triệu dê để lấy thịt. Luật ở đó cho phép thịt dê được ghi là thịt cừu (lamb hay mutton) ngoài bao bì. Người Việt mình thường nói “Treo đầu dê bán thịt chó” là trường hợp nầy (Nhưng hiện nay ở Việt Nam, thịt chó mắc hơn thịt heo, thịt bò. Mấy tên cẩu tặc chỉ xách xe chạy một vòng, bắt trộm mấy chú cẩu về bán cho các quán nhậu thịt chó là có trong túi cả triệu bạc VN). Thời Xuân Thu, Chiến Quôc bên Tàu, vua chúa đãi nhau bằng tiệc “Thất lao” gồm bảy món thịt, trong đó có thịt dê. Ở Việt Nam xưa, người ta cầu thần linh bằng lễ “Tam sanh” gồm thịt trâu (hay bò) heo và dê. Mấy quan chức đảng và nhà nước ta, tham nhũng các dự án, giàu nứt trứng, đem tiền của ra nước ngoài cất giấu, sắm nhà, xe, chơi gái, cá độ... đến khi đổ bể thì cho vài thằng đàn em ra lãnh đủ, và gọi chúng là “dê tế thần”. Dê có mùi hôi, nghe nói trước khi làm thịt, người ta cho dê uống rượu cho say rồi đánh dê cho nó kêu la, đến khi nào nó toát hết mồ hôi mới làm thịt. Thật tàn nhẫn. Người ta thường bảo “dê kêu!” ý nói, có kêu bao nhiêu cũng chẳng ai quan tâm, như con dê kêu la thảm thiết trước khi bị làm thịt. Có người bảo, làm thịt dê xong, ngâm thịt trong nước mía thì bớt hôi. Người Âu Mỹ thường đốt cái hạch chứa mùi hôi chỗ sừng dê, ít lâu sau mới làm thịt thì không bị hôi nữa.
“Nghiên cứu” con dê theo sách vở, đọc chán lắm! Nên tôi linh tinh chuyện “dê gái”, đọc vui hơn. Dê đực, khi “bức xúc” thường cúi đầu về phía sau và đái lên đầu. Nước đái dê hôi kinh khủng cộng với mùi của hai cái hạch nằm sau cặp sừng khiến mùi hôi càng nồng nàn (giống mấy ông xức nước hoa) Thế là các nàng dê, từ nơi xa, ngửi thấy mùi đó, thèm đến phát điên, chạy tìm cho ra chàng để nạp mạng. Tôi xem TV. băng tần “Ðời sống hoang dã” thấy mấy chị sư tử, báo (beo), hổ (cọp) hễ đọâng cỡn thì cứ việc đến nằm trước chàng (con đực) và chờ. Nếu con đực không thích chuyện đó, bỏ đi thì chị ta đi theo, lại nằm trước mũi và chờ. (Gái không chồng chạy ngược chạy xuôi!) Ðể “khỏi phụ lòng em” con đực miễn cưỡng trả bài! (Giống mấy ông làm home work) Nhưng vừa xong việc là nàng quay lại táp chàng một phát khiến chàng nhảy đựng lên, bỏ chạy.
Mấy ông “dân chơi cầu Bến Nọc” ra đường, thấy con dê đực thì vòng tay cúi đầu, kêu lên “Xi phu!” (sư phụ!)”. Các bợm nhậu thường thích ăn món, ngầu bín (cu con dê), “ngọc dương” (dái dê) để lên gân, khỏi bị mụ vợ già và các “bò nhí” (bồ trẻ) chê “Làm như gà!” (chưa nóng bụng đã tụt xuống!). Trong lúc chờ món thịt dê đem lên, các ông kháo nhau “Con dê đực đầu đàn là sư tổ chuyện đó. Mỗi buổi sáng, mở chuồng dê ra, làm gì con dê đực đầu đàn cũng ra trước, đứng ở cửa chuồng. Chị dê cái nào đi ngang qua cũng phải đứng lại cho “chàng” xơi một phát. Trong chuồng có trăm chị cái thì chàng xơi đủ trăm chị” Làm liên tục như vậy chỉ trong một buổi sáng! Thật đáng tôn vinh làm tổ sư Bồ Ðề. Nếu ai hỏi “Ông có thấy chuyện đó chưa?” thì làm gì ông ta cũng vỗ ngực “Chính mắt tôi thấy rõ ràng”. Nhiều ông tự xưng là “học giả” cũng khẳng định như thế. Sự thực như thế nào? Xin nghe ông “Tô Vũ đời nay” kể. Năm 1975, ông Nguyễn Mạnh, đảng viên Quốc Dân đảng, quận bộ Phú Vang, tỉnh Thừa thiên, bị Việt Cộng bắt đi tù cải tạo tại trại tù Bình Ðiền, Thừa Thiên. Ông ta được giao quản lý 84 con dê gồm 6 con dê đực, 40 con dê cái và 38 con dê con. Ông ta kể rằng. Buổi sáng, mở cổng chuồng, con dê đực đầu đàn ra đứng trước cửa chuồng đón chào bầy dê đi ra, miệng kêu “Bê hê!’ (dịch sang tiếng Anh là “Good morning!”). Bầy dê đi ra, con dê đầu đàn chỉ chận những con cái lại và “ngửi” dưới đuôi con dê cái (xin nhắc lại. Chỉ ngửi thôi) rồi cho đi. Chỉ con dê cái cuối cùng mới được chàng “lâm hạnh” trong 8 phút. Xong xuôi chàng lại kêu “Hê hê!”, (dịch sang tiếng Anh là “Good bye!”). Tưởng gì!? Tôi. “Ðại văn hào” chuyên viết chuyện “tầm bậy tầm bạ”, cũng dư sức làm chuyện đó (nhưng không phải với những con dê cái). Chuyện Tô Vũ chăn dê thì ai cũng biết nên xin tóm tắt như sau. Ðời Hán Vũ Ðế bên Tàu có rợ Hồ phương bắc thường xâm nhập trung nguyên (nội địa) đánh phá, cướp bóc, vua Hán bèn cho nàng Chiêu Quân làm cống vật cho vua Hồ làm thiếp. Tháp tùng có “đại sứ đặc mệnh toàn quyền” Tô Vũ. Không hiểu ông ta phát ngôn bừa bãi sao đó mà bị Hồ vương cho đi cải tạo ở ngoài quan ngoại (sa mạc Gô Bi) với đàn dê hàng mấy trăm con. Một lần, vào mùa đông, Tô Vũ trốn trại. Ði lang thang mãi mà không biết mình đang ở đâu, lại đói lạnh nên ngất xỉu. Tỉnh dậy, thấy một con khỉ cái đang đốt lửa sưởûi cho mình còn nấu cháo cho ăn. Tô Vũ “bèn kết duyên cùng nàng”, sinh được hai con. Sau hơn ba “lịnh” (mỗi lịnh ba năm tù), Tô Vũ học tập tốt, lao động tốt, yên tâm cải tạo, trở thành công dân chân chính... nên được tha về trung nguyên (nội địa nước Tàu). Chuyện chỉ có thế mà sử sách Tàu truyền tụng đến bây giờ. Ở Việt Nam ta, trước 1975, tờ báo Sài Gòn Mới có phóng sự “người lấy khỉ” ở trong rừng Cà Mau. Báo bán chạy như tôm tươi, bà chủ báo (BT) hốt bạc. Bị các báo khác (bán ế) ganh ghét xúm nhau đả kích, rêu rao rằngï “Bà chủ báo lấy khỉ” chứ người làm sao lấy khỉ, sinh con, ai mà tin được? Chuyện Tô Vũ thì tin?! Hóa ra, người Tàu là sư tổ phịa chuyện, mà chuyện nào cũng khiến người ta say mê, tin là thật!
Viết nhiều tốn giấy, chủ báo lầu bầu, nên tôi xin kết thúc bằng những chuyện vui vừa xảy ra cách nay khoảng... chục năm. Xin tóm tắt như sau.
Dê Khiêu Dâm. Dưới chân dãy Hi Mã Lạp Sơn, có mấy bà vác đơn kiện mấy con dê trong làng về tội khiêu dâm. Nguyên nhân là mấy cô gái vị thành niên đi chăn dê, thấy mấy con dê làm chuyện người lớn, thèm quá bèn cho mấy thằng cà chớn “muốn làm gì thì ... cứ thoải mái”. Kết quả các cô sình bụng (có chửa). Các bà yêu cầu không được nuôi dê, nếu nuôi phải thiến các con dê đực. Nhưng nuôi dê là nguồn sống của dân làng. Họ cần sữa dê, thịt dê. Quan tòa không biết giải quyết ra sao đành khuyên các gia đình nuôi dê đừng cho mấy đứa con gái đi chăn dê nữa.
Ghen Vợ Giết Dê.
Ở Bangladesh, một bà già vác đơn kiện ông chồng già, đòi ly dị và bồi thường vì đã giết “thân nhân” của bà ta là một con dê đực. Bà ta rất yêu quí con dê đó, suốt ngày tắm rửa cho nó, ăn chung với nó, tối ngủ chung phòng với vợ chồng bà. Ông chồng bực mình, giết con dê của vợ. Sau khi làm một đám tang long trọng và đẫm nước mắt, bà ta đưa ông chồng ra tòa. Ông chồng thưa với tòa rằng, bà vợ chỉ chăm sóc cho con dê mà không thèm để mắt tới chồng dù chồng bịnh hoạn, ốm yếu. Bà ta còn âu yếm gọi con dê là “Chàng trai yêu quí của em”. Tòa bèn bác đơn của bà ta, chỉ phạt ông chồng một ngày quét dọn nhà thờ và phải rửa tội.
Giết Dê Ðể Hưởng Quyền Thừa Kế. Một ông giàu có viết di chúc, để toàn bộ tài sản cho một con dê vì con trai của ông ta lười nhác và nghiện rượu. Sau khi cha chết, người con giết con dê để lấy tài sản. Nhà chức trách đưa anh ta ra tòa vì tội giết dê. Tòa bỏ tù anh ta nhưng không nghe nói gì về tài sản của bố anh ta?
Treo Ðầu Dê Bán Ma Túy. Một ông cảnh sát Mỹ, nhà gần biên giới với Mêxicô, đưa vợ đi ăn thịt dê ở một tiệm ăn của người Mỹ gốc Mêxicô. Ông ta biết tiếng Tây Ban Nha nên nghe lóm chuyện của hai anh bồi bàn nói tiếng Mễ. Hai cậu nói rằng. Chủ tiệm ăn bắt những người làm thịt dê phải để cái bao tử lại cho chủ. Thông thường, lục phủ ngũ tạng của dê đều vất bỏ. Ông ta sinh nghi. Thế là cảnh sát theo dõi. Hóa ra những con dê chở từ Mêxicô qua Mỹ đều bị mổ bụng, độn ma túy vào bao tử trước khi đưa qua biên giới. Chủ tiệm ăn là tay buôn lậu ma túy. Hết!
Phạm Thành Châu
Dê là con vật được thuần dưỡng rất sớm, có thể trước thời kỳ đồ đá, cách nay khoảng 6, 7 nghìn năm. Trên những mảnh đất nung ở Trung Hoa, người ta thấy có hình chạm con dê. Chữ “dương” trong Hán tự ra đời cách nay 3 nghìn năm vẽ hình con dê có 2 sừng và chòm râu. Dê hay cừu đều là “dương” dù ở núi hay đồng bằng. Chữ miên dương là con dê mặc áo bông... là con cừu. Linh dương là con dê có sừng cong về phía sau. Căn cứ vào chữ “dương” là “dê” ta có thể “dịch” như sau: Dê to lớn, có quốc tịch Pháp gọi là “Ðại Tây Dương”. Dê không thích đánh nhau gọi là “Thái Bình Dương”. Dê đi nước ngoài gọi là “xuất dương”. Dê bị cạo sạch lông (no hair) gọi là “dương trần”. Dê không ngay thẳng gọi là “dương gian”. Dê có học, sống đời văn minh tiến bộ gọi là “Dương văn Minh”... Không chỉ người Việt nói dê là “dê gái” mà người Anh, Pháp cũng vậy. Chữ goat trong tiếng Anh cũng dùng để chỉ người có máu dê (a lecherous man), old goat là ông già dê. Tiếng Pháp, chữ bouc cũng chỉ mấy ông có máu dê. Cà tím giống dái con dê (đực!) nên gọi là cà dái dê. Ðánh số đề, nếu thấy con dê trong giấc mơ hay ngoài đời thì đánh số 35 thường “rất” trật lất. Con số 35 phát nguồn từ các sòng bài Kim Chung và Ðại Thế Giới ở Sài Gòn (sau nầy là “khu dân sinh”) của tướng cướp Bảy Viễn thời Pháp thuộc. Giới nhà nghèo thường vô đó đánh bạc với hi vọng đổi đời. Họ không biết chữ nên dưới mỗi con số có hình vẽ một con vật tượng trưng để tiện đặt tiền. Ví dụ số 1 mang hình con cọp, số 2 hình con trâu, số 3 hình con chuột... và số 35 mang hình con dê. Người chơi cứ theo hình đó mà mua một con số. Nhà cái xổ ra con (số) gì mà mình có thì cứ việc lượm tiền. Dê nhà thả đi rong ít lâu sau sẽ thành dê núi, dê rừng. (Các ông cũng vậy, thả ra khỏi nhà là đi hoang, thấy gái là thả dê, hết tiền mới mò về!) Giống dê được thuần hóa đầu tiên là giống Pasang, phát xuất từ trung Á. Ấn Ðộ nuôi dê sớm nhất. Vì Ấn Ðộ có hai tôn giáo chính, Ấn giáo và Hồi giáo. Ấn giáo không ăn thịt bò, Hồi giáo không ăn thịt heo. Thịt dê được cả hai tôn giáo chiếu cố. Việc nuôi dê phát triển ở Ai Cập, sang châu Âu, châu Á rồi mới đến châu Phi. Dê rất dễ nuôi, ăn bất cứ loại lá nào, ăn cả giấy báo, nhưng lại sợ ăn trên các cánh đồng có phân bón. Tại các đảo ngoài khơi miền nam California, như đảo Santa Rosa, Santa Cruz, San Clemente... là những nơi nghiên cứu các loại vũ khí bí mật, dê thường được thả chung quanh các căn cứ để chúng ăn cây cỏ cho quang đãng. Các thành phố Upland, Fontana, khi cỏ và cây dại mọc nhiều quá, người ta chở dê đến quanh các hồ nước, thả ra để dê ăn bớt. Nuôi dê để lấy thịt và lấy sữa. Nuôi để lấy lông, dệt len thì có giống Angora và Cashmere (nuôi ở Cashmere, Ấn Ðộ). Ở châu Phi, người ta vắt sữa hai lần trong ngày, nếu vắt trễ, căng sữa, dê về nhà chủ, gõ chân vào cửa nhắc nhở. Cho ăn no, dê có thể cho một lít sữa mỗi ngày. Ở Ai Cập, phụ nữ dắt dê đi bán sữa. Ai mua. Vắt sữa ngay vào bình. Trước 1975, quanh chợ Bến Thành, trên các đường phố chính như Nguyễn Huệ, Tự Do... các tiệm vải đều do các anh Bảy Chà gốc Bombay hay Calcutta làm chủ. Ngoài mấy tiệm vải họ còn hành nghề cho vay cắt cổ (chà Sét ty), và nuôi dê lấy sữa. Các anh Bảy Chà nầy thường giao sữa dê vào buổi sáng. Họ dùng xe mobylette chở từng bao bố lớn, có túi chứa các chai thủy tinh đựng sữa dê. Họ đến giao sữa từng nhà, dĩ nhiên nhà của mấy chú Bảy Chà giàu có, sang trọng, không thích uống sữa bò. Mấy con dê già, chú Bảy làm thịt, chế biến thành cà ry dê, ngon nhưng cay toát mồ hôi. Người ta nuôi dê ở các vùng đất cằn cỗi, gần núi. Dê leo núi rất giỏi. Ở châu Âu, vùng núi, người ta thả dê suốt mùa ấm, thỉnh thoảng có người đến cho ăn muối. Ðến mùa đông, lùa vào chuồng. Dê thích đánh nhau (húc sừng. Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa) có khi đến nửa giờ. Dê rất mau lớn, 6 tháng tuổi có thể cho 30 Lbs thịt ròng. Thịt dê chiếm 5,7% sản lượng thịt trên toàn thế giới. Tiểu bang Texas nuôi khoảng nửa triệu dê để lấy thịt. Luật ở đó cho phép thịt dê được ghi là thịt cừu (lamb hay mutton) ngoài bao bì. Người Việt mình thường nói “Treo đầu dê bán thịt chó” là trường hợp nầy (Nhưng hiện nay ở Việt Nam, thịt chó mắc hơn thịt heo, thịt bò. Mấy tên cẩu tặc chỉ xách xe chạy một vòng, bắt trộm mấy chú cẩu về bán cho các quán nhậu thịt chó là có trong túi cả triệu bạc VN). Thời Xuân Thu, Chiến Quôc bên Tàu, vua chúa đãi nhau bằng tiệc “Thất lao” gồm bảy món thịt, trong đó có thịt dê. Ở Việt Nam xưa, người ta cầu thần linh bằng lễ “Tam sanh” gồm thịt trâu (hay bò) heo và dê. Mấy quan chức đảng và nhà nước ta, tham nhũng các dự án, giàu nứt trứng, đem tiền của ra nước ngoài cất giấu, sắm nhà, xe, chơi gái, cá độ... đến khi đổ bể thì cho vài thằng đàn em ra lãnh đủ, và gọi chúng là “dê tế thần”. Dê có mùi hôi, nghe nói trước khi làm thịt, người ta cho dê uống rượu cho say rồi đánh dê cho nó kêu la, đến khi nào nó toát hết mồ hôi mới làm thịt. Thật tàn nhẫn. Người ta thường bảo “dê kêu!” ý nói, có kêu bao nhiêu cũng chẳng ai quan tâm, như con dê kêu la thảm thiết trước khi bị làm thịt. Có người bảo, làm thịt dê xong, ngâm thịt trong nước mía thì bớt hôi. Người Âu Mỹ thường đốt cái hạch chứa mùi hôi chỗ sừng dê, ít lâu sau mới làm thịt thì không bị hôi nữa.
“Nghiên cứu” con dê theo sách vở, đọc chán lắm! Nên tôi linh tinh chuyện “dê gái”, đọc vui hơn. Dê đực, khi “bức xúc” thường cúi đầu về phía sau và đái lên đầu. Nước đái dê hôi kinh khủng cộng với mùi của hai cái hạch nằm sau cặp sừng khiến mùi hôi càng nồng nàn (giống mấy ông xức nước hoa) Thế là các nàng dê, từ nơi xa, ngửi thấy mùi đó, thèm đến phát điên, chạy tìm cho ra chàng để nạp mạng. Tôi xem TV. băng tần “Ðời sống hoang dã” thấy mấy chị sư tử, báo (beo), hổ (cọp) hễ đọâng cỡn thì cứ việc đến nằm trước chàng (con đực) và chờ. Nếu con đực không thích chuyện đó, bỏ đi thì chị ta đi theo, lại nằm trước mũi và chờ. (Gái không chồng chạy ngược chạy xuôi!) Ðể “khỏi phụ lòng em” con đực miễn cưỡng trả bài! (Giống mấy ông làm home work) Nhưng vừa xong việc là nàng quay lại táp chàng một phát khiến chàng nhảy đựng lên, bỏ chạy.
Mấy ông “dân chơi cầu Bến Nọc” ra đường, thấy con dê đực thì vòng tay cúi đầu, kêu lên “Xi phu!” (sư phụ!)”. Các bợm nhậu thường thích ăn món, ngầu bín (cu con dê), “ngọc dương” (dái dê) để lên gân, khỏi bị mụ vợ già và các “bò nhí” (bồ trẻ) chê “Làm như gà!” (chưa nóng bụng đã tụt xuống!). Trong lúc chờ món thịt dê đem lên, các ông kháo nhau “Con dê đực đầu đàn là sư tổ chuyện đó. Mỗi buổi sáng, mở chuồng dê ra, làm gì con dê đực đầu đàn cũng ra trước, đứng ở cửa chuồng. Chị dê cái nào đi ngang qua cũng phải đứng lại cho “chàng” xơi một phát. Trong chuồng có trăm chị cái thì chàng xơi đủ trăm chị” Làm liên tục như vậy chỉ trong một buổi sáng! Thật đáng tôn vinh làm tổ sư Bồ Ðề. Nếu ai hỏi “Ông có thấy chuyện đó chưa?” thì làm gì ông ta cũng vỗ ngực “Chính mắt tôi thấy rõ ràng”. Nhiều ông tự xưng là “học giả” cũng khẳng định như thế. Sự thực như thế nào? Xin nghe ông “Tô Vũ đời nay” kể. Năm 1975, ông Nguyễn Mạnh, đảng viên Quốc Dân đảng, quận bộ Phú Vang, tỉnh Thừa thiên, bị Việt Cộng bắt đi tù cải tạo tại trại tù Bình Ðiền, Thừa Thiên. Ông ta được giao quản lý 84 con dê gồm 6 con dê đực, 40 con dê cái và 38 con dê con. Ông ta kể rằng. Buổi sáng, mở cổng chuồng, con dê đực đầu đàn ra đứng trước cửa chuồng đón chào bầy dê đi ra, miệng kêu “Bê hê!’ (dịch sang tiếng Anh là “Good morning!”). Bầy dê đi ra, con dê đầu đàn chỉ chận những con cái lại và “ngửi” dưới đuôi con dê cái (xin nhắc lại. Chỉ ngửi thôi) rồi cho đi. Chỉ con dê cái cuối cùng mới được chàng “lâm hạnh” trong 8 phút. Xong xuôi chàng lại kêu “Hê hê!”, (dịch sang tiếng Anh là “Good bye!”). Tưởng gì!? Tôi. “Ðại văn hào” chuyên viết chuyện “tầm bậy tầm bạ”, cũng dư sức làm chuyện đó (nhưng không phải với những con dê cái). Chuyện Tô Vũ chăn dê thì ai cũng biết nên xin tóm tắt như sau. Ðời Hán Vũ Ðế bên Tàu có rợ Hồ phương bắc thường xâm nhập trung nguyên (nội địa) đánh phá, cướp bóc, vua Hán bèn cho nàng Chiêu Quân làm cống vật cho vua Hồ làm thiếp. Tháp tùng có “đại sứ đặc mệnh toàn quyền” Tô Vũ. Không hiểu ông ta phát ngôn bừa bãi sao đó mà bị Hồ vương cho đi cải tạo ở ngoài quan ngoại (sa mạc Gô Bi) với đàn dê hàng mấy trăm con. Một lần, vào mùa đông, Tô Vũ trốn trại. Ði lang thang mãi mà không biết mình đang ở đâu, lại đói lạnh nên ngất xỉu. Tỉnh dậy, thấy một con khỉ cái đang đốt lửa sưởûi cho mình còn nấu cháo cho ăn. Tô Vũ “bèn kết duyên cùng nàng”, sinh được hai con. Sau hơn ba “lịnh” (mỗi lịnh ba năm tù), Tô Vũ học tập tốt, lao động tốt, yên tâm cải tạo, trở thành công dân chân chính... nên được tha về trung nguyên (nội địa nước Tàu). Chuyện chỉ có thế mà sử sách Tàu truyền tụng đến bây giờ. Ở Việt Nam ta, trước 1975, tờ báo Sài Gòn Mới có phóng sự “người lấy khỉ” ở trong rừng Cà Mau. Báo bán chạy như tôm tươi, bà chủ báo (BT) hốt bạc. Bị các báo khác (bán ế) ganh ghét xúm nhau đả kích, rêu rao rằngï “Bà chủ báo lấy khỉ” chứ người làm sao lấy khỉ, sinh con, ai mà tin được? Chuyện Tô Vũ thì tin?! Hóa ra, người Tàu là sư tổ phịa chuyện, mà chuyện nào cũng khiến người ta say mê, tin là thật!
Viết nhiều tốn giấy, chủ báo lầu bầu, nên tôi xin kết thúc bằng những chuyện vui vừa xảy ra cách nay khoảng... chục năm. Xin tóm tắt như sau.
Dê Khiêu Dâm. Dưới chân dãy Hi Mã Lạp Sơn, có mấy bà vác đơn kiện mấy con dê trong làng về tội khiêu dâm. Nguyên nhân là mấy cô gái vị thành niên đi chăn dê, thấy mấy con dê làm chuyện người lớn, thèm quá bèn cho mấy thằng cà chớn “muốn làm gì thì ... cứ thoải mái”. Kết quả các cô sình bụng (có chửa). Các bà yêu cầu không được nuôi dê, nếu nuôi phải thiến các con dê đực. Nhưng nuôi dê là nguồn sống của dân làng. Họ cần sữa dê, thịt dê. Quan tòa không biết giải quyết ra sao đành khuyên các gia đình nuôi dê đừng cho mấy đứa con gái đi chăn dê nữa.
Ghen Vợ Giết Dê.
Ở Bangladesh, một bà già vác đơn kiện ông chồng già, đòi ly dị và bồi thường vì đã giết “thân nhân” của bà ta là một con dê đực. Bà ta rất yêu quí con dê đó, suốt ngày tắm rửa cho nó, ăn chung với nó, tối ngủ chung phòng với vợ chồng bà. Ông chồng bực mình, giết con dê của vợ. Sau khi làm một đám tang long trọng và đẫm nước mắt, bà ta đưa ông chồng ra tòa. Ông chồng thưa với tòa rằng, bà vợ chỉ chăm sóc cho con dê mà không thèm để mắt tới chồng dù chồng bịnh hoạn, ốm yếu. Bà ta còn âu yếm gọi con dê là “Chàng trai yêu quí của em”. Tòa bèn bác đơn của bà ta, chỉ phạt ông chồng một ngày quét dọn nhà thờ và phải rửa tội.
Giết Dê Ðể Hưởng Quyền Thừa Kế. Một ông giàu có viết di chúc, để toàn bộ tài sản cho một con dê vì con trai của ông ta lười nhác và nghiện rượu. Sau khi cha chết, người con giết con dê để lấy tài sản. Nhà chức trách đưa anh ta ra tòa vì tội giết dê. Tòa bỏ tù anh ta nhưng không nghe nói gì về tài sản của bố anh ta?
Treo Ðầu Dê Bán Ma Túy. Một ông cảnh sát Mỹ, nhà gần biên giới với Mêxicô, đưa vợ đi ăn thịt dê ở một tiệm ăn của người Mỹ gốc Mêxicô. Ông ta biết tiếng Tây Ban Nha nên nghe lóm chuyện của hai anh bồi bàn nói tiếng Mễ. Hai cậu nói rằng. Chủ tiệm ăn bắt những người làm thịt dê phải để cái bao tử lại cho chủ. Thông thường, lục phủ ngũ tạng của dê đều vất bỏ. Ông ta sinh nghi. Thế là cảnh sát theo dõi. Hóa ra những con dê chở từ Mêxicô qua Mỹ đều bị mổ bụng, độn ma túy vào bao tử trước khi đưa qua biên giới. Chủ tiệm ăn là tay buôn lậu ma túy. Hết!
12. Vô Tình
Phạm Thành Châu
“Con tim trốn vào nụ cười để khóc”
(thơ Nguyễn Dương Quang)
Cái khó của phái nữ là làm sao cho người mình để ý hiểu được tình cảm của mình dành cho anh ta. Thứ tình cảm bất chợt của người nữ đối với người nam mà mình chưa hề quen biết. Làm cách nào để khỏi vuột mất nguời đó? Xin theo dõi “người nữ” tỏ tình như thế nào trong câu chuyện sau đây. Có thể đã từng xảy ra cho nhiều cô.
Ông Tâm, tuổi trên năm mươi, vóc dáng, gương mặt không có gì đáng để phái nữ chú ý. Ông Tâm nghỉ phép thường niên (vacation), từ miền đông Hoa Kỳ qua Texas, thăm các bạn. Ông có nhiều bạn ở các tiểu bang Texas, California. Thành phố nào cũng có bạn. Ông đến bạn nầy vài hôm, qua bạn khác vài hôm. Ở Mỹ, nhà nào cũng có nhiều phòng cho con cái. Khi chúng lớn, như những con chim rời tổ, chúng có gia đình, ởù nhà riêng. Thành thử, nhà bố mẹ có những phòng trống, dành cho bà con, bạn bè đến thăm, ở lại. Nếu vào cuối tuần, ngày lễ thì chuyện trò, đưa nhau đi thăm cảnh vật trong vùng, đi tiệm ăn, ngày làm việc, gia chủ phải đi làm, khách tự lo lấy. Ông Tâm cũng biết vậy nhưng không bận tâm, ông thích một mình đi lang thang đây đó ngắm cảnh hoặc ra siêu thị nhìn thiên hạ. Ở Texas và California, nhiều người Việt nên ông cảm tưởng như đang ở quê nhà thời trước. Một buổi trưa, đi mỏi chân, ông vào tiệm McDonald, sắp hàng mua bánh. Vào giờ đông khách, ông Tâm đứng cuối một dãy dài. Đang nhìn vơ vẩn, ông thấy một cô, (ông đoán là người Việt) bước vào, đứng sau lưng ông. Ông bước lùi lại, nhường chỗ “Mời cô!” Cô bước tới, nói nhỏ “Cám ơn chú!” rồi ngước nhìn ông Tâm, nhoẻn miệng cười. Cô đứng gần đến độ hai gương mặt như muốn chạm nhau. Bỗng cô quay lại, nhìn sửng ông, ánh mắt sáng lên, như vui mừng được gặp lại bạn thân. Tự nhiên, ông Tâm vui lây với cô. Niềm vui và hạnh phúc đơn giản mà ông chưa hề cảm nhận được lần nào trên đời. Ông thấy hình như cô đang thở mạnh. Ông nói “Cô cho tôi được mời cô, nghe!” Cô không quay lại “Cám ơn chú!” Tuổi cô khoảng bốn mươi nhưng cô gọi ông bằng chú, có lẽ để khỏi ngại ngùng.
Hai người ngồi ăn cùng bàn. Chuyện trò cũng chỉ mưa nắng, những nhận xét về cộng đồng người Việt, về thời sự. Cả hai, đôi khi có nói về mình như một cách tự giới thiệu. Ông Tâm cho biết. Ông làm việc ở một thành phố miền đông Hoa Kỳ. Nghỉ vacation hai tuần. Ông cũng được biết cô tên Trang, có một tiệm buôn nhỏ ở thành phố Austin, về Houston mua hàng “Từ Austin, cháu về đây hết mấy tiếng lái xe. Cháu lái xe chậm lắm. Chú có biết Austin không?” “Tôi chưa đến, có thể tôi sẽ đến đó cho biết” “Khi nào chú đến Austin, nhớ gọi cho cháu. Cháu sẽ đến thăm chú” “Tôi sẽ gọi cô. Tôi có vài người bạn ở đó” Cô ngạc nhiên “Sao ở đâu chú cũng có bạn cả?” Ông Tâm cười “Bạn văn, thơ, báo chí với nhau. Có người chưa hề gặp mặt mà thân nhau lắm. Gặp nhau trên email, trên điện thoại thôi. Nhưng cuối tuần nầy tôi qua San Antonio rồi” “Nếu thấy tiện, khi đến San Antonio, chú gọi cháu. Cháu cũng định ít hôm nữa về đó mua một ít hàng hóa” “Tôi sẽ gọi cô trước khi đi San Antonio. Sao hôm nay cô không đi San Antonio mua hàng cho gần?” “Cháu có bạn ở đây. Về thăm bạn. Ở Austin ít người Việt, cháu chỉ có người quen chứ không có bạn ở đó” Ăn xong, ông Tâm đem giấy đi bỏ vào thùng rác. Lúc quay lại, thấy cô Trang ngồi nhìn vào khoảng không, vẻ bồn chồn. Đột nhiên cô gọi “Chú!” rồi cúi xuống, không nhìn ông Tâm. Ông Tâm nói “Vì nói chuyện với tôi mà cô trễ hẹn với bạn, phải không? Tôi xin lỗi” Cô ngước lên, lắc đầu “Không có đâu! Giờ cháu phải lái xe về Austin. Cháu ngại quá. Đường xa quá!” “Sao phải vội? Ở lại với bạn vài hôm cho vui” “Cháu cũng định như vậy. Nhưng bạn cháu ngày mai phải đi làm. Cháu chỉ một mình ở đây” “Cứ ở lại với bạn. Sáng mai mát trời, chạy xe thong thả, thoải mái hơn. Sáng mai tôi mời cô với bạn cô đi ăn điểm tâm trước khi bạn cô đi làm. Được không?” Cô cười vui vẻ “Cho cháu mời chú. Chú định đến tiệm ăn nào?” “Tôi chẳng biết tiệm nào ăn được. Tùy cô” “Sáng mai, nếu bạn cháu phải đi làm sớm thì cháu đến đón. Chú cho cháu số điện thoại...” “Tôi cũng cần số điện thoại của cô để sau nầy còn có thể gọi hỏi thăm nhau. Đến nơi lạ mà có người quen cũng đỡ lẻ loi” “Chú có cần cháu đưa chú về nhà bạn chú không?” “Nhà ở gần đây. Qua khỏi ngã tư thì đến. Với lại, cô cần đi gấp, không dám làm phiền cô” “Chú bảo cháu ở lại, sáng mai hãy đi nên cháu không vội” “Vậy thì mình ngồi nói chuyện một lúc nữa” Cô lại cười “Cháu cũng định nói như thế” Chuyện trò cũng chỉ quanh quẩn, linh tinh, không đầu không đuôi nhưng cả hai đã qua khỏi giây phút e ngại, trở nên thân mật. Ông nhận thấy cô Trang thông minh, dịu dàng và rất dễ mến. Lúc nào cô cũng đồng ý với ông, khuyến khích ông nói tiếp “Rồi sao nữa chú?” Ông Tâm kể về bạn bè, về thời còn đi học, về công việc làm của mình. Ông thường thêm thắc vào những chuyện vui khiến cô Trang thích lắm, ngồi cười mãi “Chú kể tiếp đi!” Hai người chuyện trò đến gần hai giờ chiều mới đứng lên. Cô Trang đưa ông Tâm về. Cô không vào nhà. Sáng hôm sau, ông Tâm báo với bạn “Bữa nay tôi có bạn đến đón đi ăn điểm tâm” Người bạn cười đoán chừng “Bạn gái phải không? Tay nầy giỏi thiệt. Tôi ở đây bao nhiêu năm mà vẫn cô đơn. Thấy ông dậy sớm, định rủ ông đi điểm tâm. Nay có người khác mời thì thôi. Làm li cà phê nầy cho sáng suốt tâm trí mà tán tỉnh người đẹp” Vừa lúc có chiếc xe dừng lại trước đường, ông Tâm vội vã đi ra. Ông thấy cô Trang hơi lạ và đẹp hơn hôm qua. Một chút phấn hồng, đôi mắt viền đen, chiếc áo điểm hoa trang nhã nhưng sang trọng. Cô nhìn phía trước như chăm chú lái xe vì biết ông đang ngắm cô. Ông Tâm nói “Đến nơi lạ, tôi khó ngủ, bây giờ hơi mệt” “Cháu cũng vậy. Lạ chỗ. Cháu thức trắng đêm” Ông Tâm cười nói “Đồng bệnh tương lân” “Nghĩa là sao, chú?” “Cùng có bêïnh giống nhau nên dễ thân nhau” “Nhưng cháu chỉ không ngủ được đêm hôm qua thôi mà” “Thì tôi cũng vậy” Cô quay nhìn ông Tâm cười “Chú ghê thật!” Ông trả lời “Có được người bạn thông minh, thích lắm” “Cháu ngu lắm. Người thông minh bao giờ cũng biết giữ bí mật những ý nghĩ của mình” “Vậy là tôi cũng chẳng thông minh gì” Đến tiệm ăn, hai người lại chuyện trò quên cả thời gian. Họ đã trở nên đôi bạn thân nhưng luôn giữ ý để khỏi bị hiểu lầm.
Mấy hôm sau, ông Tâm qua San Antonio. Hai người lại gặp nhau. Cô Trang có vẻ mừng rỡ. Cô nói cười tíu tít. Lúc ngồi trong tiệm ăn, cô nói “Bữa trước, cháu bị sét đánh gần chết” Ông Tâm ngạc nhiên “Cả tuần nay, trời nắng, đâu có mưa gió gì mà có sét đánh?” “Cháu không biết. Bạn cháu nói cháu bị sét đánh” “Cô làm gì đến nỗi ông trời chỉ sét đánh một mình cô? Sự việc xảy ra như thế nào? Cô có thể kể cho tôi nghe, được không?” Cô cúi xuống, không nhìn ông Tâm, giọng ngập ngừng “Buổi sáng mà cháu từ biệt chú về Austin, cháu bị mất ngủ. Cháu gọi người bạn ở Houston tâm sự linh tinh. Bạn cháu nghe giọng mệt mỏi, tưởng cháu bịnh, hỏi người thấy ra sao? Nếu cần phải đi bác sĩ ngay. Cháu bảo không sao cả, chỉ mất ngủ thôi. Bạn cháu hỏi có chuyện gì xảy ra không? Cháu kể chuyện cháu về Houston mua hàng, gặp chú, chuyện trò mấy lần. Không hiểu sao về ngủ không được! Bạn cháu nghe xong, nói với cháu rằng “Bà bị sét đánh rồi!” Cháu không hiểu, tại sao mình bị sét đánh?” Ông Tâm chỉ đoán lờ mờ nhưng cảm động “Bạn cô hiểu lầm tâm trạng của cô nên nói vậy. Đúng ra phải nói là bị “tiếng sét ái tình” Có thể cô bất ngờ gặp anh chàng nào, bị xúc động nên không ngủ được” Cô ngẩn lên nhìn ông Tâm “Tiếng sét ái tình là sao chú? Từ bữa đó đến nay, cháu có gặp ai đâu? Cũng chẳng bị ai đánh cả!” “Người ta bảo “Mới thấy đối tượng lần đầu đã yêu ngay là bị tiếng sét ái tình”. Chính người bị “sét đánh” cũng không hiểu vì sao? Tôi đọc sách, báo cũng nhiều, nhưng chỉ hiểu mơ hồ theo suy nghĩ của riêng tôi thôi” “Chú giải thích cho cháu nghe xem có phải cháu bị sét đánh không?” “Có thể như thế nầy. “Tiếng sét ái tình” do chính mình tự đánh mình chứ chẳng phải ông trời hay “đối tượng” nào đánh cả. Nguyên nhân thì, có thể là. Thứ nhất là người kia có gương mặt giống mình. Ngày nào mình cũng soi gương, thấy mãi mặt mình, nay bất ngờ thấy đối tượng có gương mặt (giống mình mà không biết) thấy “quen quen, thân thiết, đâu như từ kiếp trước”. Vậy là yêu. Hai người yêu nhau lâu bền, đa số có khuôn mặt giống nhau. Một giải thích khác, đó là sự cộng hưởng của tần số giao động sinh lý. Cặp mắt là cửa sổ của tâm hồn, hướng ra ngoài để chờ đón một tín hiệu nào đó. Với ánh mắt, người ta có thể thôi miên, sai khiến người khác. Có người bảo. Cơ thể con người có các chất hữu cơ và vô cơ đủ làm một cục pin (điện năng), nghĩa là mỗi sinh vật, kể cả con vi trùng, đều có một năng lượng riêng để tự điều hành đời sống của nó với một tần số giao động sinh lý riêng, gọi là bản năng. Khi hai người có cùng tần số giao động giống nhau thì cộng hưởng và được khuyếch đại để tác động mạnh lên tâm sinh lý của cả hai. Giống như ta mở máy thu thanh (radio) hay thu hình (TV) vậy. Máy thu của ta được điều chỉnh đúng với tần số của đài phát, sẽ cộng hưởng để cho ta hình ảnh, âm thanh mà ta cần” “Chú nghĩ như thế hay có khoa học nào nghiên cứu chuyện đó không?” “Đại học Cornell, Mỹ, nghiên cứu, thấy rằng. Loài muỗi Aedes aegypti, khi muỗi cái muốn bạn tình thì vẫy cánh với tần số 1.200 hertz, là tần số sẽ cộng hưởng với tần số của muỗi đực. Nếu vẫy cánh với tần số khác, muỗi đực sẽ (điếc) không tìm đến” “Con người có cánh đâu mà vẫy. Chú?” “Tần số giao động có sẵn trong người. Người vợ hay chồng ở nơi xa, gặp chuyện không may, người phối ngẫu tự nhiên thấy lo lắng, bất an. Đó gọi là linh cảm. Có những người con chết ngoài mặt trận, báo mộng cho mẹ biết ngay. Tôi đọc trên báo, có kể rằng, thời thế chiến thứ hai, cậu Raymond, mười chín tuổi, phải vào lính. Đơn vị cậu tiến gần biên giới Đức thì bị một trái đạn pháo. Raymond bị thương, ngã gục. Trong cơn chập chờn, cậu bỗng nghe tiếng mẹ cậu kêu “Raymond, đứng lên. Đi về hướng có ánh đèn” Cậu lết về phía ánh sáng le lói đằng xa. Đó là một xe cứu thương. Y tá bảo. Nếu nằm chờ quân y tìm đến, Raymond sẽ bị ra hết máu, không cứu kịp. Về nhà, Raymond kể lại chuyện đó thì mẹ cậu bảo. Ngay đêm Raymond bị thương, mẹ cậu nằm mơ thấy cậu kêu mẹ. Bà nghĩ rằng Raymond vẫn còn là một đứa bé, gặp chuyện gì nguy hiểm đang kêu khóc. Bà bảo con “Raymond, đứng lên, ra chỗ có ánh đèn để mẹ xem con bị gì!” “Người chết còn linh hồn không chú? Có đầu thai kiếp khác không chú?” “Nếu cô tin rằng, chết rồi, vẫn còn linh hồn, còn gọi là thần thức thì sẽ có đầu thai. Thần thúc sẽ đầu thai vào nơi thích hợp. Người ác, xem việc đánh đập, tra tấn, giết người làm thú vui thì sẽ tiếp tục sinh vào chỗ ác. Thành ác thú. Giống như người nghiện rượu tìm đến quán rượu. Người nghiện ma túy tìm đến bọn nghiện ma túy. Tôi chẳng biết gì về tôn giáo hay về những hiện tượng siêu hình, nên nói cho vui thôi. Cô đừng tin những gì tôi nói” Cô cười cướp lời “Mà chờ những gì chú sẽ làm...” Ông Tâm bậm môi, làm bộ đe dọa “Cô chuẩn bị bỏ chạy thì vừa” Cô lắc đầu “Đang nói về tiếng sét ái tình, chú đem chuyện chết chóc, ma quỉ ra nhác cháu. Tiếng sét ái tình có phải là tình yêu không chú?” “Tôi không rõ lắm! Có thể tiếng sét ái tình là tình cảm trực giác nhưng tình yêu thì có cả lý trí và sinh lý nữa” “Còn yêu đơn phương là sao, chú?” “Là yêu người ta mà người ta không biết hoặc biết nhưng không đón nhận, không yêu lại. Tôi thấy chỉ tình yêu đơn phương là đẹp nhất. Tôi cũng yêu đơn phương nhiều cô. Thích lắm! Nhưng chưa bị sét đánh bao giờ” “Cháu thì ước vừa bị sét đánh vừa yêu đơn phương. Yêu như vậy mới thích” “Chả hay ho gì như cô tưởng đâu. Khi đã mê mẫm tâm thần thì giống như con thiêu thân, chẳng còn lý trí để suy xét đúng, sai” Cô Trang hớn hở “Chú giải thích cháu mới hiểu. Vậy là không phải cháu bị chú “sét đánh” vì chú với cháu chẳng có tần số TV, radô nào cả. Gương mặt cháu cũng chẳng giống chú. Cháu mừng lắm. Cháu chỉ sợ thương chú thình lình... thì khổ cháu. Chú thì ở xa, cũng chẳng biết gia đình chú ra sao?” “Cô yên tâm. Tôi xem cô như bạn chứ không có tình cảm gì khác. Chuyện mất ngủ, ai cũng có, ít bữa sau ngủ bù. Cũng có thể vì công việc buôn bán, làm cô suy nghĩ nên không ngủ được” Cô gật đầu “Chú nói đúng. Mấy bữa nay, cháu cứ nôn nao, muốn về đây mua hàng. Cứ tính mình sẽ mua những gì. Nhưng lại quên. Viết vào tờ giấy rồi cũng bỏ đâu mất tiêu. Cháu lái xe mà hồn vía để đâu đâu. Khi chạy nhanh, khi chạy chậm. Cháu nghĩ, có lẽ mình có hẹn với chú nên mong được gặp chú. Nhưng khi ngồi với chú, cháu chỉ thấy vui thôi chứ không rung động, hồi hộp gì cả” “Cô đừng lo. Người đàng hoàng như cô, vì đã hẹn gặp tôi nên bồn chồn vậy thôi. Tôi hẹn đi uống cà phê với bạn cũng vậy, cứ nhìn chừng đồng hồ mãi. Mà dù cô có xao xuyến, rung động vì người nào đó cũng chẳng tội lỗi gì. Chỉ như một kỷ niệm đẹp để trang trí cuộc đời, miễn sau đó thì quên đi cho đỡ rắc rối. Đời tôi chẳng có gì vui nên tâm hồn tôi chai đá rồi. Tôi chỉ có bạn thôi” “Khi về bên đó, chú nhớ gọi cháu kẻo cháu trông nghe! Nếu chú không gọi thì cháu gọi chú. Có trở ngại gì không chú?” “Giờ làm việc thì hơi bận, nhưng buổi chiều hay tối, cô gọi giờ nào cũng được. Tôi sống một mình, được cô gọi để chuyện trò thì thích hơn mấy ông bạn. Giọng cô dịu dàng, đối đáp thông minh. Cám ơn cô rất nhiều” Cô cười vui “Chú khen cháu, cháu mừng lắm!”
Phạm Thành Châu
“Con tim trốn vào nụ cười để khóc”
(thơ Nguyễn Dương Quang)
Cái khó của phái nữ là làm sao cho người mình để ý hiểu được tình cảm của mình dành cho anh ta. Thứ tình cảm bất chợt của người nữ đối với người nam mà mình chưa hề quen biết. Làm cách nào để khỏi vuột mất nguời đó? Xin theo dõi “người nữ” tỏ tình như thế nào trong câu chuyện sau đây. Có thể đã từng xảy ra cho nhiều cô.
Ông Tâm, tuổi trên năm mươi, vóc dáng, gương mặt không có gì đáng để phái nữ chú ý. Ông Tâm nghỉ phép thường niên (vacation), từ miền đông Hoa Kỳ qua Texas, thăm các bạn. Ông có nhiều bạn ở các tiểu bang Texas, California. Thành phố nào cũng có bạn. Ông đến bạn nầy vài hôm, qua bạn khác vài hôm. Ở Mỹ, nhà nào cũng có nhiều phòng cho con cái. Khi chúng lớn, như những con chim rời tổ, chúng có gia đình, ởù nhà riêng. Thành thử, nhà bố mẹ có những phòng trống, dành cho bà con, bạn bè đến thăm, ở lại. Nếu vào cuối tuần, ngày lễ thì chuyện trò, đưa nhau đi thăm cảnh vật trong vùng, đi tiệm ăn, ngày làm việc, gia chủ phải đi làm, khách tự lo lấy. Ông Tâm cũng biết vậy nhưng không bận tâm, ông thích một mình đi lang thang đây đó ngắm cảnh hoặc ra siêu thị nhìn thiên hạ. Ở Texas và California, nhiều người Việt nên ông cảm tưởng như đang ở quê nhà thời trước. Một buổi trưa, đi mỏi chân, ông vào tiệm McDonald, sắp hàng mua bánh. Vào giờ đông khách, ông Tâm đứng cuối một dãy dài. Đang nhìn vơ vẩn, ông thấy một cô, (ông đoán là người Việt) bước vào, đứng sau lưng ông. Ông bước lùi lại, nhường chỗ “Mời cô!” Cô bước tới, nói nhỏ “Cám ơn chú!” rồi ngước nhìn ông Tâm, nhoẻn miệng cười. Cô đứng gần đến độ hai gương mặt như muốn chạm nhau. Bỗng cô quay lại, nhìn sửng ông, ánh mắt sáng lên, như vui mừng được gặp lại bạn thân. Tự nhiên, ông Tâm vui lây với cô. Niềm vui và hạnh phúc đơn giản mà ông chưa hề cảm nhận được lần nào trên đời. Ông thấy hình như cô đang thở mạnh. Ông nói “Cô cho tôi được mời cô, nghe!” Cô không quay lại “Cám ơn chú!” Tuổi cô khoảng bốn mươi nhưng cô gọi ông bằng chú, có lẽ để khỏi ngại ngùng.
Hai người ngồi ăn cùng bàn. Chuyện trò cũng chỉ mưa nắng, những nhận xét về cộng đồng người Việt, về thời sự. Cả hai, đôi khi có nói về mình như một cách tự giới thiệu. Ông Tâm cho biết. Ông làm việc ở một thành phố miền đông Hoa Kỳ. Nghỉ vacation hai tuần. Ông cũng được biết cô tên Trang, có một tiệm buôn nhỏ ở thành phố Austin, về Houston mua hàng “Từ Austin, cháu về đây hết mấy tiếng lái xe. Cháu lái xe chậm lắm. Chú có biết Austin không?” “Tôi chưa đến, có thể tôi sẽ đến đó cho biết” “Khi nào chú đến Austin, nhớ gọi cho cháu. Cháu sẽ đến thăm chú” “Tôi sẽ gọi cô. Tôi có vài người bạn ở đó” Cô ngạc nhiên “Sao ở đâu chú cũng có bạn cả?” Ông Tâm cười “Bạn văn, thơ, báo chí với nhau. Có người chưa hề gặp mặt mà thân nhau lắm. Gặp nhau trên email, trên điện thoại thôi. Nhưng cuối tuần nầy tôi qua San Antonio rồi” “Nếu thấy tiện, khi đến San Antonio, chú gọi cháu. Cháu cũng định ít hôm nữa về đó mua một ít hàng hóa” “Tôi sẽ gọi cô trước khi đi San Antonio. Sao hôm nay cô không đi San Antonio mua hàng cho gần?” “Cháu có bạn ở đây. Về thăm bạn. Ở Austin ít người Việt, cháu chỉ có người quen chứ không có bạn ở đó” Ăn xong, ông Tâm đem giấy đi bỏ vào thùng rác. Lúc quay lại, thấy cô Trang ngồi nhìn vào khoảng không, vẻ bồn chồn. Đột nhiên cô gọi “Chú!” rồi cúi xuống, không nhìn ông Tâm. Ông Tâm nói “Vì nói chuyện với tôi mà cô trễ hẹn với bạn, phải không? Tôi xin lỗi” Cô ngước lên, lắc đầu “Không có đâu! Giờ cháu phải lái xe về Austin. Cháu ngại quá. Đường xa quá!” “Sao phải vội? Ở lại với bạn vài hôm cho vui” “Cháu cũng định như vậy. Nhưng bạn cháu ngày mai phải đi làm. Cháu chỉ một mình ở đây” “Cứ ở lại với bạn. Sáng mai mát trời, chạy xe thong thả, thoải mái hơn. Sáng mai tôi mời cô với bạn cô đi ăn điểm tâm trước khi bạn cô đi làm. Được không?” Cô cười vui vẻ “Cho cháu mời chú. Chú định đến tiệm ăn nào?” “Tôi chẳng biết tiệm nào ăn được. Tùy cô” “Sáng mai, nếu bạn cháu phải đi làm sớm thì cháu đến đón. Chú cho cháu số điện thoại...” “Tôi cũng cần số điện thoại của cô để sau nầy còn có thể gọi hỏi thăm nhau. Đến nơi lạ mà có người quen cũng đỡ lẻ loi” “Chú có cần cháu đưa chú về nhà bạn chú không?” “Nhà ở gần đây. Qua khỏi ngã tư thì đến. Với lại, cô cần đi gấp, không dám làm phiền cô” “Chú bảo cháu ở lại, sáng mai hãy đi nên cháu không vội” “Vậy thì mình ngồi nói chuyện một lúc nữa” Cô lại cười “Cháu cũng định nói như thế” Chuyện trò cũng chỉ quanh quẩn, linh tinh, không đầu không đuôi nhưng cả hai đã qua khỏi giây phút e ngại, trở nên thân mật. Ông nhận thấy cô Trang thông minh, dịu dàng và rất dễ mến. Lúc nào cô cũng đồng ý với ông, khuyến khích ông nói tiếp “Rồi sao nữa chú?” Ông Tâm kể về bạn bè, về thời còn đi học, về công việc làm của mình. Ông thường thêm thắc vào những chuyện vui khiến cô Trang thích lắm, ngồi cười mãi “Chú kể tiếp đi!” Hai người chuyện trò đến gần hai giờ chiều mới đứng lên. Cô Trang đưa ông Tâm về. Cô không vào nhà. Sáng hôm sau, ông Tâm báo với bạn “Bữa nay tôi có bạn đến đón đi ăn điểm tâm” Người bạn cười đoán chừng “Bạn gái phải không? Tay nầy giỏi thiệt. Tôi ở đây bao nhiêu năm mà vẫn cô đơn. Thấy ông dậy sớm, định rủ ông đi điểm tâm. Nay có người khác mời thì thôi. Làm li cà phê nầy cho sáng suốt tâm trí mà tán tỉnh người đẹp” Vừa lúc có chiếc xe dừng lại trước đường, ông Tâm vội vã đi ra. Ông thấy cô Trang hơi lạ và đẹp hơn hôm qua. Một chút phấn hồng, đôi mắt viền đen, chiếc áo điểm hoa trang nhã nhưng sang trọng. Cô nhìn phía trước như chăm chú lái xe vì biết ông đang ngắm cô. Ông Tâm nói “Đến nơi lạ, tôi khó ngủ, bây giờ hơi mệt” “Cháu cũng vậy. Lạ chỗ. Cháu thức trắng đêm” Ông Tâm cười nói “Đồng bệnh tương lân” “Nghĩa là sao, chú?” “Cùng có bêïnh giống nhau nên dễ thân nhau” “Nhưng cháu chỉ không ngủ được đêm hôm qua thôi mà” “Thì tôi cũng vậy” Cô quay nhìn ông Tâm cười “Chú ghê thật!” Ông trả lời “Có được người bạn thông minh, thích lắm” “Cháu ngu lắm. Người thông minh bao giờ cũng biết giữ bí mật những ý nghĩ của mình” “Vậy là tôi cũng chẳng thông minh gì” Đến tiệm ăn, hai người lại chuyện trò quên cả thời gian. Họ đã trở nên đôi bạn thân nhưng luôn giữ ý để khỏi bị hiểu lầm.
Mấy hôm sau, ông Tâm qua San Antonio. Hai người lại gặp nhau. Cô Trang có vẻ mừng rỡ. Cô nói cười tíu tít. Lúc ngồi trong tiệm ăn, cô nói “Bữa trước, cháu bị sét đánh gần chết” Ông Tâm ngạc nhiên “Cả tuần nay, trời nắng, đâu có mưa gió gì mà có sét đánh?” “Cháu không biết. Bạn cháu nói cháu bị sét đánh” “Cô làm gì đến nỗi ông trời chỉ sét đánh một mình cô? Sự việc xảy ra như thế nào? Cô có thể kể cho tôi nghe, được không?” Cô cúi xuống, không nhìn ông Tâm, giọng ngập ngừng “Buổi sáng mà cháu từ biệt chú về Austin, cháu bị mất ngủ. Cháu gọi người bạn ở Houston tâm sự linh tinh. Bạn cháu nghe giọng mệt mỏi, tưởng cháu bịnh, hỏi người thấy ra sao? Nếu cần phải đi bác sĩ ngay. Cháu bảo không sao cả, chỉ mất ngủ thôi. Bạn cháu hỏi có chuyện gì xảy ra không? Cháu kể chuyện cháu về Houston mua hàng, gặp chú, chuyện trò mấy lần. Không hiểu sao về ngủ không được! Bạn cháu nghe xong, nói với cháu rằng “Bà bị sét đánh rồi!” Cháu không hiểu, tại sao mình bị sét đánh?” Ông Tâm chỉ đoán lờ mờ nhưng cảm động “Bạn cô hiểu lầm tâm trạng của cô nên nói vậy. Đúng ra phải nói là bị “tiếng sét ái tình” Có thể cô bất ngờ gặp anh chàng nào, bị xúc động nên không ngủ được” Cô ngẩn lên nhìn ông Tâm “Tiếng sét ái tình là sao chú? Từ bữa đó đến nay, cháu có gặp ai đâu? Cũng chẳng bị ai đánh cả!” “Người ta bảo “Mới thấy đối tượng lần đầu đã yêu ngay là bị tiếng sét ái tình”. Chính người bị “sét đánh” cũng không hiểu vì sao? Tôi đọc sách, báo cũng nhiều, nhưng chỉ hiểu mơ hồ theo suy nghĩ của riêng tôi thôi” “Chú giải thích cho cháu nghe xem có phải cháu bị sét đánh không?” “Có thể như thế nầy. “Tiếng sét ái tình” do chính mình tự đánh mình chứ chẳng phải ông trời hay “đối tượng” nào đánh cả. Nguyên nhân thì, có thể là. Thứ nhất là người kia có gương mặt giống mình. Ngày nào mình cũng soi gương, thấy mãi mặt mình, nay bất ngờ thấy đối tượng có gương mặt (giống mình mà không biết) thấy “quen quen, thân thiết, đâu như từ kiếp trước”. Vậy là yêu. Hai người yêu nhau lâu bền, đa số có khuôn mặt giống nhau. Một giải thích khác, đó là sự cộng hưởng của tần số giao động sinh lý. Cặp mắt là cửa sổ của tâm hồn, hướng ra ngoài để chờ đón một tín hiệu nào đó. Với ánh mắt, người ta có thể thôi miên, sai khiến người khác. Có người bảo. Cơ thể con người có các chất hữu cơ và vô cơ đủ làm một cục pin (điện năng), nghĩa là mỗi sinh vật, kể cả con vi trùng, đều có một năng lượng riêng để tự điều hành đời sống của nó với một tần số giao động sinh lý riêng, gọi là bản năng. Khi hai người có cùng tần số giao động giống nhau thì cộng hưởng và được khuyếch đại để tác động mạnh lên tâm sinh lý của cả hai. Giống như ta mở máy thu thanh (radio) hay thu hình (TV) vậy. Máy thu của ta được điều chỉnh đúng với tần số của đài phát, sẽ cộng hưởng để cho ta hình ảnh, âm thanh mà ta cần” “Chú nghĩ như thế hay có khoa học nào nghiên cứu chuyện đó không?” “Đại học Cornell, Mỹ, nghiên cứu, thấy rằng. Loài muỗi Aedes aegypti, khi muỗi cái muốn bạn tình thì vẫy cánh với tần số 1.200 hertz, là tần số sẽ cộng hưởng với tần số của muỗi đực. Nếu vẫy cánh với tần số khác, muỗi đực sẽ (điếc) không tìm đến” “Con người có cánh đâu mà vẫy. Chú?” “Tần số giao động có sẵn trong người. Người vợ hay chồng ở nơi xa, gặp chuyện không may, người phối ngẫu tự nhiên thấy lo lắng, bất an. Đó gọi là linh cảm. Có những người con chết ngoài mặt trận, báo mộng cho mẹ biết ngay. Tôi đọc trên báo, có kể rằng, thời thế chiến thứ hai, cậu Raymond, mười chín tuổi, phải vào lính. Đơn vị cậu tiến gần biên giới Đức thì bị một trái đạn pháo. Raymond bị thương, ngã gục. Trong cơn chập chờn, cậu bỗng nghe tiếng mẹ cậu kêu “Raymond, đứng lên. Đi về hướng có ánh đèn” Cậu lết về phía ánh sáng le lói đằng xa. Đó là một xe cứu thương. Y tá bảo. Nếu nằm chờ quân y tìm đến, Raymond sẽ bị ra hết máu, không cứu kịp. Về nhà, Raymond kể lại chuyện đó thì mẹ cậu bảo. Ngay đêm Raymond bị thương, mẹ cậu nằm mơ thấy cậu kêu mẹ. Bà nghĩ rằng Raymond vẫn còn là một đứa bé, gặp chuyện gì nguy hiểm đang kêu khóc. Bà bảo con “Raymond, đứng lên, ra chỗ có ánh đèn để mẹ xem con bị gì!” “Người chết còn linh hồn không chú? Có đầu thai kiếp khác không chú?” “Nếu cô tin rằng, chết rồi, vẫn còn linh hồn, còn gọi là thần thức thì sẽ có đầu thai. Thần thúc sẽ đầu thai vào nơi thích hợp. Người ác, xem việc đánh đập, tra tấn, giết người làm thú vui thì sẽ tiếp tục sinh vào chỗ ác. Thành ác thú. Giống như người nghiện rượu tìm đến quán rượu. Người nghiện ma túy tìm đến bọn nghiện ma túy. Tôi chẳng biết gì về tôn giáo hay về những hiện tượng siêu hình, nên nói cho vui thôi. Cô đừng tin những gì tôi nói” Cô cười cướp lời “Mà chờ những gì chú sẽ làm...” Ông Tâm bậm môi, làm bộ đe dọa “Cô chuẩn bị bỏ chạy thì vừa” Cô lắc đầu “Đang nói về tiếng sét ái tình, chú đem chuyện chết chóc, ma quỉ ra nhác cháu. Tiếng sét ái tình có phải là tình yêu không chú?” “Tôi không rõ lắm! Có thể tiếng sét ái tình là tình cảm trực giác nhưng tình yêu thì có cả lý trí và sinh lý nữa” “Còn yêu đơn phương là sao, chú?” “Là yêu người ta mà người ta không biết hoặc biết nhưng không đón nhận, không yêu lại. Tôi thấy chỉ tình yêu đơn phương là đẹp nhất. Tôi cũng yêu đơn phương nhiều cô. Thích lắm! Nhưng chưa bị sét đánh bao giờ” “Cháu thì ước vừa bị sét đánh vừa yêu đơn phương. Yêu như vậy mới thích” “Chả hay ho gì như cô tưởng đâu. Khi đã mê mẫm tâm thần thì giống như con thiêu thân, chẳng còn lý trí để suy xét đúng, sai” Cô Trang hớn hở “Chú giải thích cháu mới hiểu. Vậy là không phải cháu bị chú “sét đánh” vì chú với cháu chẳng có tần số TV, radô nào cả. Gương mặt cháu cũng chẳng giống chú. Cháu mừng lắm. Cháu chỉ sợ thương chú thình lình... thì khổ cháu. Chú thì ở xa, cũng chẳng biết gia đình chú ra sao?” “Cô yên tâm. Tôi xem cô như bạn chứ không có tình cảm gì khác. Chuyện mất ngủ, ai cũng có, ít bữa sau ngủ bù. Cũng có thể vì công việc buôn bán, làm cô suy nghĩ nên không ngủ được” Cô gật đầu “Chú nói đúng. Mấy bữa nay, cháu cứ nôn nao, muốn về đây mua hàng. Cứ tính mình sẽ mua những gì. Nhưng lại quên. Viết vào tờ giấy rồi cũng bỏ đâu mất tiêu. Cháu lái xe mà hồn vía để đâu đâu. Khi chạy nhanh, khi chạy chậm. Cháu nghĩ, có lẽ mình có hẹn với chú nên mong được gặp chú. Nhưng khi ngồi với chú, cháu chỉ thấy vui thôi chứ không rung động, hồi hộp gì cả” “Cô đừng lo. Người đàng hoàng như cô, vì đã hẹn gặp tôi nên bồn chồn vậy thôi. Tôi hẹn đi uống cà phê với bạn cũng vậy, cứ nhìn chừng đồng hồ mãi. Mà dù cô có xao xuyến, rung động vì người nào đó cũng chẳng tội lỗi gì. Chỉ như một kỷ niệm đẹp để trang trí cuộc đời, miễn sau đó thì quên đi cho đỡ rắc rối. Đời tôi chẳng có gì vui nên tâm hồn tôi chai đá rồi. Tôi chỉ có bạn thôi” “Khi về bên đó, chú nhớ gọi cháu kẻo cháu trông nghe! Nếu chú không gọi thì cháu gọi chú. Có trở ngại gì không chú?” “Giờ làm việc thì hơi bận, nhưng buổi chiều hay tối, cô gọi giờ nào cũng được. Tôi sống một mình, được cô gọi để chuyện trò thì thích hơn mấy ông bạn. Giọng cô dịu dàng, đối đáp thông minh. Cám ơn cô rất nhiều” Cô cười vui “Chú khen cháu, cháu mừng lắm!”
Thời khoa học hiện đại, chỉ với chiếc điện thoại nhỏ là có thể chuyện trò với bất cứ người nào, nơi nào. Ông Tâm về lại miền đông Hoa Kỳ, thỉnh thoảng hai người gọi hỏi thăm nhau. Chỉ là chuyện nắng mưa, chuyện thiên hạ. Đôi khi, ông gửi tặng cô những tờ tạp chí, những DVD ca nhạc, mà ông thích “Tôi không hiểu cô có cùng sở thích như tôi không?” Cô vội trả lời “Những gì chú thích thì cháu cũng thích như chú. Nhưng không hiểu sao, lối rày cháu thích nghe những bản tình ca. Bây giờ mới thấy hay chứ trước đây cháu ghét lắm” Ông Tâm cười “Chúc mừng cô đã yêu một người nào đó” Cô Trang bảo “Chú tài thật. Cháu đang yêu. Một mối tình buồn. Nhưng không phải yêu chú đâu. Chú đừng vội mừng” “Tôi khuyên cô cứ tiếp tục yêu, tiếp tục mơ mộng cho đời đỡ chán. Tôi cũng ước được yêu một người nào đó nhưng quả tim tôi đã khô cằn, không còn mơ mộng, ước ao gì nữa. Đó là nỗi khổ!” Đang nói chuyện, cô bỗng nổi giận “Chú xạo!” rồi tắt điện thoại. Ông Tâm biết tính cô vui buồn bất thường nên hôm sau ông gọi xin lỗi. Cô cười “Tính cháu hay nổi nóng không vì lý do nào cả” Rồi họ lại chuyện trò thân mật như cũ. Với thời gian, cô Trang đã xem ông Tâm như người thân, chuyện gì xảy ra trong ngày, cô đều kể cho ông Tâm nghe. Khi vui thì cô nói líu lo như chim hót khiến ông cũng vui lây “Cầu cho cô bao giờ cũng vui như thế nầy”. Cô tâm sự với ông “Hơn mười năm, cháu lo buôn bán, bòn mót từng đồng, gửi về cho gia đình, cha mẹ, anh chị em. Khi cuộc sống của người thân ở Việt Nam ổn định thì cháu nhìn lại mình mới biết tuổi xuân đã đi qua. Cháu già quá rồi! Lại suốt ngày lẩn quẩn trong tiệm buôn. Mà có ra dường, cũng chẳng ai thèm nhìn. Cháu buồn lắm, nhiều lúc tủi thân, nằm khóc một mình... Chú là người thân, cháu tâm sự vậy thôi. Chú đừng an ủi cháu. Đừng làm cháu tự ái, sẽ giận chú, không nói chuyện với chú nữa” Ông Tâm vội trả lời “Cô yên tâm. Nhưng tôi nói điều nầy có lẽ cô sẽ bớt buồn. Sống một mình cũng có cái thú của nó. Không làm phiền ai mà cũng chẳng ai làm phiền mình. Muốn ăn, ngủ, đi chơi đây đó... tự nhiên thoải mái. Tôi cũng từng có gia đình, tôi biết. Nay thoát ra được rồi, tôi thích lắm. Tôi cũng chẳng trách ai, chẳng tiếc nuối điều gì. Xứ Mỹ nầy, rất nhiều người thích sống độc thân, già thì có nhà dưỡng lão lo. Tôi định, khi mình về hưu, sẽ đến thành phố của cô xin vào viện dưỡng lão chờ cô vào ở chung” Cô lại cười “Chú đừng hi vọng. Mấy chục năm nữa, cháu có vào nhà già thì mỗi người một phòng riêng, chú cũng đừng mong cháu qua phòng chú thăm chú đâu. Cháu chỉ gọi điện thoại thôi. Nam nữ thọ thọ bất thân mà chú!” “Chuyện trò với tôi mà cô hay cười, chứng tỏ cô không còn buồn nữa. Khi cô vui vẻ thì tôi cũng vui lây. Cô dễ thương lắm!” Cô yên lặng, rồi ngập ngừng như muốn nói điều gì, nhưng cô lại tắt điện thoại, không trả lời.
“A lô! Tôi đang ở thành phố của cô Trang đây” “Chú đến lúc nào vậy?” “Sáng nay đến Austin thăm một người bạn, hiện giờ ghé điểm tâm ở Round Rock. Cô biết tiệm ăn Á Đông ở đó không? Mời cô đến điểm tâm với tụi tôi” “Cháu biết tiệm đó. Mươi phút nữa cháu sẽ đến. Gặp chú rồi cháu phải về tiệm ngay. Chú đứng trước cửa nhà hàng đón cháu nghe”.
Cô Trang đậu xe trước tiệm ăn, mở cửa bước ra, dáo dác nhìn quanh. Ông Tâm tiến đến “Trang. Tôi đây nè!” Cô Trang quay lại, lấy tay đè lên ngực “Cháu muốn bể tim vì hồi hộp. Cháu mừng quá! Cả năm mới được gặp lại chú”. “Mời cô vào với tụi tôi” “Cám ơn chú. Cháu không vào đâu. Cháu ngại gặp nhiều người. Bây giờ cháu phải về” “Ủa, gặp nhau, nói mấy câu là hết sao?” “Cháu ước được gặp lại chú. Bây giờ gặp rồi. Chú vào với các bạn chú đi” “Nói với nhau vài câu nữa, không được sao?” Cô Trang mở cửa xe, tần ngần một lúc và nói “Chiều nay, lúc bảy giờ, cháu đóng cửa tiệm, sẽ gặp chú ở quán cà phê đằng kia. Một mình chú thôi. Cháu không thích đông người” “Cám ơn cô”.
Ông Tâm nhờ bạn đưa đến tiệm cà phê Starbucks, bước vào đã thấy cô Trang ngồi trong đó “Cô chờ tôi có lâu không?” Cô lắc đầu “Cháu mới vào. Chú uống gì?” “Cho tôi ly cà phê nóng” Cô đứng lên, đi lấy hai ly cà phê “Chú uống cà phê có bị mất ngủ không?” “Tôi nằm xuống là ngủ liền, nhưng tối nay phải thức để trò chuyện với bạn bè” “Những người dễ ngủ thường vô tâm. Cháu mà được vô tâm như chú thì cháu không đến nỗi già như thế nầy. Cháu già lắm phải không chú?” Ông Tâm làm bộ ngắm nghía cô “Xin lỗi, tôi quên khen cô trẻ và đẹp. Trang tên Trăng mới đúng. Mặt tròn như của Thúy Vân. Gương trăng đầy đặn nét ngài nở nang” Cô lắc đầu, phụng phịu “Thúy Vân đâu có đẹp!” Ông Tâm chăm chú nhìn cô rồi làm như suy tư “Bây giờ cô đứng lên, xoay người để tôi so sánh cô với Thúy Vân, xem ai đẹp hơn”. Cô Trang đứng lên. Cô đánh phấn hồng, môi son nhạt, mắt viền đen. Cô mặc áo pull màu nâu hồng nhạt, bó sát thân hình thon gọn với đồi ngực thanh tân, nhỏ nhưng cao. Quần jean xanh đậm. Hai đùi tròn lẳn, đôi mông tròn và đẹp tinh khiết. Cô yểu điệu quay người một vòng rồi ngồi xuống, đôi mắt long lanh ngước nhìn ông Tâm, chờ đợi. Ông Tâm gục gặc đầu “Mới gặp Thúy Vân, tôi tưởng Thúy Vân đẹp nhất trên đời. Bây giờ gặp cô thì hóa ra cô đẹp gấp đôi Thúy Vân. Thúy Vân mà đứng cạnh cô, mắc cỡ không biết để đâu cho hết”. Cô Trang làm nghiêm “Chú gặp Thúy Vân ở đâu? Lâu chưa?” “Mới đây thôi. Gặp ở quận Cam, bên Cali., Cô ta và Thúy Kiều đi ăn phở với Nguyễn Du, gặp bọn tôi trong tiệm phở” “Bộ chú cũng quen với Nguyễn Du nữa à?” “Bạn thân mà!” Cô Trang cố mím môi để khỏi bật cười, mắt đăm đăm nhìn ông Tâm “Chú!” Ông Tâm ngạc nhiên “Cô định nói gì?” “Cháu muốn xô chú ngã xuống đất quá!” “Coi bộ ghét hay giận tôi điều gì?” Cô lắc đầu “Chú làm cháu vui quá, thích quá! Cháu không biết nói cách nào cho chú biết rằng cháu chưa bao giờ được vui như lúc nầy. Cám ơn chú. Từ khi quen chú đến nay, chú đã cho cháu biết bao niềm vui” “Tôi lúc nào cũng cầu mong cho những người thân yêu của mình vui vẻ, hạnh phúc” Tiệm cà phê vắng khách, yên tĩnh, cả hai cảm thấy thoải mái. Cô thu ngân ngồi ở quầy tính tiền thỉnh thoảng nhìn hai người rồi tủm tỉm cười. Cô Trang hỏi chuyện đi đường, chuyện thăm viếng bạn bè của ông Tâm. Hai người mãi chuyện trò, quên cả thời gian. Rồi cô nhìn đồng hồ, thở dài, đứng lên “Cháu phải về”.
Hai người bước ra, đứng trước tiệm cà phê. Ông Tâm nói “Tôi thấy ở đây yên tĩnh, phong cảnh đẹp. Ông bạn rủ bọn tôi ở chơi đến cuối tuần hãy đi” Cô lắc đầu “Không được! Chú không được ở đây. Cháu sợ lắm!” Ông Tâm ngạc nhiên “Cô sợ gì?” “Cháu không biết. Cháu sợ chú” Cô yên lặng một lúc rồi ngước nhìn ông Tâm, đôi mắt long lanh nước mắt. Cô mím môi “Mai chú đi rồi, phải không? Chúc chú đi bình an, vui vẻ” Giọng cô run run “Từ nay chú đừng gọi cháu nữa. Cháu cũng không gọi chú. Chú hứa đi! Không gọi cháu nữa” Ông Tâm bối rối “Tôi xin lỗi cô. Tôi không hiểu mình đã nói gì mà thình lình cô giận tôi? Hay là cô giận ai?” Cô cúi đầu, yên lặng. Chợt cô ngước lên “Chú ngốc lắm!” rồi cô bước nhanh ra xe.
Ông Tâm đứng sửng “Tôi xin lỗi cô. Chiều mai tôi mới lên đường. Sáng mai mời cô đi ăn điểm tâm, như lần trước ở Houston. Nhớ nghe!Tôi sẽ gọi cô”. Cô lắc đầu, vào xe, lái đi.
Cô Trang cho xe ra đường mà không biết mình đang đi đâu. Tiếng ca nhạc trong xe vang lên nho nhỏ “... Dù tình yêu đã quá xa tầm tay với. Dù mai kia bước chân nầy rã lụi. Thành tượng đá bơ vơ phương trời...” Nước mắt cô lại ứa ra. Mùa hè, trời vẫn còn sáng nhưng nước mắt làm nhạt nhòa con đường trước mặt. Không thấy rõ đường, cô phải tấp xe vào một công viên, tắt máy, ngồi lặng người. Rồi cô khóc nức nở. Một lúc sau, cô ngạc nhiên thấy mình sao dễ khóc đến như vậy? Công viên mênh mông, rừng cây với con đường vắng lặng trong ánh chiều tà. Lòng cô đã yên tĩnh trở lại. Cô nhìn vào khoảng không rồi thở dài... Bóng tối đã tràn ngập công viên, chỉ còn lại chút ánh sáng mơ hồ trên các ngọn cây. Bỗõng nhiên, tâm trí cô lại rộn ràng niềm vui lẫn háo hức. Cô lấy điện thoại. Bấm số, áp vào tai. Nghe bên kia chuông reo, cô lại bấm tắt. Và cứ áp điện thoại vào tai, cô thì thầm “Chú ngốc quá! Chú từng viết “Hạnh phúc của anh là khi em đang rơi nước mắt” Thấy cháu khóc mà chú chẳng hiểu gì cháu cả. Sáng mai gặp chú, cháu sẽ trách chú vô tình...”.
“A lô! Tôi đang ở thành phố của cô Trang đây” “Chú đến lúc nào vậy?” “Sáng nay đến Austin thăm một người bạn, hiện giờ ghé điểm tâm ở Round Rock. Cô biết tiệm ăn Á Đông ở đó không? Mời cô đến điểm tâm với tụi tôi” “Cháu biết tiệm đó. Mươi phút nữa cháu sẽ đến. Gặp chú rồi cháu phải về tiệm ngay. Chú đứng trước cửa nhà hàng đón cháu nghe”.
Cô Trang đậu xe trước tiệm ăn, mở cửa bước ra, dáo dác nhìn quanh. Ông Tâm tiến đến “Trang. Tôi đây nè!” Cô Trang quay lại, lấy tay đè lên ngực “Cháu muốn bể tim vì hồi hộp. Cháu mừng quá! Cả năm mới được gặp lại chú”. “Mời cô vào với tụi tôi” “Cám ơn chú. Cháu không vào đâu. Cháu ngại gặp nhiều người. Bây giờ cháu phải về” “Ủa, gặp nhau, nói mấy câu là hết sao?” “Cháu ước được gặp lại chú. Bây giờ gặp rồi. Chú vào với các bạn chú đi” “Nói với nhau vài câu nữa, không được sao?” Cô Trang mở cửa xe, tần ngần một lúc và nói “Chiều nay, lúc bảy giờ, cháu đóng cửa tiệm, sẽ gặp chú ở quán cà phê đằng kia. Một mình chú thôi. Cháu không thích đông người” “Cám ơn cô”.
Ông Tâm nhờ bạn đưa đến tiệm cà phê Starbucks, bước vào đã thấy cô Trang ngồi trong đó “Cô chờ tôi có lâu không?” Cô lắc đầu “Cháu mới vào. Chú uống gì?” “Cho tôi ly cà phê nóng” Cô đứng lên, đi lấy hai ly cà phê “Chú uống cà phê có bị mất ngủ không?” “Tôi nằm xuống là ngủ liền, nhưng tối nay phải thức để trò chuyện với bạn bè” “Những người dễ ngủ thường vô tâm. Cháu mà được vô tâm như chú thì cháu không đến nỗi già như thế nầy. Cháu già lắm phải không chú?” Ông Tâm làm bộ ngắm nghía cô “Xin lỗi, tôi quên khen cô trẻ và đẹp. Trang tên Trăng mới đúng. Mặt tròn như của Thúy Vân. Gương trăng đầy đặn nét ngài nở nang” Cô lắc đầu, phụng phịu “Thúy Vân đâu có đẹp!” Ông Tâm chăm chú nhìn cô rồi làm như suy tư “Bây giờ cô đứng lên, xoay người để tôi so sánh cô với Thúy Vân, xem ai đẹp hơn”. Cô Trang đứng lên. Cô đánh phấn hồng, môi son nhạt, mắt viền đen. Cô mặc áo pull màu nâu hồng nhạt, bó sát thân hình thon gọn với đồi ngực thanh tân, nhỏ nhưng cao. Quần jean xanh đậm. Hai đùi tròn lẳn, đôi mông tròn và đẹp tinh khiết. Cô yểu điệu quay người một vòng rồi ngồi xuống, đôi mắt long lanh ngước nhìn ông Tâm, chờ đợi. Ông Tâm gục gặc đầu “Mới gặp Thúy Vân, tôi tưởng Thúy Vân đẹp nhất trên đời. Bây giờ gặp cô thì hóa ra cô đẹp gấp đôi Thúy Vân. Thúy Vân mà đứng cạnh cô, mắc cỡ không biết để đâu cho hết”. Cô Trang làm nghiêm “Chú gặp Thúy Vân ở đâu? Lâu chưa?” “Mới đây thôi. Gặp ở quận Cam, bên Cali., Cô ta và Thúy Kiều đi ăn phở với Nguyễn Du, gặp bọn tôi trong tiệm phở” “Bộ chú cũng quen với Nguyễn Du nữa à?” “Bạn thân mà!” Cô Trang cố mím môi để khỏi bật cười, mắt đăm đăm nhìn ông Tâm “Chú!” Ông Tâm ngạc nhiên “Cô định nói gì?” “Cháu muốn xô chú ngã xuống đất quá!” “Coi bộ ghét hay giận tôi điều gì?” Cô lắc đầu “Chú làm cháu vui quá, thích quá! Cháu không biết nói cách nào cho chú biết rằng cháu chưa bao giờ được vui như lúc nầy. Cám ơn chú. Từ khi quen chú đến nay, chú đã cho cháu biết bao niềm vui” “Tôi lúc nào cũng cầu mong cho những người thân yêu của mình vui vẻ, hạnh phúc” Tiệm cà phê vắng khách, yên tĩnh, cả hai cảm thấy thoải mái. Cô thu ngân ngồi ở quầy tính tiền thỉnh thoảng nhìn hai người rồi tủm tỉm cười. Cô Trang hỏi chuyện đi đường, chuyện thăm viếng bạn bè của ông Tâm. Hai người mãi chuyện trò, quên cả thời gian. Rồi cô nhìn đồng hồ, thở dài, đứng lên “Cháu phải về”.
Hai người bước ra, đứng trước tiệm cà phê. Ông Tâm nói “Tôi thấy ở đây yên tĩnh, phong cảnh đẹp. Ông bạn rủ bọn tôi ở chơi đến cuối tuần hãy đi” Cô lắc đầu “Không được! Chú không được ở đây. Cháu sợ lắm!” Ông Tâm ngạc nhiên “Cô sợ gì?” “Cháu không biết. Cháu sợ chú” Cô yên lặng một lúc rồi ngước nhìn ông Tâm, đôi mắt long lanh nước mắt. Cô mím môi “Mai chú đi rồi, phải không? Chúc chú đi bình an, vui vẻ” Giọng cô run run “Từ nay chú đừng gọi cháu nữa. Cháu cũng không gọi chú. Chú hứa đi! Không gọi cháu nữa” Ông Tâm bối rối “Tôi xin lỗi cô. Tôi không hiểu mình đã nói gì mà thình lình cô giận tôi? Hay là cô giận ai?” Cô cúi đầu, yên lặng. Chợt cô ngước lên “Chú ngốc lắm!” rồi cô bước nhanh ra xe.
Ông Tâm đứng sửng “Tôi xin lỗi cô. Chiều mai tôi mới lên đường. Sáng mai mời cô đi ăn điểm tâm, như lần trước ở Houston. Nhớ nghe!Tôi sẽ gọi cô”. Cô lắc đầu, vào xe, lái đi.
Cô Trang cho xe ra đường mà không biết mình đang đi đâu. Tiếng ca nhạc trong xe vang lên nho nhỏ “... Dù tình yêu đã quá xa tầm tay với. Dù mai kia bước chân nầy rã lụi. Thành tượng đá bơ vơ phương trời...” Nước mắt cô lại ứa ra. Mùa hè, trời vẫn còn sáng nhưng nước mắt làm nhạt nhòa con đường trước mặt. Không thấy rõ đường, cô phải tấp xe vào một công viên, tắt máy, ngồi lặng người. Rồi cô khóc nức nở. Một lúc sau, cô ngạc nhiên thấy mình sao dễ khóc đến như vậy? Công viên mênh mông, rừng cây với con đường vắng lặng trong ánh chiều tà. Lòng cô đã yên tĩnh trở lại. Cô nhìn vào khoảng không rồi thở dài... Bóng tối đã tràn ngập công viên, chỉ còn lại chút ánh sáng mơ hồ trên các ngọn cây. Bỗõng nhiên, tâm trí cô lại rộn ràng niềm vui lẫn háo hức. Cô lấy điện thoại. Bấm số, áp vào tai. Nghe bên kia chuông reo, cô lại bấm tắt. Và cứ áp điện thoại vào tai, cô thì thầm “Chú ngốc quá! Chú từng viết “Hạnh phúc của anh là khi em đang rơi nước mắt” Thấy cháu khóc mà chú chẳng hiểu gì cháu cả. Sáng mai gặp chú, cháu sẽ trách chú vô tình...”.
11. BUỔI CHIỀU Ở THỊ TRẤN SÔNG PHA
Từ Ða lạt, một thành phố du lịch trên cao nguyên miền Trung Việt Nam, xuống Nha Trang, một thành phố miền biển phải theo quốc lộ 20, qua đèo Ngoạn Mục, nhà máy thủy điện Ða Nhim, khi đến thị trấn Sông Pha, các xe thường dừng lại để nghỉ ngơi một lúc. Ðây là một thị trấn nhỏ, hẻo lánh, heo hút giữa rừng già, chung quanh là đồi núi chập chùng. Hôm nay trời mưa khiến cảnh vật thêm vắng vẻ và buồn.
Mưa càng lúc càng nặng hạt. Thị trấn Sông Pha với hai dãy phố trên quốc lộ 20 như chìm ngập trong mưa. Người đàn ông lom khom chạy, tay che đầu, cổ rụt xuống, tưởng như thế mưa sẽ không đổ xuống người. Khi đến một quán ăn, ông ta tạt vào hiên, đứng giũ giũ áo, phủi nước trên tóc rồi mới bước hẳn vào trong. Một cái quán bình thường, giống như bâùt cứ quán cơm, phở, mì nào trên quốc lộ, tỉnh lộ. Cũng mái tôle, vách ván, vài cái bàn gỗ mộc, trên để ống đũa, muỗng, mấy chai xì dầu, nước mắm...vài con ruồi bay lảng vảng. Mùi ẩm mốc, mùi đất lẫn với mùi thức ăn gợi cho ông ta cảm giác dễ chịu, tưởng như quen thuộc với nơi nầy rất lâu. Trong quán đã có vài ba người đang xì xụp ăn, mấy ly bia đã cạn. Có lẽ họ là thợ rừng vì bên lề đường có một xe be chở mấy súc gỗ to tướng, dài cỡ vài chục mét. Họ vừa ăn vừa nói chuyện nhát gừng với nhau. Người đàn ông tìm một góc, ngồi tránh gió lùa. Qua khung cửa sổ ông ta nhìn đăm đăm cái dốc cầu lỡ lói, rồi nghiêng người nhìn cho rõ cái cầu sắt, đen đủi, giống một con thú yên lặng chịu đựng cơn mưa lạnh. Mấy người đàn ông ăn xong, kêu lên. " Tính tiền, bà chủ!" Một chị đàn bà, cỡ dưới bốn mươi, từ sau quày đi ra. Họ đối đáp, cười nói xã giao vài câu trong lúc trả tiền, rồi toán đàn ông cũng lom khom chạy ra xe, nổ máy. Chiếc xe be ì ạch leo lên giốc cầu, chậm chạp như con khủng long trườn qua giòng nước chảy xiếc phía dưới, mờ dần trong mưa.
Có tiếng lao xao ngoài đường. Mấy toán học sinh đi học về. Chúng đi từng bọn với nhau, trò chuyện. Những chiếc áo mưa đủ màu. Bọn con gái đi nép dưới hiên nhà, bọn con trai thì lội ngược giòng nước mưa, dùng chân tạt nước vào nhau, đuổi nhau...Buổi chiều mưa u ám bỗng như sống động hẳn lên vì lũ học sinh. Người đàn ông chợt nhớ lại, lần trước, cách đây vài mươi năm, ông cũng ngồi trong quán ăn nhìn ra đường và bọn học trò cũng đi học về. Cảnh vật, nhà cửa hai bên đường đã hoàn toàn đổi khác nhưng chiếc cầu sắt và lũ học trò vẫn thế, dù lần trước trời không mưa, các cô thì áo dài trắng, các cậu quần xanh áo trắng. Ông ngạc nhiên tưởng chừng những cô cậu học sinh ngoài kia vẫn cứ đi học từ lúc đó đến bây giờ. Dáng đi dịu dàng của các cô, vẻ nhanh nhẹn vô tư của các cậu vẫn thế. Và nếu không có cơn mưa, ông đã đứng trên dốc cầu ngắm các cô đi học về rồi lần xuống bờ sông, nhìn mê mãi giòng nước như ông đã làm trước đây, khi ông còn trai trẻ. "Thưa ông dùng chi?" Chị chủ quán đứng bên ông tự lúc nào. "Xin lỗi chị!.." "Dạ, không sao. Ông có định ăn hay uống món gì? Hay ông chỉ ngồi trú mưa, cũng không sao!" "Chị có cháo lòng không? Tôi nhớ lần trước, có ghé lại một quán ăn nào đó, hình như đằng kia kìa, có món cháo lòng ngon lắm" "Dạ tôi cũng có cháo lòng nhưng có lẽ không ngon như ở cái quán mà trước đây ông đã ăn" "Thú thật tôi cũng không nhớ có ngon không, nhưng ở đó có một kỷ niệm nên tất cả thành ra đẹp và ngon. Lúc nãy tôi đi tìm quán cháo lòng thì người ta chỉ đến đây. Bây giờ sao không còn thấy cái quán đó nữa, chị?" "Dạ, quán đó đã đóng cửa, bán nhà cho người khác rồi" "Tiếc quá! Chị cho tô cháo". Trong lúc chị chủ quán lúi húi làm việc, ông ta để ý mới biết phía trước là quán ăn, phía sau làm nơi cư ngụ của cả gia đình. Lối đi vô nhà sau nằm ngay nơi bếp, cách biệt hẳn hai nơi rõ rệt. Một cô học trò chạy ùa vào nhà. "Thưa mẹ, con đi học về!" Nó quay qua chào ông khách. "Chào bác ạ!" "Vâng, chào cháu!" Nó chào xong là biến mất sau cửa. "Hùng ơi! Nhớ nấu cơm kẻo ba con về không kịp" Tiếng con bé từ sau nhà vọng ra. "Sao giờ nầy ba chưa về hả mẹ?" "Nghe ba con nói chiều nay ghé trường đón em con rồi ra xưởng họp hành gì đó" Chị chủ quán bưng tô cháo đến, ông ta hỏi. "Con gái sao đặt tên Hùng như con trai?" Chị cười. "Ở trường nó tên Hồng, ở nhà quen gọi Hùng từ lúc nhỏ, chúng tôi cắt tóc ngắn, cho mặc đồ con trai, chúng tôi thích con trai..." "Tôi thấy tên Hùng đặt cho con gái có vẻ hợp lý. Nhiều ông tên Hùng mà chẳng hùng dũng gì cả, như tôi chẳng hạn" Chị chủ quán đặt tô cháo trên bàn, không trả lời, chỉ liếc nhìn ông khách, xong chị quay về ngồi sau quầy, khuất sau mấy bó hành xanh, ớt chín đỏ treo như những vật trang trí. Người đàn ông thong thả ăn, mắt lơ đãng nhìn ra đường mưa. Chị chủ quán chăm chú nhìn ông khách, rồi như chợt nhớ ra điều gì, chị lấy trái chanh, xắc mấy miếng, đặt trên cái đĩa nhỏ mang ra. "Tôi quên đem chanh. Ông có uống gì không? Nước ngọt hay bia?" "Chị cho tôi xin trà nóng. Trời mưa uống trà thích lắm" "Dạ, ông chờ cho chút, tôi có sau nhà, trà cho khách uống không được ngon" "Cám ơn chị. Có lẽ tôi là khách đặc biệt mới được chị đãi trà ngon" "Dạ, tôi đoán ông sành uống trà nên phải có trà thơm cho ông" Chị chủ lại về ngồi chỗ cũ. Cô gái sau nhà đi ra, âu yếm ôm vai mẹ. Hai mẹ con chuyện trò nho nhỏ gì đấy. Ông khách nhìn và cười "Ra đường người ta tưởng là hai chị em. Giống nhau quá!" Chị chủ quán cũng cười "Nó lớn rồi, lên trung học mà cứ làm nũng với mẹ như con nít" Chị nói với con gái. "Nước sôi rồi, con lấy hộp trà trên bàn thờ ra đây cho mẹ. Xong rồi lo học bài, làm bài. Theo mẹ hoài, bác khách cười cho" Ông khách không dám nhìn lâu, sợ bất nhã, nhưng cũng nhận ra chị chủ quán có đôi mắt đẹp và buồn xa xăm như đăm chiêu về một nơi nào. Bỗng ông nhíu mày lại, đôi mắt đó, hình như ông đã gặp ở đâu? Ông ngước nhìn chị, bắt gặp chị ta cũng đang nhìn ông. Cả hai bối rối. Ông đành hỏi một câu cho bớt ngượng. "Chị lập quán nầy lâu chưa?" "Dạ, sau giải phóng độ vài năm" "Chắc chị người vùng nầy? Tôi nhớ lần trước có thấy đâu đó mấy chữ Thị Trấn Sông Pha, hình như lúc vừa từ đèo đổ xuống, chữ lớn lắm" "Nó còn đấy chứ, có lẽ trời mưa nên ông không thấy" Chị chủ quán bưng bình trà và một cái tách trên một khay nhỏ "Mời ông dùng trà" "Cám ơn chị. Buôn bán có khá không chị?" "Dạ, cũng đủ sống. Mọi khi trời không mưa thì giờ nầy cũng có lai rai khách đến nhậu" "Chị cho tính tiền" Sau khi trả tiền, ông khách nhìn ra đường. "Mưa lớn quá!" "Mọi năm, tháng nầy đâu có mưa. Hôm qua trời còn nắng mà cũng không lạnh" Và chị ngập ngừng. "Trời còn mưa...Nếu không vội, mời ông cứ ngồi" "Cám ơn chị, tôi định đi loanh quanh đây, nhưng mưa quá!" "Có lẽ ông muốn tìm ai?" "Tôi tìm một người quen.
Từ Ða lạt, một thành phố du lịch trên cao nguyên miền Trung Việt Nam, xuống Nha Trang, một thành phố miền biển phải theo quốc lộ 20, qua đèo Ngoạn Mục, nhà máy thủy điện Ða Nhim, khi đến thị trấn Sông Pha, các xe thường dừng lại để nghỉ ngơi một lúc. Ðây là một thị trấn nhỏ, hẻo lánh, heo hút giữa rừng già, chung quanh là đồi núi chập chùng. Hôm nay trời mưa khiến cảnh vật thêm vắng vẻ và buồn.
Mưa càng lúc càng nặng hạt. Thị trấn Sông Pha với hai dãy phố trên quốc lộ 20 như chìm ngập trong mưa. Người đàn ông lom khom chạy, tay che đầu, cổ rụt xuống, tưởng như thế mưa sẽ không đổ xuống người. Khi đến một quán ăn, ông ta tạt vào hiên, đứng giũ giũ áo, phủi nước trên tóc rồi mới bước hẳn vào trong. Một cái quán bình thường, giống như bâùt cứ quán cơm, phở, mì nào trên quốc lộ, tỉnh lộ. Cũng mái tôle, vách ván, vài cái bàn gỗ mộc, trên để ống đũa, muỗng, mấy chai xì dầu, nước mắm...vài con ruồi bay lảng vảng. Mùi ẩm mốc, mùi đất lẫn với mùi thức ăn gợi cho ông ta cảm giác dễ chịu, tưởng như quen thuộc với nơi nầy rất lâu. Trong quán đã có vài ba người đang xì xụp ăn, mấy ly bia đã cạn. Có lẽ họ là thợ rừng vì bên lề đường có một xe be chở mấy súc gỗ to tướng, dài cỡ vài chục mét. Họ vừa ăn vừa nói chuyện nhát gừng với nhau. Người đàn ông tìm một góc, ngồi tránh gió lùa. Qua khung cửa sổ ông ta nhìn đăm đăm cái dốc cầu lỡ lói, rồi nghiêng người nhìn cho rõ cái cầu sắt, đen đủi, giống một con thú yên lặng chịu đựng cơn mưa lạnh. Mấy người đàn ông ăn xong, kêu lên. " Tính tiền, bà chủ!" Một chị đàn bà, cỡ dưới bốn mươi, từ sau quày đi ra. Họ đối đáp, cười nói xã giao vài câu trong lúc trả tiền, rồi toán đàn ông cũng lom khom chạy ra xe, nổ máy. Chiếc xe be ì ạch leo lên giốc cầu, chậm chạp như con khủng long trườn qua giòng nước chảy xiếc phía dưới, mờ dần trong mưa.
Có tiếng lao xao ngoài đường. Mấy toán học sinh đi học về. Chúng đi từng bọn với nhau, trò chuyện. Những chiếc áo mưa đủ màu. Bọn con gái đi nép dưới hiên nhà, bọn con trai thì lội ngược giòng nước mưa, dùng chân tạt nước vào nhau, đuổi nhau...Buổi chiều mưa u ám bỗng như sống động hẳn lên vì lũ học sinh. Người đàn ông chợt nhớ lại, lần trước, cách đây vài mươi năm, ông cũng ngồi trong quán ăn nhìn ra đường và bọn học trò cũng đi học về. Cảnh vật, nhà cửa hai bên đường đã hoàn toàn đổi khác nhưng chiếc cầu sắt và lũ học trò vẫn thế, dù lần trước trời không mưa, các cô thì áo dài trắng, các cậu quần xanh áo trắng. Ông ngạc nhiên tưởng chừng những cô cậu học sinh ngoài kia vẫn cứ đi học từ lúc đó đến bây giờ. Dáng đi dịu dàng của các cô, vẻ nhanh nhẹn vô tư của các cậu vẫn thế. Và nếu không có cơn mưa, ông đã đứng trên dốc cầu ngắm các cô đi học về rồi lần xuống bờ sông, nhìn mê mãi giòng nước như ông đã làm trước đây, khi ông còn trai trẻ. "Thưa ông dùng chi?" Chị chủ quán đứng bên ông tự lúc nào. "Xin lỗi chị!.." "Dạ, không sao. Ông có định ăn hay uống món gì? Hay ông chỉ ngồi trú mưa, cũng không sao!" "Chị có cháo lòng không? Tôi nhớ lần trước, có ghé lại một quán ăn nào đó, hình như đằng kia kìa, có món cháo lòng ngon lắm" "Dạ tôi cũng có cháo lòng nhưng có lẽ không ngon như ở cái quán mà trước đây ông đã ăn" "Thú thật tôi cũng không nhớ có ngon không, nhưng ở đó có một kỷ niệm nên tất cả thành ra đẹp và ngon. Lúc nãy tôi đi tìm quán cháo lòng thì người ta chỉ đến đây. Bây giờ sao không còn thấy cái quán đó nữa, chị?" "Dạ, quán đó đã đóng cửa, bán nhà cho người khác rồi" "Tiếc quá! Chị cho tô cháo". Trong lúc chị chủ quán lúi húi làm việc, ông ta để ý mới biết phía trước là quán ăn, phía sau làm nơi cư ngụ của cả gia đình. Lối đi vô nhà sau nằm ngay nơi bếp, cách biệt hẳn hai nơi rõ rệt. Một cô học trò chạy ùa vào nhà. "Thưa mẹ, con đi học về!" Nó quay qua chào ông khách. "Chào bác ạ!" "Vâng, chào cháu!" Nó chào xong là biến mất sau cửa. "Hùng ơi! Nhớ nấu cơm kẻo ba con về không kịp" Tiếng con bé từ sau nhà vọng ra. "Sao giờ nầy ba chưa về hả mẹ?" "Nghe ba con nói chiều nay ghé trường đón em con rồi ra xưởng họp hành gì đó" Chị chủ quán bưng tô cháo đến, ông ta hỏi. "Con gái sao đặt tên Hùng như con trai?" Chị cười. "Ở trường nó tên Hồng, ở nhà quen gọi Hùng từ lúc nhỏ, chúng tôi cắt tóc ngắn, cho mặc đồ con trai, chúng tôi thích con trai..." "Tôi thấy tên Hùng đặt cho con gái có vẻ hợp lý. Nhiều ông tên Hùng mà chẳng hùng dũng gì cả, như tôi chẳng hạn" Chị chủ quán đặt tô cháo trên bàn, không trả lời, chỉ liếc nhìn ông khách, xong chị quay về ngồi sau quầy, khuất sau mấy bó hành xanh, ớt chín đỏ treo như những vật trang trí. Người đàn ông thong thả ăn, mắt lơ đãng nhìn ra đường mưa. Chị chủ quán chăm chú nhìn ông khách, rồi như chợt nhớ ra điều gì, chị lấy trái chanh, xắc mấy miếng, đặt trên cái đĩa nhỏ mang ra. "Tôi quên đem chanh. Ông có uống gì không? Nước ngọt hay bia?" "Chị cho tôi xin trà nóng. Trời mưa uống trà thích lắm" "Dạ, ông chờ cho chút, tôi có sau nhà, trà cho khách uống không được ngon" "Cám ơn chị. Có lẽ tôi là khách đặc biệt mới được chị đãi trà ngon" "Dạ, tôi đoán ông sành uống trà nên phải có trà thơm cho ông" Chị chủ lại về ngồi chỗ cũ. Cô gái sau nhà đi ra, âu yếm ôm vai mẹ. Hai mẹ con chuyện trò nho nhỏ gì đấy. Ông khách nhìn và cười "Ra đường người ta tưởng là hai chị em. Giống nhau quá!" Chị chủ quán cũng cười "Nó lớn rồi, lên trung học mà cứ làm nũng với mẹ như con nít" Chị nói với con gái. "Nước sôi rồi, con lấy hộp trà trên bàn thờ ra đây cho mẹ. Xong rồi lo học bài, làm bài. Theo mẹ hoài, bác khách cười cho" Ông khách không dám nhìn lâu, sợ bất nhã, nhưng cũng nhận ra chị chủ quán có đôi mắt đẹp và buồn xa xăm như đăm chiêu về một nơi nào. Bỗng ông nhíu mày lại, đôi mắt đó, hình như ông đã gặp ở đâu? Ông ngước nhìn chị, bắt gặp chị ta cũng đang nhìn ông. Cả hai bối rối. Ông đành hỏi một câu cho bớt ngượng. "Chị lập quán nầy lâu chưa?" "Dạ, sau giải phóng độ vài năm" "Chắc chị người vùng nầy? Tôi nhớ lần trước có thấy đâu đó mấy chữ Thị Trấn Sông Pha, hình như lúc vừa từ đèo đổ xuống, chữ lớn lắm" "Nó còn đấy chứ, có lẽ trời mưa nên ông không thấy" Chị chủ quán bưng bình trà và một cái tách trên một khay nhỏ "Mời ông dùng trà" "Cám ơn chị. Buôn bán có khá không chị?" "Dạ, cũng đủ sống. Mọi khi trời không mưa thì giờ nầy cũng có lai rai khách đến nhậu" "Chị cho tính tiền" Sau khi trả tiền, ông khách nhìn ra đường. "Mưa lớn quá!" "Mọi năm, tháng nầy đâu có mưa. Hôm qua trời còn nắng mà cũng không lạnh" Và chị ngập ngừng. "Trời còn mưa...Nếu không vội, mời ông cứ ngồi" "Cám ơn chị, tôi định đi loanh quanh đây, nhưng mưa quá!" "Có lẽ ông muốn tìm ai?" "Tôi tìm một người quen.
Thú thật, tôi chỉ nhớ tên, chứ không nhớ rõ người, lâu quá!" "Có lẽ ông biết nhà?" "Thì cái quán đằng kia, nhưng đã đổi chủ rồi nên tôi chỉ đi lang thang cho đỡ buồn. Nói đúng ra, tôi tìm một kỷ niệm. Mà chị biết, kỷ niệm thì người thích thì giữ, người không thích không muốn nhớ đến. Nhiều khi chuyện không đâu, chẳng có gì đáng nhớ, lại nhớ suốt đời..." Chị chủ quán về lại sau quày, có vẻ tò mò. "Người quen mà mình quên mặt! Thế làm sao ông tìm?" "Giả như có tìm ra người, chắc gì người nhớ ra mình. Lâu quá! Cỡ vài mươi năm, cho nên tôi tìm cho biết thôi. Tôi nói thế nầy, chắc chị thông cảm với tôi liền. Bây giờ, tình cờ chị tìm thấy quyển vở, quyển sách thời còn đi học, hay rõ hơn, chị đọc lại quyển lưu bút chẳng hạn, chị sẽ bồi hồi nhớ lại tất cả, thương yêu tất cả. Mà những người bạn trước kia, nay đã khác rồi, từ gương mặt đến tâm hồn, suy nghĩ, cho nên trong những giây phút hồi tưởng đó, cách tốt nhất là chị đến trường cũ đứng nhìn, chị sẽ thấy lại cả một quãng đời thanh xuân với bạn bè ngày trước... Nghĩa là nó ở một thế giới khác, cách biệt hẳn với hiện tại. Tôi cũng thế, tôi muốn đến đấy, ngồi lại cái quán ăn cách đây mấy chục năm, gọi một tô cháo, ăn xong, lang thang trên đường nầy, đứng ở dốc cầu kia, ngắm mấy cô nữ sinh đi học về, rồi xuống dưới bờ nhìn giòng sông. Cũng may, con đường còn nguyên, cây cầu còn nguyên, giòng nước thì vẫn thế, chỉ có cái quán ăn không còn mà thôi. Cái lạ là người tôi muốn tìm, tôi cũng ước ao cô ta vẫn chỉ độ mười sáu, mười bảy tuổi thôi. Không phải cho tôi bây giờ, mà để tôi tìm thấy tôi lần đầu tiên trong đời được cô ta ban cho cái hạnh phúc đẹp đẻ, thánh thiện của tình yêu. Cho nên tôi nói với chị là tôi đi tìm dĩ vãng, tìm người cũng có, nhưng lại không muốn gặp người" Ông khách nói một hơi như sợ không còn dịp để thổ lộ ý nghĩ mình. Chị chủ quán có vẻ thông cảm. "Coi bộ ông cũng lãng mạn dữ. Nhưng giả dụ, nay, ông gặp lại người cũ, dĩ nhiên bây giờ già rồi, xấu rồi, ông còn giữ tình cảm, đúng ra, tình yêu của ông đối với người đó không?" "Chị với tôi đều lớn tuổi rồi, nên tôi nói chị sẽ hiểu ngay. Tình yêu lúc đầu là dáng người, ánh mắt, miệng cười, lời nói...Rồi theo thời gian nó không là hình bóng nữa mà là sự cảm thông, chấp nhận nhau. Ý tôi muốn nói là dù cô ta có thế nào tôi vẫn cứ yêu thương. Tôi yêu cái tình mà tôi tin rằng cô ta yêu tôi, yêu cả tình tôi yêu cô ta nữa. Thật khó giải thích! ...Qua bao năm dài những gì còn lại là tấm lòng chứ không phải sắc diện bề ngoài" Bàn của ông khách cách chỗ ngồi của chị chủ quán độ năm mét, nhưng tiếng mưa nghe rào rào trên mái tôle, ông khách sợ người nghe không rõ, không thông cảm nên ông nói lớn tiếng. Chị chủ quán có vẻ bối rối, nhìn ra đường rồi chị lại cúi xuống lấy ấm nước đến rót vào bình trà cho ông khách. "Ông bảo đi tìm người ta mà lại không muốn gặp, vậy ông đến đây làm gì?... Ðể tôi bỏ thêm ít trà nữa" "Cám ơn chị. Thật tâm, tôi muốn gặp nhưng sợ người ta quên nên không dám đối diện. Mà dù có còn nhớ, tôi cũng không nên xáo trộn cuộc sống của người ta. Chắc chắn cô ta đã lập gia đình, có con cái, sống với hạnh phúc bình thường của một người bình thường" Chị chủ quán đi lấy hộp trà, mở ra, nghiêng đổ một ít vào lòng bàn tay rồi mở nắp bình trà, cẩn thận bỏ vào. Ông khách ngước nhìn chị, hai khuôn mặt gần sát nhau, ông thấy rõ đôi mắt đen chăm chú vào bình trà, chiếc mũi thon, hơi hếch lên, vẻ nghịch ngợm, miệng mím lại nửa như làm nghiêm, nửa như cười, gò má hồng, da mịn. Ông nghe cả hơi thở nặng nề từ đồi ngực căng, phập phồng sức sống của tuổi sung mãn. Ông nói nhỏ "Cám ơn chị, trà thơm quá! Vị đậm và có hậu" Chị chủ vẫn cúi xuống, lắc nhẹ bình trà. "Ông chờ một lát cho trà ngấm. Trà Blao ướp ngâu, chúng tôi thường uống trà nầy, quen rồi" Chị quay về quày. "Nghe ông kể tôi cũng tò mò, muốn biết câu chuyện ra sao và tên của người hân hạnh được ông nhớ mãi, suốt mấy mươi năm. Tôi sẽ cố tìm giúp ông, biết đâu tôi sẽ tìm thấy. Tôi là người ở địa phương nầy" "Lúc nãy chị bảo tôi lãng mạn, có lẽ đúng. Chuyện chẳng có gì. Với người khác không đáng để nhớ, nhưng với tôi lại là một biến cố lớn trong đời. Ðại khái như thế nầy. Năm đó, tôi học đại học sắp ra trường, ở Sài Gòn. Trong dịp tôi theo mấy người anh họ đi dự đám cưới của một người bà con trên Ða Lạt, lúc quay về chúng tôi đồng ý sẽ ghé Nha Trang chơi. Tôi nhớ đó là lần đầu tôi theo quốc lộ 20 nên tất cả đều mới lạ và đẹp. Ðèo Ngoạn Mục, Ða Nhim, Sông Pha... Lúc vừa vào thị trấn Sông Pha thì xe bị trục trặc, người lái xe bảo phải chờ hơn hai tiếng đồng hồ để người phụ tài đi mua phụ tùng về thay. Chúng tôi rủ nhau vào quán đằng kia. Trong khi các người anh nhậu nhẹt, tôi chỉ kêu một tô cháo lòng. Cô con gái của chủ quán đem cháo ra. Tôi đoán thế vì tôi thấy cô đi học về, vào nhà rồi ra phụ với gia đình ngay. Cô trông rất có duyên và vui. Bây giờ gặp lại, có lẽ tôi không nhận ra, chỉ còn ấn tượng là cô có đôi mắt đẹp, đen nhánh, như cười, môi hồng tự nhiên. Tôi bảo cô “Anh đi chiếc xe đò kia kìa, nó bị hư phải sửa, ít nhất vài tiếng nữa. Anh ra đằng dốc cầu kia đứng chơi, khi nào xe đó sửa xong, em bảo họ chờ một lát và cho người ra kêu anh, được không?” “Ðược chứ, nhưng nếu kêu anh, anh sẽ thưởng gì?” “Nếu là người phụ việc ở đây, anh sẽ biếu ít tiền để cám ơn” “Nếu em gọi?” Tôi đùa “Nếu là em, anh sẽ tặng em quả tim của anh, để em nấu cháo, khách sẽ khen ngon” Cô vờ làm vẻ sợ hãi “Anh nói nghe mà ghê!” Tính tôi vẫn thế, đến chỗ lạ là thích lang thang, nghiêng ngó cảnh vật, đường sá, nhất là nơi nào có chiếc cầu bắc qua sông là tôi có thể đứng ngắm nhà cửa bên kia bờ, ngắm giòng nước không bao giờ chán. Tôi nhớ rất rõ, khi tôi đứng dưới dốc cầu, mặt trời lặn sau dãy rừng cây âm u phía xa, màu mây trời làm đỏ rực mặt sông, tiếng chim về tổ gọi nhau...Chị có ra đó đứng ngắm cảnh chiều tà lần nào chưa? Ðẹp lắm! Vẻ êm đềm của thị trấn yên tĩnh, hiền hòa nầy cứ ở mãi trong trí tôi, biến thành ước ao ngày nào được về đây sống, và mỗi buổi chiều ra ngắm giòng sông... Trong lúc đang mơ màng thì tôi nghe tiếng kêu “Anh đó, về lẹ lên, xe sắp chạy rồi!” Tôi ngẩn lên thấy cô học trò, con chủ quán, vừa chạy trên bờ vừa kêu. Cái bờ sông, tuy không cao lắm, nhưng có cỏ, nên cô bị trược chân, gượng lại không được, cứ chạy chúi nhủi xuống phía tôi. Tôi giữ được tay cô nhưng cô cũng ngã nhào vào người tôi, khiến tôi cũng suýt ngã theo. Ðôi mắt cô ngước nhìn tôi sáng long lanh. Cô mắc cỡ nên má cô hồng. Tóc cô dài và đen, vướng đầy cánh tay tôi. Không hiểu sao tôi lại đủ can đảm hôn lên môi cô, chỉ hôn phớt thôi. Môi cô mềm, hơi thở cô thơm như của trẻ thơ. Ðó là nụ hôn khiến tôi rung động, hạnh phúc nhất trong đời. Bao nhiêu năm rồi, tôi vẫn cảm tưởng như mới đây. Cô đẩy tôi ra, lùi lại, nhìn sửng tôi rồi cô cười và nói “Chạy tìm anh bắt mệt!” Tôi nói “Cám ơn em”. Có lẽ cô bị xúc động nên cứ lúng túng không lên được bờ dốc. Tôi nắm tay cô kéo đi “Anh tên Hùng, em tên gì?” “Phúc Lan” “Anh sẽ trở lại thăm em” Lên khỏi bờ sông, cô gỡ tay tôi ra và chạy trước. Cô mới lớn, hơi cao và ốm nhưng dáng đi đã uyển chuyển, tóc cô bay trong gió..." Chị chủ quán bỗng kêu lên. "Thôi chết, trời mưa mà tôi quên đậy mớ củi, ướt hết!" Chị khoác áo mưa, cứ để đầu trần chạy ra cửa, vòng ra sau hè. Người đàn ông không quan tâm, rót nước trà uống, ông ta như muốn kể cho riêng mình nghe. Một lát chị quay vào, cởi áo mưa treo trước hiên. Ðầu tóc, mặt mũi ướt đẫm nước mưa. Chị nói. "Mưa lớn quá, ướt hết cả!" Chị ra sau quày, lấy khăn xoa đầu tóc, lau mặt, rồi hỉ mũi sụt suỵt. Người đàn ông kêu lên. "Chị bị cảm rồi đó!" "Cám ơn, tôi sẽ uống thuốc. Ông kể tới đâu rồi? Xin lỗi, tôi vội quá" "Chuyện đến đó là hết, chẳng có gì hay ho" "Ông hứa trở lại, rồi ông có trở lại không?" "Thú thật, đôi khi tôi cũng quên bẵng đi. Chẳng phải tôi có người yêu khác, mà cuộc đời cứ bắt đầu óc mình quay cuồng với bao chuyện rắc rối, khi nhớ đến cô bé đó thì lại tự hẹn mình chờ dịp thuận tiện. Rồi vụ đổi đời năm bảy lăm, tôi không thể đi đâu được. Bây giờ tôi ở xa lắm. Hơn nửa đời người, bao nhiêu biến chuyển, chỉ còn đọng lại trong tâm hồn tôi kỷ niệm nhỏ bé với cô Phúc Lan và buổi chiều Sông Pha năm nào. Tôi nhớ người cũ, cảnh cũ lắm mới tìm về đây. Tôi thấy thích ở đây, ở đến già đến chết cũng được" Chị chủ quán cười "Nếu ông về ở đây, hễ đến quán nầy, tôi tính nửa giá thôi. Nhưng bây giờ ông định làm gì, có muốn gặp lại cô bé ngày xưa không? Theo ông kể, có lẽ tuổi cô ta cũng cỡ tôi, cũng đi học cùng trường với tôi, nhưng sao nghe cái tên lạ quá. Ðể tôi giúp ông, tôi sẽ hỏi các bạn tôi ở đây, dù cô ta có đi nơi khác cũng còn bà con, bạn bè biết cô ta. Nhưng hỏi ra thì báo cho ông cách nào. Ông có địa chỉ không? Ông có muốn nhắn gì với cô ta không?" "Ý kiến chị vậy mà hay. Tôi chỉ cần biết cô ta ở đâu để có dịp tôi chỉ đến nhìn thôi, chứ không gặp. E cô ta đã quên hẳn tôi rồi! Lại nữa tôi không muốn xáo trộn cuộc sống của cô ta. Tôi là kẻ ngoại cuộc rồi" "Ông cứ cho tôi địa chỉ, khi tìm ra, tôi sẽ báo cho ông" Rồi chị cười. "Tôi cũng bắt chước cô bé ngày xưa của ông, hỏi ông, nếu tìm ra cô ta, ông thưởng gì cho tôi? Tôi không cần tiền cũng không cần quả tim của ông" "Chà, khó thật! Thôi thì như chị nói, tôi sẽ đến quán nầy hằng ngày, suốt quãng đời còn lại của tôi" "Ðùa với ông thôi, bây giờ ông cho tôi địa chỉ, nhưng bà xã ông nổi ghen thì không phải lỗi của tôi đâu nghe" "Tôi chẳng có gia đình. Tôi đã là thanh niên râu rồi, lỡ thì rồi! Chị có giấy cho tôi xin tờ, cây viết nữa" Chị chủ quán gọi lớn. "Hùng ơi, đem cho mẹ cây viết và tờ giấy" Cô bé chạy ra. "Con đem cho bác đằng kia" Chị chủ quán ngồi nhìn con gái và ông khách, ngạc nhiên thấy hao hao như hai cha con. Ông khách hỏi ý kiến chị chủ quán. "Có lẽ tôi nên viết mấy giòng cho cô ta để nhắc lại chuyện cũ xem cô có nhớ ra không. Tôi nên gọi cô ta là chị, là bà hay là cô?" "Tôi thấy ông nên viết là bà hợp lý hơn" "Phải rồi, gọi là bà đứng đắn hơn. Rủi người ta không nhớ ra mình cũng không bảo rằng mình thiếu lịch sự. Người đàn ông ngồi nép vào vách để tránh bụi mưa, chống cằm suy nghĩ một lúc rồi cắm cúi viết. Ðược độ nửa trang ông đọc lại rồi đem đến cho chị chủ quán. "Chị xem tôi viết thế nầy có được không?"
“Kính gửi bà Phúc Lan,
“Tôi tên Hùng, cách đây gần hai mươi năm, tôi là người khách đến quán của gia đình bà ăn tô cháo. Xong, tôi ra bờ sông ngắm cảnh trong lúc chờ xe đò hỏng phải sửa chữa. Bà có ra gọi tôi vì xe đã sửa xong, tôi được biết tên bà là Phúc Lan. Tuy chỉ có thế nhưng tôi vẫn nhớ đến bà mãi. Hôm nay tôi ghé lại Sông Pha thì quán của gia đình bà không còn nữa! Tôi chỉ mong được biết tin về bà bây giờ ra sao? Bà chắc đã có gia đình, tôi thì cũng lớn tuổi rồi, không còn như ngày xưa! Thế nên tôi chỉ ước mong bà xem tôi như một người bạn nếu bà còn nhớ ra tôi. Còn như bà đã quên bẵng tôi thì tôi xin lỗi bà về những giòng chữ vô duyên nầy. Tôi đã kể hết cho chị chủ quán, người đưa mãnh giấy nầy, nếu tò mò, xin bà cứ hỏi chị ta. Kính chúc bà và ông nhà và các cháu khang an, vạn sự như ý. Kính thư . Hùng”
Chị chủ quán đọc xong. "Ông viết thế nầy đủ rồi, nếu cô ta có hỏi gì về ông, tôi sẽ kể lại như ông đã kể cho tôi nghe" "Cám ơn chị. Tiếc quá, hôm nay trời mưa, tôi không thể đi lòng vòng thị trấn nầy" "Ở đây buồn lắm, trời mưa lại càng buồn hơn. Ông từng đi đây đi đó...mà lại thích ở đây cũng lạ! Nếu ông chờ, hy vọng ngày mai mưa sẽ tạnh" "Sáng sớm tôi phải đi rồi. Chào chị!"
Nói xong ông ta lại xòe tay che đầu, rụt cổ lại đi nép vào hàng hiên. Chị chủ quán ngồi nhìn theo ông ta cho đến khi đi khuất. Chị bần thần đọc lại lá thư rồi xé, ném vào bếp lửa, chỉ giữ lại cái địa chỉ.
Sông Pha Ngày...tháng...năm...
“Anh thân yêu,
“Buổi chiều, lúc anh rời quán, em muốn chạy theo kêu anh, cho anh rõ rằng người anh muốn tìm là em, nhưng không hiểu sao, em chỉ biết ngồi chết lặng. Tối đó, em cứ thao thức mãi. Tưởng tượng anh đang ở trong quán trọ đằng kia, ngay tại Sông Pha nầy...Anh gần đó mà sao em thấy xa vời quá! Tình yêu của em, ước mơ của em, hạnh phúc của em...em tưởng là tuyệt vọng, bây giờ đã hiện ra, nhưng em không còn quyền quyết định nữa!
“Và giờ đây, em đang khóc khi viết cho anh. Khóc vì mừng và giận anh. Sao anh hẹn mà không trở lại? Chỉ một cái trượt chân định mệnh, em ngã vào vòng tay anh, em gỡ tay anh ra nhưng em không gỡ được linh hồn em, cuộc đời em ra khỏi anh. Ðã bao buổi chiều em ra ngồi ở dốc cầu, âm thầm khóc vì nhớ anh. Em tưởng như anh còn đứng đấy. Dáng anh cao, mắt anh sáng, miệng tươi cười với em. Vì lời hứa của anh mà em hy vọng mãi. Nghe tiếng xe đò ngừng trước đường là em hồi hộp, thầm nhủ rằng anh đang xuống xe và đến với em. Chỗ anh ngồi trong quán, không lúc nào là em không nhìn chừng. Em yêu thương cả đến chỗ ngồi của anh! Và tên anh, nghe người ta gọi nhau, em cũng rung động, nhớ anh.
“Với tuổi thơ ngây, em chỉ cầu mong được gặp anh, nhìn anh, chuyện trò cùng anh, thế thôi. Ðến khi trưởng thành, nụ hôn của anh, vòng tay anh thành ước mơ được anh ấp ủ, được quấn quít bên anh.
“Khi quyết định lấy chồng, em cũng ra dốc cầu ngồi khóc đến sưng cả mắt mà chẳng biết tâm sự với ai. Em chỉ biết kêu lên với giòng sông, với gió chiều “Xin hẹn anh kiếp sau” tưởng như gió sẽ đưa lời của em đến với anh. Nhưng biết anh nơi đâu?
"Chiều nay em cũng lại ra đấy, đứng nhìn giòng sông, lòng em vui khi anh đã quay lại nhưng không khỏi ngậm ngùi vì những ước mơ chẳng còn gì. Em cũng đành thì thầm với giòng sông, với gió chiều “Xin hẹn anh kiếp sau”. Anh bảo rằng đã quên em, chỉ nhớ đôi mắt em rất vui, rất đẹp. Bây giờ đôi mắt em không còn vui, cũng chẳng còn đẹp đến độ anh đã gặp mà không nhận ra em! Em thì giây phút đầu đã biết ngay là anh, nhưng không hiểu anh có còn nghĩ đến em không? Ðến khi nghe anh kể lại, khi anh nhắc đến tên anh, tên em, em phải chạy ra ngoài mưa đứng khóc. Em khóc say sưa, vì vui mừng và cũng vì đau khổ. Anh ngồi đó mà như bị một hàng rào nhăn cách. Em đã là gái có chồng. Em không còn quyền gì với chính em nữa. Yêu anh, nhớ anh đã là một hạnh phúc. Ðược biết anh cũng nhớ đến em, hạnh phúc và lòng biết ơn anh tràn ngập lòng em. Bao nhiêu năm rồi, nụ hôn của anh, có bao giờ em quên. Nhiều đêm em nằm mơ, thấy gặp lại anh, em khóc vì vui mừng, nhưng khi tỉnh dậy, biết chỉ là giấc mơ, em càng khóc vì càng nhớ anh hơn. Và ngay khi đang viết thư nầy, em cũng đầm đìa nước mắt...Chiều hôm qua, anh đến với em. Có phải là giấc mơ không anh?
"Dù sao cũng là một an ủi cho em, không bỏ công em lập quán bên đường để chờ anh. Ðứa con gái đầu lòng, em đặt tên anh để mỗi ngày gọi anh cho đỡ nhớ, và em cũng không ngờ nó lại phảng phất giống anh.
"Từ hôm nay em lại nhìn chừng về phía bàn anh ngồi, lại hy vọng anh sẽ quay về. Anh vẫn thế, nhưng em đã thay đổi. Em đã có chồng, có con. Em thương chồng, thương con. Em có một gia đình bình thường, một hạnh phúc bình thường như anh đã bảo. Lý trí em thì nghe theo lời anh “Không muốn xáo trộn cuộc sống của em” Nhưng tự tim em, tự tâm hồn em, cứ mong ngóng được gặp lại anh hằng ngày.
“Hay là thế nầy. Chúng ta thỏa thuận, cứ vào gần cuối mùa Xuân, mỗi năm anh về thăm em một lần, cũng vào buổi chiều như hôm trước. Anh như là khách lạ, ghé vào quán của em. Anh đừng chuyện trò, hỏi han gì em. Anh cứ ngồi đấy, để em được nhìn thấy anh trong chốc lát, là ban cho em hạnh phúc tuyệt vời rồi. Xin anh đừng liên lạc gì với em cả. Em không ghi địa chỉ của em là vì thế.
“Em van anh, đừng thực hiện ý định về sống suốt đời ở thị trấn nầy. Dốc cầu còn đó, giòng sông còn đó, ánh nắng chiều vẫn vậy. Nếu anh về ở hẳn nơi đây, mỗi chiều anh ra đứng đấy thì cái thảm cỏ kia sẽ làm trượt chân em. Lần nầy, em biết, sẽ không gỡ tay anh ra được nữa.
“Kính gửi bà Phúc Lan,
“Tôi tên Hùng, cách đây gần hai mươi năm, tôi là người khách đến quán của gia đình bà ăn tô cháo. Xong, tôi ra bờ sông ngắm cảnh trong lúc chờ xe đò hỏng phải sửa chữa. Bà có ra gọi tôi vì xe đã sửa xong, tôi được biết tên bà là Phúc Lan. Tuy chỉ có thế nhưng tôi vẫn nhớ đến bà mãi. Hôm nay tôi ghé lại Sông Pha thì quán của gia đình bà không còn nữa! Tôi chỉ mong được biết tin về bà bây giờ ra sao? Bà chắc đã có gia đình, tôi thì cũng lớn tuổi rồi, không còn như ngày xưa! Thế nên tôi chỉ ước mong bà xem tôi như một người bạn nếu bà còn nhớ ra tôi. Còn như bà đã quên bẵng tôi thì tôi xin lỗi bà về những giòng chữ vô duyên nầy. Tôi đã kể hết cho chị chủ quán, người đưa mãnh giấy nầy, nếu tò mò, xin bà cứ hỏi chị ta. Kính chúc bà và ông nhà và các cháu khang an, vạn sự như ý. Kính thư . Hùng”
Chị chủ quán đọc xong. "Ông viết thế nầy đủ rồi, nếu cô ta có hỏi gì về ông, tôi sẽ kể lại như ông đã kể cho tôi nghe" "Cám ơn chị. Tiếc quá, hôm nay trời mưa, tôi không thể đi lòng vòng thị trấn nầy" "Ở đây buồn lắm, trời mưa lại càng buồn hơn. Ông từng đi đây đi đó...mà lại thích ở đây cũng lạ! Nếu ông chờ, hy vọng ngày mai mưa sẽ tạnh" "Sáng sớm tôi phải đi rồi. Chào chị!"
Nói xong ông ta lại xòe tay che đầu, rụt cổ lại đi nép vào hàng hiên. Chị chủ quán ngồi nhìn theo ông ta cho đến khi đi khuất. Chị bần thần đọc lại lá thư rồi xé, ném vào bếp lửa, chỉ giữ lại cái địa chỉ.
Sông Pha Ngày...tháng...năm...
“Anh thân yêu,
“Buổi chiều, lúc anh rời quán, em muốn chạy theo kêu anh, cho anh rõ rằng người anh muốn tìm là em, nhưng không hiểu sao, em chỉ biết ngồi chết lặng. Tối đó, em cứ thao thức mãi. Tưởng tượng anh đang ở trong quán trọ đằng kia, ngay tại Sông Pha nầy...Anh gần đó mà sao em thấy xa vời quá! Tình yêu của em, ước mơ của em, hạnh phúc của em...em tưởng là tuyệt vọng, bây giờ đã hiện ra, nhưng em không còn quyền quyết định nữa!
“Và giờ đây, em đang khóc khi viết cho anh. Khóc vì mừng và giận anh. Sao anh hẹn mà không trở lại? Chỉ một cái trượt chân định mệnh, em ngã vào vòng tay anh, em gỡ tay anh ra nhưng em không gỡ được linh hồn em, cuộc đời em ra khỏi anh. Ðã bao buổi chiều em ra ngồi ở dốc cầu, âm thầm khóc vì nhớ anh. Em tưởng như anh còn đứng đấy. Dáng anh cao, mắt anh sáng, miệng tươi cười với em. Vì lời hứa của anh mà em hy vọng mãi. Nghe tiếng xe đò ngừng trước đường là em hồi hộp, thầm nhủ rằng anh đang xuống xe và đến với em. Chỗ anh ngồi trong quán, không lúc nào là em không nhìn chừng. Em yêu thương cả đến chỗ ngồi của anh! Và tên anh, nghe người ta gọi nhau, em cũng rung động, nhớ anh.
“Với tuổi thơ ngây, em chỉ cầu mong được gặp anh, nhìn anh, chuyện trò cùng anh, thế thôi. Ðến khi trưởng thành, nụ hôn của anh, vòng tay anh thành ước mơ được anh ấp ủ, được quấn quít bên anh.
“Khi quyết định lấy chồng, em cũng ra dốc cầu ngồi khóc đến sưng cả mắt mà chẳng biết tâm sự với ai. Em chỉ biết kêu lên với giòng sông, với gió chiều “Xin hẹn anh kiếp sau” tưởng như gió sẽ đưa lời của em đến với anh. Nhưng biết anh nơi đâu?
"Chiều nay em cũng lại ra đấy, đứng nhìn giòng sông, lòng em vui khi anh đã quay lại nhưng không khỏi ngậm ngùi vì những ước mơ chẳng còn gì. Em cũng đành thì thầm với giòng sông, với gió chiều “Xin hẹn anh kiếp sau”. Anh bảo rằng đã quên em, chỉ nhớ đôi mắt em rất vui, rất đẹp. Bây giờ đôi mắt em không còn vui, cũng chẳng còn đẹp đến độ anh đã gặp mà không nhận ra em! Em thì giây phút đầu đã biết ngay là anh, nhưng không hiểu anh có còn nghĩ đến em không? Ðến khi nghe anh kể lại, khi anh nhắc đến tên anh, tên em, em phải chạy ra ngoài mưa đứng khóc. Em khóc say sưa, vì vui mừng và cũng vì đau khổ. Anh ngồi đó mà như bị một hàng rào nhăn cách. Em đã là gái có chồng. Em không còn quyền gì với chính em nữa. Yêu anh, nhớ anh đã là một hạnh phúc. Ðược biết anh cũng nhớ đến em, hạnh phúc và lòng biết ơn anh tràn ngập lòng em. Bao nhiêu năm rồi, nụ hôn của anh, có bao giờ em quên. Nhiều đêm em nằm mơ, thấy gặp lại anh, em khóc vì vui mừng, nhưng khi tỉnh dậy, biết chỉ là giấc mơ, em càng khóc vì càng nhớ anh hơn. Và ngay khi đang viết thư nầy, em cũng đầm đìa nước mắt...Chiều hôm qua, anh đến với em. Có phải là giấc mơ không anh?
"Dù sao cũng là một an ủi cho em, không bỏ công em lập quán bên đường để chờ anh. Ðứa con gái đầu lòng, em đặt tên anh để mỗi ngày gọi anh cho đỡ nhớ, và em cũng không ngờ nó lại phảng phất giống anh.
"Từ hôm nay em lại nhìn chừng về phía bàn anh ngồi, lại hy vọng anh sẽ quay về. Anh vẫn thế, nhưng em đã thay đổi. Em đã có chồng, có con. Em thương chồng, thương con. Em có một gia đình bình thường, một hạnh phúc bình thường như anh đã bảo. Lý trí em thì nghe theo lời anh “Không muốn xáo trộn cuộc sống của em” Nhưng tự tim em, tự tâm hồn em, cứ mong ngóng được gặp lại anh hằng ngày.
“Hay là thế nầy. Chúng ta thỏa thuận, cứ vào gần cuối mùa Xuân, mỗi năm anh về thăm em một lần, cũng vào buổi chiều như hôm trước. Anh như là khách lạ, ghé vào quán của em. Anh đừng chuyện trò, hỏi han gì em. Anh cứ ngồi đấy, để em được nhìn thấy anh trong chốc lát, là ban cho em hạnh phúc tuyệt vời rồi. Xin anh đừng liên lạc gì với em cả. Em không ghi địa chỉ của em là vì thế.
“Em van anh, đừng thực hiện ý định về sống suốt đời ở thị trấn nầy. Dốc cầu còn đó, giòng sông còn đó, ánh nắng chiều vẫn vậy. Nếu anh về ở hẳn nơi đây, mỗi chiều anh ra đứng đấy thì cái thảm cỏ kia sẽ làm trượt chân em. Lần nầy, em biết, sẽ không gỡ tay anh ra được nữa.
10. PHỐ HỘI CỦA TÔI
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh
Bùi Giáng
Hội An là một thành phố cổ, cách Ðà Nẵng về phía nam ba mươi cây số. Cứ theo Quốc Lộ 1 đến ngã ba Vĩnh Ðiện, quẹo trái độ mười cây số là đến Hội An. Có thể nói đây là thành phố xưa nhất của Việt Nam còn nguyên vẹn với những đường phố hẹp như những con hẻm, những ngôi nhà hàng trăm năm tuổi, xây theo kiểu "nhà ống", dài cả trăm mét, thông từ mặt đường phố nầy qua đường phố kia, với tường gạch dày gần nửa thước tây, mái lợp âm dương, sườn nhà bằng gỗ lim, gõ, mít...với lối cấu kết, chạm trổ rất tinh vi, cầu kỳ, không hề dùng đinh và rất nhiều cột! Lúc tôi còn nhỏ, khuya thức dậy đi tiểu, mắt nhắm mắt mở, hai tay quờ quạng phía trước. Vậy mà cứ đập trán vô cột nhà hoài!
Thời chúa Nguyễn dựng nghiệp ở phương Nam, khoảng thế kỷ mười sáu, Hội An đã là thương cảng quốc tế quan trọng. Người Nhật, người Tàu, người Bồ Ðồ Nha...với các thương thuyền, ra vào buôn bán, trao đổi hàng hóa và truyền giáo. Người Nhật đã xây ở Hội An một cây cầu nhỏ, trên đó có chùa, có mái che theo kiến trúc Nhật Bản rất đẹp. Kỷ niệm quí giá đó (của người Nhật) đã trở thành biểu tượng cho Hội An. Hiện nay người Nhật thích đến thăm chiếc cầu nầy. Họ coi như một món quà khiêm tốn của tổ tiên họ tặng cho Hội An, làm tăng thêm vẻ đẹp của thành phố cổ kính, êm đềm và hẻo lánh nầy. Ðó là Chùa Cầu.
Hội An rất nhỏ. Thượng Chùa Cầu, Hạ Âm Bổn (hai đầu của thành phố) khoảng hai cây số. Bề rộng, từ bờ sông đến "Nhà thờ Ðạo" khoảng một cây số. Tuy nhỏ nhưng được cả thế giới chú ý. Liên Hiệp Quốc đã xếp Hội An vào tài sản văn hóa nhân loại, cần được bảo tồn.
Nếu có dịp, bạn nên về thăm Hội An một chuyến. Bạn sẽ có cảm tưởng như đang đi vào quá khứ, tưởng như đang sống vào thế kỷ 18, 19. Nhà cửa quá xưa, giống như miếu đình còn sót lại ở thôn quê. Bạn không thấy rốn, thấy đùi của các cô gái, không thấy quán nhậu, không nghe cãi lớn tiếng, không thấy ai đi nhanh. Ðồng hồ ở Hội An như chạy rất chậm!
Tôi sinh ra, lớn lên ở Hội An. Khoảng giữa thập niên 1950, tôi bắt đầu đến trường. Tôi học tiểu học ở đình Ông Voi, trên đường Lê Lợi, cách bờ sông Hội An, đường Bạch Ðằng ba, bốn trăm mét. Trường gồm ba lớp học, thẳng góc nhau, cộng với ngai thờ, với nghi trượng, đối liễn là phần chính của đình tạo thành bốn mặt kín, giữa là sân nhỏ, lát đá, mỗi bề khoảng vài chục mét. Phần ngai thờ luôn luôn đóng cửa, khi có tế lễ mới mở ra và chúng tôi được nghỉ học. Trước đình có một sân đất rất rộng. Giờ ra chơi, học trò ra sân trước đùa nghịch, chạy nhảy cho được tự do, thoải mái. Trên sân rộng nầy có tượng hai con voi bằng vôi hay xi măng gì đó, to cỡ con voi con. Bọn nhóc tụi tôi, nghịch phải biết, nhưng chẳng đứa nào dám héo lánh đến gần tượng hai Ông Voi. Sợ ngài vật sặc máu. Chúng tôi cứ đồn nhau rằng trước đây, có thằng chơi nghịch, leo lên tượng Ông Voi, ngài vật xuống nằm dưới bụng Ông Voi, và ngài đè ói máu suýt chết.
Tôi còn nhớ một vài chuyện về các bạn học của tôi thời tiểu học. Năm đầu tiên vào học lớp năm (bây giờ là lớp một). Tôi ốm yếu và rất khờ khạo, trong khi tụi bạn thì vui vẻ, nhanh nhẹn hơn nhiều. Một lần trong giờ ra chơi, trời mưa, cả bọn đứng vơ vẩn trước hiên nhìn mưa rơi. Tôi đang đứng một mình thì một thằng từ phía sau, nhảy phóc lên lưng tôi, bắt cõng đi. Thằng đó tên Răng (Jean), là thằng nghịch nhất lớp, chuyên ăn hiếp những đứa khác. Tôi bị nó ngồi lên lưng, năïng muốn xính vính, đi sao nổi! Tôi bèn cúi xuống thật thấp, như người ta tập thể dục, vậy là nó lộn mèo qua đầu tôi, té cái ịch về phía trước, nằm ngay trong vũng nước. Từ đó nó không bao giờ động đến tôi. Lớp tôi có thằng Thương. Học "dốt tổ mẹ" nhưng lại có tài chùi xe đạp của thầy Cam láng bóng. Trường Ông Voi bấy giờ có thầy Trợ Cam. Ðứa nào đã học thầy Cam là coi như suốt thời tiểu học chỉ học thầy Cam thôi. Thầy dạy từ lớp năm (lớp một), sang năm, học trò của thầy lên lớp tư (lớp hai), thầy cũng dạy lớp tư, cũng bọn đệ tử đó, cứ thế lên đến lớp nhất, khi bọn đệ tử lên trung học, thầy bắt đầu lại lớp năm (lớp một) với lũ học trò mới. Vì thế thầy biết rõ gia cảnh, tính tình, tư chất từng đứa một. Thầy Cam có chiếc xe đạp Bờ Rô (Peugeot), khi đến trường thầy dựng ở cửa lớp. Ðến giờ trả bài (học trò lên đọc lại bài học hôm qua), thầy gọi thằng Thương đi chùi xe, vì thầy biết nhà nó nghèo, đi học về, nó phải phụ cha mẹ làm việc rất vất vả, tối đến, mệt mỏi quá, nó ngủ khò, làm một giấc đến sáng, dậy ôm vở đi học, nên chẳng bao giờ thuộc bài. Thằng Thương có bộ đồ nghề chùi xe, lúc nào cũng thủ sẵn trong túi quần. Ðến giờ trả bài, nó ra cửa chùi xe cho thầy. Có bữa thầy quên ra lịnh, nó vẫn tự động ra chùi xe. Tôi ngồi gần cửa, thấy nó chùi rất lành nghề, nhanh nhẹn như mấy đứa đánh giày. Trước hết nó dùng cái que xủi đất dính phía trong dè xe, rồi lại dùng cây cọ quét đất cát còn dính trên bánh xe. Nó quây bánh xe nghe tách tách nho nhỏ vừa rà cái cọ trên bánh xe cho thật sạch rồi mới moi nùi giẻ dưới yên xe ra lau dè xe. Chỗ nào còn dính dơ, nó "phịt" nước miếng vào đó và chùi là sạch ngay. Riêng bộ căm xe, nó lấy miếng giấy nhám từ túi quần ra, kẹp cái căm giữa miếng giấy và vuốt lên vuốt xuống, cây căm xe láng bóng như mới. Những buổi chiều thầy đạp xe trên đường phố, ánh mặt trời chiếu những cái căm xe lấp la, lấp lánh như có gắn kim cương. Không ai hiểu sao xe thầy Cam lúc nào cũng mới tinh? Có lẽ thời tiểu học, chỉ thằng Thương là sướng nhất, vì không bao giờ phải trả bài. Riêng tôi thì ở trường hợp đặc biệt. Tôi và một vài đứa nữa có tài nhớ bài ngay khi chép xong trên bảng đen. Khi có bài học mới thầy viết lên bảng cho học trò chép vào vở, tôi vừa chép bài vừa lẩm nhẩm đọc. Thầy viết câu nào là tôi thuộc câu đó. Thầy viết vừa xong, tôi cũng vừa thuộc hết cả bài. Chờ đến khi cả lớp chép xong, thầy hỏi "Ðứa nào lên đọc bài?" là tôi xung phong lên đọc ngay, thầy cho điểm, thế là hôm sau tôi khỏi phải lên trả bài vì bài đó tôi đã có điểm rồi. Có thằng Nguyễn Hồng Hà cũng thuộc bài kiểu đó. Năm nào tôi với nó cũng tranh nhau phần thưởng nhất nhì. Hai đứa tôi đều mồ côi cha mà trường chỉ cấp một học bổng nên chúng tôi chia hai học bổng đó, mỗi đứa một nửa. Nguyễn Hồng Hà, mới tiểu học mà viết chữ rất đẹp, giống như (hiện nay) computer "viết chữ kiểu" vậy. Có thầy Lưu Nhàn, nhà ở giếng Bá Lễ viết chữ cũng đẹp. Ty tiểu học thường giao cho hai người nầy viết bằng cấp, giấy khen, chứng chỉ...là những giấy tờ "long trọng". Ðiều không ngờ là sau năm mươi năm, tôi gặp lại Nguyễn Hồng Hà tại xứ Mỹ. Năm 2007 vợ chồng tôi từ Virginia qua California thăm gia đình anh ta. Anh ta hiện là kiến trúc sư, ở Sacramento, tiểu bang California. Nếu không nhắc, tôi nhìn không ra vì trông anh ta bậm trợn hơn thời còn đi học, lúc đó là học trò, đẹp trai, "bạch diện thư sinh".
Dưới tiểu học đứa nào cũng ham chơi, nên trừ bọn con gái và vài đứa con nhà gia giáo, đa số, giỏi lắm thuộc lõm bõm. Cho nên giờ trả bài là giờ đau tim của bọn nhác học. Hễ thầy giở sổ điểm ra là không khí căng thẳng bao trùm cả lớp. Ðứa thuộc bài thì nhơn nhơn chường mặt cho thầy thấy, hi vọng thầy kêu lên kiếm điểm. Ðứa không thuộc tìm cách núp sau lưng bạn, cứ tưởng mình không thấy thầy tất thầy cũng không thấy mình. Nhưng trông bộ dạng núp lén, cổ rụt, lưng khòm, cố sao cho mình càng nhỏ lại càng tốt, thầy biết ngay. Bị kêu lên thì mặt mũi xanh lè, ấp a ấp úng, nhớ được câu đầu là cùng, vậy là thầy cho hột vịt (không điểm) lại bắt đứng sang bên cạnh chờ thầy phạt chứ chưa được về chỗ ngồi. Sau khi xong vụ trả bài thầy mới quay sang làm việc với mấy cậu ăn hột vịt lộn. Thầy Cam có lối phạt học trò rất kỳ lạ, xưa nay chưa ai làm. Thầy bắt học trò nhảy cóc trong cái sân vuông nhỏ ở giữa các lớp, thành thử các lớp khác cũng thấy, cái đó mới đáng mắc cỡ. Mấy đứa bị phạt ngồi chồm hổm một dọc, hai tay chống xuống đất và nhảy như con cóc. Cả đàn cóc cứ thế nhảy vòng quanh sân nhỏ từ năm đến mười vòng. Bấy giờ lớp tôi có anh chàng, tên Ba Ðực, không biết mấy tuổi mà to lớn như người lớn, anh ta nhảy cóc rất tài, chỉ phóc mấy cái là xong một vòng. Anh ta qua mặt bọn nhóc, giống như đua xe hơi mà có một chiếc xe vận tải chạy với tốc độ gấp đôi các xe khác, cứ vù vù qua mặt đối thủ. Khoảng mươi phút là anh ta thi hành xong, đứng lên mặt vẫn không đổi sắc trong khi bọn kia cứ lệch bệch mãi vẫn chưa xong. Nhảy vài vòng đã có đứa làm như bò bốn chân chứ không nhảy!
Thầy Cam còn một hình phạt nữa, cũng không giống ai. Thầy bắt những đứa không thuộc bài đứng thành vòng tròn, nhìn vào ót đứa đứng trước, rồi thằng đứng sau kí đầu thằng đứng trước, thằng đứng trước kí đầu thằng đứng trước mình, cứ thế, cho đến khi thầy bảo thôi mới ngưng. Vì hễ kí nhau nhẹ, thầy bắt kí mãi. Nếu đứa nào ghét thằng đứng trước mình thì nghiến răng nện một phát vào đầu hắn, hắn không quay ra sau trả thù được nên cũng ra sức nện thằng trước mặt dù thực tâm đâu có oán thù gì nhau. Vậy là thằng bị kí đau lại chơi thằng đứng trước một phát xính vính, cứ thế, giáp một vòng, đến ngay thằng gây ra chuyện máu lửa. Ðúng là vòng "luân hồi"!
Thời tiểu học, tụi tôi học chung với bọn con gái. Con gái thích dấm dúi nhau ăn quà trong lớp. Ô mai, kẹo, bánh...Thầy Cam bắt gặp là bắt mấy cô bé đó để quà vặt trên đầu, đi mấy vòng lớp học, đứa nào làm rớt quà thì phải đi lại từ đầu.
Thầy Cam rất sùng đạo Phật, thầy thường lên chùa Tỉnh Hội tụng kinh. Nhà thầy cũng có bàn thờ Phật. Giờ thủ công, thầy bắt học trò vót đũa, thầy lựa những đôi đũa đẹp đem lên chùa. Gần Tết, thầy bắt làm những cái vòng giống như vành nón, đều nhau, đứa thì làm những cây cọc nhỏ như chiếc đũa nhưng dài hơn. Thầy đem lên chùa làm cọc cho mấy chậu bông kiểng. Bông hồng, bông cúc, bông thược dược...Nghe nói, sau năm 1975, thầy ra tu ở chùa Linh Mụ và viên tịch ở đó.
Trường Ông Voi có thầy hiệu trưởng người Bắc di cư (năm 1954). Thầy đọc chính tả, học trò viết trật bậy cả. Rượu thầy đọc thành riệu, hươu thành hiêu...Khó nhất là dấu phết thầy đọc là phảy. Ví dụ: "Các em đi học phải ăn mặc sạch sẽ, đến trường đúng giờ" Học trò viết thành "...phải (phảy) đến trường đúng giờ". Trong trường có ông phu trường tên Cửu. Mỗi khi đến giờ ra chơi hay hết buổi học thầy hiệu trưởng kêu lên "Ông Kiểu, ông Kiểu, cho tiếng kỏng!" (đánh kẻng, gõ mạnh vào một miếng sắt lớn thay cho đánh trống) Nghe câu đó là chúng tôi thở phào nhẹ nhỏm, xếp sách vở. Cô thầy coi bộ cũng vui lây, nhưng làm nghiêm.
Thời tôi học tiểu học còn có thầy hiệu trưởng trường nam tiễu học, tức trường Chùa Bà Mụ, sau dời xuống gần trường trung học Trần Quí Cáp. Thầy hiệu trưởng tên Lê Tự Tháo. Lúc đó còn Ðệ Nhất Cộng Hòa, học trò phải hát bài Suy Tôn Ngô TổngThống, có câu "Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống. Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm" Bọn học trò đến câu đó hát "Học sinh trường nam nhớ ơn ông Lê Tự Tháo. Ông Lê Tự Tháo, Ông Lê Tự Tháo muôn năm" Tôi không học trường đó nhưng nghe bọn bạn thường hát nghêu ngao như vậy, bây giờ vẫn còn nhớ.
Một buổi sáng chủ nhật, có đứa phải đến nhà thầy Tháo để nộp sổ điểm hay làm gì đấy. Hắn rủ, không đứa nào dám đi theo. Tôi không học trường thầy Tháo nên tôi đâu ngán. Tôi theo hắn đến nhà thầy. Thấy tôi, thầy chỉ mặt bảo "Mi đi học, ít ra cũng đứng hạng mười trở lên" Khi học tiểu học thì tôi có đứng nhất lớp thật, lãnh phần thưởng nữa, nhưng lên trung học, vì "đút vở bụi tre" (trốn học), nhiều hơn số giờ qui định nên có năm phải thi lên lớp. Thời trung học, tôi cũng được cô Tường Loan, dạy Anh Văn, phê trong học bạ là "Rất thông minh nhưng không chăm", chỉ vì tôi có tài đoán mò rất hay. Khi cô viết một câu tiếng Anh lên bảng, bắt thằng Nguyễn Ngọc Cảnh, học giỏi nhất lớp, đứng lên dịch, nếu hắn dịch không thông, cô kêu "Châu, dịch thử coi?" Vậy là tôi nói trúng ngay chóc ý của câu đó. Chỉ cần hỏi bạn ngồi bên cạnh nghĩa vài chữ trong câu là tôi hiểu ngay.
Lên trung học, chỉ năm đệ nhị (lớp mười một) và năm đệ nhất (lớp mười hai), gần đến ngày thi, tôi mới học bài, còn ngày thường, tôi chẳng bao giờ để mắt đến bài vở, đến lớp, lúc trả bài, tôi giở sách, vở ra, học lem nhem để nhớ vài câu đầu, phòng khi bị gọi lên trả bài thì nói đại khái, thầy cho vài ba điểm lấy lệ. Còn đối với nữ giáo sư, tôi đâu ngán, đến giờ trả bài, tôi chỉ việc ngồi thụp xuống, nấp dưới bàn, khi cô gọi tên tôi, các bạn sẽ thưa "Châu nghỉ học!" Chờ khi xong mục trả bài tôi lại ngồi lên. Cô có hỏi "Nãy giờ ở đâu?" thì tôi thưa "Em không thuộc bài, em trốn dưới bàn". Cô có cho hột vịt, tôi cũng chẳng lấy làm xấu hổ. Tôi không còn bố để xem học bạ của con cái như các bạn khác nên tôi là đứa học trò sướng nhất thế gian!
Trở lại thời tiểu học, tôi còn có một thằng bạn nữa, nó tên Nguyễn Ngọc Thích. Năm lớp nhất, ba nó là lính nhảy dù tử trận, nhà đông anh em, nó là con lớn phải nghỉ học để đi bán cà rem. Nó chở hai bên xe đạp hai bình cà rem, sáng sớm lên tiệm nước đá Thái Sơn lãnh cà rem, đạp về vùng quê bán kiếm tiền phụ giúp gia đình. Có những buổi chiều, tôi lên nhà nó chơi, nó đem cà rem ế ra cho tôi ăn. Nó nhỏ mà rất "hoang", tụi tôi kém nó vài tuổi nhưng coi nó như đại huynh. Nó là tên đầu têu làm ô nhiễm tâm hồn trong trắng của những thằng còn học lớp nhất như tụi tôi. Nghĩa là nó dạy tụi tôi "mê gái" và "chọc gái"! Nó tả cô con gái tiệm nước đá Thái Sơn, tên cô Kín, người Tàu, rất đẹp. Tụi tôi đến đấy, thấy quả thật cô đẹp như Lý Lệ Hoa, nữ tài tử Hồng Kông, trong phim "Ánh Sáng Ðô Thành". Từ đó hễ có đồng nào là chúng tôi rủ nhau đến tiệm Thái Sơn (là nơi thằng Thích đến lãnh kem đi bán mỗi buổi sáng), chờ cô Kín ra trông hàng là vào, cả bọn, có khi chỉ mua một cây kem thôi, để được ngắm người đẹp. Thằng Thích còn chỉ cho chúng tôi một cô khác, tên là cô Mỵ, cũng người Tàu, con chủ tiệm tạp hóa Vạn Hòa, trên đường Lê Lợi, gần tiệm La Thành Ký, cũng rất đẹp. Cô Mỵ, lúc bấy giờ khoảng mười lăm, mười sáu, nổi tiếng vì gương mặt đẹp mê hồn và có bộ ngực đẹp, tụi tôi còn nhỏ, trên mười tuổi mà cũng biết là rất "hấp dẫn". Ngực cô không to nhưng dựng đứng lên như mụt măng. Sau nầy, ở xứ Mỹ, gặp lại mấy ông đồng hương Hội An, ông nào cũng nhắc đến cô Mỵ có bộ ngực đẹp. Thằng Thích rủ tụi tôi, buổi tối đến trước tiệm Vạn Hòa, ngồi xuống lề đường, phía đối diện, chờ cô Mỵ ra trông hàng để ngắm. Một lần nó bảo cả bọn theo nó vô tiệm để mua hàng. Bốn năm đứa chúng tôi theo nó một cách long trọng, giống như khách sộp. Nó đi trước, đến bảo cô Mỵ "Bán cho tôi một sợi giây" Cô ta hỏi "Giây đờn hả?" Nó nói "Dây lưng!" rồi phóng chạy mất tiêu, trong lúc tụi tôi đứng ngớ ra một lúc mới chen nhau chạy "thoát thân". Từ đó tôi không dám đi ngang qua tiệm Vạn Hòa. Mấy tháng sau, tôi đi thử, liếc vào tiệm, thấy cô Mỵ không thèm nhìn tôi, tôi mới yên trí là cô ta đã quên tôi rồi.
Chúng tôi, là những đứa trẻ con nhà nghèo, mồ côi hoặc cha mẹ bận rộn vì sinh kế không có thì giờ để mắt đến con cái, thường tụ tập thành một lũ nhóc, ngày nghỉ thì ra ngoại ô bắn chim, tát cá, tối về đi rểu trên các đường phố, mỏi chân thì ra bờ sông ngồi hóng gió, tán phét đến khuya mới về, lăn ra ngủ, chẳng bài vở bao giờ.
Lúc nhỏ, khoảng trên mười tuổi mà tôi còn nhớ những người và sự việc kỳ lạ, đối với tôi. Trước chợ Hội An có chùa Ông, trong thờ tượng Quan Công, mặt đỏ, hai bên có hai tượng đứng hầu là tượng Châu Thương, ốm nhách, tướng dữ dằn và tượng Quan Bình hiền lành hơn. Tôi rất sợ mấy tượng nầy, không dám nhìn, chỉ ngày lễ của người Tàu, đông người tôi mới dám vào ngắm mấy con ngựa và đao kiếm bằng gỗ để dưới ngai thờ. Trước chùa có mái hiên, là chỗ hành nghề của mấy ông thầy bói. Họ mang kiếng đen, ốm, vẻ mặt buồn bả, có lẽ ế khách và đói bụng. Ngày lễ, người ta xin xăm, đem ra đọc thầy nghe, nhờ thầy đoán, lúc đó thầy mới có tiền. Thỉnh thoảng cũng có người đến hỏi thầy về chuyện gia đạo. Tôi với mấy thằng bạn "mất dạy" đứng phía xa kêu lên "Cầu gia đạo, cạo da đầu" mà không sợ vì biết các thầy không làm gì được chúng tôi. Nhưng hễ đi một mình, tôi làm bộ hiền lành, lân la đứng nhìn thầy gieo quẻ. Thầy thảy hai đồng xu xuống một cái dĩa, nghe lách cách nho nhỏ, rồi thầy mò mẫm tìm hai đồng xu trong dĩa, lấy ngón tay miết trên đồng xu để biết chẵn, lẻ. Thầy lại gieo nữa, cứ thế vài ba lần thầy mới phán cho thân chủ quẻ ứng ra sao. Tôi nghe thầy nói rất trôi chảy, như đã thuộc bài trước. Thầy nói chữ Nho nên chẳng ai hiểu gì cả! Nói xong thầy mới giải nghĩa với giọng khề khà nhưng nghiêm trang. Lúc đầu toàn những lời dọa dẫm khiến thân chủ sợ hãi, sau đó thầy mới bày phương cách để trừ tai họa. Thân chủ thường là các bà lớn tuổi, người quê mùa, kính cẩn nghe thầy phán. Khi năn nỉ thầy điều gì phải kèm theo tiền để thầy "cải mệnh trời" mà cứu nhân độ thế. Một lần, không hiểu "thằng nổng" (tên gọi người sáng mắt, thường là thằng nhỏ, cầm đầu gậy đi trước, người mù cầm đầu kia theo sau) đi đâu, bỏ thầy một mình. Thầy mắc tiểu, bèn lần mò theo vách chùa. Ðến chỗ góc tường, thầy tưởng là "sau hè" nên đi tiểu, đưa chim tỉnh bơ. Thầy đâu biết vách đó lại nằm trên con đường chính trước chợ Hội An, tấp nập người đi. Tôi đứng coi, thấy các cô, các bà nghiêng nón che, có lẽ không cho người khác thấy mình đang liếc nhìn chim của thầy.
Ngồi chung với các thầy có một ông ăn xin. Thực ra ông ta không xin, ai cho gì ăn nấy. Ông ta để tóc dài, quần áo tả tơi, trông giống mấy kiếm khách trong phim Nhật "Giặc Nữ Ða Tình" đang chiếu lúc bấy giờ (Rạp chiếu phim là chùa Quan Âm, sát vách chùa Ông). Ông ăn xin nầy để móng tay dài cong vòng. Ông ta ngồi im, bó gối, cú rũ, không buồn, không vui, chẳng nhìn ai. Ai thấy tội nghiệp, bỏ tiền vào người ông (trên đùi), ông ta cũng không nói tiếng nào. Nhưng đến chiều, ông ta gom tất cả tiền người ta cho, đem lên nhà bưu điện, gần Chùa Cầu, bỏ tiền đó vào thùng thư!
Có một ông khác, cũng "tàng tàng" (khật khùng), nhưng được gia đình chăm sóc, nuôi nấng, ăn mặc sạch sẽ, lịch sự đi lang thang suốt ngày trên đường phố. Ông ta cứ lặng lẽ đi, miệng lẩm bẩm tiếng Tây. Người ta bảo ông "cuồng chữ". Ông có một tật lạ khiến tôi thường đi theo sau để xem. Hễ thấy ai đi giữa đường một mình, ông ta chạy tới thật nhanh và nhảy phóc qua đầu người ta như trong phim kiếm hiệp, khiến người đó thất kinh hồn vía.
Hội An bấy giờ còn có một nhân vật nữa là bà Lợi Ðiên. Bà ta còn trẻ, khoảng trên ba mươi. Bà ta cầm một cành cây, vừa đi vừa lầu bầu một mình, đôi khi nổi điên lên, bà ta rượt đánh người đi đường, nhất là đàn ông, miệng chửi mắng, rồi đứng khóc "Sao anh bỏ em? Em nhớ anh!..." Người ta bảo bà ta thất tình. Nghe nói có một cậu học trò nghèo, cha mẹ gả bà cho cậu ta còn nuôi cho ăn học, sau gửi cậu qua Pháp học tiếp. Khi thành tài cậu ta ở luôn bên Pháp, lấy vợ Pháp, không chịu về Việt Nam nữa, bà ta thất tình thành người điên. Ít lâu sau bà ta được đem gửi ra một căn nhà hoang gần chùa Chúc Thánh, vùng quê, cách Hội An vài cây số, để bà ta được nghe tiếng chuông mõ mà yên tĩnh tâm thần. Thế là trong những ngày nghỉ học, chúng tôi có thêm một thú vui là ra chùa Chúc Thánh chọc ghẹo bà Lợi Ðiên. Chúng tôi đứng từ xa kêu lên "Bà Lợi Ðiên! Bà Lợi Ðiên!". Bà ta đuổi đánh. Chúng tôi vừa chạy vừa cười vui. Có khi gọi mãi mà bà ta không rượt đuổi, chúng tôi từ từ tiến đến gần hơn, miệng vẫn kêu "Bà Lợi Ðiên!" mà thần kinh rất căng thẳng. Thình lình, bà ta vùng đứng lên, cầm roi rượt đánh. Những lần như thế, chúng tôi chạy quýu chân vì quá gần lại bất ngờ. Ðến lúc đứng lại thở, người vẫn còn run vì sợ và hồi hộp.
Trong thời gian ở tại ngôi nhà hoang, bà ta có một bà già săn sóc, lo cơm nước. Thế rồi một chuyện xảy ra. Có một anh lính ba trợn nào đó, tối nào cũng đến với bà Lợi Ðiên và tỉ tê "Anh là chồng em đây. Anh về với em..." ...và bà Lợi Ðiên có chửa. Sau đó anh ta chạy làng, nghĩa là trốn biệt.
Ngoài chuyện chọc ghẹo bà Lợi Ðiên, chúng tôi còn một thú vui nữa là vào các chùa bắn chim. Chùa là nơi an toàn nhất cho các loại chim đến làm tổ, sinh con đẻ cháu. Ở đó chúng được các chú tiểu, nhà sư bảo vệ vì các vị nầy không ăn thịt. Thứ bảy, chủ nhật chúng tôi rủ nhau ra các chùa Chúc Thánh, Trúc Lâm, Long Tuyền, chui hàng rào vào chùa, rình bắn chim, nếu bắt gặp ổ chim, chúng tôi cũng bắt luôn chim non đem vặt lông thui sơ sài, đến chiều đem về chiên lên ăn với cơm nguội. Bắn chim trong vườn chùa không phải dễ. Chúng tôi lặng lẽ chui vào bụi rậm núp, thấy chim đậu gần, trên cành cây hay trên mái chùa, thì dùng giàn thun bắn đạn đất sét phơi khô. Nghe tiếng lóc cóc của mấy viên đạn lăn trên mái chùa là các chú tiểu cầm gậy rượt chạy trối chết. Các chú nầy lớn hơn tụi tôi nên đuổi rất nhanh. Chúng tôi chạy muốn tắt thở mà vẫn nghe tiếng chân thình thịch ngay sau lưng. Các chú rượt chứ không bắt hay đánh tụi tôi bao giờ, hễ càng gần, các chú giậm chân càng mạnh, quay lại thì thấy "ông thầy chùa" ngay sau lưng, lại cong cổ chạy. Khi biết chúng tôi sắp đứt hơi, các chú mới dừng lại. Chúng tôi chạy tiếp một quãng rất xa nữa mới dám nằm lăn ra đất mà thở, mấy con chim bắt, bắn được rớt mất lúc nào không hay. Vì biết các chú đó chẳng ăn thịt chim nên chúng tôi chờ khi các chú vô chùa, bèn quay lại con đường mà mình đã chạy, tìm lại mấy con chim, thường là đủ cả.
Có chạy thất thần khi bị rượt bởi các chú tiểu, hoặc bởi bà Lợi Ðiên, lúc quay về mới thấy vui. Ấy vậy mà khi chùa có vía Phật hay cúng lễ gì đấy là chúng tôi giả bộ con nhà gia giáo, vào chùa với vẻ hiền lành, mộ đạo lắm. Mục đích để được ăn cơm chay của chùa. Ðến giờ trưa, chùa dọn cơm chay ra, ai muốn ăn cứ ngồi vô. Mấy dãy bàn, người ngồi đầy, cứ việc chen vô cầm đũa, lấy cái tô. Kiểm (các thứ rau, quả nấu chung), đậu, tương chao... cho vào tô. Bây giờ nhớ lại, tôi vẫn còn thèm cơm chay của chùa. Tôi đi hầu như khắp miền Nam, tiệm nào bán cơm chay tôi đều ăn, vậy mà chẳng nơi nào ngon bằng cơm chay các chùa ở Hội An.
Ở Hội An, chúng tôi còn có một thú vui nữa là lội nước lụt. Sau nầy lớn lên, tôi làm việc ở Huế, năm nào Huế cũng có lụt, nước ngập các con đường trong thành phố mà không thấy cô cậu nào lội nước lụt cả. Có lẽ ở Huế, mùa đông quá lạnh, trời thường u ám. Hội An của tôi, tuy lụt lội nhưng đôi khi có nắng, không lạnh lắm.
Hàng năm, đến mùa đông, mưa dầm là chúng tôi cầu cho nước lụt. Chúng tôi có bao giờ nghĩ đến nỗi khổ của người dân thôn quê khi bị lũ lụt cuốn trôi nhà cửa, hoa màu và gây chết chóc cho nhiều người? Bọn trẻ ở Mỹ chỉ cần xem TV là biết ngày mai có bão tuyết, học trò được nghỉ học. Tụi tôi, thời đó, dù có lụt thật cũng phải đến trường, vào lớp điểm danh và ngồi chờ lệnh của ty học chánh. Lúc đó thì chẳng bài vở gì cả. Thầy cô với bọn đệ tử cứ ngóng cổ về phía văn phòng, đến khi nghe thầy giám thị cho về là cả trường reo hò ầm ỹ. Ra khỏi lớp là chúng tôi nhét ngay sách, vở vào lưng quần, trước bụng, vì về nhà thì cha mẹ thường cấm không cho lội nước lụt, sợ nguy hiểm vì có lần, một cậu ngồi thuyền, đàn hát với chúng bạn thì thuyền lật úp, cậu ta không biết bơi nên chết đuối. Tai nạn chúng tôi thường gặp là khi lội nước lụt, bước hụt chân từ lề đường xuống lòng đường, gặp lỗ cống thì nước ngập đến ngực, thế là bài vở ướt mem. Ðường ngập nước chúng tôi thường lội là đường Nguyễn Thái Học, nước không chảy xiết lại có thuyền bè chở người đi chơi hoặc bán hàng rong. Người đứng trên lầu thòng cái giỏ có tiền xuống, người bán lấy tiền, bỏ quà vào giỏ, người mua kéo lên.
Tôi có thằng bạn tên Trần Ngọc Lợi kể chuyện nước lụt rất hay. Nhà nó trên đường Bạch Ðằng, sát bờ sông là nơi nước rất sâu và chảy xiết, không thuyền bè nào dám ra đấy nên chuyện nó kể, không thể kiểm chứng được. Nó kể về chuyện "Ngọc Rít" như sau. "Hôm nước lụt ngập tầng dưới, cả nhà tao phải lên lầu nhưng vẫn để cửa trước mở ra cho cá vào tránh nước lụt. Cá nhiều lắm, tao ngồi ở cầu thang câu một lúc là đủ kho, nấu canh cho cả nhà. Một buổi sáng tao cầm cần câu xuống lầu thì thấy một con rít (rết), to bằng cái đòn gánh, khoanh tròn trên tam cấp. Tao kêu ba tao, ba tao lấy thúng úp lên cho nó khỏi chạy rồi lấy cái thùng sắt bự, bỏ con rít vô. Tụi bây biết sao không? Ban đêm, cái thùng sáng trưng như thắp đèn điện trong đó. Ba tao bảo con rít đó đã tu thành chánh quả rồi nên có ngọc. Ngọc rít quí lắm. Ai có ngọc rít thì nghe được tiếng loài vật. Tiếng chim, tiếng chó...tiếng con kiến nhỏ chút xíu mà cũng nghe được". Tôi sốt ruột hỏi "Ba mi có giết con rít mà lấy ngọc không?" "Giết nó chết thì ngọc cũng tiêu luôn" "Vậy phải làm sao?" "Ba tao lấy một cái rổ thưa, đặt trên một cái lu đựng đầy nước. Trong rổ, ba tao bỏ một con gà đã làm thịt, rồi bỏ con rít vào rổ, loài rít rất thích ăn thịt gà, ngửi thấy mùi thịt gà là con rít nhả viên ngọc trong miệng ra để ăn thịt gà. Viên ngọc nhỏ lọt qua rổ, rớt xuống nước, chìm xuống đáy lu, vậy là con rít chịu thua, không có cách chi lấy lại viên ngọc được, lúc đó ba tao mới giết con rít và lấy viên ngọc" "Sao không thả nó đi? Giết nó chết, tội nghiệp" "Nó mà còn sống, nó đi tìm viên ngọc. Nó cắn một phát là xùi bọt mép, chớ giỡn chơi!" "Rồi ba mi có nghe được loài vật nói chuyện với nhau không?" "Trận lụt vừa rồi, ba tao chỉ bầy kiến đang mang lương thực và trứng kiến lên lầu, ba tao bảo rằng tụi kiến nói với nhau là sắp bão lụt, phải mau mau dọn lên lầu, nếu không thì sẽ bị ngập chết hết. Mới lụt có mấy ngày, ba tao bảo, chuẩn bị dọn xuống vì bọn kiến nói là hai bữa nữa nước sẽ rút"
Chuyện thằng Lợi kể là vào thời chúng tôi còn tiểu học, lớn lên chúng tôi biết là nó xem chuyện cổ tích, tranh tàu mà phịa ra. Lúc còn nhỏ, bất cứ chuyện cổ tích nào cũng khiến cho trí tưởng tượng chúng tôi bay bổng đến những thế giới thần tiên và chúng tôi tin là có thật.
Thằng Trần Ngọc Lợi nầy đã làm một chuyện động trời. Ðó là năm học đệ tứ, (khoảng mười lăm, mười sáu tuổi) nó đã tò tí với một cô bạn học cùng lớp tên Ngô thị Xuân Lan khiến cô mang bầu. Gia đình nó phải đi cưới cô ta cho nó. Cô Lan, vợ nó ở nhà nhưng nó vẫn tiếp tục đi học, cũng hoang nghịch, phá làng phá xóm y như tụi nhóc chúng tôi. Năm 1982, tôi đi tù về, có đến cư xá Phạm Thế Hiển ở Sài Gòn thăm vợ chồng nó. Nó có bốn năm đứa con. Thằng con đầu lúc đó đã trên hai mươi tuổi, cao to hơn bố. Thằng Trần Ngọc Lợi chơi thân với tôi, chuyện gì nó cũng kể cho tôi nghe. Nó kể, một lần, vợ nó chuyển bụng, phải đưa vô nhà hộ sinh, người nhà sai nó đi mua cà phê về cho vợ, nó cầm cái ly, đi rảo các đường phố. Lúc đó đã khuya, chẳng thấy người mà toàn chó chạy rông ngoài đường, thấy người là sủa. Nó tức mình, đứng lại múa võ, rượt đuổi nhau với bọn chó (nó là học trò của thầy võ Năm Sửu), khi về nhà hộ sinh, chẳng có cà phê mà vợ nó đã sinh con từ lúc nào rồi!
Thời còn nhỏ, khoảng đệ thất (lớp bảy), mà nay tôi vẫn còn nhớ chuyện con chó của ông chủ tiệm thuốc tây Ðức Phú, trên đường Lê Lợi. Ông ta tên Phan Huy Anh, hình như anh em gì đó với cựu thủ tướng Phan Huy Quát? Ông Ðức Phú có nuôi một con chó bẹt-rê (berger), to như con bò con, lại rất dữ, ai vào mua thuốc tây, nó bị cột sau nhà mà tiếng sủa "gầu gầu" của nó cũng khiến khách hàng thất kinh. Ai cũng phàn nàn, riết rồi tiệm ế khách. Một lần, có ông nhà quê đi ngang qua tiệm, con chó sau nhà sủa ra, ông ta đứng lại, dòm vô nhà và nói "Mi có giỏi ra đây. Tao bắt làm thịt cho rồi" Ông ta cứ đứng nói như thế mãi khiến ông Ðức Phú giận quá mới nói "Ông bắt được thì tôi cho ông. Nhưng nó cắn thì ráng chịu. Ông dám không?" Ông nhà quê trả lời "Khó chi, mai tôi đem cái bao bố ra đây, ông thả chó ra, tôi bắt về làm thịt ăn chơi".
Tưởng nói giỡn, không ngờ hôm sau ông nhà quê đến với anh con trai và cái bao lớn, đến đòi bắt chó. Ông Ðức Phú bèn mở dây xích, thả con bẹt-rê ra. Con chó từ sau nhà phóng ra, nhào lên cắn cổ ông nhà quê. Ông ta khóa cổ con chó cứng ngắt, anh con trai đứng bên cạnh, mở cái bao ra, bê đít con chó vào bao, cột miệng bao lại. Anh ta vác con chó ra bờ sông, bỏ xuống ghe. Người lớn, trẻ con chạy theo xem cho đến khi chiếc ghe khuất dạng mà vẫn còn tấm tắt khen ông nhà quê giỏi võ.
Ông Ðức Phú hơi nặng tai, nghĩa là bị bịnh điếc nhẹ. Ông có hai người con trai. Lúc tôi học tiểu học thì hai anh nầy đã lên trung học rồi. Người anh lớn rất đàng hoàng, người em thì lười biếng lại rất hoang, vì vậy tối nào ông Ðức Phú cũng dò bài anh ta. Ông gọi anh ta ra phòng khách, ngồi đối diện với ông, còn ông thì cầm quyển vở có bài học ngày mai anh ta phải trả bài ở lớp và bắt anh ta đọc xem có thuộc chưa? Lúc đó người anh lén núp sau cột nhà sau lưng ông, nhìn vào bài và đọc nho nhỏ cho người em nhắc lại rất to. Vậy là lần nào ông bố cũng thấy con thuộc bài mà đến trường cứ lãnh hột vịt?! Anh ta còn ăn cắp tiền nữa nên ông Ðức Phú gắn chuông điện ở ngăn kéo đựng tiền (bán thuốc tây), anh ta chỉ việc rút cầu chì, tắt điện là lấy tiền mà không ai biết. Anh con trai nầy hoang đến nổi, ở lớp, khi thầy đưa tiền bảo anh ra nhà ông phu trường mua nước ngọt vào cho thầy thì anh ta uống bớt rồi đổ nước lạnh vào cho đầy ly, đem vô cho thầy uống. Lần nào thầy cũng lắc đầu, chê nước ngọt lạt thếch! Ở trường, thầy nào cũng la trời "Thằng con anh Ðức Phú! Răng mi hoang mà làm biếng học!"
Hội An còn có một ông cũng nổi tiếng. Ðó là ông chủ tiệm buôn Phi Anh. Tiệm buôn Phi Anh và tiệm buôn Phi Yến được coi là hai tiệm buôn lớn nhất Hội An. Ông chủ hiệu buôn Phi Anh còn có một tiệm buôn nữa là tiệm buôn Trần Thị Nết, cũng lớn và đông khách. Ông chủ tiệm Phi Anh rất đông con, đến mấy chục người, nhiều đến độ ông không nhớ hết tên các con. Ngày tết, các con quây quần chúc tết, ông lì xì mừng tuổi cho từng đứa, ông thường hỏi, nhất là các cô cậu bé "Con tên chi?". Nghe nói, những chiếc giường ngủ, đặt trên lầu cho các con của ông ta, sắp thành những dãy dài như trong bịnh viện.
Thời bấy giờ, khoảng thập niên năm mươi, ai có chiếc xe đạp là đã sang trọng lắm rồi, coi như xa xí phẩm, vì thành phố rất nhỏ, đi bộ mươi phút là đâu cũng tới, vậy mà ông Phi Anh lại có một chiếc Mô-bi-lết (Mobilette) mới tinh, là xe gắn máy hai bánh. Loại xe nầy muốn đi đâu phải đạp như xe đạp một quãng ngắn, nó nổ máy, chạy rồi thì khỏi phải đạp nữa. Có một lần, vào buổi tối, trước tiệm buôn Trần Thị Nết, thấy ông đạp mãi mà chiếc mô bi lết nầy không nổ máy, tôi giúp ông bằng cách phụ đẩy phía sau xe, tuy ông không yêu cầu. Tôi đẩy, ông đạp. Cả hai toát mồ hôi xe mới chịu nổ máy thì cũng vừa đến nhà (tiệm Phi Anh). Chiếc mô bi lết nầy mới nhưng khó tính, khi ông cỡi nó ra khỏi nhà, nó chạy ngon lành, nhưng nếu từ tiệm buôn Trần thị Nết trở về, nó thường hay "làm thinh" không chịu nổ máy!
Tiệm buôn Trần Thị Nết có gắn nút chuông điện ở cửa. Hơi chếch về bên kia đường là nhà của thầy Tống Khuyến cũng có gắn chuông điện. Mỗi buổi tối, mấy đứa mất dạy tụi tôi thường lang thang trên các đường phố cho đến khi các nhà đều đóng cửa mới kéo nhau đến trước hai căn nhà đó, dùng cục nhựa đường (hắc ín) gắn lên nút chuông điện, đè mạnh cho chuông trong nhà kêu mãi rồi chạy núp ở một nơi xa, chờ người trong nhà ra mở cửa, dòm quanh, không thấy ai cả! Một lần, có cô bé giúp việc nhà thầy Tống Khuyến, ra mở cửa, không thấy ai bấm mà chuông lại kêu? Cô la thất thanh "Ma! Ma!", bỏ chạy vô nhà. Có lẽ cô mới đến nên không biết.
Ðối với các gia đình danh giá ở Hội An, chúng tôi không đủ tư cách để đánh bạn với con cái của họ. Vả lại những thú vui của chúng tôi, chẳng cô cậu nào dám tham dự đểâ bị mang tiếng là con nhà vô giáo dục. Thành thử, những chuyện tôi kể về các gia đình danh giá đó đều do tôi nghe từ người khác.
Nói đến Hội An là người ta nghĩ đến Chùa Cầu. Ðó là biểu hiệu của Hội An cũng như chợ Bến Thành là biểu hiệu của Sài Gòn vậy. Lịch sử Chùa Cầu, sách vở có nói nhiều, nhưng những người không đọc sách và bọn nhỏ tụi tôi thì có một lịch sử khác. Rằng bên Nhật thường bị động đất, nhà sụp, người chết, năm nào cũng xảy ra. Thầy địa lý Nhật bảo rằng, động đất là tại vì con cù (rồng đất) thường quẫy đuôi. Muốn cho nó khỏi quẫy đuôi, phải ếm cái đầu, không cho cục cựa. Mà cái đầu nó lại nằm tại Hội An trong khi cái đuôi lại nằm bên Nhật! Mấy ông phù thủy Nhật đến Việt Nam xây cái chùa trên đầu con rồng, còn ếm thêm một cây gươm dưới đất cho con rồng hết đường cục cựa. Vậy là bên Nhật không còn động đất nữa. Chúng tôi tin lắm. (Sự thật, ngôi chùa nhỏ bên cạnh cầu là do người Tàu xây năm 1653, thờ Bắc Ðế Chân Võ) Thế nên, thỉnh thoảng chúng tôi rủ nhau xuống lạch nước, dưới Chùa Cầu lấy cây thọt khắp nơi, hi vọng thấy được lưỡi gươm. Nhưng thọt mãi, chỉ thấy rác rến hôi thối, gớm ghiếc!
Lớn lên, tôi hết tin chuyện con cù, nhưng Chùa Cầu giúp tôi một dịp được một đứa con gái ôm. Số là một buổi tối, tôi đi lang thang gần đến Chùa Cầu thì thấy một cô bé cứ đứng thập thò chỗ trụ điện mà không dám qua cầu. Khi tôi đi đến thì cô ta đi theo sau lưng. Trong cầu tối lù mù như động ma lại thêm mấy cây nhang khi mờ khi tỏ trước tượng mấy con khỉ, con chó, càng thêm rùng rợn. Khi đến giữa cầu, tôi dừng lại và kêu lên "Ma kìa!" Vậy là cô ta nhảy tới ôm tôi cứng ngắt. Tôi cũng ôm lại cô để dìu cô qua cầu. Khi ra khỏi cầu cô bỏ chạy mất. Lần đầu trong đời, được một đứa con gái ôm, tôi về khoe tùm lum với tụi bạn, đứa nào cũng suýt soa rằng tôi gặp hên. Tôi không biết mặt mũi cô bé đó ra sao, nhưng vẫn còn nhớ đến bây giờ.
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh
Bùi Giáng
Hội An là một thành phố cổ, cách Ðà Nẵng về phía nam ba mươi cây số. Cứ theo Quốc Lộ 1 đến ngã ba Vĩnh Ðiện, quẹo trái độ mười cây số là đến Hội An. Có thể nói đây là thành phố xưa nhất của Việt Nam còn nguyên vẹn với những đường phố hẹp như những con hẻm, những ngôi nhà hàng trăm năm tuổi, xây theo kiểu "nhà ống", dài cả trăm mét, thông từ mặt đường phố nầy qua đường phố kia, với tường gạch dày gần nửa thước tây, mái lợp âm dương, sườn nhà bằng gỗ lim, gõ, mít...với lối cấu kết, chạm trổ rất tinh vi, cầu kỳ, không hề dùng đinh và rất nhiều cột! Lúc tôi còn nhỏ, khuya thức dậy đi tiểu, mắt nhắm mắt mở, hai tay quờ quạng phía trước. Vậy mà cứ đập trán vô cột nhà hoài!
Thời chúa Nguyễn dựng nghiệp ở phương Nam, khoảng thế kỷ mười sáu, Hội An đã là thương cảng quốc tế quan trọng. Người Nhật, người Tàu, người Bồ Ðồ Nha...với các thương thuyền, ra vào buôn bán, trao đổi hàng hóa và truyền giáo. Người Nhật đã xây ở Hội An một cây cầu nhỏ, trên đó có chùa, có mái che theo kiến trúc Nhật Bản rất đẹp. Kỷ niệm quí giá đó (của người Nhật) đã trở thành biểu tượng cho Hội An. Hiện nay người Nhật thích đến thăm chiếc cầu nầy. Họ coi như một món quà khiêm tốn của tổ tiên họ tặng cho Hội An, làm tăng thêm vẻ đẹp của thành phố cổ kính, êm đềm và hẻo lánh nầy. Ðó là Chùa Cầu.
Hội An rất nhỏ. Thượng Chùa Cầu, Hạ Âm Bổn (hai đầu của thành phố) khoảng hai cây số. Bề rộng, từ bờ sông đến "Nhà thờ Ðạo" khoảng một cây số. Tuy nhỏ nhưng được cả thế giới chú ý. Liên Hiệp Quốc đã xếp Hội An vào tài sản văn hóa nhân loại, cần được bảo tồn.
Nếu có dịp, bạn nên về thăm Hội An một chuyến. Bạn sẽ có cảm tưởng như đang đi vào quá khứ, tưởng như đang sống vào thế kỷ 18, 19. Nhà cửa quá xưa, giống như miếu đình còn sót lại ở thôn quê. Bạn không thấy rốn, thấy đùi của các cô gái, không thấy quán nhậu, không nghe cãi lớn tiếng, không thấy ai đi nhanh. Ðồng hồ ở Hội An như chạy rất chậm!
Tôi sinh ra, lớn lên ở Hội An. Khoảng giữa thập niên 1950, tôi bắt đầu đến trường. Tôi học tiểu học ở đình Ông Voi, trên đường Lê Lợi, cách bờ sông Hội An, đường Bạch Ðằng ba, bốn trăm mét. Trường gồm ba lớp học, thẳng góc nhau, cộng với ngai thờ, với nghi trượng, đối liễn là phần chính của đình tạo thành bốn mặt kín, giữa là sân nhỏ, lát đá, mỗi bề khoảng vài chục mét. Phần ngai thờ luôn luôn đóng cửa, khi có tế lễ mới mở ra và chúng tôi được nghỉ học. Trước đình có một sân đất rất rộng. Giờ ra chơi, học trò ra sân trước đùa nghịch, chạy nhảy cho được tự do, thoải mái. Trên sân rộng nầy có tượng hai con voi bằng vôi hay xi măng gì đó, to cỡ con voi con. Bọn nhóc tụi tôi, nghịch phải biết, nhưng chẳng đứa nào dám héo lánh đến gần tượng hai Ông Voi. Sợ ngài vật sặc máu. Chúng tôi cứ đồn nhau rằng trước đây, có thằng chơi nghịch, leo lên tượng Ông Voi, ngài vật xuống nằm dưới bụng Ông Voi, và ngài đè ói máu suýt chết.
Tôi còn nhớ một vài chuyện về các bạn học của tôi thời tiểu học. Năm đầu tiên vào học lớp năm (bây giờ là lớp một). Tôi ốm yếu và rất khờ khạo, trong khi tụi bạn thì vui vẻ, nhanh nhẹn hơn nhiều. Một lần trong giờ ra chơi, trời mưa, cả bọn đứng vơ vẩn trước hiên nhìn mưa rơi. Tôi đang đứng một mình thì một thằng từ phía sau, nhảy phóc lên lưng tôi, bắt cõng đi. Thằng đó tên Răng (Jean), là thằng nghịch nhất lớp, chuyên ăn hiếp những đứa khác. Tôi bị nó ngồi lên lưng, năïng muốn xính vính, đi sao nổi! Tôi bèn cúi xuống thật thấp, như người ta tập thể dục, vậy là nó lộn mèo qua đầu tôi, té cái ịch về phía trước, nằm ngay trong vũng nước. Từ đó nó không bao giờ động đến tôi. Lớp tôi có thằng Thương. Học "dốt tổ mẹ" nhưng lại có tài chùi xe đạp của thầy Cam láng bóng. Trường Ông Voi bấy giờ có thầy Trợ Cam. Ðứa nào đã học thầy Cam là coi như suốt thời tiểu học chỉ học thầy Cam thôi. Thầy dạy từ lớp năm (lớp một), sang năm, học trò của thầy lên lớp tư (lớp hai), thầy cũng dạy lớp tư, cũng bọn đệ tử đó, cứ thế lên đến lớp nhất, khi bọn đệ tử lên trung học, thầy bắt đầu lại lớp năm (lớp một) với lũ học trò mới. Vì thế thầy biết rõ gia cảnh, tính tình, tư chất từng đứa một. Thầy Cam có chiếc xe đạp Bờ Rô (Peugeot), khi đến trường thầy dựng ở cửa lớp. Ðến giờ trả bài (học trò lên đọc lại bài học hôm qua), thầy gọi thằng Thương đi chùi xe, vì thầy biết nhà nó nghèo, đi học về, nó phải phụ cha mẹ làm việc rất vất vả, tối đến, mệt mỏi quá, nó ngủ khò, làm một giấc đến sáng, dậy ôm vở đi học, nên chẳng bao giờ thuộc bài. Thằng Thương có bộ đồ nghề chùi xe, lúc nào cũng thủ sẵn trong túi quần. Ðến giờ trả bài, nó ra cửa chùi xe cho thầy. Có bữa thầy quên ra lịnh, nó vẫn tự động ra chùi xe. Tôi ngồi gần cửa, thấy nó chùi rất lành nghề, nhanh nhẹn như mấy đứa đánh giày. Trước hết nó dùng cái que xủi đất dính phía trong dè xe, rồi lại dùng cây cọ quét đất cát còn dính trên bánh xe. Nó quây bánh xe nghe tách tách nho nhỏ vừa rà cái cọ trên bánh xe cho thật sạch rồi mới moi nùi giẻ dưới yên xe ra lau dè xe. Chỗ nào còn dính dơ, nó "phịt" nước miếng vào đó và chùi là sạch ngay. Riêng bộ căm xe, nó lấy miếng giấy nhám từ túi quần ra, kẹp cái căm giữa miếng giấy và vuốt lên vuốt xuống, cây căm xe láng bóng như mới. Những buổi chiều thầy đạp xe trên đường phố, ánh mặt trời chiếu những cái căm xe lấp la, lấp lánh như có gắn kim cương. Không ai hiểu sao xe thầy Cam lúc nào cũng mới tinh? Có lẽ thời tiểu học, chỉ thằng Thương là sướng nhất, vì không bao giờ phải trả bài. Riêng tôi thì ở trường hợp đặc biệt. Tôi và một vài đứa nữa có tài nhớ bài ngay khi chép xong trên bảng đen. Khi có bài học mới thầy viết lên bảng cho học trò chép vào vở, tôi vừa chép bài vừa lẩm nhẩm đọc. Thầy viết câu nào là tôi thuộc câu đó. Thầy viết vừa xong, tôi cũng vừa thuộc hết cả bài. Chờ đến khi cả lớp chép xong, thầy hỏi "Ðứa nào lên đọc bài?" là tôi xung phong lên đọc ngay, thầy cho điểm, thế là hôm sau tôi khỏi phải lên trả bài vì bài đó tôi đã có điểm rồi. Có thằng Nguyễn Hồng Hà cũng thuộc bài kiểu đó. Năm nào tôi với nó cũng tranh nhau phần thưởng nhất nhì. Hai đứa tôi đều mồ côi cha mà trường chỉ cấp một học bổng nên chúng tôi chia hai học bổng đó, mỗi đứa một nửa. Nguyễn Hồng Hà, mới tiểu học mà viết chữ rất đẹp, giống như (hiện nay) computer "viết chữ kiểu" vậy. Có thầy Lưu Nhàn, nhà ở giếng Bá Lễ viết chữ cũng đẹp. Ty tiểu học thường giao cho hai người nầy viết bằng cấp, giấy khen, chứng chỉ...là những giấy tờ "long trọng". Ðiều không ngờ là sau năm mươi năm, tôi gặp lại Nguyễn Hồng Hà tại xứ Mỹ. Năm 2007 vợ chồng tôi từ Virginia qua California thăm gia đình anh ta. Anh ta hiện là kiến trúc sư, ở Sacramento, tiểu bang California. Nếu không nhắc, tôi nhìn không ra vì trông anh ta bậm trợn hơn thời còn đi học, lúc đó là học trò, đẹp trai, "bạch diện thư sinh".
Dưới tiểu học đứa nào cũng ham chơi, nên trừ bọn con gái và vài đứa con nhà gia giáo, đa số, giỏi lắm thuộc lõm bõm. Cho nên giờ trả bài là giờ đau tim của bọn nhác học. Hễ thầy giở sổ điểm ra là không khí căng thẳng bao trùm cả lớp. Ðứa thuộc bài thì nhơn nhơn chường mặt cho thầy thấy, hi vọng thầy kêu lên kiếm điểm. Ðứa không thuộc tìm cách núp sau lưng bạn, cứ tưởng mình không thấy thầy tất thầy cũng không thấy mình. Nhưng trông bộ dạng núp lén, cổ rụt, lưng khòm, cố sao cho mình càng nhỏ lại càng tốt, thầy biết ngay. Bị kêu lên thì mặt mũi xanh lè, ấp a ấp úng, nhớ được câu đầu là cùng, vậy là thầy cho hột vịt (không điểm) lại bắt đứng sang bên cạnh chờ thầy phạt chứ chưa được về chỗ ngồi. Sau khi xong vụ trả bài thầy mới quay sang làm việc với mấy cậu ăn hột vịt lộn. Thầy Cam có lối phạt học trò rất kỳ lạ, xưa nay chưa ai làm. Thầy bắt học trò nhảy cóc trong cái sân vuông nhỏ ở giữa các lớp, thành thử các lớp khác cũng thấy, cái đó mới đáng mắc cỡ. Mấy đứa bị phạt ngồi chồm hổm một dọc, hai tay chống xuống đất và nhảy như con cóc. Cả đàn cóc cứ thế nhảy vòng quanh sân nhỏ từ năm đến mười vòng. Bấy giờ lớp tôi có anh chàng, tên Ba Ðực, không biết mấy tuổi mà to lớn như người lớn, anh ta nhảy cóc rất tài, chỉ phóc mấy cái là xong một vòng. Anh ta qua mặt bọn nhóc, giống như đua xe hơi mà có một chiếc xe vận tải chạy với tốc độ gấp đôi các xe khác, cứ vù vù qua mặt đối thủ. Khoảng mươi phút là anh ta thi hành xong, đứng lên mặt vẫn không đổi sắc trong khi bọn kia cứ lệch bệch mãi vẫn chưa xong. Nhảy vài vòng đã có đứa làm như bò bốn chân chứ không nhảy!
Thầy Cam còn một hình phạt nữa, cũng không giống ai. Thầy bắt những đứa không thuộc bài đứng thành vòng tròn, nhìn vào ót đứa đứng trước, rồi thằng đứng sau kí đầu thằng đứng trước, thằng đứng trước kí đầu thằng đứng trước mình, cứ thế, cho đến khi thầy bảo thôi mới ngưng. Vì hễ kí nhau nhẹ, thầy bắt kí mãi. Nếu đứa nào ghét thằng đứng trước mình thì nghiến răng nện một phát vào đầu hắn, hắn không quay ra sau trả thù được nên cũng ra sức nện thằng trước mặt dù thực tâm đâu có oán thù gì nhau. Vậy là thằng bị kí đau lại chơi thằng đứng trước một phát xính vính, cứ thế, giáp một vòng, đến ngay thằng gây ra chuyện máu lửa. Ðúng là vòng "luân hồi"!
Thời tiểu học, tụi tôi học chung với bọn con gái. Con gái thích dấm dúi nhau ăn quà trong lớp. Ô mai, kẹo, bánh...Thầy Cam bắt gặp là bắt mấy cô bé đó để quà vặt trên đầu, đi mấy vòng lớp học, đứa nào làm rớt quà thì phải đi lại từ đầu.
Thầy Cam rất sùng đạo Phật, thầy thường lên chùa Tỉnh Hội tụng kinh. Nhà thầy cũng có bàn thờ Phật. Giờ thủ công, thầy bắt học trò vót đũa, thầy lựa những đôi đũa đẹp đem lên chùa. Gần Tết, thầy bắt làm những cái vòng giống như vành nón, đều nhau, đứa thì làm những cây cọc nhỏ như chiếc đũa nhưng dài hơn. Thầy đem lên chùa làm cọc cho mấy chậu bông kiểng. Bông hồng, bông cúc, bông thược dược...Nghe nói, sau năm 1975, thầy ra tu ở chùa Linh Mụ và viên tịch ở đó.
Trường Ông Voi có thầy hiệu trưởng người Bắc di cư (năm 1954). Thầy đọc chính tả, học trò viết trật bậy cả. Rượu thầy đọc thành riệu, hươu thành hiêu...Khó nhất là dấu phết thầy đọc là phảy. Ví dụ: "Các em đi học phải ăn mặc sạch sẽ, đến trường đúng giờ" Học trò viết thành "...phải (phảy) đến trường đúng giờ". Trong trường có ông phu trường tên Cửu. Mỗi khi đến giờ ra chơi hay hết buổi học thầy hiệu trưởng kêu lên "Ông Kiểu, ông Kiểu, cho tiếng kỏng!" (đánh kẻng, gõ mạnh vào một miếng sắt lớn thay cho đánh trống) Nghe câu đó là chúng tôi thở phào nhẹ nhỏm, xếp sách vở. Cô thầy coi bộ cũng vui lây, nhưng làm nghiêm.
Thời tôi học tiểu học còn có thầy hiệu trưởng trường nam tiễu học, tức trường Chùa Bà Mụ, sau dời xuống gần trường trung học Trần Quí Cáp. Thầy hiệu trưởng tên Lê Tự Tháo. Lúc đó còn Ðệ Nhất Cộng Hòa, học trò phải hát bài Suy Tôn Ngô TổngThống, có câu "Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống. Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm" Bọn học trò đến câu đó hát "Học sinh trường nam nhớ ơn ông Lê Tự Tháo. Ông Lê Tự Tháo, Ông Lê Tự Tháo muôn năm" Tôi không học trường đó nhưng nghe bọn bạn thường hát nghêu ngao như vậy, bây giờ vẫn còn nhớ.
Một buổi sáng chủ nhật, có đứa phải đến nhà thầy Tháo để nộp sổ điểm hay làm gì đấy. Hắn rủ, không đứa nào dám đi theo. Tôi không học trường thầy Tháo nên tôi đâu ngán. Tôi theo hắn đến nhà thầy. Thấy tôi, thầy chỉ mặt bảo "Mi đi học, ít ra cũng đứng hạng mười trở lên" Khi học tiểu học thì tôi có đứng nhất lớp thật, lãnh phần thưởng nữa, nhưng lên trung học, vì "đút vở bụi tre" (trốn học), nhiều hơn số giờ qui định nên có năm phải thi lên lớp. Thời trung học, tôi cũng được cô Tường Loan, dạy Anh Văn, phê trong học bạ là "Rất thông minh nhưng không chăm", chỉ vì tôi có tài đoán mò rất hay. Khi cô viết một câu tiếng Anh lên bảng, bắt thằng Nguyễn Ngọc Cảnh, học giỏi nhất lớp, đứng lên dịch, nếu hắn dịch không thông, cô kêu "Châu, dịch thử coi?" Vậy là tôi nói trúng ngay chóc ý của câu đó. Chỉ cần hỏi bạn ngồi bên cạnh nghĩa vài chữ trong câu là tôi hiểu ngay.
Lên trung học, chỉ năm đệ nhị (lớp mười một) và năm đệ nhất (lớp mười hai), gần đến ngày thi, tôi mới học bài, còn ngày thường, tôi chẳng bao giờ để mắt đến bài vở, đến lớp, lúc trả bài, tôi giở sách, vở ra, học lem nhem để nhớ vài câu đầu, phòng khi bị gọi lên trả bài thì nói đại khái, thầy cho vài ba điểm lấy lệ. Còn đối với nữ giáo sư, tôi đâu ngán, đến giờ trả bài, tôi chỉ việc ngồi thụp xuống, nấp dưới bàn, khi cô gọi tên tôi, các bạn sẽ thưa "Châu nghỉ học!" Chờ khi xong mục trả bài tôi lại ngồi lên. Cô có hỏi "Nãy giờ ở đâu?" thì tôi thưa "Em không thuộc bài, em trốn dưới bàn". Cô có cho hột vịt, tôi cũng chẳng lấy làm xấu hổ. Tôi không còn bố để xem học bạ của con cái như các bạn khác nên tôi là đứa học trò sướng nhất thế gian!
Trở lại thời tiểu học, tôi còn có một thằng bạn nữa, nó tên Nguyễn Ngọc Thích. Năm lớp nhất, ba nó là lính nhảy dù tử trận, nhà đông anh em, nó là con lớn phải nghỉ học để đi bán cà rem. Nó chở hai bên xe đạp hai bình cà rem, sáng sớm lên tiệm nước đá Thái Sơn lãnh cà rem, đạp về vùng quê bán kiếm tiền phụ giúp gia đình. Có những buổi chiều, tôi lên nhà nó chơi, nó đem cà rem ế ra cho tôi ăn. Nó nhỏ mà rất "hoang", tụi tôi kém nó vài tuổi nhưng coi nó như đại huynh. Nó là tên đầu têu làm ô nhiễm tâm hồn trong trắng của những thằng còn học lớp nhất như tụi tôi. Nghĩa là nó dạy tụi tôi "mê gái" và "chọc gái"! Nó tả cô con gái tiệm nước đá Thái Sơn, tên cô Kín, người Tàu, rất đẹp. Tụi tôi đến đấy, thấy quả thật cô đẹp như Lý Lệ Hoa, nữ tài tử Hồng Kông, trong phim "Ánh Sáng Ðô Thành". Từ đó hễ có đồng nào là chúng tôi rủ nhau đến tiệm Thái Sơn (là nơi thằng Thích đến lãnh kem đi bán mỗi buổi sáng), chờ cô Kín ra trông hàng là vào, cả bọn, có khi chỉ mua một cây kem thôi, để được ngắm người đẹp. Thằng Thích còn chỉ cho chúng tôi một cô khác, tên là cô Mỵ, cũng người Tàu, con chủ tiệm tạp hóa Vạn Hòa, trên đường Lê Lợi, gần tiệm La Thành Ký, cũng rất đẹp. Cô Mỵ, lúc bấy giờ khoảng mười lăm, mười sáu, nổi tiếng vì gương mặt đẹp mê hồn và có bộ ngực đẹp, tụi tôi còn nhỏ, trên mười tuổi mà cũng biết là rất "hấp dẫn". Ngực cô không to nhưng dựng đứng lên như mụt măng. Sau nầy, ở xứ Mỹ, gặp lại mấy ông đồng hương Hội An, ông nào cũng nhắc đến cô Mỵ có bộ ngực đẹp. Thằng Thích rủ tụi tôi, buổi tối đến trước tiệm Vạn Hòa, ngồi xuống lề đường, phía đối diện, chờ cô Mỵ ra trông hàng để ngắm. Một lần nó bảo cả bọn theo nó vô tiệm để mua hàng. Bốn năm đứa chúng tôi theo nó một cách long trọng, giống như khách sộp. Nó đi trước, đến bảo cô Mỵ "Bán cho tôi một sợi giây" Cô ta hỏi "Giây đờn hả?" Nó nói "Dây lưng!" rồi phóng chạy mất tiêu, trong lúc tụi tôi đứng ngớ ra một lúc mới chen nhau chạy "thoát thân". Từ đó tôi không dám đi ngang qua tiệm Vạn Hòa. Mấy tháng sau, tôi đi thử, liếc vào tiệm, thấy cô Mỵ không thèm nhìn tôi, tôi mới yên trí là cô ta đã quên tôi rồi.
Chúng tôi, là những đứa trẻ con nhà nghèo, mồ côi hoặc cha mẹ bận rộn vì sinh kế không có thì giờ để mắt đến con cái, thường tụ tập thành một lũ nhóc, ngày nghỉ thì ra ngoại ô bắn chim, tát cá, tối về đi rểu trên các đường phố, mỏi chân thì ra bờ sông ngồi hóng gió, tán phét đến khuya mới về, lăn ra ngủ, chẳng bài vở bao giờ.
Lúc nhỏ, khoảng trên mười tuổi mà tôi còn nhớ những người và sự việc kỳ lạ, đối với tôi. Trước chợ Hội An có chùa Ông, trong thờ tượng Quan Công, mặt đỏ, hai bên có hai tượng đứng hầu là tượng Châu Thương, ốm nhách, tướng dữ dằn và tượng Quan Bình hiền lành hơn. Tôi rất sợ mấy tượng nầy, không dám nhìn, chỉ ngày lễ của người Tàu, đông người tôi mới dám vào ngắm mấy con ngựa và đao kiếm bằng gỗ để dưới ngai thờ. Trước chùa có mái hiên, là chỗ hành nghề của mấy ông thầy bói. Họ mang kiếng đen, ốm, vẻ mặt buồn bả, có lẽ ế khách và đói bụng. Ngày lễ, người ta xin xăm, đem ra đọc thầy nghe, nhờ thầy đoán, lúc đó thầy mới có tiền. Thỉnh thoảng cũng có người đến hỏi thầy về chuyện gia đạo. Tôi với mấy thằng bạn "mất dạy" đứng phía xa kêu lên "Cầu gia đạo, cạo da đầu" mà không sợ vì biết các thầy không làm gì được chúng tôi. Nhưng hễ đi một mình, tôi làm bộ hiền lành, lân la đứng nhìn thầy gieo quẻ. Thầy thảy hai đồng xu xuống một cái dĩa, nghe lách cách nho nhỏ, rồi thầy mò mẫm tìm hai đồng xu trong dĩa, lấy ngón tay miết trên đồng xu để biết chẵn, lẻ. Thầy lại gieo nữa, cứ thế vài ba lần thầy mới phán cho thân chủ quẻ ứng ra sao. Tôi nghe thầy nói rất trôi chảy, như đã thuộc bài trước. Thầy nói chữ Nho nên chẳng ai hiểu gì cả! Nói xong thầy mới giải nghĩa với giọng khề khà nhưng nghiêm trang. Lúc đầu toàn những lời dọa dẫm khiến thân chủ sợ hãi, sau đó thầy mới bày phương cách để trừ tai họa. Thân chủ thường là các bà lớn tuổi, người quê mùa, kính cẩn nghe thầy phán. Khi năn nỉ thầy điều gì phải kèm theo tiền để thầy "cải mệnh trời" mà cứu nhân độ thế. Một lần, không hiểu "thằng nổng" (tên gọi người sáng mắt, thường là thằng nhỏ, cầm đầu gậy đi trước, người mù cầm đầu kia theo sau) đi đâu, bỏ thầy một mình. Thầy mắc tiểu, bèn lần mò theo vách chùa. Ðến chỗ góc tường, thầy tưởng là "sau hè" nên đi tiểu, đưa chim tỉnh bơ. Thầy đâu biết vách đó lại nằm trên con đường chính trước chợ Hội An, tấp nập người đi. Tôi đứng coi, thấy các cô, các bà nghiêng nón che, có lẽ không cho người khác thấy mình đang liếc nhìn chim của thầy.
Ngồi chung với các thầy có một ông ăn xin. Thực ra ông ta không xin, ai cho gì ăn nấy. Ông ta để tóc dài, quần áo tả tơi, trông giống mấy kiếm khách trong phim Nhật "Giặc Nữ Ða Tình" đang chiếu lúc bấy giờ (Rạp chiếu phim là chùa Quan Âm, sát vách chùa Ông). Ông ăn xin nầy để móng tay dài cong vòng. Ông ta ngồi im, bó gối, cú rũ, không buồn, không vui, chẳng nhìn ai. Ai thấy tội nghiệp, bỏ tiền vào người ông (trên đùi), ông ta cũng không nói tiếng nào. Nhưng đến chiều, ông ta gom tất cả tiền người ta cho, đem lên nhà bưu điện, gần Chùa Cầu, bỏ tiền đó vào thùng thư!
Có một ông khác, cũng "tàng tàng" (khật khùng), nhưng được gia đình chăm sóc, nuôi nấng, ăn mặc sạch sẽ, lịch sự đi lang thang suốt ngày trên đường phố. Ông ta cứ lặng lẽ đi, miệng lẩm bẩm tiếng Tây. Người ta bảo ông "cuồng chữ". Ông có một tật lạ khiến tôi thường đi theo sau để xem. Hễ thấy ai đi giữa đường một mình, ông ta chạy tới thật nhanh và nhảy phóc qua đầu người ta như trong phim kiếm hiệp, khiến người đó thất kinh hồn vía.
Hội An bấy giờ còn có một nhân vật nữa là bà Lợi Ðiên. Bà ta còn trẻ, khoảng trên ba mươi. Bà ta cầm một cành cây, vừa đi vừa lầu bầu một mình, đôi khi nổi điên lên, bà ta rượt đánh người đi đường, nhất là đàn ông, miệng chửi mắng, rồi đứng khóc "Sao anh bỏ em? Em nhớ anh!..." Người ta bảo bà ta thất tình. Nghe nói có một cậu học trò nghèo, cha mẹ gả bà cho cậu ta còn nuôi cho ăn học, sau gửi cậu qua Pháp học tiếp. Khi thành tài cậu ta ở luôn bên Pháp, lấy vợ Pháp, không chịu về Việt Nam nữa, bà ta thất tình thành người điên. Ít lâu sau bà ta được đem gửi ra một căn nhà hoang gần chùa Chúc Thánh, vùng quê, cách Hội An vài cây số, để bà ta được nghe tiếng chuông mõ mà yên tĩnh tâm thần. Thế là trong những ngày nghỉ học, chúng tôi có thêm một thú vui là ra chùa Chúc Thánh chọc ghẹo bà Lợi Ðiên. Chúng tôi đứng từ xa kêu lên "Bà Lợi Ðiên! Bà Lợi Ðiên!". Bà ta đuổi đánh. Chúng tôi vừa chạy vừa cười vui. Có khi gọi mãi mà bà ta không rượt đuổi, chúng tôi từ từ tiến đến gần hơn, miệng vẫn kêu "Bà Lợi Ðiên!" mà thần kinh rất căng thẳng. Thình lình, bà ta vùng đứng lên, cầm roi rượt đánh. Những lần như thế, chúng tôi chạy quýu chân vì quá gần lại bất ngờ. Ðến lúc đứng lại thở, người vẫn còn run vì sợ và hồi hộp.
Trong thời gian ở tại ngôi nhà hoang, bà ta có một bà già săn sóc, lo cơm nước. Thế rồi một chuyện xảy ra. Có một anh lính ba trợn nào đó, tối nào cũng đến với bà Lợi Ðiên và tỉ tê "Anh là chồng em đây. Anh về với em..." ...và bà Lợi Ðiên có chửa. Sau đó anh ta chạy làng, nghĩa là trốn biệt.
Ngoài chuyện chọc ghẹo bà Lợi Ðiên, chúng tôi còn một thú vui nữa là vào các chùa bắn chim. Chùa là nơi an toàn nhất cho các loại chim đến làm tổ, sinh con đẻ cháu. Ở đó chúng được các chú tiểu, nhà sư bảo vệ vì các vị nầy không ăn thịt. Thứ bảy, chủ nhật chúng tôi rủ nhau ra các chùa Chúc Thánh, Trúc Lâm, Long Tuyền, chui hàng rào vào chùa, rình bắn chim, nếu bắt gặp ổ chim, chúng tôi cũng bắt luôn chim non đem vặt lông thui sơ sài, đến chiều đem về chiên lên ăn với cơm nguội. Bắn chim trong vườn chùa không phải dễ. Chúng tôi lặng lẽ chui vào bụi rậm núp, thấy chim đậu gần, trên cành cây hay trên mái chùa, thì dùng giàn thun bắn đạn đất sét phơi khô. Nghe tiếng lóc cóc của mấy viên đạn lăn trên mái chùa là các chú tiểu cầm gậy rượt chạy trối chết. Các chú nầy lớn hơn tụi tôi nên đuổi rất nhanh. Chúng tôi chạy muốn tắt thở mà vẫn nghe tiếng chân thình thịch ngay sau lưng. Các chú rượt chứ không bắt hay đánh tụi tôi bao giờ, hễ càng gần, các chú giậm chân càng mạnh, quay lại thì thấy "ông thầy chùa" ngay sau lưng, lại cong cổ chạy. Khi biết chúng tôi sắp đứt hơi, các chú mới dừng lại. Chúng tôi chạy tiếp một quãng rất xa nữa mới dám nằm lăn ra đất mà thở, mấy con chim bắt, bắn được rớt mất lúc nào không hay. Vì biết các chú đó chẳng ăn thịt chim nên chúng tôi chờ khi các chú vô chùa, bèn quay lại con đường mà mình đã chạy, tìm lại mấy con chim, thường là đủ cả.
Có chạy thất thần khi bị rượt bởi các chú tiểu, hoặc bởi bà Lợi Ðiên, lúc quay về mới thấy vui. Ấy vậy mà khi chùa có vía Phật hay cúng lễ gì đấy là chúng tôi giả bộ con nhà gia giáo, vào chùa với vẻ hiền lành, mộ đạo lắm. Mục đích để được ăn cơm chay của chùa. Ðến giờ trưa, chùa dọn cơm chay ra, ai muốn ăn cứ ngồi vô. Mấy dãy bàn, người ngồi đầy, cứ việc chen vô cầm đũa, lấy cái tô. Kiểm (các thứ rau, quả nấu chung), đậu, tương chao... cho vào tô. Bây giờ nhớ lại, tôi vẫn còn thèm cơm chay của chùa. Tôi đi hầu như khắp miền Nam, tiệm nào bán cơm chay tôi đều ăn, vậy mà chẳng nơi nào ngon bằng cơm chay các chùa ở Hội An.
Ở Hội An, chúng tôi còn có một thú vui nữa là lội nước lụt. Sau nầy lớn lên, tôi làm việc ở Huế, năm nào Huế cũng có lụt, nước ngập các con đường trong thành phố mà không thấy cô cậu nào lội nước lụt cả. Có lẽ ở Huế, mùa đông quá lạnh, trời thường u ám. Hội An của tôi, tuy lụt lội nhưng đôi khi có nắng, không lạnh lắm.
Hàng năm, đến mùa đông, mưa dầm là chúng tôi cầu cho nước lụt. Chúng tôi có bao giờ nghĩ đến nỗi khổ của người dân thôn quê khi bị lũ lụt cuốn trôi nhà cửa, hoa màu và gây chết chóc cho nhiều người? Bọn trẻ ở Mỹ chỉ cần xem TV là biết ngày mai có bão tuyết, học trò được nghỉ học. Tụi tôi, thời đó, dù có lụt thật cũng phải đến trường, vào lớp điểm danh và ngồi chờ lệnh của ty học chánh. Lúc đó thì chẳng bài vở gì cả. Thầy cô với bọn đệ tử cứ ngóng cổ về phía văn phòng, đến khi nghe thầy giám thị cho về là cả trường reo hò ầm ỹ. Ra khỏi lớp là chúng tôi nhét ngay sách, vở vào lưng quần, trước bụng, vì về nhà thì cha mẹ thường cấm không cho lội nước lụt, sợ nguy hiểm vì có lần, một cậu ngồi thuyền, đàn hát với chúng bạn thì thuyền lật úp, cậu ta không biết bơi nên chết đuối. Tai nạn chúng tôi thường gặp là khi lội nước lụt, bước hụt chân từ lề đường xuống lòng đường, gặp lỗ cống thì nước ngập đến ngực, thế là bài vở ướt mem. Ðường ngập nước chúng tôi thường lội là đường Nguyễn Thái Học, nước không chảy xiết lại có thuyền bè chở người đi chơi hoặc bán hàng rong. Người đứng trên lầu thòng cái giỏ có tiền xuống, người bán lấy tiền, bỏ quà vào giỏ, người mua kéo lên.
Tôi có thằng bạn tên Trần Ngọc Lợi kể chuyện nước lụt rất hay. Nhà nó trên đường Bạch Ðằng, sát bờ sông là nơi nước rất sâu và chảy xiết, không thuyền bè nào dám ra đấy nên chuyện nó kể, không thể kiểm chứng được. Nó kể về chuyện "Ngọc Rít" như sau. "Hôm nước lụt ngập tầng dưới, cả nhà tao phải lên lầu nhưng vẫn để cửa trước mở ra cho cá vào tránh nước lụt. Cá nhiều lắm, tao ngồi ở cầu thang câu một lúc là đủ kho, nấu canh cho cả nhà. Một buổi sáng tao cầm cần câu xuống lầu thì thấy một con rít (rết), to bằng cái đòn gánh, khoanh tròn trên tam cấp. Tao kêu ba tao, ba tao lấy thúng úp lên cho nó khỏi chạy rồi lấy cái thùng sắt bự, bỏ con rít vô. Tụi bây biết sao không? Ban đêm, cái thùng sáng trưng như thắp đèn điện trong đó. Ba tao bảo con rít đó đã tu thành chánh quả rồi nên có ngọc. Ngọc rít quí lắm. Ai có ngọc rít thì nghe được tiếng loài vật. Tiếng chim, tiếng chó...tiếng con kiến nhỏ chút xíu mà cũng nghe được". Tôi sốt ruột hỏi "Ba mi có giết con rít mà lấy ngọc không?" "Giết nó chết thì ngọc cũng tiêu luôn" "Vậy phải làm sao?" "Ba tao lấy một cái rổ thưa, đặt trên một cái lu đựng đầy nước. Trong rổ, ba tao bỏ một con gà đã làm thịt, rồi bỏ con rít vào rổ, loài rít rất thích ăn thịt gà, ngửi thấy mùi thịt gà là con rít nhả viên ngọc trong miệng ra để ăn thịt gà. Viên ngọc nhỏ lọt qua rổ, rớt xuống nước, chìm xuống đáy lu, vậy là con rít chịu thua, không có cách chi lấy lại viên ngọc được, lúc đó ba tao mới giết con rít và lấy viên ngọc" "Sao không thả nó đi? Giết nó chết, tội nghiệp" "Nó mà còn sống, nó đi tìm viên ngọc. Nó cắn một phát là xùi bọt mép, chớ giỡn chơi!" "Rồi ba mi có nghe được loài vật nói chuyện với nhau không?" "Trận lụt vừa rồi, ba tao chỉ bầy kiến đang mang lương thực và trứng kiến lên lầu, ba tao bảo rằng tụi kiến nói với nhau là sắp bão lụt, phải mau mau dọn lên lầu, nếu không thì sẽ bị ngập chết hết. Mới lụt có mấy ngày, ba tao bảo, chuẩn bị dọn xuống vì bọn kiến nói là hai bữa nữa nước sẽ rút"
Chuyện thằng Lợi kể là vào thời chúng tôi còn tiểu học, lớn lên chúng tôi biết là nó xem chuyện cổ tích, tranh tàu mà phịa ra. Lúc còn nhỏ, bất cứ chuyện cổ tích nào cũng khiến cho trí tưởng tượng chúng tôi bay bổng đến những thế giới thần tiên và chúng tôi tin là có thật.
Thằng Trần Ngọc Lợi nầy đã làm một chuyện động trời. Ðó là năm học đệ tứ, (khoảng mười lăm, mười sáu tuổi) nó đã tò tí với một cô bạn học cùng lớp tên Ngô thị Xuân Lan khiến cô mang bầu. Gia đình nó phải đi cưới cô ta cho nó. Cô Lan, vợ nó ở nhà nhưng nó vẫn tiếp tục đi học, cũng hoang nghịch, phá làng phá xóm y như tụi nhóc chúng tôi. Năm 1982, tôi đi tù về, có đến cư xá Phạm Thế Hiển ở Sài Gòn thăm vợ chồng nó. Nó có bốn năm đứa con. Thằng con đầu lúc đó đã trên hai mươi tuổi, cao to hơn bố. Thằng Trần Ngọc Lợi chơi thân với tôi, chuyện gì nó cũng kể cho tôi nghe. Nó kể, một lần, vợ nó chuyển bụng, phải đưa vô nhà hộ sinh, người nhà sai nó đi mua cà phê về cho vợ, nó cầm cái ly, đi rảo các đường phố. Lúc đó đã khuya, chẳng thấy người mà toàn chó chạy rông ngoài đường, thấy người là sủa. Nó tức mình, đứng lại múa võ, rượt đuổi nhau với bọn chó (nó là học trò của thầy võ Năm Sửu), khi về nhà hộ sinh, chẳng có cà phê mà vợ nó đã sinh con từ lúc nào rồi!
Thời còn nhỏ, khoảng đệ thất (lớp bảy), mà nay tôi vẫn còn nhớ chuyện con chó của ông chủ tiệm thuốc tây Ðức Phú, trên đường Lê Lợi. Ông ta tên Phan Huy Anh, hình như anh em gì đó với cựu thủ tướng Phan Huy Quát? Ông Ðức Phú có nuôi một con chó bẹt-rê (berger), to như con bò con, lại rất dữ, ai vào mua thuốc tây, nó bị cột sau nhà mà tiếng sủa "gầu gầu" của nó cũng khiến khách hàng thất kinh. Ai cũng phàn nàn, riết rồi tiệm ế khách. Một lần, có ông nhà quê đi ngang qua tiệm, con chó sau nhà sủa ra, ông ta đứng lại, dòm vô nhà và nói "Mi có giỏi ra đây. Tao bắt làm thịt cho rồi" Ông ta cứ đứng nói như thế mãi khiến ông Ðức Phú giận quá mới nói "Ông bắt được thì tôi cho ông. Nhưng nó cắn thì ráng chịu. Ông dám không?" Ông nhà quê trả lời "Khó chi, mai tôi đem cái bao bố ra đây, ông thả chó ra, tôi bắt về làm thịt ăn chơi".
Tưởng nói giỡn, không ngờ hôm sau ông nhà quê đến với anh con trai và cái bao lớn, đến đòi bắt chó. Ông Ðức Phú bèn mở dây xích, thả con bẹt-rê ra. Con chó từ sau nhà phóng ra, nhào lên cắn cổ ông nhà quê. Ông ta khóa cổ con chó cứng ngắt, anh con trai đứng bên cạnh, mở cái bao ra, bê đít con chó vào bao, cột miệng bao lại. Anh ta vác con chó ra bờ sông, bỏ xuống ghe. Người lớn, trẻ con chạy theo xem cho đến khi chiếc ghe khuất dạng mà vẫn còn tấm tắt khen ông nhà quê giỏi võ.
Ông Ðức Phú hơi nặng tai, nghĩa là bị bịnh điếc nhẹ. Ông có hai người con trai. Lúc tôi học tiểu học thì hai anh nầy đã lên trung học rồi. Người anh lớn rất đàng hoàng, người em thì lười biếng lại rất hoang, vì vậy tối nào ông Ðức Phú cũng dò bài anh ta. Ông gọi anh ta ra phòng khách, ngồi đối diện với ông, còn ông thì cầm quyển vở có bài học ngày mai anh ta phải trả bài ở lớp và bắt anh ta đọc xem có thuộc chưa? Lúc đó người anh lén núp sau cột nhà sau lưng ông, nhìn vào bài và đọc nho nhỏ cho người em nhắc lại rất to. Vậy là lần nào ông bố cũng thấy con thuộc bài mà đến trường cứ lãnh hột vịt?! Anh ta còn ăn cắp tiền nữa nên ông Ðức Phú gắn chuông điện ở ngăn kéo đựng tiền (bán thuốc tây), anh ta chỉ việc rút cầu chì, tắt điện là lấy tiền mà không ai biết. Anh con trai nầy hoang đến nổi, ở lớp, khi thầy đưa tiền bảo anh ra nhà ông phu trường mua nước ngọt vào cho thầy thì anh ta uống bớt rồi đổ nước lạnh vào cho đầy ly, đem vô cho thầy uống. Lần nào thầy cũng lắc đầu, chê nước ngọt lạt thếch! Ở trường, thầy nào cũng la trời "Thằng con anh Ðức Phú! Răng mi hoang mà làm biếng học!"
Hội An còn có một ông cũng nổi tiếng. Ðó là ông chủ tiệm buôn Phi Anh. Tiệm buôn Phi Anh và tiệm buôn Phi Yến được coi là hai tiệm buôn lớn nhất Hội An. Ông chủ hiệu buôn Phi Anh còn có một tiệm buôn nữa là tiệm buôn Trần Thị Nết, cũng lớn và đông khách. Ông chủ tiệm Phi Anh rất đông con, đến mấy chục người, nhiều đến độ ông không nhớ hết tên các con. Ngày tết, các con quây quần chúc tết, ông lì xì mừng tuổi cho từng đứa, ông thường hỏi, nhất là các cô cậu bé "Con tên chi?". Nghe nói, những chiếc giường ngủ, đặt trên lầu cho các con của ông ta, sắp thành những dãy dài như trong bịnh viện.
Thời bấy giờ, khoảng thập niên năm mươi, ai có chiếc xe đạp là đã sang trọng lắm rồi, coi như xa xí phẩm, vì thành phố rất nhỏ, đi bộ mươi phút là đâu cũng tới, vậy mà ông Phi Anh lại có một chiếc Mô-bi-lết (Mobilette) mới tinh, là xe gắn máy hai bánh. Loại xe nầy muốn đi đâu phải đạp như xe đạp một quãng ngắn, nó nổ máy, chạy rồi thì khỏi phải đạp nữa. Có một lần, vào buổi tối, trước tiệm buôn Trần Thị Nết, thấy ông đạp mãi mà chiếc mô bi lết nầy không nổ máy, tôi giúp ông bằng cách phụ đẩy phía sau xe, tuy ông không yêu cầu. Tôi đẩy, ông đạp. Cả hai toát mồ hôi xe mới chịu nổ máy thì cũng vừa đến nhà (tiệm Phi Anh). Chiếc mô bi lết nầy mới nhưng khó tính, khi ông cỡi nó ra khỏi nhà, nó chạy ngon lành, nhưng nếu từ tiệm buôn Trần thị Nết trở về, nó thường hay "làm thinh" không chịu nổ máy!
Tiệm buôn Trần Thị Nết có gắn nút chuông điện ở cửa. Hơi chếch về bên kia đường là nhà của thầy Tống Khuyến cũng có gắn chuông điện. Mỗi buổi tối, mấy đứa mất dạy tụi tôi thường lang thang trên các đường phố cho đến khi các nhà đều đóng cửa mới kéo nhau đến trước hai căn nhà đó, dùng cục nhựa đường (hắc ín) gắn lên nút chuông điện, đè mạnh cho chuông trong nhà kêu mãi rồi chạy núp ở một nơi xa, chờ người trong nhà ra mở cửa, dòm quanh, không thấy ai cả! Một lần, có cô bé giúp việc nhà thầy Tống Khuyến, ra mở cửa, không thấy ai bấm mà chuông lại kêu? Cô la thất thanh "Ma! Ma!", bỏ chạy vô nhà. Có lẽ cô mới đến nên không biết.
Ðối với các gia đình danh giá ở Hội An, chúng tôi không đủ tư cách để đánh bạn với con cái của họ. Vả lại những thú vui của chúng tôi, chẳng cô cậu nào dám tham dự đểâ bị mang tiếng là con nhà vô giáo dục. Thành thử, những chuyện tôi kể về các gia đình danh giá đó đều do tôi nghe từ người khác.
Nói đến Hội An là người ta nghĩ đến Chùa Cầu. Ðó là biểu hiệu của Hội An cũng như chợ Bến Thành là biểu hiệu của Sài Gòn vậy. Lịch sử Chùa Cầu, sách vở có nói nhiều, nhưng những người không đọc sách và bọn nhỏ tụi tôi thì có một lịch sử khác. Rằng bên Nhật thường bị động đất, nhà sụp, người chết, năm nào cũng xảy ra. Thầy địa lý Nhật bảo rằng, động đất là tại vì con cù (rồng đất) thường quẫy đuôi. Muốn cho nó khỏi quẫy đuôi, phải ếm cái đầu, không cho cục cựa. Mà cái đầu nó lại nằm tại Hội An trong khi cái đuôi lại nằm bên Nhật! Mấy ông phù thủy Nhật đến Việt Nam xây cái chùa trên đầu con rồng, còn ếm thêm một cây gươm dưới đất cho con rồng hết đường cục cựa. Vậy là bên Nhật không còn động đất nữa. Chúng tôi tin lắm. (Sự thật, ngôi chùa nhỏ bên cạnh cầu là do người Tàu xây năm 1653, thờ Bắc Ðế Chân Võ) Thế nên, thỉnh thoảng chúng tôi rủ nhau xuống lạch nước, dưới Chùa Cầu lấy cây thọt khắp nơi, hi vọng thấy được lưỡi gươm. Nhưng thọt mãi, chỉ thấy rác rến hôi thối, gớm ghiếc!
Lớn lên, tôi hết tin chuyện con cù, nhưng Chùa Cầu giúp tôi một dịp được một đứa con gái ôm. Số là một buổi tối, tôi đi lang thang gần đến Chùa Cầu thì thấy một cô bé cứ đứng thập thò chỗ trụ điện mà không dám qua cầu. Khi tôi đi đến thì cô ta đi theo sau lưng. Trong cầu tối lù mù như động ma lại thêm mấy cây nhang khi mờ khi tỏ trước tượng mấy con khỉ, con chó, càng thêm rùng rợn. Khi đến giữa cầu, tôi dừng lại và kêu lên "Ma kìa!" Vậy là cô ta nhảy tới ôm tôi cứng ngắt. Tôi cũng ôm lại cô để dìu cô qua cầu. Khi ra khỏi cầu cô bỏ chạy mất. Lần đầu trong đời, được một đứa con gái ôm, tôi về khoe tùm lum với tụi bạn, đứa nào cũng suýt soa rằng tôi gặp hên. Tôi không biết mặt mũi cô bé đó ra sao, nhưng vẫn còn nhớ đến bây giờ.
Bạn nào, thời thơ ấu cũng có rất nhiều kỷ niệm về ngày tết. Thức canh nồi bánh chưng chờ đón giao thừa, đốt pháo, áo quần mới, tiền lì xì mừng tuổi, rồi cả gia đình quây quần đánh bài, cắn hạt dưa, ăn ngon, thịt mỡ, dưa hành...đủ thứ. Tôi thì chẳng bao giờ có những thứ đó. Nhà tôi nghèo, ngày tết chỉ được ăn đồ cúng mỗi ngày từ trên bàn thờ dọn xuống. Chẳng ai lì xì mừng tuổi tôi cả, vì nhà giàu họ mới lì xì cho nhau, coi như cho qua cho lại, huề vốn, hay ít ra đó là cách gây cảm tình để nhờ vả sau nầy. Áo quần thì tôi được một bộ đồ mới, may để mặc đi học. Mỗi năm chỉ một bộ duy nhất. Tứ thời bát tiết chỉ một bộ đồ mới đó với vài bộ cũ từ năm ngoái, năm kia. Quần ka-ki xanh, áo vải trắng. Tôi có thằng bạn hàng xóm, mới may được cái quần Dacron (vải dệt bằng sợi hóa chất). Nó mặc vô rồi đi khoe với tụi tôi. Nó vò ống quần rồi vuốt một cái, ống thẳng lại như cũ. Tụi tôi lé mắt, trằm trồ nhưng không ước ao. Thời đó quần Dacron, áo popeline là thời trang sang trọng. Con trai không bao giờ để ý đến áo quần, chưng diện như con gái. Tôi chạy nhảy, chơi đùa rách áo quần thì lấy cơm với miếng giấy dán bên trong. Tôi thường phải tự giặt áo quần nên má tôi không biết. Có biết má tôi cũng không la tôi bao giờ. Con không cha như nhà không nóc.
Gốc gác giòng họ tôi trước đây không đến nỗi tệ.
Ông ngoại tôi là ông Xã Trang (xã trưởng Hội An). Thời Pháp thuộc, Hội An chỉ là một xã, sau lên thị xã (tỉnh lỵ Quảng Nam), hiện nay là thành phố.
Ông nội tôi là ông Quản Ðồ (quan quản tên Phạm Ðồ), thời Pháp là xếp thương chánh (quan thuế?) của tỉnh Quảng Nam. Ông chú tôi (em ông nội tôi) làm lãnh binh, xếp xòng lính khố xanh (?) tỉnh Quảng Nam.
Năm 1945-1946, ba tôi đi kháng chiến rồi mất tích, tôi thành mồ côi, con nhà nghèo.
Tuổi trung học tôi lớn rất nhanh. Tôi còn nhớ, năm đệ ngũ, lúc sắp hàng vô lớp, tôi nhỏ nhất, được xếp đứng đầu hàng, nghỉ hè vô, tôi bị đuổi xuống cuối hàng vì cao nhất lớp (nhỏ đứng trước, lớn đứng sau). Má tôi biết tôi lớn nhanh nên dặn bác thợ may phải lên hai ba lớp gấu, nghĩa là cuối ống quần phải gấp lên vài ba lần, để ít lâu, (chỉ vài ba tháng thôi), là phải xuống gấu quần mới che được mắt cá chân tôi. Vậy mà, đến giữa năm, sau khi xuống hết gấu quần, tôi mặc vẫn cụt ngũn, giống quần Phi Thoàng! Tuy có áo quần mới nhưng tôi vẫn mặc đồ cũ để đi chơi với các bạn. Chúng nó nhà còn nghèo hơn tôi, ngày tết không có đồ mới. Bạn có về Việt Nam trong mấy ngày tết, nhất là các tỉnh lẻ, bạn sẽ thấy ngoài đường có mấy đứa trẻ, trên dưới mười tuổi, mặc quần đùi, áo đứt nút, hở rốn, có đứa ở trần, kéo nhau năm bảy đứa đi lang thang trên các đường phố nhìn thiên hạ ăn tết. Ngày xưa, tôi là một đứa trong bọn nhỏ đó. Ðó là những đứa trẻ nhà nghèo, những đứa trẻ mồ côi. Không phải nhà nghèo mà không có thú vui. Vui nhiều hơn mấy cậu con nhà gia giáo vì rất tự do, muốn làm gì thì làm, chẳng có ai la rầy. Lớn lên, khi đã có vẻ thanh niên, chúng tôi không mặc quần đùi, nhưng vẫn thả rểu với nhau ngoài đường, chứ không hề đến nhà ai. Không bao giờ tôi mặc đồ mới trong mấy ngày tết.
Ngày tết, ở Hội An thường có các thú vui cờ bạc. Ðánh bài chòi, lắc bầu cua, đánh tài xỉu. Trong nhà thì đổ xâm hường, đánh xì lác, cách tê, tứ sắc...Tôi nhớ, lúc đó tôi còn tiểu học, trên mười tuổi, một buổi sáng, tôi lên chỗ ngã tư đường Phan Chu Trinh và Lê Lợi, xem người ta đánh bạc. Tôi thấy có một bàn tài xỉu, trước ga-ra sửa xe, quãng đường lên chùa Phật Học, người ta đứng đầy chung quanh đặt tiền, tôi cũng chen vào sát bàn tài xỉu đó để xem. Ðây là loại bàn thường thấy ở các gia đình bình dân, dùng làm bàn học, bàn ăn cơm hoặc bàn tiếp khách. Bàn thường có một cái hộc nhỏ, để vật dụng. Tôi đứng trước bàn, đối diện với người làm cái, là ông chủ ga-ra xe. Lúc đó tôi còn rất nhỏ, vai tôi vừa tầm với mặt bàn, hai tay tôi khuất dưới bàn. Tôi chỉ việc hơi nghiêng người là thò tay xuống dưới bàn, lách mấy ngón tay vào kẽ hở của hộc bàn, nhón lấy tờ bạc mà chủ cái bỏ vào đấy mỗi khi "vùa tiền". Khèo được tờ nào, tôi đặt bạc tờ nấy. Ăn thì tôi đặt dồn vào, thua, tôi móc tờ bạc khác dưới bàn lên đặt tiếp. Tôi cứ thua hoài! Ông chủ cái thấy vẻ bất thường của tôi (Tiền đâu mà đặt mãi?), cứ nhìn tôi nghi ngờ. Tôi thấy không ổn, rút lui. Ông chủ cái nầy là chủ ga-ra sửa xe. Ga-ra Nam. Ông ta trên bốn mươi tuổi, người cao lớn, giọng nói ồ ề, hay chửi thề, ai cũng ngán.
Một lần khác cũng vào ngày tết, ông chủ ga-ra Nam không làm chủ cái mà làm nhà con, đến các bàn tài xỉu, đặt tiền. Sáng bữa đó, ông ta say rượu, cứ móc túi đặt đồng nào thua đồng nấy. Ông ta là chủ ga-ra xe nên có rất nhiều tiền. Ðặt riết, thua sạch, móc túi nào cũng trống trơn! Mọi người thấy thế, cười ồ lên. Nhà cái cũng cười khoái chí vì đã lột được ông ta. Ông ta nổi xùng, mặt đỏ gay, mắt trợn ngược, vẹt mọi người chung quanh, sấn đến, lôi ông chủ cái vất mạnh ra xa, khiến ông ta ngã lăn xuống đất. Rồi ông ta kéo hộc bàn, vơ hết tiền vào bàn tay hộ pháp, giơ lên và nói "Từ sáng đến giờ tao thua nhiều rồi" Ai nấy chưng hửng! Ông chủ cái ngồi dưới đất cũng im re. Ông ta đang say rượu, chọc ông ta nổi giận, dộng cho một phát, chắc chết! Thấy ai cũng yên lặng đứng nhìn, ông ta nói tiếp "Tao thua, tao lấy tiền lại". Cũng chẳng ai nói gì! Ông ta coi bộ bị "quê" nên nói tiếp "Tao lấy. Tao đi!" Vậy là ông ta nhét tiền vô túi, bỏ đi. Mọi người tò mò, theo sau ông ta một bầy. Ông ta quay lại trợn mắt, hét lên "Ði chỗ khác!" Ai cũng thất kinh, chạy tứ tán.
Tỉnh lẻ, rất ít phương tiện giải trí. Khoảng thập niên năm mươi (thế kỷ trước), Hội An có gánh hát bội sau chùa Ngũ Bang. Những người lớn tuổi, nhất là các bà, là khán giả thường xuyên, đêm nào cũng đi xem. Cả thành phố vài chục nghìn người mà gánh hát cứ ăn dầm nằm dề, năm nầy qua tháng khác. Tuồng hát diễn đi, diễn lại vẫn là những tuồng Tàu. Mạnh Lệ Quân, Ðơn Hùng Tín, Tam Hạ Nam Ðường, Phàn Lê Huê,Tiết Nhơn Quí Chinh Ðông, Tiết Ðinh Sơn Chinh Tây... mà khán giả đêm nào cũng đông nghẹt. Xem riết, họ thuộc lòng từng màn, từng cảnh, giống như bây giờ ta xem đi, xem lại mấy băng (DVD) ca nhạc Paris By Ninght, Asia, Vân Sơn vậy. Buổi tối thỉnh thoảng tôi đi coi hát bội với chúng bạn. Không đứa nào có tiền nên chỉ đi "coi ké" Thông thường, khán giả có thể dẫn theo con, cháu cùng đi mà khỏi mua vé. Tụi tôi đứng hơi xa chỗ xét vé (cho người xét vé không thấy), chờ khách đi xem thì đến năn nỉ "Ông cho con đi theo "coi ké". Nghe ông!" Nếu ông ta gật đầu thì cứ níu tay ông ta khi qua cửa xét vé. Lọt qua cửa là tôi buông tay ông ta, chạy quanh tìm bạn, cũng là những đứa "coi ké", hỏi thăm "Thằng A, thằng B vô được chưa?", gặp được bạn thì mừng lắm. Chúng tôi như những con chuột nhắt, chạy lung tung, chui chỗ nầy, chỗ kia chứ ít khi chịu ngồi một chỗ (dưới đất) để xem, ngoại trừ những màn "xáp chiến" và yêu đạo hóa phép.
Trong tuồng hát, khi yêu đạo hóa phép thì niệm thần chú "Khẩu mật niệm chân ngôn...Hô biến!" Tức thì đèn đóm tắt hết, tối thui, trên sân khấu hiện ra con rồng, lưỡi kiếm, hoặc cây búa...(là những lồng đèn nhỏ, có thắp đèn bên trong). Ðối phương cũng niệm thần chú và một con vật hay vũ khí nào đó bay lên nghinh chiến. Hai vật xà quần nhau một lúc, "phe ta" niệm thần chú "Hô thâu!", phép màu của yêu đạo biến mất, coi như bị phe ta tịch thu vào hồ lô. Ðèn sáng lên, yêu đạo đánh đỡ quờ quạng mấy đường rồi bỏ chạy. Chúng tôi vỗ tay, hoan hô rầm trời. Màn xáp chiến cũng hồi hộp lắm. Hai tướng giáp trụ oai phong, gươm giáo sáng ngời, đội mão có gắn hai cái lông chim trĩ, cao vòng ra sau, lưng có năm cây cờ lịnh năm màu. Trước khi giao chiến, hai bên khiêu khích nhau "Mau quì xuống lai hàng, kẻo đầu treo cổ ngựa" Ðối phương tức giận, "xừng mang trợn mắt" "Cẩu tặc chớ nhiều lời! Hãy xem ngọn đao (lưỡi kiếm) của ta đây" rồi nhào vô đánh liền. Nói rằng xáp chiến chứ vũ khí hai bên chỉ chạm nhau tượng trưng thôi. Bên đánh, bên đỡ, quay vòng, điệu bộ ăn khớp nhau rất đẹp. Quân sĩ hai phe thì chạy lòng vòng, có khi cũng đánh nhau loạn xạ, trong lúc đó trống trận nổi lên dồn dập, trống chầu cũng thúc vô, khiến chúng tôi hồi hộp, chỉ mong "kẻ địch" thua. Một lúc "bên thua" bị đối phương đạp cho một đạp, lăn mấy vòng rồi lăn tuốt vô trong màn, coi như bỏ chạy. Bên thắng trận vênh mặt lên "Chưa đổ mồ hôi ngựa, cẩu tặc đã chạy dài! Quân bây. Truyền tấn binh!". Tuồng nào cũng vậy. Hễ đánh nhau là cũng chừng đó động tác, chừng đó câu nói, đến độ chúng tôi thuộc lòng! Chúng tôi còn biết tới màn nào là các bà sẽ khóc nên chờ để nhìn các bà, các cô mếu máo chùi nước mắt. Nhất là các cô đi xem hát với các anh lính. Chúng tôi nhỏ, không ai để ý, không biết rằng chúng tôi đang rình xem anh chị làm gì. Xem hát có hai hạng, hạng vé ngồi và hạng vé đứng. Mấy anh chị nầy hay đứng chen nhau để dễ ôm nhau. Thường thì các chị hất tay anh ta ra, nhưng đến màn lâm ly, anh ta làm gì mặc kệ, chị ta chỉ chú ý xem rồi khóc ngon lành.
Tôi còn nhớ tên mấy nghệ sĩ hát bội thời bấy giờ. Ông Ðiền, Ông Thành, Ông Tâm, bà Dần...Ban ngày, chúng tôi hay ra sau chùa Ngũ Bang, chỗ gánh hát cư ngụ để chiêm ngưỡng mấy ông, bà nghệ sĩ nầy. Trên sân khấu họ oai phong, lẫm liệt bao nhiêu thì ban ngày họ trông thật thảm não bấy nhiêu. Họ hút thuốc phiện nên ốm nhom, lờ đờ, tơi tả, vợ con nheo nhóc. Các nữ nghệ sĩ có khá hơn, ban ngày cũng còn đẹp. Bà Dần đóng vai nào cũng hay. Làm tướng (Phàn Lê Huê), mắt phượng mày ngài, múa kiếm, xáp trận rất đẹp mắt. Ðóng vai Ðiêu Thuyền, liếc mắt đưa tình, làm nũng với Lữ Bố y như thật.
Coi ké, không phải lúc nào cũng thành công. Vì ông xét vé quen mặt, thấy là đẩy ra vì biết không phải con, cháu gì của khán giả cả. Chúng tôi có cách khác là leo tường. Một thằng to con đứng làm cái thang cho mấy đứa khác leo lên vai, trèo tường vô trong. Vô phước, vừa nhảy xuống đất lại gặp ngay ông trật tự đứng chờ sẵn. Ông ta phang cho mấy gậy vô đít, vô lưng, xách tai đau điếng, lôi ra cửa, tống cổ ra ngoài. Phải chạy vòng ra sau, báo động "Ðừng leo vô nữa. Có thằng già đứng chờ phía trong!"
Một cách coi hát bội không tiền nữa là đi "Rao bảng". Buổi chiều, vô rạp cho người ta "vẽ mặt" nhân vật chính sẽ diễn tối đó. Vài ba đứa, mặt mũi xanh đỏ, mang râu, đội mão ngồi trên một chiếc xích lô. Hai bên xích lô có hai tấm bảng giới thiệu "tuồng hát tối nay". Một thằng đánh trống, thằng kia thì cho "chương trình", là tờ giấy ghi đêm nay sẽ hát tuồng gì. Ðứa nào "rao bảng", tối đó được vô coi hợp pháp, nghĩa là đường hoàng vô cửa. Nhiều lần tôi và vài đứa bạn bon chen, xin được rao bảng, nhưng không tranh được với mấy thằng lớn hơn, cô hồn hơn.
Ðêm diễn sắp đến màn cuối thì có "thả cửa" (trong Nam gọi là"thả giàn"), nghĩa là mở cửa, ai muốn vào coi cũng được, lúc đó, có người đứng ra giới thiệu đêm mai sẽ hát tuồng gì, sự tích ra sao.
Mấy ngày tết thường hát những tuồng có hậu, vui vẻ để khán giả gặp hên suốt năm. Nhiều người chờ "thả cửa" vào bói xem năm nay sẽ gặp được gì? Ðoàn tụ, làm giàu, thêm con cháu...? tùy theo phần kết của tuồng.
Ngoài hát bội, chúng tôi còn cách giải trí khác là mướn truyện Tàu, truyện trinh thám, truyện đường rừng, chuyện ma về đọc. Trong con hẻm Phan Chu Trinh có chỗ cho mướn truyện. Vợ chồng ông chủ nầy hút thuốc phiện, thơm ra đến ngoài đường. Một quyển sách ông ta chia ra làm nhiều tập mỏng dánh, độ năm mươi trang. Chúng tôi mướn vài tập rồi chia nhau đọc. Ðứa chi tiền thì đọc tập trước, không tiền đọc tập sau, mấy đứa kia ngồi dòm, đọc ké. Thằng Ðỗ Ðình Tân thường có tiền mướn truyện, tụi tôi chẳng có đồng nào. Bồng Hiệp Khách, Kim Hồ Ðiệp, Long Hình Quái Khách, Phi Thiên Thần Long, Người Nhạn Trắng Gặp Sáu Mạnh, Nửa Bồ Xương Khô, Nhất Chi Mai...Chúng tôi đọc hết mấy kệ sách của ông chủ hút thuốc phiện đó. Ðứa nào cũng đọc rất nhanh, chỉ nửa giờ là xong, lại chạy đi mướn về đọc tiếp, có khi ngồi ngay vệ đường, chúi đầu mà đọc, quên cả thế gian. Lúc đó không có kiếm hiệp Kim Dung, nhưng mấy chuyện "phi hành" (đi trên ngọn cây, nhảy lên mái nhà, phóng phi tiêu) cũng dư sức làm say mê bọn nhóc chúng tôi. Mỗi khi đọc hết tập truyện, chúng tôi cùng hô to "Phi hành!", vậy là đứa nào cũng cong cổ chạy theo kiểu "cà xơn" như ta đây là hiệp khách đang lướt trên ngọn cây đi "hành hiệp giang hồ". Ðôi khi lấy một khúc tre nhỏ, gài vô lưng quần đùi, lọt qua ống quần, giống như đeo kiếm, vừa chạy vừa giữ lưng quần, kẻo nó tuột xuống, lòi chim.
Một môn giải trí khác là đá banh. Thời tiểu học đá banh tơ nít (tennis), nhỏ bằng trái cam, lên trung học đá banh lớn. Lớp nầy thách đấu với lớp khác. Bọn ban C (văn chương) tụi tôi đá bết nhất, trận nào cũng thua, nhưng cũng hăng lắm. Trước khi ra trận, mấy lớp khác chọc ghẹo "Có đem theo cái giỏ đựng trứng không?". Bọn ban B. đá dữ nhất, mỗi trận, chúng ăn ban C. chúng tôi hàng chục quả trở lên. Tôi được giao làm thủ môn. Banh xuống là tôi chắp tay năn nỉ "Ðá ra ngoài giùm tao!" Chúng thấy tội nghiệp, cười rồi hất banh ra ngoài khung thành. Vậy chứ ban C ra sân là khán giả rất đông, để xem chúng tôi đá banh thua bao nhiêu quả rồi cười vui, thích thú lắm.
Bấy giờ Hội An chúng tôi có một cầu thủ đá banh nổi tiếng "Giáo Huê Chơi Xấu". Khi tranh banh, ông ta làm bộ vung vẫy hai tay, rồi thình lình "vẫy" mạnh tay vào chim đối phương, khiến đối phương ngã lăn ra, ôm chim lăn lộn. Trọng tài không dám thổi phạt, có lẽ sợ ông ta cũng "vẫy" cho một phát thì nguy. Ðây chỉ là các trận đấu "giao hữu" giữa các đội banh của các quận, xã với nhau, nhưng giao hữu kiểu đó, mà nghe có Giáo Huê tham dự là ai cũng ngán.
Thời trung học chúng tôi có một có một thú vui mà ít người được hưởng. Ðó là đi bắt gà trộm nấu cháo ăn. Cứ chạng vạng tối là chúng tôi đi rảo khắp các xóm, trong hẻm, dòm ngó xem mấy con gà nhà người ta ngủ chỗ nào. Thường là trên cây trong vườn hoặc sau hè. Ðến tối, thằng Trần Ngọc Lợi (đã có vợ, có con và còn đi học với chúng tôi, như đã kể ở trên) chở tôi đến bằng xe đạp, tôi leo rào vào, ôm gà ra và nó đạp như bay. Chúng tôi rất thú vị với trò nầy, vừa hồi hộp vừa sợ. Tôi bắt gà trộm rất tài. Cứ lòn tay dưới bụng con gà và nâng nhẹ lên, con gà chỉ kêu cúc cúc nho nhỏ chứ không vùng vẫy, kêu la gì cả.
Gà lớn, gà bé, chúng tôi trộm tuốt. Tiện nhất là gà người ta mới mua về, còn nhốt trong lồng để trước cửa hoặc cột chân vào gốc cây cho gà quen chỗ. Thằng Lợi dừng xe đạp ngoài đường, tôi lẻn vào, ôm chạy ngon ơ. Bạn bè tụi tôi thời đó, hầu như đứa nào cũng được ăn cháo gà. Buổi tối, bạn nào đi ngang qua nhà thằng Công cũng được mời vào thưởng thức cháo gà.
Có bữa, đi rảo khắp nơi mà không tìm được gà để bắt trộm, tôi về trộm gà ở nhà, của má tôi nuôi, đem lại nhà thằng Công nấu cháo. Khi bị mất gà, má tôi chửi thôi, bể làng bể xóm. Chửi khơi khơi chứ có biết ai trộm gà đâu? Tối thứ bảy mất gà, sáng chủ nhật, khi cho gà ăn và điểm danh mấy con gà, thấy vắng mặt một con là má tôi chửi. Tôi đang ngủ phải vùng dậy bỏ đi.
Nhiều khi hẹn nhau đến nhà thằng Công ăn cháo gà mà tìm không ra gà thì thằng Mạc Phi Hoàng rủ tôi lên lầu nhà nó bắt bồ câu. Cứ rải ít gạo trên sân thượng trong cái thúng có cây chống, chim bước vào ăn gạo thì giật sợi giây, úp chim trong thúng. Thường chỉ bắt được bồ câu già, nấu hoài mà vẫn dai nhách, nuốt không vô! Nhưng có cháo để xì xụp với nhau là vui rồi. Thằng Công có mấy đứa em gái dễ thương, hiền lành, cứ bị nó sai xuống bếp nấu cháo gà (trộm), trong khi bọn tôi ngồi trên lầu tán phét chờ ăn. Ba thằng Công đi làm xa, chỉ có mẹ ở nhà. Bà mẹ rất hiền và thương con, tụi tôi đến làm gì mặc kệ. Nó có thằng em trai tên Bổn, sau thành nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ. "Dạ Vũ" không phải là ca nhạc nhảy đầm như ở Mỹ mà có nghĩa là đêm mưa, (Ðêm Mưa Bến Tần Hoài). Thằng Công chỉ biết có một bài hát duy nhất, từ tiểu học đến trung học, là bài "Anh ơi, tôi lên đường phố cũ tìm anh chiều hẹn hò. Trao nhau niềm vui cuối tuần..." Trong lớp, hễ giảng bài xong, còn dư mấy phút, thầy (cô) thường bảo "Ai biết hát, lên hát một bài" Vậy là tụi tôi đẩy nó lên "Công! Lên hát Anh ơi tôi lên đường phố cũ đi!" Như tôi đã kể ở một chuyện ngắn khác, thằng Công thường bị chúng tôi đem ra để chọc ghẹo những nữ giáo sư mới ra trường còn ngây thơ. Hễ cô gọi thằng Công lên trả bài là chúng tôi nhao nhao "Công ngủ rồi cô!". Có một thằng khác tên Vương Tử Hoàng, cũng chỉ một bài, hát hoài, từ tiểu học lên trung học "Ðêm dâng với ngọn triều. Dô hà dô kéo thuyền nhổ neo. Vi vu buồm lên cao. Dô hà dô sóng reo dạt dào..." Hai đứa nó hát mãi như thế khiến cả lớp đều thuộc lòng. Về sau, lớn lên, lang bạt khắp nơi, mỗi khi nghe lại những bài hát đó, đứa nào cũng nhớ Hội An, nhớ bạn bè, nhớ hai thằng ca sĩ "chỉ biết một bài duy nhất".
Có một chuyện bắt gà trộm mà tôi vẫn nhớ mãi. Một thằng bạn khác, rủ tôi đi bắt gà trộm. Nó khoe cách của nó ngon hơn "Cứ nắm cổ gà cho thật chặt, rồi ôm chạy. Làm sao nó kêu được?" Thế rồi một lần, tôi theo nó vào một đường hẻm. Nhiệm vụ tôi là đứng ngoài rào canh chừng, nó leo rào vô sau nhà người ta. Một lúc nó đi ra, tôi không thấy nó ôm gà mà cầm vật gì trong tay, cứ đưa ra phía trước và đi hối hả ra đường, không nói tiếng nào. Tôi đi theo, ra đường chính, có ánh đèn điện. Trời đất quỉ thần ơi! Nó cầm trong tay đầu một con rắn. Mình con rắn quấn quanh cánh tay nó. Tôi hoảng kinh, đứng xa mà nhìn chứ không biết cách nào cứu nó. Thế rồi nó ngồi xuống lề đường, bắt đầu mài đầu con rắn xuống mặt đường nhựa. Thì ra có một loài rắn, là rắn rồng hay gì đấy, thường vô nhà bắt chuột hoặc ăn trộm trứng gà trong các ổ gà. Con rắn cứ nuốt nguyên cái trứng vào bụng, chỉ một lát sau, nó nhả ra cái vỏ trứng dẹp lép, tròng trắng, tròng đỏ đã tiêu hóa hết. Vì con rắn cũng đang rình, tìm cách ăn trộm trứng gà của con gà mái đang ấp, nó ngóc đầu chờ dịp thuận tiện bên cạnh con gà, vậy là thằng bạn tôi tưởng đầu rắn là đầu gà, chộp lấy. Khi biết là con rắn, nó không dám buông tay, cứ nắm chặt mà đi. Nó ngồi mài mãi, đến khi cái đầu rắn đã mòn, lậm đến thịt tay, nó vẫn mài. Tôi đến gần, thấy con rắn đã mất đầu, buông lỏng mình, mới bảo nó rằng con rắn chết rồi, nó mới ngừng tay. Bữa sau đi học, thấy tay nó bị băng vải, không viết bài được.
Không chỉ bắt gà trộm, chúng tôi còn hái trộm trái cây trong vườn nhà người ta. Về khuya, chúng tôi đi lang thang ngoài đường, ngứa ngáy chân tay, thấy vườn nhà ai có trồng cây ăn trái, chúng tôi leo rào, vào bứt đại, vì ánh đèn đường, chỉ thấy lờ mờ, nên non già gì cũng vơ hết. Hái cho vui chứ chẳng ăn được gì. Ổi non chát ngắt, chanh chua lè...cứ vất ngay trước cổng nhà người ta, để chọc tức chơi.
Khi chúng tôi lên đệ tam, đệ nhị (lớp mười, mười một), tâm hồn bắt đầu có vấn đề. Chúng tôi mơ mộng, vui buồn không có nguyên nhân. Ði chơi chung thì ít nói, ngang qua nhà người đẹp nào cũng dòm vào (chẳng biết để làm gì?). Thời đó, ngoài cô Kín và cô Mỵ, còn có các người đẹp khác như cô Hà thị Tuyết, cô Lê thị Thanh, cô Thục Anh, cô Liên Chuột Bạch...Ðứa yêu cô nầy, đứa yêu cô kia mà không nói ra. Chúng tôi, tuy đã lớn, đã "nhổ giò" (lớn nhanh), vỡ giọng (ồ ề) nhưng vẫn còn "gà tồ" (ngu ngơ). Bọn con gái cùng tuổi khôn hơn, tinh ý hơn. Thấy thằng con trai nhìn mình mà mặt cứ thộn ra, chân tay luống cuống là biết hắn ta đã bị hớp hồn, nên các cô (cũng là chỗ quen biết) thường tặng cho một nụ cười. Thế là anh chàng sướng mê. Từ đấy chàng ta trồng cây si cô nàng, gọi là yêu thầm hay yêu đơn phương cũng vậy. Yêu đơn phương bao giờ cũng nhiều mơ mộng nên thường làm thơ, gửi đăng báo, hi vọng người đẹp biết đến "thi sĩ", nhưng thơ dở quá, chẳng báo nào đăng, vậy là thưởng thức một mình chứ không dám cho ai biết, sợ quê. Có cậu còn viết thư tình gửi người đẹp. Ðây là màn phiêu lưu rất nhiều nguy hiểm. Lá thư sẽ được người đẹp chuyền cho người khác đọc và bình luận. Thành phố nhỏ, học trò đều biết nhau, vậy là anh chàng thành "nổi tiếng".
Tuổi đó, chúng tôi còn con nít nhưng lại muốn làm người lớn. Khoảng đầu thập niên 1960, có cô Thanh Thúy hát nhạc của Trúc Phương hay vô cùng. Bên hông ty bưu điện Hội An, trên con đường đâm ra bờ sông, có quán cà phê của cô Phượng, tụi tôi đi ngang qua, hễ nghe bản "Nửa Ðêm Ngoài Phố" là ngồi xuống lề đường phía đối diện quán cà phê, lắng nghe. Thành phố Hội An, buổi tối vắng người, đường hẹp như những con hẻm, đèn vàng hiu hắt, nghe bản "Nửa Ðêm Ngoài Phố", thấy như tâm sự của chính mình trong đó.
Một lần, thấy ngồi lề đường nghe nhạc không đúng điệu, chúng tôi góp tiền, vào quán, gọi mỗi đứa một ly cà phê đen, ngồi lắng nghe, vẻ đăm chiêu, suy tư ghê lắm, (làm ra vẻ người lớn vậy thôi, chứ biết suy tư gì đâu!), nhưng tối đó, về nhà, đứa nào cũng thức "trợn trắng con mắt". Cà phê đắng ngắt, phải ráng uống, uống vô mất ngủ.
Tôi vì tham gia "ngồi quán uống cà phê nghe nhạc" mà tiêu mất tiền má tôi cho để hớt tóc. Thấy tóc tôi quá dài, má tôi lại cho tiền mà không la mắng. Từ đó, má tôi biết phải cho hai lần tiền tôi mới hớt tóc một lần, mà tôi lại thích để tóc dài cho có vẻ nghệ sĩ. Tóc tôi dài đến độ, có lần, trường tổ chức trại hè Mỹ Khê, Ðà Nẵng, tôi được đi, khi tập trung trước sân trường để lên xe, thầy hiệu trưởng Hoàng Trung gọi tôi đến, bắt giở mũ ra, thấy tóc quá dài, bèn móc túi cho tiền, bảo đi hớt tóc ngay, nếu không sẽ không cho đi.
Kể chuyện Phố Hội có thể chấm dứt sau khi tôi thi xong tú tài, rời thành phố. Nhưng khi tôi thi tú tài hai năm 1964, cũng có vài chuyện vui. Thời đó, thi tú tài một phải ra Ðà Nẵng, tú tài hai ra Huế. Thế nên bọn học trò đệ nhất chúng tôi kéo hết ra Huế, theo đúng truyền thống "Học trò trong Quảng ra thi..." Thằng Phùng Ngọc Nhựt, bạn cùng lớp, có người bà con ở Huế, rủ tôi và năm ba đứa nữa ra ở trọ. Nhà trọ nằm sau bến xe Nguyễn Hoàng, trên đường Trần Hưng Ðạo, chỉ cần đi bộ, xuống đò bến Thừa Phủ là qua bên đường Lê Lợi, đến hai trung tâm thi là trường Quốc Học và Trường Ðồng Khánh. Thông thường, một ngày thi hai môn, sáng một môn, chiều môn khác. Thi xong, chúng tôi về ăn uống, nghỉ ngơi hoặc ôn bài, hai giờ qua thi tiếp. Có một thằng, trưa đó nằm ngủ say. Khoảng một giờ, chúng tôi vặn đồng hồ lên ba giờ, rồi trốn hết, chỉ sai một con bé, con chủ nhà đến đánh thức hắn ta "Anh, dậy đi thi. Mấy anh kia đi hết rồi!" Hắn bừng mắt, thấy đồng hồ ba giờ, nhà vắng hoe, hoảng kinh, vùng dậy vơ đại áo quần, cầm trên tay, cứ chân không mà chạy như ma đuổi. Chúng tôi phải chạy theo kêu lại. Chúng tôi thì cười, hắn thì chưởi, mặt từ tái ngắt sang đỏ gay! Nhưng rồi sau đó hắn cũng cười, mừng là không bị trễ giờ đi thi.
Trong phòng thi, tôi ngồi cạnh ông Liêu Công (cùng vần C). Ông ta là giám thị trường Hàm Nghi, tuổi trên năm mươi tuổi. Ông ta bảo, thi tú tài hai gần mười năm rồi mà không đậu vì học hoài mà không nhớ gì cả. Ông cần cái bằng tú tài hai để lên ngạch, trật gì đó, khi về hưu, tiền hưu sẽ khá hơn. Ông ta ngỏ ý xin được cọp dê (copy) bài thi của tôi. Tôi đồng ý với điều kiện. "Bùa" (sách vở) tôi đem vào, ông ta lót dưới đít, không ai thấy. Khi nào tôi cần, ông ta chỉ nhỏm đít lên là tôi sẽ rút ra, tìm bài. Ông ta chịu ngay. Thực ra, tôi cũng thuộc bài, không cần "bùa", nhưng tôi là đứa ba trợn, chẳng sợ gì, hơn nữa ông ta giữ bùa, tôi không phải lo bị bắt. Trong lúc làm bài thi, tôi quên là phải cho ông ta cọp dê, mãi viết bài, khiến ông ta phải chồm qua để nhìn bài của tôi. Vô phước, giám thị thấy dưới mông ông ta một cọc bùa (sách vở, tài liệu). Vậy là ông ta bị bắt quả tang đem tài liệu vào phòng thi. Tôi thấy ông ta kinh hoàng, khiếp đảm chứ không phải sợ. Mồ hôi ông toát ra như tắm, chân tay run lập cập. Ông ta cứ theo ông giám thị, thì thầm năn nỉ gần như khóc, và được "tha tào". Hú vía! Tôi bảo "Cùng lắm bác thi rớt, như mấy năm trước chứ có chi mà bác sợ dữ vậy?" Ông ta bảo "Thi đậu hay rớt không thành vấn đề. Tôi là giám thị trường Hàm Nghi mà lại gian lận trong phòng thi thì có nước chui xuống đất chứ mặt mũi nào mà đến trường làm giám thị nữa!"
Nhờ cọp dê bài của tôi, ông ta thi đậu bài viết. Qua vấn đáp, vì giáo giới với nhau, ông ta dễ được giám khảo thông cảm, tệ lắm cũng cho đủ điểm để đậu. Năm đó tôi cũng gặp may. Vô vấn đáp, môn vạn vật, giám khảo nhìn thẻ học sinh của tôi và hỏi "Anh học vạn vật với thầy nào?" Tôi thưa với thầy "Ðồng Ðỏ" (Lúc đó trường Trần Quí Cáp có hai thầy Ðồng, một thầy da ngăm ngăm, học trò gọi là thầy Ðồng Ðen, thầy kia mặt lúc nào cũng hồng như con gái, gọi là thầy Ðồng Ðỏ) Thầy giám khảo hỏi vớ vẩn gì đó rồi bảo "Tôi cho anh bảy điểm. Gặp thầy Ðồng thì nói tôi gửi lời thăm thầy" Tôi cám ơn rối rít. Ði thi được năm điểm là đủ đậu rồi. Hai điểm còn dư, để cứu các môn khác.
Nhờ tôi cho cọp dê bài nên ông Liêu Công thi đậu tú tài hai. Ông ta không cho tôi về Hội An ngay mà giữ lại Huế mấy ngày. Ông ta có một chiếc xe hơi "con cóc", giống như xe ta xi ở Sài Gòn bấy giờ. Chiều nào ông ta cũng đem xe đến chở tôi đi lòng vòng thành phố Huế. Danh lam thắng cảnh, nơi nào cũng đến. Sau đó chở tôi về nhà ông ta. Cao lương mỹ vị dọn lên, chỉ ông ta với tôi ngồi đối ẩm, vợ con ăn dưới nhà. Sau bữa ăn, tráng miệng một mâm đầy nhãn lồng, hái từ cây trồng trong vườn. Nhãn lồng xứ Huế, dày cơm, giòn, ngọt và thơm. Sau bữa ăn, tôi tà tà xơi hết nửa mâm nhãn. Vài hôm sau, mắt tôi đổ ghèn!
Sau nầy, tôi làm việc ở Huế nhưng tìm nhà ông ta không ra để thăm. Có lẽ "ông cụ" đã về hưu lâu rồi.
Nhân nói chuyện tình yêu, tôi xin kể một trong những mối tình đơn phương của tôi mà đến nay tôi vẫn còn nhớ.
Năm đó tôi học đệ tam, Trường Trần Quí Cáp. Bấy giờ, vì thiếu phòng học nên một phòng giành cho hai lớp. Buổi sáng một lớp, chiều lớp khác. Tôi học buổi sáng. Là vua trốn học nên thỉnh thoảng tôi và vài đứa nữa, leo cửa sổ, chui rào (Lúc đó trường chưa xây tường) chạy đi chơi. Cứ tưởng tượng chui khỏi rào, đứng nhìn các lớp học lặng trơ, tụi bạn phải trả bài, làm bài, còn mình thì thảnh thơi, mới thấy cái thú trốn học. Chúng tôi thích nhất là đi tắm sông. Bơi lội, hò hét, đùa nghịch cho đến chán thì mặc áo quần, trở lại trường, lại chui rào, vào lớp học tiếp. Thân thể mát mẻ, tinh thần thoải mái, học thêm mấy giờ nữa là tan trường!
Một lần, tôi với thằng bạn trốn học, xuống phía chùa Sư Nữ tắm sông. Ðây là vùng ngoại ô, cách trường hơn cây số. Khi chúng tôi chuẩn bị lên bờ thì có hai chị đàn bà ôm áo quần xuống bến giặt giũ. Không biết hai chị tâm sự gì mà cứ nói mãi, chúng tôi không thể lên bờ mặc áo quần được. Vì bến sông thuộc vùng quê, vắng vẻ, nên chúng tôi tuy đã học đến đệ tam, lớn rồi, mà vẫn cứ tắm theo kiểu ông Adam, nghĩa là cứ tuột hết đồ ra, nhảy ùm xuống sông, nô đùa đến chán thì lên bờ mặc áo quần vào.
Vì không thể đưa chim ra trước các bà khi lên bờ, nên hai đứa tôi cứ lội lên, lội xuống mãi cho đến trưa, hai chị đàn bà ra về, mới lên mặc áo quần, vội vả đến trường, thì đã đến giờ của lớp buổi chiều. Sáng hôm sau đi học, thấy trong hộc bàn, sách vở vẫn còn nguyên, nhưng có thêm một mãnh giấy nhỏ, trên đó có mấy câu, chê rằng đi học mà "đút vở bụi tre" (trốn học) không biết xấu hổ. Thấy nét chữ chân phương, tôi đoán là chữ con gái nên để ý xem cô nào đã ngồi chỗ của tôi. Hoá ra đó là cô Lê thị Thanh học lớp đệ ngũ. Cô nầy có chiếc miệng rất xinh với đôi môi mọng, hồng tự nhiên, khi mím lại, dễ thương hết sức, cô được xem như có duyên nhất trường. Tóc cô nhiều, phủ đầy lưng, đôi mắt thông minh, sáng trưng.
Ðược một người đẹp như thế ngồi chỗ của mình, tôi dại gì mà không viết thư bỏ hộc bàn! chẳng phải thư mà chỉ là mãnh giấy nhỏ. Tôi viết bằng tiếng Anh, khi làm thơ tặng cô thì tôi viết tiếng Việt. Tôi học đệ tam, ban C (văn chương) mà tiếng Anh, tôi viết xong, về nhà giở tự điển ra mới thấy trật bậy, trong khi cô học đệ ngũ, trả lời, có những chữ tôi không hiểu! Tôi làm thơ tỏ tình thì cô nói sang chuyện học hành, đại ý muốn cô đọc thơ tôi thì phải chăm học, không được trốn học nữa.
Cứ cách vài bữa, tôi tặng cô một bài thơ, có khi chỉ vài câu, toàn thơ con cóc. Suốt một năm như thế, bầy cóc đó, nếu chép ra, chắc cũng được một tập thơ dày.
Cô Thanh học rất giỏi, năm nào cũng lãnh phần thưởng nhất lớp, đôi khi còn thêm phần thưởng hạnh kiểm nữa. Năm nào, lễ phát phần thưởng, tôi cũng đến dự để được ngắm cô yểu điệu lên lãnh thưởng. Cô còn nhỏ nên đôi khi ôm phần thưởng lớn, che cả mắt, không thấy đường, tôi rất hồi hộp và thương cô vì sợ cô vấp ngã.
Hết năm đệ tam thì tôi không còn ngồi chung chỗ với cô Thanh nữa. Nhưng buổi tối, tôi thường đi ngang nhà cô, trước chợ Hội An, để được thấy cô ngồi học ở một bàn nhỏ trong phòng khách. Từ năm đệ nhị, tôi phải gạo bài để thi tú tài, nên tối nào tôi cũng thức khuya. Ðang học bài mà mệt mỏi, tôi buông sách vở, lang thang ngoài đường phố một lúc cho thảnh thơi tâm trí, để về học tiếp. Dù đi đâu, tôi cũng vòng xuống phía chợ, ngang qua nhà cô Thanh một lần. Ðôi khi, đang ngồi học, nhìn ra, thấy tôi, cô đứng dậy, bước ra cửa để tôi được gặp. Chúng tôi chỉ nói vơ vẩn mấy câu, độ năm, mười phút, cô bảo "Về học bài đi! Sắp thi rồi" Nghe thế, tôi ngoan ngoãn đi về, lòng sung sướng lắm, học bài mau thuộc.
Từ năm tôi học đệ tam đến năm đệ nhất, thi xong tú tài hai, tôi và cô Thanh chỉ gặp nhau vào buổi tối, nói với nhau vài câu. Suốt mấy năm, cũng chỉ có mấy câu chào hỏi đó thôi.
Tôi là thằng ba trợn. Ðánh lộn, trốn học, chọc gái đủ thứ, vậy mà tôi sợ cô Thanh! Ði ngoài phố, thấy cô từ xa là tim tôi đập như trống trận, nếu ai đi bên cạnh ắt sẽ nghe được tiếng thình thịch. Tay chân tôi luống cuống, người run lên, thở không ra hơi, tâm thần bấn loạn. Khi đến gần, cô nhìn tôi và tặng tôi một nụ cười. Khỏi nói! Lúc đó tôi sướng đến mê người.
Lúc đó tôi không biết cách nào tỏ tình, hơn nữa tôi xấu trai, mặt có sẹo, lại học dở, không biết ca nhạc, không biết viết văn, làm thơ nên chẳng đáng để cô quan tâm. Cô thì còn nhỏ, khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, chưa biết gì. Cô xem tôi như bạn hay người anh, nên hai đứa không tiến thêm một chút thân tình nào. Có duy nhất một lần. Một buổi tối, tôi đến để từ giả cô vào Sài Gòn học đại học. Cô ra cửa, đứng cạnh tôi. Vô tình, tay cô chạm vào tay tôi. Chạm nhẹ thôi, vậy mà tôi lại nghĩ, đó là cô ban cho tôi một chút cảm tình, ưu ái nên tôi nổi hứng, tối đó, tôi về, thức trắng đêm, sáng tác ngay một bức "tình thư", năm bảy trang. Chắc là ướt át, mê ly lắm! Tôi gửi cho cô. Cô đưa lá tình thư của tôi cho gia đình và bạn bè đọc. Sau khi mọi người nghiên cứu, bình luận chán chê, cô Thanh trả lại cho tôi bức tình thư. Thú thật tôi không còn nhớ mình viết những gì? Nếu nhớ, tôi kể ra đây để bạn cùng thưởng thức.
Ðọc đến đây, chắc bạn đã chán ba chuyện yêu đương lẩm cẩm của tôi rồi. Tôi xin kể qua chuyện tôi về lại Hội An, vào năm 2001, sau mấy chục năm xa thành phố cổ đó.
Tôi từ Mỹ đi máy bay về Sài Gòn, rồi đón xe về Hội An.
Hội An vẫn thế, nhưng nó đã mất cái hồn, mất cái tình đối với tôi rồi. Tôi như người ngoại quốc đến một xứ lạ, cứ lơ ngơ, nghiêng ngó mà không gặp được một người quen. Trước giờ vẫn thế. Tuổi trẻ Hội An, lớn lên là như con chim xa tổ. Ðứa nào cũng nghĩ đến một phương trời khác, thế là chúng đi biệt. Sau năm bảy lăm, đổi đời, chúng bay còn xa hơn, đến cả phương trời tây. Ðứa bị kẹt lại cũng tìm cách ra khỏi Hội An. Vô Sài Gòn, ra Ðà Nẳng, chí ít cũng Tam Kỳ, Tiên Phước...
Buổi tối, ngay hôm về lại Hội An tôi lang thang qua các con phố cũ. Về khuya, mọi người đều rút vào nhà. Ðường phố hẹp, vắng tanh trong ánh đèn vàng vọt, khiến con đường thêm âm u, hun hút như đường hầm. Tôi vòng xuống ngã chợ, nơi nhà cô Thanh. Vẫn mái hiên nơi cô và tôi thường đứng chuyện trò, nhưng cô không còn ở đó nữa. Tôi ra ngồi trên bờ sông lộng gió, lắng nghe tiếng sóng vỗ tí tách và nhìn giòng sông tối đen. Giòng sông mà các ông thi sĩ gọi là "giòng sông tuổi thơ", đã hoàn toàn xa lạ. Cậu học trò năm xưa, tâm hồn trong trắng, tự tin nay đã thành một người lớn tuổi, chán ngán sự đời. Công danh sự nghiệp như phù vân. Ngẫm lại, chỉ thấy thời đi học là thần tiên hơn cả.
Tôi về lại Sài Gòn, tìm thăm một người bạn, tên Châu Ðình Khôi, là anh rể của cô Lê thị Thanh. Anh ta cho biết cô Thanh, nay đã là góa phụ (chồng chết), có hai con, học hành nên người. Tôi ngỏ ý muốn đến thăm cô. Người bạn đưa tôi đến nhà cô, gần ngã tư Bảy Hiền.
Chúng tôi vào nhà cô. Cô đứng lên, bước tới, nhìn tôi và cười. Thật kỳ lạ! Ðã bao nhiêu năm mà cô vẫn không thay đổi. Môi cô vẫn hồng, mắt vẫn sáng, thông minh.
Mục đích tôi đến thăm là để xin lỗi cô về những bài thơ, câu thơ và cả bức "tình thư", đã làm phiền cô. Vì lúc đó cô còn nhỏ quá, học đệ ngũ, khoảng mười bốn, mười lăm, đâu biết gì! Thế nên tôi mới nhắc chuyện cũ. "Thanh còn nhớ? Lúc Thanh học đệ ngũ, anh học đệ tam. Hai đứa ngồi cùng một chỗ, anh thường viết cho Thanh, để trong hộc bàn..." Cô cười "Anh để trong hộc bàn còn quí! Có khi lấy phấn vẽ mũi tên, chỉ lòng vòng, chỗ nầy, chỗ kia, nhét dưới chân ghế, chân bàn, làm Thanh phải đi tìm" "Anh còn làm thơ con cóc..." Cô nhìn tôi "Ðể đó mà con cóc! Thanh không quên đâu! Anh gửi cho Thanh những câu như thế nầy...Và những câu nầy nữa..." Cô đọc mãi, đọc mãi, những câu thơ ngô nghê của tôi. Ðúng là thơ con cóc!
Ôi! Cả một bầy cóc, ngày xưa, tôi đã gửi cho cô!
9. OAN HỒN
Ðây là một chuyện ma, gần như thật, nhưng tôi phải viết sao cho vui, cho bớt rùng rợn, để quí bà khỏi mất ngủ vì sợ hồn ma mấy cô bồ quá cố của chồng mình về lôi chân, đuổi ra khỏi giường.
Vợ chồng tôi có hai cô con gái. Chúng tốt nghiệp đại học, có công ăn việc làm rồi lập gia đình. Tuy nhà hai đứa nó không xa chúng tôi lắm, nhưng chỉ chủ nhật, ngày lễ, chúng mới bồng cháu về thăm ông bà ngoại. Vợ tôi cứ than nhớ cháu, rồi bực mình gây gổ với tôi. Ngày nào cũng gọi điện thoại đến con, hỏi thăm các cháu. Các con tôi bị quấy rầy mà không dám than phiền. Tôi biết thế mới gợi ý vợ tôi, tìm một cô, cho mướn phòng, buồn tình thì cứ nói chuyện với cô ta. Con gái tôi giới thiệu một cô bạn học. Cô nầy lớn tuổi hơn các con tôi, vừa đi học vừa đi làm, kiếm tiền giúp gia đình bên Việt Nam, nên cứ ạch đụi mãi mà chưa tốt nghiệp. Nhà tôi, phía sau có một phòng rộng, có lối đi riêng nên cô ta rất thích. Nhờ có cô sinh viên nầy mà tôi đỡ bị bà vợ bắt nghe chuyện nhớ cháu. Khi cô sinh viên đến trọ, bà nấu nướng món ngon vật lạ tặng cô ta, coi như trả công đã tốn thì giờ lắng nghe chuyện cháu ngoại của bà.
Khoảng vài năm sau, cô sinh viên tốt nghiệp đại học, đã nộp đơn đến các công ty để xin việc làm. Vợ tôi, xem cô sinh viên như con, nên nấu mấy món làm tiệc mừng tốt nghiệp cho cô ta rồi gọi vợ chồng hai cô con gái đem cháu về tham dự. Trong không khí gia đình vui vẻ, vợ tôi lại lên chương trình kiếm chồng cho cô sinh viên "Theo như ngày xưa, “Ðại đăng khoa” rồi phải “Tiểu đăng khoa”, nghĩa là thi đậu xong là phải lập gia đình". Cô sinh viên đỏ mặt vì mắc cỡ nhưng cũng nói "Ai mà thèm lấy cháu, cô ơi!". Hai cô con gái tôi cũng hăng hái tham dự vào một trong bốn cái ngu của thiên hạ (Làm mai, lãnh nợ, gát cu, cầm chầu). Mấy mẹ con hùa nhau khuyên bảo "Khi đi làm, hàng ngày đến sở, chỉ gặp toàn các ông có gia đình cả, ít có dịp hội hè, họp mặt để gặp các bạn trai độc thân. Chi bằng ráng kiếm trước một ông chồng cho chắc ăn. Ðể lâu thành gái già!" Bữa đó, ai cũng bị ép uống chút rượu, ngà ngà say, nên cô sinh viên cũng bạo dạn nói "Nhờ cô với hai chị kiếm giùm"
Vợ tôi chợt nhớ ra là tôi có một cậu "bạn cà phê" vong niên. Anh ta gần bốn mươi tuổi, đã tốt nghiệp đại học, có việc làm đàng hoàng. Sáng chủ nhật nào cũng lái xe đến đón tôi đi ăn điểm tâm rồi ra tiệm cà phê Starbucks ngồi trò chuyện. Tính tôi ham vui, đôi khi anh ta đưa tôi đến các tiệm cà phê của bọn trẻ, tiếng nhạc với tiếng cãi cọ, cười đùa nghe điếc tai mà tôi vẫn chịu đựng được. Có điều lạ là, bọn thanh niên thích bàn chuyện đàn bà, con gái nhưng anh bạn trẻ của tôi chỉ ngồi nghe chứ không quan tâm. Ngay cả khi cô bưng cà phê, vừa đẹp vừa hấp dẫn, mặc áo quần “xuyên bang” (mỏng) đứng gần, mà anh ta cũng chẳng thèm nhìn. Tôi đưa ra nhận xét đó với vợ tôi và lưu ý rằng, nếu giới thiệu anh chàng bất bình thường nầy cho cô sinh viên, sau nầy rủi có chuyện gì không hay, cô ta ắt sẽ phiền trách gia đình tôi. Vợ tôi vẫn khăng khăng "Ông không thích thì để mẹ con tôi lo. Bữa nào ông mời hắn đến đây ăn cơm, tôi đứng ra giới thiệu cho hai đứa làm quen. Con nhỏ đẹp đẽ, nết na, thằng nào không ưng?"
Vậy là tôi phải mời anh chàng dị ứng với phái nữ đó đến dự bữa cơm gia đình. Ðược sắp xếp ngồi bên cạnh người đẹp mà không thấy anh ta hăng hái trong việc chinh phục cô gái, tuy có hỏi chuyện, có bỏ thức ăn vào chén cho cô ta, nhưng rõ ràng chỉ làm bổn phận bình thường. Cô gái thì vẫn giữ kẽ, không tỏ vẻ gì đặc biệt. Xong bữa ăn, chờ cho cô sinh viên về phòng, vợ tôi và hai cô con gái giữ anh chàng kia lại và bắt đầu đặt những câu hỏi. Anh ta và gia đình tôi cũng ở chỗ thân tình, vợ tôi chẳng khách sáo gì nên câu hỏi có hơi sỗ sàng "Anh thấy người đẹp lúc nãy ra sao mà coi bộ lơ là?" Anh chàng chỉ cười "Dạ, cô Mai cũng đẹp lại hiền lành" Vợ tôi bắt đầu ca tụng cô sinh viên đủ điều "Nó ở đây với chúng tôi mấy năm nay mà không hề thấy bạn trai, không hề chưng diện. Ði học, đi làm về là phụ với tôi nấu nướng, dọn dẹp như gia đình của nó. Nó mà trang điểm vô thì phải biết. Ðẹp lắm! Ai mà được nó làm vợ thì sướng như tiên. Bây giờ nó lại tốt nghiệp đại học, sắp sửa đi làm, lương hướng đâu có thua ai...Ủa! Sao anh lại cười? Bộ tôi nói không đúng sao? Hay anh chê nó?" "Dạ, cháu đâu có chê cô ta, nhưng cháu có lý do riêng. Cháu không có ý định lập gia đình nên không dám nghĩ đến cô Mai". Vợ tôi khựng lại, vợ chồng hai đứa con gái tôi, tuy ngồi xa, đang dõng tai lên nghe lén, cũng thở dài thất vọng. Mọi người nghĩ, có lẽ anh ta không bình thường về sinh lý. Chuyện đó không nên đề cập đến vì kỳ cục, đáng mắc cỡ. Tuy thế, vợ tôi cũng kể lại cho cô Mai nghe chuyện làm mai thất bại, nhưng lại kết luận "Nó khen con đẹp, hiền giỏi giang đủ thứ, nhưng có lẽ nó "lại cái" hay sao đó nên coi bộ lơ là. Ðể cô điều tra thêm mới biết tại sao" Cô gái giẫy nẫy lên "Cô làm vậy kỳ lắm! Làm như con mê anh ta, bắt cô phải dụ dỗ anh ta cho con" Thế là bao nhiêu hăng hái, thiện chí của vợ tôi xẹp xuống như bong bóng xì hơi. Tôi nói với vợ tôi "Bọn nhỏ bây giờ chịu nhau thì tự động tìm đến, bàn tính, giao hẹn với nhau như người ta mua bán hàng hóa vậy, không như thời xưa đâu. Bà làm nghề mai mối, lỗi thời rồi" Vợ tôi vẫn còn tức "Ông biết gì về thằng đó không? Mấy năm đi uống cà phê với nó, có nghe nó nói gì về bịnh hoạn, hay dị tật gì trong thân thể nó không?" Tôi cự ngay "Tôi có phải bác sĩ đâu mà đi hỏi chuyện sinh lý của người ta! Tôi chỉ biết là nó không hề để ý đến đàn bà, con gái nên tôi lưu ý bà, đừng làm chuyện tào lao mà thêm phiền" Vợ tôi vùng vằng "Ðể đó, tôi phải điều tra cho ra, tại sao con Mai đẹp như vậy mà không chịu? Tôi thấy, hình như nó có nhìn con Mai, nhưng nhìn trộm, kiểu như ông nhìn gái mà sợ tôi bắt gặp" Tôi tức cười "Bà đừng đem tôi ra mà suy luận. Bà phải phân biệt cái nhìn của tôi với người khác. Tôi nhìn người đẹp vì nghệ thuật, vì vẻ đẹp nhưng không ham muốn. Thằng đó mà nhìn con Mai giống như tôi thì coi như bỏ đi rồi, đừng bao giờ nghĩ tới chuyện mai mối mà bị con Mai trách móc sau nầy" Vợ tôi tự nhiên nổi xùng "Xí! Ông mà nghệ thuật. Nghệ thuật gì ở chỗ ngực, chỗ đùi người ta? Không có tôi, ông đi tới trời" Hễ thình lình nổi ghen, vợ tôi thường lôi những chuyện “xưa rích” ra đay nghiến, tôi không thèm cãi lại, chỉ hỏi "Bây giờ nói chuyện tôi nhìn gái hay chuyện làm mai?" Bả không thèm nhìn tôi "Ông muốn nói chuyện gì tôi cũng nói được. Ðừng làm bộ vô tội... Tôi muốn hỏi ông. Thằng đó có thích con trai không? Nó có cập kè với thằng “bê đê”â (lại cái) nào không?" "Tôi thấy nó cũng bình thường chứ chẳng cập với thằng “bê đê” nào cả" "Vậy thì tuần tới lại mời nó đến nhà mình ăn cơm, để tôi biết chắc nó có nhìn trộm con Mai thật không?" "Bà muốn thì tự làm lấy, coi như tôi không tham dự vào chuyện mai mối của bà" Ðàn bà tinh mắt hơn đàn ông, tôi để ý mới thấy. Bữa cơm sau đó, anh ta quả có nhìn trộm con nhỏ Mai. Cái nhìn đầy nam tính nhưng lại có vẻ lén lút, như sợ ai bắt gặp. Cả đến việc anh ta chuyện trò hay bỏ thức ăn cho con nhỏ cũng lấm lét, như vụng trộm, mặc dù anh ta biết, gia đình tôi mời đến ăn cơm là để anh ta tán tỉnh con nhỏ Mai. Lẽ ra, nếu anh ta thích thì cứ mạnh dạn, công khai tỏ tình với người đẹp. Tại sao phải lén lút? Có uẩn khúc gì đây? Tuy nghĩ vậy nhưng vợ chồng tôi làm như không biết, cuối tuần vẫn mời cơm và sắp xếp cho hai cô cậu ngồi gần nhau. Ít lâu sau vợ tôi quyết hỏi anh ta cho ra lẽ. Một buổi chiều thứ bảy, trong nhà chỉ có vợ chồng tôi và anh chàng dị ứng với đàn bà đó. Vợ tôi tính nóng lại xem anh ta như em cháu nên hỏi ngay "Anh thấy con nhỏ Mai ra sao? Có ưng không? Tôi làm mai cho" Anh ta có vẻ lúng túng "Thú thật, cháu để ý cô Mai từ lâu, nhưng cháu đã lỡ hứa là sẽ không bao giờ lấy vợ, nên cháu không dám tiến xa hơn. Ngay đến chuyện nhìn đàn bà con gái cháu cũng không dám". Vợ tôi kinh ngạc và nổi xùng "Ai cấm anh lấy vợ? Ai cấm anh nhìn đàn bà con gái? Người nào có quyền gì mà cấm chuyện lạ đời đó? Ðến ông tổng thống Mỹ cũng không có quyền đó. Anh nói tôi nghe. Ai cấm? Hay anh có bịnh gì nên bác sĩ cấm anh? Hay anh lại cái?" Tưởng mắc cỡ vì bị nói là “lại cái”, nhưng anh ta chỉ cười "Ðúng ra không phải là người nào cấm mà là lời nguyền của cháu với vong linh một cô gái. Cháu đã hứa với vong linh cô ta là, suốt đời, cháu sẽ không lấy vợ" Tôi không muốn rây vô chuyện mai mối phiền phức nên ngồi uống trà ở bàn ăn. Khi nghe hai tiếng "vong linh", vợ tôi biết là chuyện ma nên hơi ngán, bèn bảo tôi "Ông qua đây tiếp chuyện, tôi đi nấu miếng nước". Ðàn bà, trẻ con, càng sợ chuyện ma, càng muốn nghe. Biết vậy nên tôi bưng tách trà qua xa lông và nói với anh ta "Khi hứa với người đã khuất thì phải giữ lời, vì với người còn sống mình có thể giải thích được chứ với ma thì nói ai nghe?!" Vợ tôi cự ngay "Ông phải để cho anh ta kể hết sự việc xem sao, chưa chi đã bàn ra".
Anh ta cúi xuống, dùng tay vạch mái tóc để lộ một vết sẹo dài cỡ nửa tấc. Vết sẹo như một cái rãnh nhỏ, một lớp da mỏng che xương sọ trắng xám giữa đám tóc đen và cứng như rễ tre. Vợ tôi đến nhìn, rồi ngồi xuống, hóng chuyện.
"Cháu bị chúng chém. Tưởng chết rồi, không ngờ vẫn còn sống được" Vợ tôi sốt ruột "Ai chém anh? Vì sao chúng chém?" Anh ta uống chén trà rồi mới thong thả nói "Sau bảy lăm (1975), cháu học xong trung học nhưng không được vào đại học vì lý lịch. Ba cháu, là sĩ quan Cộng Hòa, đi tù cải tạo. Vợ cháu cũng có cha đi tù. Hai gia đình quen thân nhau từ trước, đều ở trong trại gia binh. Năm bảy lăm, mọi người đều bị đuổi ra khỏi trại gia binh. Gia đình cháu phải về quê ngoại ở Mỹ Tho. Hai gia đình gom góp tiền vàng cho hai đứa cháu vượt biên. Bữa đó tổ chức tiệc cưới, mời chính quyền xã, ấp, nhất là công an địa phương đến nhậu nhẹt say mềm. Chúng cháu làm như đi rước dâu, đến khuya, đám rước thay vì về nhà trai lại chạy thẳng ra cửa biển. Như vậy, chúng cháu chưa gần gủi nhau bao giờ. Thuyền lênh đênh trên biển được năm ngày thì gặp hải tặc Thái Lan. Chúng chém đàn ông, con nít rồi bắt đàn bà con gái qua thuyền chúng. Cháu nhào đến cứu vợ cháu thì bị chém vào đầu, ngã gục. Hôm sau tỉnh dậy, trong thuyền chỉ còn xác chết với mấy người bị thương nặng. Theo lời kể lại thì vợ cháu thấy cháu bị chúng chém chết, bèn vùng vẫy và nhảy xuống biển tự tử. Lúc đó, cháu tin rằng mình cũng sắp chết vì thuyền bị bọn hải tặc húc, tràn nước, sắp chìm, nên cháu khấn với vong hồn vợ cháu "Em sống khôn thác thiêng, xin chờ anh. Anh bị thương nặng, thuyền sẽ chìm, anh sẽ chết. Hai linh hồn mình sẽ được bên nhau mãi mãi. Nếu còn sống, anh thề không lấy vợ, sẽ ở vậy thờ em cho đến ngày anh chết, sẽ được gặp em". Không ngờ, vừa lúc có một thương thuyền đi ngang qua, nhìn thấy, bèn cứu lên tàu. Không ai hiểu sao, với vết thương nặng như vậy mà cháu sống sót được? Cháu qua Mỹ, cố gắng học, kiếm việc làm để gửi tiền về Việt Nam cứu giúp hai gia đình" Vợ tôi hỏi "Từ đó đến nay, anh có bao giờ thấy vợ anh hiện hồn về không?" "Dạ không! Nhưng cháu tin rằng, vong linh vợ cháu lúc nào cũng ở bên cháu. Cháu lập một cái trang nhỏ làm bàn thờ, để di ảnh vợ cháu lên, mỗi ngày đều thắp nhang. Ði làm về, cháu ghé tiệm cơm, mua thức ăn về, đặt lên trang thờ, cúng vợ cháu, sau đó, dọn xuống, mời vợ cháu cùng ăn. Ði đâu, làm gì, cháu cũng kể cho hồn vợ cháu nghe" Vợ tôi tưởng như hồn cô gái cũng ngồi trong phòng, nên ngồi sát vào tôi, coi bộ cũng ngán nhưng vẫn hỏi "Có bao giờ anh thử làm quen, chuyện trò thân mật với một cô gái nào đó chưa? Nếu hồn vợ anh còn ở bên anh, sẽ tìm cách để anh hiểu là cô ta không bằng lòng. Cô ta sẽ hiện hồn cho anh thấy chẳng hạn. Anh thử lần nào chưa?" "Thực tâm, cháu không muốn làm vong linh vợ cháu buồn tội nghiệp. Cái chết của vợ cháu quá đau thương nên dù có cảm tình với cô nào cháu cũng ngại. Cứ tưởng tượng, cháu đang thân mật với cô nào đó, linh hồn vợ cháu đứng bên cạnh, mặt buồn xo vì bất lực, không có cách nào cho cháu hiểu là cô ấy buồn lắm..." Tôi lên tiếng "Anh nên nghĩ rằng, linh hồn vợ anh buồn vì thương yêu anh mà không có cách nào phục vụ, săn sóc, an ủi anh, nhất là những khi anh đau ốm. Cô ấy biết rõ, anh cần một người thay cho cô ấy lo cho anh. Anh không thể sống độc thân mãi được. Theo tôi, chết là hết, nếu còn thì đã siêu thoát hoặc đi đầu thai kiếp khác rồi. Anh phải lấy vợ, sinh con, thương yêu gia đình nhưng vẫn tưởng nhớ, thờ phụng, giỗ quải chu đáo cô vợ trước là đủ bổn phận với người quá cố rồi" Vợ tôi tưởng có chuyện ma hiện hình nên sợ, đến khi nghe kể thì chẳng có ma quái gì, lại nghe tôi bàn tính hợp ý, nên thúc hối "Chết là hết. Anh để ý con Mai thì nên tiến tới, đừng để nó xin được việc làm, đi xa thì "xôi hỏng bỏng không". Không có cô nào hoàn hảo như con Mai. Tôi bảo đảm với anh, sau nầy cưới về, có gì không bằng lòng nó thì cứ lôi tôi ra mà mắng vốn" Anh ta có vẻ xiêu lòng. Chúng tôi bàn tính, đưa ra một chương trình giúp anh ta tiến đến với cô sinh viên Mai. Trước hết, anh ta về khấn với linh hồn cô vợ, nếu không bằng lòng thì cho biết, hoặc trong giấc mơ hoặc một hiện tượng nào đó, ngược lại thì sẽ không có chuyện gì xảy ra, rồi thì hai người, anh ta với cô Mai sẽ gặp nhau, tìm hiểu, nếu hợp ý thì tiến hành lễ cưới. Trước khi ra về, anh ta dặn chúng tôi là đừng cho cô Mai biết gì về chuyện riêng (ma) đó của anh ta.
Tối đó, chờ cô Mai về, vợ tôi lò dò vô phòng cô ta, tỉ tê, to nhỏ cả buổi rồi lên bảo tôi "Xong rồi! Ðể hai anh chị làm thân với nhau, mình khỏi phải làm phiền chúng nó nữa" Tuy nói vậy chứ vợ tôi vẫn cứ tò mò hỏi chừng cô sinh viên, tình hình ra sao? Thì ra họ đã hẹn nhau đi ăn tiệm, đi shopping, xem phim... Cô gái đã có việc làm, anh chàng kia thì đã mua nhà từ lâu nên chuyện sống chung của hai người không thấy trở ngại nào.
Khoảng ba tháng sau, cả hai báo cho chúng tôi biết, họ sẽ làm đám cưới và nhờ chúng tôi việc thực hiện các nghi lễ truyền thống như lễ hỏi, lễ cưới. Về tiệc cưới thì có nhiều bạn học giúp tổ chức, sắp xếp. Mọi việc, chúng lo hết... Vì cha mẹ của cô dâu, chú rể đều còn ở bên Việt Nam nên phải nhờ tôi thay mặt cho nhà gái, một gia đình khác đại diện nhà trai.
Tối đó, tiệc cưới chấm dứt lúc mười hai giờ khuya, chúng tôi không quen thức khuya nên về đến nhà là lăn ra ngủ vùi. Khoảng hai giờ sáng, chuông điện thoại reo, vợ tôi bắt lên nghe "Cô đây! Sao? Muốn về đây hả? Bây giờ con đang ở đâu? Ðể cô nói chú mở cửa đón con. Năm phút nữa hả? Ðược. Bye con!" Vợ tôi bảo "Ra mở cửa đón con Mai. Không hiểu có chuyện gì mà nó bỏ chồng về đây?" Tôi lầu bầu "Làm mai thì phải ráng mà lãnh!" Tôi vừa mở cửa thì xe cô Mai cũng vừa ngừng trước sân. Cô ta chạy ào vô nhà, không kịp tắt máy xe. Tôi ra tắt máy xe, vào nghe xem chuyện gì đã xảy ra? Thấy cô ta ôm vợ tôi cứng ngắt, không nói tiếng nào, người run cầm cập. Vợ tôi cũng đâm hoảng, hỏi dồn dập "Có chuyện gì vậy?" Hỏi hoài mà chỉ nghe cô ta vừa thở vừa lí nhí trong miệng, chẳng hiểu gì cả! Một lúc sau cô mới nói rõ "Ảnh nuôi ma trong nhà!" Vợ tôi nghe thế co rúm người lại "Ma nào? Ông ra đóng cửa lại mau. Coi chừng nó theo vô nhà. Con thấy con ma như thế nào?" "Con không biết! Con ma đàn bà. Ghê quá! Nó nắm chân con lôi ra khỏi giường" Hai người đàn bà tự mình làm cho mình khiếp sợ thêm, cứ vơ tay tìm cái mền. Tôi thấy buồn cười nhưng cũng giúp đắp kín mít hai người trong mền, chỉ để lộ hai cái đầu để tiện nghe họ đối đáp. Vợ tôi thì thào "Ông ra thắp nhang trên bàn thờ, khấn vái cho con ma đi ra" Tôi dọa "Thắp nhang, chúng ngửi mùi thơm, kéo vào thêm đông vui. Muốn thắp thì thắp!" Vợ tôi nạt "Người ta đã sợ muốn chết còn nhát nữa! Ông đi nấu miếng nước, pha trà cho nó uống tỉnh trí" Tôi đi pha trà, thêm cho mỗi người một viên thuốc chống dị ứng (làm cho buồn ngủ). Một lúc sau, cả hai đã chìm vào giấc ngủ. Tôi ra xa lông nằm, gọi điện thoại đến chàng rể "Có chuyện gì mà cô dâu bỏ về đây vậy?" "Cháu không rõ. Vừa tắt đèn thì cô ấy bắt mở đèn vì cô bảo thấy có người trong phòng. Mở đèn một lát, cô vừa thiu thiu ngủ thì bỗng vùng dậy bảo "Anh nuôi ma trong nhà!" rồi chộp lấy chìa khóa xe, tung cửa chạy ra ngoài, lái xe đi. Nhưng cháu có thấy ma quái gì đâu?" "Anh có dẹp cái trang thờ vợ trước của anh chưa?" "Cháu đem di ảnh vợ cháu cùng với lư hương, chân đèn vào closet (ngăn treo áo quần). Trang thờ trống trơn" "Tôi nghĩ, anh nên thiết lập lại trang thờ. để di ảnh người đã khuất cùng với đồ thờ lên cùng với lễ vật, sau đó anh thử khấn xin vong hồn người quá cố thông cảm cho anh mà bớt giận hờn, đừng phá cô Mai nữa" "Cháu định bán ngôi nhà nầy, nhưng chưa biết thờ di ảnh vợ cháu ở đâu? Vì nếu thờ nơi tụi cháu ở thì cô ta sẽ quấy phá Mai, không yên đâu!" "Chỉ còn cách là đến chùa xin mấy lễ cầu siêu rồi thờ luôn cô ta trong chùa để vong hồn được nghe kinh kệ, sớm siêu thoát. Tạm thời, đừng liên lạc với cô Mai, coi như chấm dứt để vong hồn cô ta khỏi ghen tương mà có thể làm hại cô Mai".
Sáng hôm sau, tôi trấn an cô Mai "Có lẽ cô nghe người ta kể chuyện ma nên bị ám ảnh chứ thời nầy làm gì có ma" Cô Mai vẫn chưa hết sợ "Tối hôm qua, cháu thấy rõ ràng một người đàn bà từ trong "closet" đi ra, đến cạnh giường chỗ chồng cháu nằm. Cháu tưởng ăn trộm, bắt chồng cháu mở đèn, thì chẳng thấy gì cả. Cháu nghi là nhà có ma nên sợ quá, trùm mền kín mít, ôm chồng cháu ngủ. Mới thiu thiu thì cháu thấy lạnh ở cổ chân. Cháu nghĩ mình để chân ngoài mền, nên co chân lại, không ngờ, chân cháu như có ai giữ lại bằng hai bàn tay lạnh ngắt, không co lại được. Cháu nhìn xuống thì thấy lờ mờ người đàn bà lúc nãy đang cúi xuống như cố lôi cháu ra khỏi giường. Cháu co chân kia, đạp cho bà ta một đạp rồi vùng dậy, lái xe về đây" Lúc đó là ban ngày mà vợ tôi cũng rút chân lên ghế. Ðã sợ mà còn hỏi thêm "Con thấy con ma ra sao?" "Nó chỉ lờ mờ, nhưng cháu biết đó là một người đàn bà, tóc rủ trước trán, che không thấy mặt, hai cánh tay với mấy ngón tay chỉ còn xương, giống như hình chụp quang tuyến (X ray). Trước giờ cháu chưa hề thấy ma, cháu cũng không sợ ma, nhưng bây giờ cháu biết chắc là nhà đó có ma" Tôi đề nghị, cô Mai đừng liên lạc với chồng cho đến khi nào chuyện ma đó giải quyết xong. Mấy hôm sau tôi gọi cho chàng rể thì được anh ta kể lại như sau "Cháu theo lời chú, thiết lập lại trang thờ cùng với lễ vật, rồi cháu lên nhang, đèn và khấn rằng, tuy cháu vẫn thương yêu cô ta (người vợ quá cố), nhưng âm dương cách trở, chỉ có thể gặp nhau sau khi cháu giả từ cuộc sống trên thế gian nầy để về với cô ta. Hiện tại, cháu không thể sống một mình mãi vì sau nầy, khi lớn tuổi, bịnh hoạn, già yếu không ai săn sóc, mong cô ta thông cảm để cháu có một người bạn gái bên cạnh. Cháu nghĩ rằng, vợ cháu, thân xác đã tan rã nơi đáy biển, trong cõi u minh lạnh lẽo, chỉ còn cháu là nơi để linh hồn vợ cháu nương tựa tìm hơi ấm của tình vợ chồng. Nay có một người thứ ba chen vào, vợ cháu sẽ đau đớn, buồn rầu lắm. Cháu ôm di ảnh vợ cháu mà khóc, và khấn rằng. Nếu không muốn cháu lấy vợ thì báo mộng cho cháu biết. Nếu không báo mộng thì coi như bằng lòng…” Tôi bảo “Dù cô ta có cho anh lấy vợ nhưng không có nghĩa là cô ta không ghen, không thù hận người chiếm đoạt tình cảm của chồng mình” “Cháu nghĩ, khi một người đã chết rồi, linh hồn không thể ghen tương được nữa” “Tôi nghe người ta nói. Chết rồi, nhưng tham, sân, si vẫn theo với thần thức, tức là linh hồn. Những người chết oan không chịu đi đầu thai. Cô vợ quá cố của anh, càng yêu anh khi còn sinh tiền thì lúc chết, linh hồn càng đau khổ, càng ghen tương, thù hận. Nó không để yên cho con nhỏ Mai sống với anh đâu. Nó chỉ cần nhác ma vài lần là con nhỏ Mai bỏ chạy ngay” “Chú nói có lẽ đúng. Khi cháu khấn đến đấy thì bỗng nhiên mấy cây nhang cháy bùng lên. Cháu thắp đợt nhang khác, nó cũng cháy bùng đến tận gốc. Cháu nghĩ nhang không được tốt, nên không thắp nhang nữa. Rồi thì đến lượt cây đèn cầy. Cháu vừa quay lưng là một cây đèn cầy bị tắt. Cháu thay cây khác, cũng vừa quay đi thì đèn tắt. Lần sau, cháu thắp đèn lên, vờ quay đi nhưng nhìn vào chiếc gương soi treo trên vách, thì thấy ngọn đèn như bị hai ngón tay vô hình bóp cái tim đèn, khiến nó dẹp lại, tắt ngấm chứ không như bị gió thổi, ngọn lửa phải nằm rạp xuống trước khi tắt. Hôm sau, cháu đến chùa, kể hết mọi sự cho vị sư trụ trì, thầy dạy rằng "Nhang cháy bùng, cháy cả chân nhang, thì gọi là "hóa hình nhang", là có sự giao cảm giữa hai giới âm dương. Một ngọn đèn bị tắt thì cứ nam tả, nữ hữu, theo đó mà biết người nam hay nữ sẽ bị hồn ma theo ám hại. Cái vong nầy là trinh nữ, là oan hồn uổng tử, đã thành quỷ, nên lộng hành, phải nhờ oai linh Phật Tổ, khuyến dụ nó chịu về chùa, rồi phải cúng giải oan cho nó trong bốn mươi chín ngày sau đó nó mới chịu qui phục Tam Bảo, nghe kinh kệ mà chuyển nghiệp lành, vãng sanh tịnh độ. Hồn ma thường rất sợ ánh sáng và tiếng động mạnh như tiếng pháo nổ, súng nổ. Vậy nên, khi đem di ảnh của cái vong nầy từ nhà về chùa phải đốt một trái pháo, giống như ở Việt Nam, khi di quan (khiêng quan tài ra khỏi nhà), người mình thường đốt pháo hoặc đập mạnh một cái nồi, niêu gì đó cho hồn bạch (hồn người chết) ra khỏi nhà cùng với quan tài. Hôm lễ đưa vong, thầy và các Phật tử hộ niệm sẽ đến giúp. Nhớ đem theo di ảnh của nó. Di ảnh thay cho thần chủ (bài vị) là nơi vong linh nó ẩn náu”. Tôi khuyên anh ta không nên liên lạc với cô Mai trong một thời gian, khi nào xong lễ giải oan, yên ổn, hãy tính sau.
Chúng tôi ở miền Ðông Bắc Hoa Kỳ, gần thủ đô Hoa Thịnh Ðốn (Washington DC). Mỗi năm, đến lễ quốc khánh Hoa Kỳ (July 4 ), buổi tối có đốt pháo bông, gia đình chúng tôi, gồm con, cháu, sau nầy có cô Mai, sinh viên ở trọ, kéo nhau lên thủ đô, gần cây bút chì để xem đốt pháo.
Quốc khánh năm nay, vợ tôi gõ cửa, rủ cô Mai cùng đi, thì cô không có trong phòng. Gọi điện thoại cầm tay, điện thoại đã đóng, gọi cho chồng cô, điện thoại cũng đóng. Khi mở phòng cô Mai, mới biết, tất cả những gì của cô đã dọn sạch, chỉ thấy một mãnh giấy nhỏ có giòng chữ "Vợ chồng cháu sẽ gửi thư cho cô sau" Cả hai đã bí mật, lặng lẽ dọn đi nơi khác, có lẽ sợ hồn ma cô gái kia đi theo.
Hai tháng sau, chúng tôi nhận được một lá thư, không ghi tên, không địa chỉ người gửi, dấu nhật ấn bưu điện cho thấy thư được gửi từ một thành phố rất xa. Chỉ vỏn vẹn mấy giòng "Tụi cháu không dùng tên cũ trong giao thiệp với bạn bè, không gọi nhau tên thật. Hôm quốc khánh, hai đứa cháu đi hai chiếc xe riêng, lấy bột màu bôi khắp mặt mũi, chân tay, đến chỗ cây bút chì, ngồi hai nơi cách xa nhau, chờ đốt pháo bông. Khi ánh chớp và tiếng pháo nổ rộ lên (thầy trụ trì nói. “Nó” có theo chồng cháu đến đó mà nghe pháo nổ, ánh sáng xanh đỏ khắp nơi, ắt phải hoảng kinh bỏ chạy), nhân dịp đó chồng cháu lái xe chạy trước, cháu chạy sau. Tụi cháu đi suốt đêm. Xa lắm. Từ hôm đó đến nay cháu không còn bị quấy rầy nữa. Cầu mong Phật tổ từ bi, cứu độ cho “chị ấy” hiểu thấu lẽ vô thường, không còn đau khổ, lưu luyến cõi trần mà siêu thoát vào cõi hư vô. Vợ chồng cháu rất cám ơn cô chú. Chúc cô chú sức khỏe".
Vợ tôi đọc mấy giòng đầu đã co chân lên ghế, đến cuối thư thì mặt mày xanh lét, vội vất lá thư đi. Tôi làm bộ nghiêm trọng “Con ma đó đang ở trong nhà mình. Nó đang đọc chung thư với bà đó. Ðể tôi đến chùa, mời thầy trụ trì đến “tiếp dẫn” nó về chùa” Tôi đi lấy chìa khóa xe để đi chùa. Mọi khi đi đâu, tôi phải chờ nửa tiếng để vợ tôi trang điểm. Nay thì chả phải trang điểm, ăn diện, vừa nghe tôi nói, bả đã phóc ra xe trước tôi, ngồi chờ mà mắt láo liêng, dòm chừng sau xe, tìm xem “nó” có “quá giang” ở ghế sau không? Tôi cười thầm, hỏi với giọng khiêu khích “Từ nay có còn đòi ngủ riêng hay vẫn tiếp tục ngủ chung với tôi?”.
Nói xong tôi mới biết mình hớ! Nguyên nhân như thế nầy. Mỗi khi gây lộn với tôi, vợ tôi đòi ngủ riêng, tôi mừng trong bụng, chỉ cầu cho bả “nói là làm”, nhưng tôi phải giả bộ đau khổ, lo lắng. Bả khoái lắm, thỉnh thoảng lại đem vụ “ngủ riêng” ra để đàn áp tôi. Bây giờ tôi trót dọa, trong nhà có con ma đó thì, tối vô giường, thay vì xô tôi ra như mọi khi, bả sẽ ôm tôi cứng ngắt, như thời mới cưới nhau.
Con là nợ, vợ là oan gia. Tôi già rồi, gần chết rồi mà vẫn bị cái oan gia đó “ôm cứng ngắt!”. Khổ sở thế đó nên, tôi xin quí độc giả thân mến, hãy thương tôi mà cầu nguyện cho tôi sớm được “siêu sinh tịnh độ”.
Ðây là một chuyện ma, gần như thật, nhưng tôi phải viết sao cho vui, cho bớt rùng rợn, để quí bà khỏi mất ngủ vì sợ hồn ma mấy cô bồ quá cố của chồng mình về lôi chân, đuổi ra khỏi giường.
Vợ chồng tôi có hai cô con gái. Chúng tốt nghiệp đại học, có công ăn việc làm rồi lập gia đình. Tuy nhà hai đứa nó không xa chúng tôi lắm, nhưng chỉ chủ nhật, ngày lễ, chúng mới bồng cháu về thăm ông bà ngoại. Vợ tôi cứ than nhớ cháu, rồi bực mình gây gổ với tôi. Ngày nào cũng gọi điện thoại đến con, hỏi thăm các cháu. Các con tôi bị quấy rầy mà không dám than phiền. Tôi biết thế mới gợi ý vợ tôi, tìm một cô, cho mướn phòng, buồn tình thì cứ nói chuyện với cô ta. Con gái tôi giới thiệu một cô bạn học. Cô nầy lớn tuổi hơn các con tôi, vừa đi học vừa đi làm, kiếm tiền giúp gia đình bên Việt Nam, nên cứ ạch đụi mãi mà chưa tốt nghiệp. Nhà tôi, phía sau có một phòng rộng, có lối đi riêng nên cô ta rất thích. Nhờ có cô sinh viên nầy mà tôi đỡ bị bà vợ bắt nghe chuyện nhớ cháu. Khi cô sinh viên đến trọ, bà nấu nướng món ngon vật lạ tặng cô ta, coi như trả công đã tốn thì giờ lắng nghe chuyện cháu ngoại của bà.
Khoảng vài năm sau, cô sinh viên tốt nghiệp đại học, đã nộp đơn đến các công ty để xin việc làm. Vợ tôi, xem cô sinh viên như con, nên nấu mấy món làm tiệc mừng tốt nghiệp cho cô ta rồi gọi vợ chồng hai cô con gái đem cháu về tham dự. Trong không khí gia đình vui vẻ, vợ tôi lại lên chương trình kiếm chồng cho cô sinh viên "Theo như ngày xưa, “Ðại đăng khoa” rồi phải “Tiểu đăng khoa”, nghĩa là thi đậu xong là phải lập gia đình". Cô sinh viên đỏ mặt vì mắc cỡ nhưng cũng nói "Ai mà thèm lấy cháu, cô ơi!". Hai cô con gái tôi cũng hăng hái tham dự vào một trong bốn cái ngu của thiên hạ (Làm mai, lãnh nợ, gát cu, cầm chầu). Mấy mẹ con hùa nhau khuyên bảo "Khi đi làm, hàng ngày đến sở, chỉ gặp toàn các ông có gia đình cả, ít có dịp hội hè, họp mặt để gặp các bạn trai độc thân. Chi bằng ráng kiếm trước một ông chồng cho chắc ăn. Ðể lâu thành gái già!" Bữa đó, ai cũng bị ép uống chút rượu, ngà ngà say, nên cô sinh viên cũng bạo dạn nói "Nhờ cô với hai chị kiếm giùm"
Vợ tôi chợt nhớ ra là tôi có một cậu "bạn cà phê" vong niên. Anh ta gần bốn mươi tuổi, đã tốt nghiệp đại học, có việc làm đàng hoàng. Sáng chủ nhật nào cũng lái xe đến đón tôi đi ăn điểm tâm rồi ra tiệm cà phê Starbucks ngồi trò chuyện. Tính tôi ham vui, đôi khi anh ta đưa tôi đến các tiệm cà phê của bọn trẻ, tiếng nhạc với tiếng cãi cọ, cười đùa nghe điếc tai mà tôi vẫn chịu đựng được. Có điều lạ là, bọn thanh niên thích bàn chuyện đàn bà, con gái nhưng anh bạn trẻ của tôi chỉ ngồi nghe chứ không quan tâm. Ngay cả khi cô bưng cà phê, vừa đẹp vừa hấp dẫn, mặc áo quần “xuyên bang” (mỏng) đứng gần, mà anh ta cũng chẳng thèm nhìn. Tôi đưa ra nhận xét đó với vợ tôi và lưu ý rằng, nếu giới thiệu anh chàng bất bình thường nầy cho cô sinh viên, sau nầy rủi có chuyện gì không hay, cô ta ắt sẽ phiền trách gia đình tôi. Vợ tôi vẫn khăng khăng "Ông không thích thì để mẹ con tôi lo. Bữa nào ông mời hắn đến đây ăn cơm, tôi đứng ra giới thiệu cho hai đứa làm quen. Con nhỏ đẹp đẽ, nết na, thằng nào không ưng?"
Vậy là tôi phải mời anh chàng dị ứng với phái nữ đó đến dự bữa cơm gia đình. Ðược sắp xếp ngồi bên cạnh người đẹp mà không thấy anh ta hăng hái trong việc chinh phục cô gái, tuy có hỏi chuyện, có bỏ thức ăn vào chén cho cô ta, nhưng rõ ràng chỉ làm bổn phận bình thường. Cô gái thì vẫn giữ kẽ, không tỏ vẻ gì đặc biệt. Xong bữa ăn, chờ cho cô sinh viên về phòng, vợ tôi và hai cô con gái giữ anh chàng kia lại và bắt đầu đặt những câu hỏi. Anh ta và gia đình tôi cũng ở chỗ thân tình, vợ tôi chẳng khách sáo gì nên câu hỏi có hơi sỗ sàng "Anh thấy người đẹp lúc nãy ra sao mà coi bộ lơ là?" Anh chàng chỉ cười "Dạ, cô Mai cũng đẹp lại hiền lành" Vợ tôi bắt đầu ca tụng cô sinh viên đủ điều "Nó ở đây với chúng tôi mấy năm nay mà không hề thấy bạn trai, không hề chưng diện. Ði học, đi làm về là phụ với tôi nấu nướng, dọn dẹp như gia đình của nó. Nó mà trang điểm vô thì phải biết. Ðẹp lắm! Ai mà được nó làm vợ thì sướng như tiên. Bây giờ nó lại tốt nghiệp đại học, sắp sửa đi làm, lương hướng đâu có thua ai...Ủa! Sao anh lại cười? Bộ tôi nói không đúng sao? Hay anh chê nó?" "Dạ, cháu đâu có chê cô ta, nhưng cháu có lý do riêng. Cháu không có ý định lập gia đình nên không dám nghĩ đến cô Mai". Vợ tôi khựng lại, vợ chồng hai đứa con gái tôi, tuy ngồi xa, đang dõng tai lên nghe lén, cũng thở dài thất vọng. Mọi người nghĩ, có lẽ anh ta không bình thường về sinh lý. Chuyện đó không nên đề cập đến vì kỳ cục, đáng mắc cỡ. Tuy thế, vợ tôi cũng kể lại cho cô Mai nghe chuyện làm mai thất bại, nhưng lại kết luận "Nó khen con đẹp, hiền giỏi giang đủ thứ, nhưng có lẽ nó "lại cái" hay sao đó nên coi bộ lơ là. Ðể cô điều tra thêm mới biết tại sao" Cô gái giẫy nẫy lên "Cô làm vậy kỳ lắm! Làm như con mê anh ta, bắt cô phải dụ dỗ anh ta cho con" Thế là bao nhiêu hăng hái, thiện chí của vợ tôi xẹp xuống như bong bóng xì hơi. Tôi nói với vợ tôi "Bọn nhỏ bây giờ chịu nhau thì tự động tìm đến, bàn tính, giao hẹn với nhau như người ta mua bán hàng hóa vậy, không như thời xưa đâu. Bà làm nghề mai mối, lỗi thời rồi" Vợ tôi vẫn còn tức "Ông biết gì về thằng đó không? Mấy năm đi uống cà phê với nó, có nghe nó nói gì về bịnh hoạn, hay dị tật gì trong thân thể nó không?" Tôi cự ngay "Tôi có phải bác sĩ đâu mà đi hỏi chuyện sinh lý của người ta! Tôi chỉ biết là nó không hề để ý đến đàn bà, con gái nên tôi lưu ý bà, đừng làm chuyện tào lao mà thêm phiền" Vợ tôi vùng vằng "Ðể đó, tôi phải điều tra cho ra, tại sao con Mai đẹp như vậy mà không chịu? Tôi thấy, hình như nó có nhìn con Mai, nhưng nhìn trộm, kiểu như ông nhìn gái mà sợ tôi bắt gặp" Tôi tức cười "Bà đừng đem tôi ra mà suy luận. Bà phải phân biệt cái nhìn của tôi với người khác. Tôi nhìn người đẹp vì nghệ thuật, vì vẻ đẹp nhưng không ham muốn. Thằng đó mà nhìn con Mai giống như tôi thì coi như bỏ đi rồi, đừng bao giờ nghĩ tới chuyện mai mối mà bị con Mai trách móc sau nầy" Vợ tôi tự nhiên nổi xùng "Xí! Ông mà nghệ thuật. Nghệ thuật gì ở chỗ ngực, chỗ đùi người ta? Không có tôi, ông đi tới trời" Hễ thình lình nổi ghen, vợ tôi thường lôi những chuyện “xưa rích” ra đay nghiến, tôi không thèm cãi lại, chỉ hỏi "Bây giờ nói chuyện tôi nhìn gái hay chuyện làm mai?" Bả không thèm nhìn tôi "Ông muốn nói chuyện gì tôi cũng nói được. Ðừng làm bộ vô tội... Tôi muốn hỏi ông. Thằng đó có thích con trai không? Nó có cập kè với thằng “bê đê”â (lại cái) nào không?" "Tôi thấy nó cũng bình thường chứ chẳng cập với thằng “bê đê” nào cả" "Vậy thì tuần tới lại mời nó đến nhà mình ăn cơm, để tôi biết chắc nó có nhìn trộm con Mai thật không?" "Bà muốn thì tự làm lấy, coi như tôi không tham dự vào chuyện mai mối của bà" Ðàn bà tinh mắt hơn đàn ông, tôi để ý mới thấy. Bữa cơm sau đó, anh ta quả có nhìn trộm con nhỏ Mai. Cái nhìn đầy nam tính nhưng lại có vẻ lén lút, như sợ ai bắt gặp. Cả đến việc anh ta chuyện trò hay bỏ thức ăn cho con nhỏ cũng lấm lét, như vụng trộm, mặc dù anh ta biết, gia đình tôi mời đến ăn cơm là để anh ta tán tỉnh con nhỏ Mai. Lẽ ra, nếu anh ta thích thì cứ mạnh dạn, công khai tỏ tình với người đẹp. Tại sao phải lén lút? Có uẩn khúc gì đây? Tuy nghĩ vậy nhưng vợ chồng tôi làm như không biết, cuối tuần vẫn mời cơm và sắp xếp cho hai cô cậu ngồi gần nhau. Ít lâu sau vợ tôi quyết hỏi anh ta cho ra lẽ. Một buổi chiều thứ bảy, trong nhà chỉ có vợ chồng tôi và anh chàng dị ứng với đàn bà đó. Vợ tôi tính nóng lại xem anh ta như em cháu nên hỏi ngay "Anh thấy con nhỏ Mai ra sao? Có ưng không? Tôi làm mai cho" Anh ta có vẻ lúng túng "Thú thật, cháu để ý cô Mai từ lâu, nhưng cháu đã lỡ hứa là sẽ không bao giờ lấy vợ, nên cháu không dám tiến xa hơn. Ngay đến chuyện nhìn đàn bà con gái cháu cũng không dám". Vợ tôi kinh ngạc và nổi xùng "Ai cấm anh lấy vợ? Ai cấm anh nhìn đàn bà con gái? Người nào có quyền gì mà cấm chuyện lạ đời đó? Ðến ông tổng thống Mỹ cũng không có quyền đó. Anh nói tôi nghe. Ai cấm? Hay anh có bịnh gì nên bác sĩ cấm anh? Hay anh lại cái?" Tưởng mắc cỡ vì bị nói là “lại cái”, nhưng anh ta chỉ cười "Ðúng ra không phải là người nào cấm mà là lời nguyền của cháu với vong linh một cô gái. Cháu đã hứa với vong linh cô ta là, suốt đời, cháu sẽ không lấy vợ" Tôi không muốn rây vô chuyện mai mối phiền phức nên ngồi uống trà ở bàn ăn. Khi nghe hai tiếng "vong linh", vợ tôi biết là chuyện ma nên hơi ngán, bèn bảo tôi "Ông qua đây tiếp chuyện, tôi đi nấu miếng nước". Ðàn bà, trẻ con, càng sợ chuyện ma, càng muốn nghe. Biết vậy nên tôi bưng tách trà qua xa lông và nói với anh ta "Khi hứa với người đã khuất thì phải giữ lời, vì với người còn sống mình có thể giải thích được chứ với ma thì nói ai nghe?!" Vợ tôi cự ngay "Ông phải để cho anh ta kể hết sự việc xem sao, chưa chi đã bàn ra".
Anh ta cúi xuống, dùng tay vạch mái tóc để lộ một vết sẹo dài cỡ nửa tấc. Vết sẹo như một cái rãnh nhỏ, một lớp da mỏng che xương sọ trắng xám giữa đám tóc đen và cứng như rễ tre. Vợ tôi đến nhìn, rồi ngồi xuống, hóng chuyện.
"Cháu bị chúng chém. Tưởng chết rồi, không ngờ vẫn còn sống được" Vợ tôi sốt ruột "Ai chém anh? Vì sao chúng chém?" Anh ta uống chén trà rồi mới thong thả nói "Sau bảy lăm (1975), cháu học xong trung học nhưng không được vào đại học vì lý lịch. Ba cháu, là sĩ quan Cộng Hòa, đi tù cải tạo. Vợ cháu cũng có cha đi tù. Hai gia đình quen thân nhau từ trước, đều ở trong trại gia binh. Năm bảy lăm, mọi người đều bị đuổi ra khỏi trại gia binh. Gia đình cháu phải về quê ngoại ở Mỹ Tho. Hai gia đình gom góp tiền vàng cho hai đứa cháu vượt biên. Bữa đó tổ chức tiệc cưới, mời chính quyền xã, ấp, nhất là công an địa phương đến nhậu nhẹt say mềm. Chúng cháu làm như đi rước dâu, đến khuya, đám rước thay vì về nhà trai lại chạy thẳng ra cửa biển. Như vậy, chúng cháu chưa gần gủi nhau bao giờ. Thuyền lênh đênh trên biển được năm ngày thì gặp hải tặc Thái Lan. Chúng chém đàn ông, con nít rồi bắt đàn bà con gái qua thuyền chúng. Cháu nhào đến cứu vợ cháu thì bị chém vào đầu, ngã gục. Hôm sau tỉnh dậy, trong thuyền chỉ còn xác chết với mấy người bị thương nặng. Theo lời kể lại thì vợ cháu thấy cháu bị chúng chém chết, bèn vùng vẫy và nhảy xuống biển tự tử. Lúc đó, cháu tin rằng mình cũng sắp chết vì thuyền bị bọn hải tặc húc, tràn nước, sắp chìm, nên cháu khấn với vong hồn vợ cháu "Em sống khôn thác thiêng, xin chờ anh. Anh bị thương nặng, thuyền sẽ chìm, anh sẽ chết. Hai linh hồn mình sẽ được bên nhau mãi mãi. Nếu còn sống, anh thề không lấy vợ, sẽ ở vậy thờ em cho đến ngày anh chết, sẽ được gặp em". Không ngờ, vừa lúc có một thương thuyền đi ngang qua, nhìn thấy, bèn cứu lên tàu. Không ai hiểu sao, với vết thương nặng như vậy mà cháu sống sót được? Cháu qua Mỹ, cố gắng học, kiếm việc làm để gửi tiền về Việt Nam cứu giúp hai gia đình" Vợ tôi hỏi "Từ đó đến nay, anh có bao giờ thấy vợ anh hiện hồn về không?" "Dạ không! Nhưng cháu tin rằng, vong linh vợ cháu lúc nào cũng ở bên cháu. Cháu lập một cái trang nhỏ làm bàn thờ, để di ảnh vợ cháu lên, mỗi ngày đều thắp nhang. Ði làm về, cháu ghé tiệm cơm, mua thức ăn về, đặt lên trang thờ, cúng vợ cháu, sau đó, dọn xuống, mời vợ cháu cùng ăn. Ði đâu, làm gì, cháu cũng kể cho hồn vợ cháu nghe" Vợ tôi tưởng như hồn cô gái cũng ngồi trong phòng, nên ngồi sát vào tôi, coi bộ cũng ngán nhưng vẫn hỏi "Có bao giờ anh thử làm quen, chuyện trò thân mật với một cô gái nào đó chưa? Nếu hồn vợ anh còn ở bên anh, sẽ tìm cách để anh hiểu là cô ta không bằng lòng. Cô ta sẽ hiện hồn cho anh thấy chẳng hạn. Anh thử lần nào chưa?" "Thực tâm, cháu không muốn làm vong linh vợ cháu buồn tội nghiệp. Cái chết của vợ cháu quá đau thương nên dù có cảm tình với cô nào cháu cũng ngại. Cứ tưởng tượng, cháu đang thân mật với cô nào đó, linh hồn vợ cháu đứng bên cạnh, mặt buồn xo vì bất lực, không có cách nào cho cháu hiểu là cô ấy buồn lắm..." Tôi lên tiếng "Anh nên nghĩ rằng, linh hồn vợ anh buồn vì thương yêu anh mà không có cách nào phục vụ, săn sóc, an ủi anh, nhất là những khi anh đau ốm. Cô ấy biết rõ, anh cần một người thay cho cô ấy lo cho anh. Anh không thể sống độc thân mãi được. Theo tôi, chết là hết, nếu còn thì đã siêu thoát hoặc đi đầu thai kiếp khác rồi. Anh phải lấy vợ, sinh con, thương yêu gia đình nhưng vẫn tưởng nhớ, thờ phụng, giỗ quải chu đáo cô vợ trước là đủ bổn phận với người quá cố rồi" Vợ tôi tưởng có chuyện ma hiện hình nên sợ, đến khi nghe kể thì chẳng có ma quái gì, lại nghe tôi bàn tính hợp ý, nên thúc hối "Chết là hết. Anh để ý con Mai thì nên tiến tới, đừng để nó xin được việc làm, đi xa thì "xôi hỏng bỏng không". Không có cô nào hoàn hảo như con Mai. Tôi bảo đảm với anh, sau nầy cưới về, có gì không bằng lòng nó thì cứ lôi tôi ra mà mắng vốn" Anh ta có vẻ xiêu lòng. Chúng tôi bàn tính, đưa ra một chương trình giúp anh ta tiến đến với cô sinh viên Mai. Trước hết, anh ta về khấn với linh hồn cô vợ, nếu không bằng lòng thì cho biết, hoặc trong giấc mơ hoặc một hiện tượng nào đó, ngược lại thì sẽ không có chuyện gì xảy ra, rồi thì hai người, anh ta với cô Mai sẽ gặp nhau, tìm hiểu, nếu hợp ý thì tiến hành lễ cưới. Trước khi ra về, anh ta dặn chúng tôi là đừng cho cô Mai biết gì về chuyện riêng (ma) đó của anh ta.
Tối đó, chờ cô Mai về, vợ tôi lò dò vô phòng cô ta, tỉ tê, to nhỏ cả buổi rồi lên bảo tôi "Xong rồi! Ðể hai anh chị làm thân với nhau, mình khỏi phải làm phiền chúng nó nữa" Tuy nói vậy chứ vợ tôi vẫn cứ tò mò hỏi chừng cô sinh viên, tình hình ra sao? Thì ra họ đã hẹn nhau đi ăn tiệm, đi shopping, xem phim... Cô gái đã có việc làm, anh chàng kia thì đã mua nhà từ lâu nên chuyện sống chung của hai người không thấy trở ngại nào.
Khoảng ba tháng sau, cả hai báo cho chúng tôi biết, họ sẽ làm đám cưới và nhờ chúng tôi việc thực hiện các nghi lễ truyền thống như lễ hỏi, lễ cưới. Về tiệc cưới thì có nhiều bạn học giúp tổ chức, sắp xếp. Mọi việc, chúng lo hết... Vì cha mẹ của cô dâu, chú rể đều còn ở bên Việt Nam nên phải nhờ tôi thay mặt cho nhà gái, một gia đình khác đại diện nhà trai.
Tối đó, tiệc cưới chấm dứt lúc mười hai giờ khuya, chúng tôi không quen thức khuya nên về đến nhà là lăn ra ngủ vùi. Khoảng hai giờ sáng, chuông điện thoại reo, vợ tôi bắt lên nghe "Cô đây! Sao? Muốn về đây hả? Bây giờ con đang ở đâu? Ðể cô nói chú mở cửa đón con. Năm phút nữa hả? Ðược. Bye con!" Vợ tôi bảo "Ra mở cửa đón con Mai. Không hiểu có chuyện gì mà nó bỏ chồng về đây?" Tôi lầu bầu "Làm mai thì phải ráng mà lãnh!" Tôi vừa mở cửa thì xe cô Mai cũng vừa ngừng trước sân. Cô ta chạy ào vô nhà, không kịp tắt máy xe. Tôi ra tắt máy xe, vào nghe xem chuyện gì đã xảy ra? Thấy cô ta ôm vợ tôi cứng ngắt, không nói tiếng nào, người run cầm cập. Vợ tôi cũng đâm hoảng, hỏi dồn dập "Có chuyện gì vậy?" Hỏi hoài mà chỉ nghe cô ta vừa thở vừa lí nhí trong miệng, chẳng hiểu gì cả! Một lúc sau cô mới nói rõ "Ảnh nuôi ma trong nhà!" Vợ tôi nghe thế co rúm người lại "Ma nào? Ông ra đóng cửa lại mau. Coi chừng nó theo vô nhà. Con thấy con ma như thế nào?" "Con không biết! Con ma đàn bà. Ghê quá! Nó nắm chân con lôi ra khỏi giường" Hai người đàn bà tự mình làm cho mình khiếp sợ thêm, cứ vơ tay tìm cái mền. Tôi thấy buồn cười nhưng cũng giúp đắp kín mít hai người trong mền, chỉ để lộ hai cái đầu để tiện nghe họ đối đáp. Vợ tôi thì thào "Ông ra thắp nhang trên bàn thờ, khấn vái cho con ma đi ra" Tôi dọa "Thắp nhang, chúng ngửi mùi thơm, kéo vào thêm đông vui. Muốn thắp thì thắp!" Vợ tôi nạt "Người ta đã sợ muốn chết còn nhát nữa! Ông đi nấu miếng nước, pha trà cho nó uống tỉnh trí" Tôi đi pha trà, thêm cho mỗi người một viên thuốc chống dị ứng (làm cho buồn ngủ). Một lúc sau, cả hai đã chìm vào giấc ngủ. Tôi ra xa lông nằm, gọi điện thoại đến chàng rể "Có chuyện gì mà cô dâu bỏ về đây vậy?" "Cháu không rõ. Vừa tắt đèn thì cô ấy bắt mở đèn vì cô bảo thấy có người trong phòng. Mở đèn một lát, cô vừa thiu thiu ngủ thì bỗng vùng dậy bảo "Anh nuôi ma trong nhà!" rồi chộp lấy chìa khóa xe, tung cửa chạy ra ngoài, lái xe đi. Nhưng cháu có thấy ma quái gì đâu?" "Anh có dẹp cái trang thờ vợ trước của anh chưa?" "Cháu đem di ảnh vợ cháu cùng với lư hương, chân đèn vào closet (ngăn treo áo quần). Trang thờ trống trơn" "Tôi nghĩ, anh nên thiết lập lại trang thờ. để di ảnh người đã khuất cùng với đồ thờ lên cùng với lễ vật, sau đó anh thử khấn xin vong hồn người quá cố thông cảm cho anh mà bớt giận hờn, đừng phá cô Mai nữa" "Cháu định bán ngôi nhà nầy, nhưng chưa biết thờ di ảnh vợ cháu ở đâu? Vì nếu thờ nơi tụi cháu ở thì cô ta sẽ quấy phá Mai, không yên đâu!" "Chỉ còn cách là đến chùa xin mấy lễ cầu siêu rồi thờ luôn cô ta trong chùa để vong hồn được nghe kinh kệ, sớm siêu thoát. Tạm thời, đừng liên lạc với cô Mai, coi như chấm dứt để vong hồn cô ta khỏi ghen tương mà có thể làm hại cô Mai".
Sáng hôm sau, tôi trấn an cô Mai "Có lẽ cô nghe người ta kể chuyện ma nên bị ám ảnh chứ thời nầy làm gì có ma" Cô Mai vẫn chưa hết sợ "Tối hôm qua, cháu thấy rõ ràng một người đàn bà từ trong "closet" đi ra, đến cạnh giường chỗ chồng cháu nằm. Cháu tưởng ăn trộm, bắt chồng cháu mở đèn, thì chẳng thấy gì cả. Cháu nghi là nhà có ma nên sợ quá, trùm mền kín mít, ôm chồng cháu ngủ. Mới thiu thiu thì cháu thấy lạnh ở cổ chân. Cháu nghĩ mình để chân ngoài mền, nên co chân lại, không ngờ, chân cháu như có ai giữ lại bằng hai bàn tay lạnh ngắt, không co lại được. Cháu nhìn xuống thì thấy lờ mờ người đàn bà lúc nãy đang cúi xuống như cố lôi cháu ra khỏi giường. Cháu co chân kia, đạp cho bà ta một đạp rồi vùng dậy, lái xe về đây" Lúc đó là ban ngày mà vợ tôi cũng rút chân lên ghế. Ðã sợ mà còn hỏi thêm "Con thấy con ma ra sao?" "Nó chỉ lờ mờ, nhưng cháu biết đó là một người đàn bà, tóc rủ trước trán, che không thấy mặt, hai cánh tay với mấy ngón tay chỉ còn xương, giống như hình chụp quang tuyến (X ray). Trước giờ cháu chưa hề thấy ma, cháu cũng không sợ ma, nhưng bây giờ cháu biết chắc là nhà đó có ma" Tôi đề nghị, cô Mai đừng liên lạc với chồng cho đến khi nào chuyện ma đó giải quyết xong. Mấy hôm sau tôi gọi cho chàng rể thì được anh ta kể lại như sau "Cháu theo lời chú, thiết lập lại trang thờ cùng với lễ vật, rồi cháu lên nhang, đèn và khấn rằng, tuy cháu vẫn thương yêu cô ta (người vợ quá cố), nhưng âm dương cách trở, chỉ có thể gặp nhau sau khi cháu giả từ cuộc sống trên thế gian nầy để về với cô ta. Hiện tại, cháu không thể sống một mình mãi vì sau nầy, khi lớn tuổi, bịnh hoạn, già yếu không ai săn sóc, mong cô ta thông cảm để cháu có một người bạn gái bên cạnh. Cháu nghĩ rằng, vợ cháu, thân xác đã tan rã nơi đáy biển, trong cõi u minh lạnh lẽo, chỉ còn cháu là nơi để linh hồn vợ cháu nương tựa tìm hơi ấm của tình vợ chồng. Nay có một người thứ ba chen vào, vợ cháu sẽ đau đớn, buồn rầu lắm. Cháu ôm di ảnh vợ cháu mà khóc, và khấn rằng. Nếu không muốn cháu lấy vợ thì báo mộng cho cháu biết. Nếu không báo mộng thì coi như bằng lòng…” Tôi bảo “Dù cô ta có cho anh lấy vợ nhưng không có nghĩa là cô ta không ghen, không thù hận người chiếm đoạt tình cảm của chồng mình” “Cháu nghĩ, khi một người đã chết rồi, linh hồn không thể ghen tương được nữa” “Tôi nghe người ta nói. Chết rồi, nhưng tham, sân, si vẫn theo với thần thức, tức là linh hồn. Những người chết oan không chịu đi đầu thai. Cô vợ quá cố của anh, càng yêu anh khi còn sinh tiền thì lúc chết, linh hồn càng đau khổ, càng ghen tương, thù hận. Nó không để yên cho con nhỏ Mai sống với anh đâu. Nó chỉ cần nhác ma vài lần là con nhỏ Mai bỏ chạy ngay” “Chú nói có lẽ đúng. Khi cháu khấn đến đấy thì bỗng nhiên mấy cây nhang cháy bùng lên. Cháu thắp đợt nhang khác, nó cũng cháy bùng đến tận gốc. Cháu nghĩ nhang không được tốt, nên không thắp nhang nữa. Rồi thì đến lượt cây đèn cầy. Cháu vừa quay lưng là một cây đèn cầy bị tắt. Cháu thay cây khác, cũng vừa quay đi thì đèn tắt. Lần sau, cháu thắp đèn lên, vờ quay đi nhưng nhìn vào chiếc gương soi treo trên vách, thì thấy ngọn đèn như bị hai ngón tay vô hình bóp cái tim đèn, khiến nó dẹp lại, tắt ngấm chứ không như bị gió thổi, ngọn lửa phải nằm rạp xuống trước khi tắt. Hôm sau, cháu đến chùa, kể hết mọi sự cho vị sư trụ trì, thầy dạy rằng "Nhang cháy bùng, cháy cả chân nhang, thì gọi là "hóa hình nhang", là có sự giao cảm giữa hai giới âm dương. Một ngọn đèn bị tắt thì cứ nam tả, nữ hữu, theo đó mà biết người nam hay nữ sẽ bị hồn ma theo ám hại. Cái vong nầy là trinh nữ, là oan hồn uổng tử, đã thành quỷ, nên lộng hành, phải nhờ oai linh Phật Tổ, khuyến dụ nó chịu về chùa, rồi phải cúng giải oan cho nó trong bốn mươi chín ngày sau đó nó mới chịu qui phục Tam Bảo, nghe kinh kệ mà chuyển nghiệp lành, vãng sanh tịnh độ. Hồn ma thường rất sợ ánh sáng và tiếng động mạnh như tiếng pháo nổ, súng nổ. Vậy nên, khi đem di ảnh của cái vong nầy từ nhà về chùa phải đốt một trái pháo, giống như ở Việt Nam, khi di quan (khiêng quan tài ra khỏi nhà), người mình thường đốt pháo hoặc đập mạnh một cái nồi, niêu gì đó cho hồn bạch (hồn người chết) ra khỏi nhà cùng với quan tài. Hôm lễ đưa vong, thầy và các Phật tử hộ niệm sẽ đến giúp. Nhớ đem theo di ảnh của nó. Di ảnh thay cho thần chủ (bài vị) là nơi vong linh nó ẩn náu”. Tôi khuyên anh ta không nên liên lạc với cô Mai trong một thời gian, khi nào xong lễ giải oan, yên ổn, hãy tính sau.
Chúng tôi ở miền Ðông Bắc Hoa Kỳ, gần thủ đô Hoa Thịnh Ðốn (Washington DC). Mỗi năm, đến lễ quốc khánh Hoa Kỳ (July 4 ), buổi tối có đốt pháo bông, gia đình chúng tôi, gồm con, cháu, sau nầy có cô Mai, sinh viên ở trọ, kéo nhau lên thủ đô, gần cây bút chì để xem đốt pháo.
Quốc khánh năm nay, vợ tôi gõ cửa, rủ cô Mai cùng đi, thì cô không có trong phòng. Gọi điện thoại cầm tay, điện thoại đã đóng, gọi cho chồng cô, điện thoại cũng đóng. Khi mở phòng cô Mai, mới biết, tất cả những gì của cô đã dọn sạch, chỉ thấy một mãnh giấy nhỏ có giòng chữ "Vợ chồng cháu sẽ gửi thư cho cô sau" Cả hai đã bí mật, lặng lẽ dọn đi nơi khác, có lẽ sợ hồn ma cô gái kia đi theo.
Hai tháng sau, chúng tôi nhận được một lá thư, không ghi tên, không địa chỉ người gửi, dấu nhật ấn bưu điện cho thấy thư được gửi từ một thành phố rất xa. Chỉ vỏn vẹn mấy giòng "Tụi cháu không dùng tên cũ trong giao thiệp với bạn bè, không gọi nhau tên thật. Hôm quốc khánh, hai đứa cháu đi hai chiếc xe riêng, lấy bột màu bôi khắp mặt mũi, chân tay, đến chỗ cây bút chì, ngồi hai nơi cách xa nhau, chờ đốt pháo bông. Khi ánh chớp và tiếng pháo nổ rộ lên (thầy trụ trì nói. “Nó” có theo chồng cháu đến đó mà nghe pháo nổ, ánh sáng xanh đỏ khắp nơi, ắt phải hoảng kinh bỏ chạy), nhân dịp đó chồng cháu lái xe chạy trước, cháu chạy sau. Tụi cháu đi suốt đêm. Xa lắm. Từ hôm đó đến nay cháu không còn bị quấy rầy nữa. Cầu mong Phật tổ từ bi, cứu độ cho “chị ấy” hiểu thấu lẽ vô thường, không còn đau khổ, lưu luyến cõi trần mà siêu thoát vào cõi hư vô. Vợ chồng cháu rất cám ơn cô chú. Chúc cô chú sức khỏe".
Vợ tôi đọc mấy giòng đầu đã co chân lên ghế, đến cuối thư thì mặt mày xanh lét, vội vất lá thư đi. Tôi làm bộ nghiêm trọng “Con ma đó đang ở trong nhà mình. Nó đang đọc chung thư với bà đó. Ðể tôi đến chùa, mời thầy trụ trì đến “tiếp dẫn” nó về chùa” Tôi đi lấy chìa khóa xe để đi chùa. Mọi khi đi đâu, tôi phải chờ nửa tiếng để vợ tôi trang điểm. Nay thì chả phải trang điểm, ăn diện, vừa nghe tôi nói, bả đã phóc ra xe trước tôi, ngồi chờ mà mắt láo liêng, dòm chừng sau xe, tìm xem “nó” có “quá giang” ở ghế sau không? Tôi cười thầm, hỏi với giọng khiêu khích “Từ nay có còn đòi ngủ riêng hay vẫn tiếp tục ngủ chung với tôi?”.
Nói xong tôi mới biết mình hớ! Nguyên nhân như thế nầy. Mỗi khi gây lộn với tôi, vợ tôi đòi ngủ riêng, tôi mừng trong bụng, chỉ cầu cho bả “nói là làm”, nhưng tôi phải giả bộ đau khổ, lo lắng. Bả khoái lắm, thỉnh thoảng lại đem vụ “ngủ riêng” ra để đàn áp tôi. Bây giờ tôi trót dọa, trong nhà có con ma đó thì, tối vô giường, thay vì xô tôi ra như mọi khi, bả sẽ ôm tôi cứng ngắt, như thời mới cưới nhau.
Con là nợ, vợ là oan gia. Tôi già rồi, gần chết rồi mà vẫn bị cái oan gia đó “ôm cứng ngắt!”. Khổ sở thế đó nên, tôi xin quí độc giả thân mến, hãy thương tôi mà cầu nguyện cho tôi sớm được “siêu sinh tịnh độ”.
8. Câu Chuyện Văn Học
BÙI GIÁNG
VÀ NHỮNG BÀI THƠ VỀ MỘT NGƯỜI ÐÃ KHUẤT
Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu, xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Thân sinh ông là cụ Bùi Thuyên, thuộc một giòng họ danh giá ở Quảng Nam. Mẹ ông là cụ Huỳnh thị Kiên, là cháu Tổng đốc Hoàng Diệu. Tên thật của ông là Bùi Khắc Gián, khi đi học, thầy sửa lại là Bùi Giáng. Trong gia đình thường gọi ông là Sáu Giáng. Bùi Giáng có mấy câu thơ "Ủa, phải anh là Sáu Giáng đó không? Và cô có phải là cô Bông năm nào? Anh còn nhớ rõ, ôi chao. Vợ chồng tôi cũng lúc nào nhớ anh". Theo lời kể thì từ xa xưa, trong giòng họ Bùi của ông, mỗi thế hệ đều phải có một người tâm trí bất thường mới khá được. Vì ông phải chịu sự thiệt thòi đó nên gia đình dồn hết tình thương cho ông.
BÙI GIÁNG
VÀ NHỮNG BÀI THƠ VỀ MỘT NGƯỜI ÐÃ KHUẤT
Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu, xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Thân sinh ông là cụ Bùi Thuyên, thuộc một giòng họ danh giá ở Quảng Nam. Mẹ ông là cụ Huỳnh thị Kiên, là cháu Tổng đốc Hoàng Diệu. Tên thật của ông là Bùi Khắc Gián, khi đi học, thầy sửa lại là Bùi Giáng. Trong gia đình thường gọi ông là Sáu Giáng. Bùi Giáng có mấy câu thơ "Ủa, phải anh là Sáu Giáng đó không? Và cô có phải là cô Bông năm nào? Anh còn nhớ rõ, ôi chao. Vợ chồng tôi cũng lúc nào nhớ anh". Theo lời kể thì từ xa xưa, trong giòng họ Bùi của ông, mỗi thế hệ đều phải có một người tâm trí bất thường mới khá được. Vì ông phải chịu sự thiệt thòi đó nên gia đình dồn hết tình thương cho ông.
Kể từ năm 1945, nước Việt Nam trải qua rất nhiều biến cố, những người trong gia đình Bùi Giáng không nắm vững hành tung của ông, vì ông thường đi đây đi đó, khi thì Bình Ðịnh, Phú Yên, Quảng Ngãi khi thì ra tuốt Liên khu Tư, Hà Tĩnh, đến năm 1952 ông vào Sài Gòn. Ðối với cá nhân Bùi Giáng, vì bịnh tâm thần, nên ông cũng không nhớ rõ ngày tháng nào, mình ở đâu, làm gì!...
Vì giới hạn bài viết, chúng tôi chỉ nêu ra đây một số tài liệu liên quan đến những bài thơ mà Bùi Giáng viết về một người đã khuất. Ngoài sách báo, chúng tôi còn tham khảo lời kể của những người quen thân với ông, nhất là từ ông Phạm văn Hòa, em ruột bà Phạm thị Ninh, vợ Bùi Giáng. Ôngï Phạm văn Hòa, hiện ở tại số nhà 38 Nguyễn thị Minh Khai, Hội An, Quảng Nam, có kể rằng. Khoảng 1945, Bùi Giáng học trường Viên Minh, trọ học tại nhà bà mẹ ông Hòa (bà Phán Trai). Ðây là một quán cơm ở đầu kiệt Nhị Trưng (gần Vĩnh Hưng Hotel bây giờ). Quán cơm nầy, tầng dưới làm phòng ăn, trên lầu là phòng ngủ cho học trò trọ học. Năm 1945, Bùi Giáng cưới cô Phạm thị Ninh, là con gái của chủ quán. Gia đình ông từ Vĩnh Trinh, đi ghe, theo sông Thu Bồn về Hội An rước dâu về. Như vậy cho rằng gia đình chọn vợ cho Bùi Giáng là không đúng. Người ta kể rằng, bà chủ nhà trọ có hai cô con gái. Cô chị tên Ninh, cô em tên T. Khi cô T. chuẩn bị lên xe hoa thì Bùi Giáng bỏ về Vĩnh Trinh. Một tuần sau, Bùi Giáng về lại Hội An, thưa với bà chủ quán rằng "Con muốn cưới Ninh" Bà chủ quán nói với Bùi Giáng "Hai đứa chúng nó coi con như anh trong nhà, sao bây giờ con lại nói kỳ vậy?". Nghe nói thế, Bùi Giáng tuyên bố "Nếu bác không gả Ninh cho con, con sẽ đốt nhà bác" Bà mẹ bèn xuống nước "Thôi thì bây giờ con ra hỏi Ninh, nếu nó chịu thì bác gả". Bùi Giáng xin được gặp riêng cô Ninh. Sau nửa giờ, cô Ninh vừa khóc vừa gật đầu đồng ý. (Trích trong "Bùi Giáng Nhà Thơ Kỳ Dị"). Sau nầy gia đình cô Ninh được biết là Bùi Giáng và cô T. (em cô Ninh) yêu nhau, vì cô T. rất đẹp và Bùi Giáng, lúc đó rất hào hoa (con nhà giàu), nhưng họ cũng nêu nghi vấn rằng. Trước đó có bắt gặp những trang giấy của Bùi Giáng viết đầy tên cô Ninh. Năm 1945, gia đình Bùi giáng và gia đình bên vợ (cô Ninh) tản cư lên Trung Phước. Theo tài liệu thì sau đó ba năm vợ Bùi Giáng (cô Ninh) chết vì bịnh lâu năm và sinh non. Ðứa bé cũng chết. Theo lời ông Phạm văn Hòa, em rể Bùi Giáng thì Bùi Giáng chăn dê từ năm 1945 đến năm 1948 ở Trung Phước. Ðiều nầy có lẽ đúng vì lúc đó gia đình bà Ninh (bên vợ Bùi Giáng) còn (ở) tản cư tại Trung Phước. Theo lời ông Phạm văn Hòa "Ông anh rể tôi kỳ lạ lắm. Hồi đó ổng mua một đàn dê khoảng 100 con và rủ tôi đi chăn cùng. Buổi sáng ông thường lùa dê vào Giáp Nam, Gò Om, sau đó hai anh em rủ nhau xuống khe (suối) Le ngồi dưới bóng của các lùm tre và đọc thơ suốt buổi...Ðặt biệt Bùi Giáng rất thương vợ. Sáng nào ông cũng vắt một bát sửa dê đem chưng lên cho vợ uống... Chuyện Bùi Giáng chăn dê mọi người còn nhớ. Ðấy là hình ảnh một thanh niên hàng ngày lặng lẽ lùa dê vào núi, trên tay ôm một cuốn sách tiếng Pháp dày cộm"
Theo thân nhân kể lại thì lúc vợ ông sinh con và mất, ông không ở cạnh vợ mà đang ở Bình Ðịnh, Phú Yên, gì đó, gia đình chẳng biết ông ở đâu mà tìm?! Có lẽ điều đó ám ảnh ông, khiến ông ân hận.
Lúc ở Sài Gòn, người ta hỏi ông, ông bảo rằng không có vợ.
Bà Phạm thị Ninh chỉ sống với chồng được ba năm. Theo gia đình kể lại, tuy ông rất thương vợ nhưng vì tâm trí bất thường, có khi áp bức vợ quá đáng. Một lần vợ ông uất ức quá, đón đò dọc về mét với gia đình chồng rằng ông không cho vợ mua cá thịt ăn mà bắt ăn toàn rau quả (có lẽ vì thế mà vợ ông thường xuyên đau yếu, nhất là khi có thai). Khi biết được vợ xuống đò về Vĩnh Trinh, ông cũng xuống theo để năn nỉ vợ quay lại, nhưng vợ ông cương quyết không nghe lời. Vậy là ông nhảy xuống sông, vịn be thuyền suốt từ Trung Phước về Vĩnh Trinh, trên ba chục cây số. Khi thuyền ghé bến, gia đình ông ngạc nhiên thấy con dâu thì khóc lóc, ông thì ướt mem.
Lúc vợ còn sống với mình thì không biết thương yêu, đến khi vợ chết, dù có hối tiếc, ân hận cũng không kịp.
Chúng tôi trích đăng sau đây những bài thơ ông viết về người vợ đã mất. Mà mỗi giòng thơ là mỗi giòng nước mắt nhớ thương.
BỜ LÚA
Em chết bên bờ lúa
Ðể lại trên đường mòn
Một dấu chân bước của
Một bàn chân bé con
Anh qua miền cao nguyên
Nhìn mây trời bữa nọ
Ðêm cuồng mưa khóc điên
Trăng cuồng khuya trốn gió
Mười năm sau xuống ruộng
Ðếm lại lúa bờ liền
Máu trong mình mòn ruỗng
Xương trong mình rã riêng
Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong tội lỗi
Chợt đêm nào gió bờ nọ bay sang
BÊN NẦY
Ta đứng lại bên nầy chờ đợi
Ồ phải không? Em đó phải không
Ta đếm lại từng ngón tay lẩy bẩy
Ðời chúng ta là mấy trăng tròn
Ngày vui ngắn? Lòng đã vơi mấy bận
Ngày vui đi? Mấy bận giữa lòng ta
Ðổ lây lất mưa về xuân lấm tấm
Ô thiều quang tan biến vội sao mà
Em có khóc? Ta xin em đừng khóc
Em nhìn ta? Lệ chảy có vui gì
Trang phượng mở giữa nguồn em hãy đọc
Nước xuôi giòng ngàn thu hận tan đi.
MƠ VỀ PHƯƠNG ẤY
Con gái khóc bữa nào
Bây giờ nhắc chi nữa
Chuyện ngày trước chiêm bao
Chuyện ngày sau mộng úa
Em chết bên bờ lúa
Em chết dưới triều xanh
Giòng sông kia ấy của
Mộng ước vỡ tan tành
Ở bên đường ngồi lại
Những người đếm tóc nhau
Kỷ niệm về kinh hãi
Màu mắt thuở xa nào
Xin ngó bóng mây trời
Xin nhìn con cá nhảy
Xin thấy ở khắp nơi
Miệng cười thơ dại ấy
Con gái khóc bữa nào
Bây giờ xin nhắc lại
Xin dựng một hàng rào
Ðể mở về phương ấy.
Vì giới hạn bài viết, chúng tôi chỉ nêu ra đây một số tài liệu liên quan đến những bài thơ mà Bùi Giáng viết về một người đã khuất. Ngoài sách báo, chúng tôi còn tham khảo lời kể của những người quen thân với ông, nhất là từ ông Phạm văn Hòa, em ruột bà Phạm thị Ninh, vợ Bùi Giáng. Ôngï Phạm văn Hòa, hiện ở tại số nhà 38 Nguyễn thị Minh Khai, Hội An, Quảng Nam, có kể rằng. Khoảng 1945, Bùi Giáng học trường Viên Minh, trọ học tại nhà bà mẹ ông Hòa (bà Phán Trai). Ðây là một quán cơm ở đầu kiệt Nhị Trưng (gần Vĩnh Hưng Hotel bây giờ). Quán cơm nầy, tầng dưới làm phòng ăn, trên lầu là phòng ngủ cho học trò trọ học. Năm 1945, Bùi Giáng cưới cô Phạm thị Ninh, là con gái của chủ quán. Gia đình ông từ Vĩnh Trinh, đi ghe, theo sông Thu Bồn về Hội An rước dâu về. Như vậy cho rằng gia đình chọn vợ cho Bùi Giáng là không đúng. Người ta kể rằng, bà chủ nhà trọ có hai cô con gái. Cô chị tên Ninh, cô em tên T. Khi cô T. chuẩn bị lên xe hoa thì Bùi Giáng bỏ về Vĩnh Trinh. Một tuần sau, Bùi Giáng về lại Hội An, thưa với bà chủ quán rằng "Con muốn cưới Ninh" Bà chủ quán nói với Bùi Giáng "Hai đứa chúng nó coi con như anh trong nhà, sao bây giờ con lại nói kỳ vậy?". Nghe nói thế, Bùi Giáng tuyên bố "Nếu bác không gả Ninh cho con, con sẽ đốt nhà bác" Bà mẹ bèn xuống nước "Thôi thì bây giờ con ra hỏi Ninh, nếu nó chịu thì bác gả". Bùi Giáng xin được gặp riêng cô Ninh. Sau nửa giờ, cô Ninh vừa khóc vừa gật đầu đồng ý. (Trích trong "Bùi Giáng Nhà Thơ Kỳ Dị"). Sau nầy gia đình cô Ninh được biết là Bùi Giáng và cô T. (em cô Ninh) yêu nhau, vì cô T. rất đẹp và Bùi Giáng, lúc đó rất hào hoa (con nhà giàu), nhưng họ cũng nêu nghi vấn rằng. Trước đó có bắt gặp những trang giấy của Bùi Giáng viết đầy tên cô Ninh. Năm 1945, gia đình Bùi giáng và gia đình bên vợ (cô Ninh) tản cư lên Trung Phước. Theo tài liệu thì sau đó ba năm vợ Bùi Giáng (cô Ninh) chết vì bịnh lâu năm và sinh non. Ðứa bé cũng chết. Theo lời ông Phạm văn Hòa, em rể Bùi Giáng thì Bùi Giáng chăn dê từ năm 1945 đến năm 1948 ở Trung Phước. Ðiều nầy có lẽ đúng vì lúc đó gia đình bà Ninh (bên vợ Bùi Giáng) còn (ở) tản cư tại Trung Phước. Theo lời ông Phạm văn Hòa "Ông anh rể tôi kỳ lạ lắm. Hồi đó ổng mua một đàn dê khoảng 100 con và rủ tôi đi chăn cùng. Buổi sáng ông thường lùa dê vào Giáp Nam, Gò Om, sau đó hai anh em rủ nhau xuống khe (suối) Le ngồi dưới bóng của các lùm tre và đọc thơ suốt buổi...Ðặt biệt Bùi Giáng rất thương vợ. Sáng nào ông cũng vắt một bát sửa dê đem chưng lên cho vợ uống... Chuyện Bùi Giáng chăn dê mọi người còn nhớ. Ðấy là hình ảnh một thanh niên hàng ngày lặng lẽ lùa dê vào núi, trên tay ôm một cuốn sách tiếng Pháp dày cộm"
Theo thân nhân kể lại thì lúc vợ ông sinh con và mất, ông không ở cạnh vợ mà đang ở Bình Ðịnh, Phú Yên, gì đó, gia đình chẳng biết ông ở đâu mà tìm?! Có lẽ điều đó ám ảnh ông, khiến ông ân hận.
Lúc ở Sài Gòn, người ta hỏi ông, ông bảo rằng không có vợ.
Bà Phạm thị Ninh chỉ sống với chồng được ba năm. Theo gia đình kể lại, tuy ông rất thương vợ nhưng vì tâm trí bất thường, có khi áp bức vợ quá đáng. Một lần vợ ông uất ức quá, đón đò dọc về mét với gia đình chồng rằng ông không cho vợ mua cá thịt ăn mà bắt ăn toàn rau quả (có lẽ vì thế mà vợ ông thường xuyên đau yếu, nhất là khi có thai). Khi biết được vợ xuống đò về Vĩnh Trinh, ông cũng xuống theo để năn nỉ vợ quay lại, nhưng vợ ông cương quyết không nghe lời. Vậy là ông nhảy xuống sông, vịn be thuyền suốt từ Trung Phước về Vĩnh Trinh, trên ba chục cây số. Khi thuyền ghé bến, gia đình ông ngạc nhiên thấy con dâu thì khóc lóc, ông thì ướt mem.
Lúc vợ còn sống với mình thì không biết thương yêu, đến khi vợ chết, dù có hối tiếc, ân hận cũng không kịp.
Chúng tôi trích đăng sau đây những bài thơ ông viết về người vợ đã mất. Mà mỗi giòng thơ là mỗi giòng nước mắt nhớ thương.
BỜ LÚA
Em chết bên bờ lúa
Ðể lại trên đường mòn
Một dấu chân bước của
Một bàn chân bé con
Anh qua miền cao nguyên
Nhìn mây trời bữa nọ
Ðêm cuồng mưa khóc điên
Trăng cuồng khuya trốn gió
Mười năm sau xuống ruộng
Ðếm lại lúa bờ liền
Máu trong mình mòn ruỗng
Xương trong mình rã riêng
Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong tội lỗi
Chợt đêm nào gió bờ nọ bay sang
BÊN NẦY
Ta đứng lại bên nầy chờ đợi
Ồ phải không? Em đó phải không
Ta đếm lại từng ngón tay lẩy bẩy
Ðời chúng ta là mấy trăng tròn
Ngày vui ngắn? Lòng đã vơi mấy bận
Ngày vui đi? Mấy bận giữa lòng ta
Ðổ lây lất mưa về xuân lấm tấm
Ô thiều quang tan biến vội sao mà
Em có khóc? Ta xin em đừng khóc
Em nhìn ta? Lệ chảy có vui gì
Trang phượng mở giữa nguồn em hãy đọc
Nước xuôi giòng ngàn thu hận tan đi.
MƠ VỀ PHƯƠNG ẤY
Con gái khóc bữa nào
Bây giờ nhắc chi nữa
Chuyện ngày trước chiêm bao
Chuyện ngày sau mộng úa
Em chết bên bờ lúa
Em chết dưới triều xanh
Giòng sông kia ấy của
Mộng ước vỡ tan tành
Ở bên đường ngồi lại
Những người đếm tóc nhau
Kỷ niệm về kinh hãi
Màu mắt thuở xa nào
Xin ngó bóng mây trời
Xin nhìn con cá nhảy
Xin thấy ở khắp nơi
Miệng cười thơ dại ấy
Con gái khóc bữa nào
Bây giờ xin nhắc lại
Xin dựng một hàng rào
Ðể mở về phương ấy.
7. Hận
Bà Dung ở California là người giàu có. Tiệm vàng của bà ở chợ Phước Lộc Thọ với khách ra vô tấp nập, chứng tỏ việc làm ăn của bà đang lên. Bà ở một biệt thự sang trọng với cô con gái duy nhất. Ðó là cô An. Cô An sắp tốt nghiệp đại học mà bà vẫn xem cô như còn trẻ con. Ði đâu bà cũng hỏi. Ăn uống bà tự tay nấu cho con, áo quần, bà dẫn đi sắm. Bà còn dặn dò con gái trong việc giao tiếp với bạn bè, nhất là bạn trai, không được theo chúng đi đến bất kỳ nơi đâu, muốn chuyện trò, phải đến nhà bà. Bà áp dụng cái cách mà khi còn ở quê nhà, mẹ bà đã đối xử với bà như thế. Khi cô có bạn trai nào đến nhà là bà gặng hỏi con đủ điều. Chuyện học hành ra sao? Cha mẹ nó làm gì? Giàu hay nghèo? Mấy anh chị em... Thỉnh thoảng bà cho con gái biết ước mong của bà là có thằng rể học giỏi, con nhà danh giá, giàu có, cho môn đăng hộ đối, cho bà nở mặt, nở mày với thiên hạ.
Cô An có bồ, một cậu sinh viên nhà nghèo. Cô thương mẹ nhưng cũng thương anh chàng con nhà nghèo đó nên cô giấu, sợ mẹ biết.
Trước đây, khi còn ở Việt Nam, cha mẹ bà Dung là chủ tiệm vàng, giàu có nổi tiếng ở một thành phố nhỏ ở miền trung Việt Nam. Thời trẻ bà không hề có ý nghĩ môn đăng hộ đối, nhưng càng lớn tuổi, bà càng bị ám ảnh. Ai cũng vậy, tiền tài và danh vọng đi đôi với nhau. Khi đã giàu có thì người ta tìm cách phô trương sự sang trọng, phô trương tên tuổi. Như bà, đã giàu, thì cũng tìm nơi tương xứng mà giao thiệp. Thế nên, hễ thấy thằng con trai nào mà gia đình nghèo là bà không ưa, không muốn con gái mình tiếp xúc vì rủi con bà yêu thằng nhà nghèo thì mất danh giá của bà. Hơn nữa, bà sợ nó dụ dỗ con gái bà vì tài sản của bà chứ chắc gì nó yêu. Cứ suy nghĩ như thế mãi rồi bà đâm ra sợ mất của. Khi bà không còn trên cõi đời nầy nữa, tài sản sẽ về tay con gái bà, nhưng rủi nó gặp thằng chồng đào mỏ thì nguy. Ðào được cái mỏ rồi, nó sẽ mặc sức tiêu pha, xài phí. Của hoạnh tài dại gì mà tiếc. Rồi nó sẽ đem tiền đi cho gái, mèo mả gà đồng, ăn chơi thoải mái cho đến khi tán gia bại sản thì con bà sẽ khổ. Càng lo nghĩ, bà càng đau đầu. Thế rồi, vì sợ mất của, bà bỏ điều kiện môn đăng hộ đối, chỉ cần một thằng rễ biết giữ của là đủ. Bà cũng không cần nó phải kinh danh, buôn bán. Mấy triệu đô la bà để lại, chỉ sống bình thường thôi, tiêu mấy đời cho hết. Thế nên trong những lúc chuyện trò, bà lộ ý cho con bà biết là một thằng con trai bình thường mà biết tiết kiệm thì đáng giá hơn những đứa con nhà giàu chỉ biết tiêu pha hoang phí. Cô An nghe thế mừng lắm nên cô nói với mẹ là hiện nay cô có một người bạn trai nhà nghèo nhưng học giỏi lắm, anh ta thương cô nhưng cô chưa đáp lại vì chưa biết quyết định của mẹ ra sao? Cô trình bày với vẻ lơ là để xem phản ứng của mẹ. Bà Dung biết con gái mình đã lớn, sắp lấy chồng, nếu không có đôi mắt nhận xét, chọn lựa của bà thì con bà dám lấy một thằng chồng, có thể đẹp trai, nhưng thuộc loại ăn chơi thì coi như tài sản của bà tan ra mây khói. Thế nên bà khuyên con gái khi có đứa nào tỏ tình thì đưa hắn về gặp bà trước, hễ bà đồng ý mới được đáp lại tình yêu của hắn.
Coi như bước thứ nhất cô An đã đạt được là đưa chàng ta về cho mẹ "coi mắt!", còn chuyện mẹ cô sẽ "phỏng vấn" thì cô sẽ chỉ vẽ cho người yêu cách ăn nói để lấy lòng mẹ cô.
Thế là một buổi sáng, bà Dung ở nhà để giải quyết hai chuyện. Bà muốn bán chiếc xe cũ cho một đứa bạn của cô An, mua cho cô một chiếc xe mới tinh, để khi ra trường, đi làm, người ta sẽ không coi thường con bà. Chuyện thứ hai là sẽ gặp thằng bạn trai của con gái để xem mặt mũi, quan niệm về cuộc sống, nhất là cách sử dụng tiền bạc của nó ra sao?
Cũng vì hẹn hai cậu con trai đến với hai mục đích khác nhau cùng một buổi sáng mà một chuyện tréo ngoe, tức cười đã xảy ra, tôi xin kể để bạn vui. Bà đã phỏng vấn thằng nhỏ mua xe về chuyện tiền bạc. Bà tưởng đó là đứa rắp ranh bắn sẻ con bà nên khi cậu mua xe đến, bà không cho con gái bà ở trên lầu biết. “An bận chút việc trên lầu, lát nữa nó sẽ xuống. Mời cậu uống trà. Cậu quen biết với An ra sao?” “Dạ cháu là bạn học, cùng trường, cùng lớp với An. Từ High school đến nay” “Ông bà nhà hiện làm gì?” “Ba mẹ cháu có tiệm ăn” “Có khá không?” “Dạ, sống cũng được” “Cậu có làm thêm việc gì không?” Bị cật vấn linh tinh, cậu ta bực mình, nhưng cố giữ lễ độ, hi vọng bà ta vừa lòng sẽ bán chiếc xe rẻ hơn chút đỉnh “Dạ, cháu đi học về là phải ra tiệm ăn phụ buôn bán” “Thế ông bà có cho tiền cậu để tiêu vặt không?” “Dạ, ba mẹ cháu kẹo lắm, chỉ cho tiền đổ xăng, mua sách hay việc gì cần lắm mà thôi” Trả lời cách đó thì bà cũng tạm vừa lòng. Mặt mũi cậu ta tuy không hiền lành lắm, áo quần lại ra vẻ dân chơi, nhưng cũng không bê bối đến độ bà không thể chấp nhận “Bộ cậu thích có nhiều tiền lắm sao?” “Dạ, tiền mà ai không thích, bác! Có tiền mua tiên cũng được mà bác” “Ví dụ bây giờ, thình lình cậu trúng số hoặc hưởng một di sản khoảng năm, bảy triệu, cậu sẽ làm gì?” Cậu ta cười tươi rói, tưởng như đang làm chủ thật sự mấy triệu đô la “Trước hết cháu mua một chiếc xe thật sang, kiểu như của các tài tử xi nê, mua một biệt thự, một chiếc du thuyền nho nhỏ, đủ chở năm bảy bạn trai, bạn gái, đi khắp năm châu bốn biển, chơi cho sướng” Bà Dung nghe mà muốn xỉu, tưởng như thằng nhỏ ngồi trước mặt bà đang ký hết chi phiếu nầy đến chi phiếu khác, từ các tài khoản của bà. Ký riết cho đến khi không còn đồng nào! “Trời đất ơi! Cậu xài kiểu đó, chỉ ít lâu sau là sạch bách! Cậu không làm ăn, kinh doanh gì sao?” “Dạ, của trên trời rơi xuống mà bác. Với lại người Việt mình ở hải ngoại có nói. Dại nhất là làm “bu di niùt” (business, kinh doanh), tiếp đến là nuôi chó, rồi lập gia đình đẻ con...phiền phức, bận rộn suốt ngày” “Ý cậu là muốn chơi qua đường chứ không muốn vợ con, không chịu làm ăn gì cả?” “Vợ con gì cho khổ thân bác ơi! Cháu thấy ba mẹ cháu quá khổ vì lo cho bọn cháu mà cháu ngán chuyện gia đình đến tận cổ. Ðang sống một mình, sướng chết, đâm đầu đi rước cái của nợ về, nó đẻ cho một bầy con. Nói thiệt bác nghe. Thà chết sướng hơn” Bà Dung ngán ngẩm “Cậu có khi nào nói chuyện với ba mẹ cậu như thế không?” “Dạ, ba cháu cũng nhắc nhở tụi cháu hoài, đừng chơi dại mà lấy vợ sớm. Cứ thảnh thơi cho đến khi nào chán đời hãy lấy vợ” Cậu ta lại cười ha hả như đang trò chuyện với bạn bè, rồi nói nhỏ với bà “Nhưng ba cháu lại dặn mấy bà chị, mấy đứa em gái cháu, là cố mà kiếm chồng cho sớm, cho cha mẹ đỡ lo. Nhà có con gái như chứa mấy tên khủng bố, có ngày nó lận một trái bom tự sát trong người thì chỉ có nước khóc ròng” Bà Dung tưởng cậu ta nói mỉa mai bà, bà vừa giận vừa tức cười “Vậy chứ cậu có biết cậu đến đây vì mục đích gì không? Cậu biết đang nói chuyện với ai không?” “Dạ, cháu biết bác là mẹ của An. An cũng có dặn cháu là phải gặp bác trước, để bác quyết định chứ An không có quyền gì hết. Nếu bác có ý giúp đỡ cháu thì cháu mới hi vọng...” Bà Dung, cứ nghĩ là cậu ta đến vì cô An chứ không phải vì chiếc xe, nên chẳng để ý đến câu trả lời của cậu “Tôi hỏi thật cậu, chuyện nầy quan trọng cả một đời người, vậy cậu muốn qua đường như cậu vừa nói với tôi hay cậu tính chuyện lâu dài” “Dạ, thứ “xế cần hên” (second hand, đồ cũ) đó thì xài tạm, chứ có tiền, cháu kéo một cái chưa cắt chỉ về xài cho sướng. Cháu nghèo mới xài thứ người khác phế thải ra” Lần nầy bà Dung lại tưởng cậu ta chê con gái bà, bà giận run người. Bà đứng lên, đến cầu thang, gọi vọng lên lầu “An! Xuống đây biểu!” Cô An "dạ" rồi vội vàng chạy xuống “Cậu nầy nói con là “xế cần hên”, người ta phế thải ra, kẹt lắm cậu mới xài” Cô An la lên “Trời đất! Mẹ lầm rồi. Anh nầy đến mua xe cũ chứ có mua con đâu mà mẹ nói là con xế cần hên” Ba Dung biết mình lầm nãy giờ bèn cười giả lả “Tôi tưởng cậu đến nói chuyện về con An. Chuyện xe cộ, sao cậu không nói ngay, cứ vòng vo tam quốc” “Dạ, cháu nói chuyện chiếc xe. Cháu cần một chiếc xe cũ mà bác thì hỏi những chuyện tiền bạc, gia đình, vợ con. Cháu tưởng bác nói cho vui để chờ An xuống” “Thôi, An sẽ đưa cậu ra coi xe. Cậu cứ chạy thử ít vòng, rồi tùy cậu, tôi không khen chê gì xe của tôi vì tôi không buôn bán những thứ đó, để thêm chật chỗ” Bà hỏi cô An “Khi nào thì bạn con đến?” “Dạ. Có lẽ ảnh cũng sắp đến. Con đưa bạn con lái thử xe rồi về ngay”
Khi cô An và cậu bạn vừa ra khỏi nhà thì cậu Du, người yêu của cô An, đến. Thấy chiếc xe cà tàng chạy vào sân, bà đã mất cảm tình rồi. Bà còn sợ chiếc xe làm bẩn sân nhà bà nữa. Bà nghĩ, ngữ đó mà đòi yêu con gái bà thì chẳng khác gì Trương Chi yêu Mị Nương. Nó đến xin việc bà cũng đuổi ra. Bà thở dài, rủa thầm "Ðồ mạt rệp mà đèo bòng!" Cậu con trai bước xuống xe. Khác với chiếc xe cũ kỹ, tăm tối, mặt mũi cậu ta sáng trưng như của thiên thần, tuy ăn mặc không sang trọng nhưng gọn gàng, chỉnh tề, khác hẳn cậu mua xe lúc nãy. Lúc cậu ta đến gần, bà nhìn kỹ mới thấy thằng nhỏ quả thật đẹp trai. Bà nhíu mày, cố nhớ đã gặp một người nào có gương mặt hao hao như vậy? Cậu ta cúi chào “Chào bác ạ! Thưa bác An có nhà không ạ? Cháu xin phép được gặp An” “Mời cậu vô nhà. An đi công chuyện, sắp về rồi. Mời cậu ngồi” “Dạ, cám ơn bác”
Cô An có bồ, một cậu sinh viên nhà nghèo. Cô thương mẹ nhưng cũng thương anh chàng con nhà nghèo đó nên cô giấu, sợ mẹ biết.
Trước đây, khi còn ở Việt Nam, cha mẹ bà Dung là chủ tiệm vàng, giàu có nổi tiếng ở một thành phố nhỏ ở miền trung Việt Nam. Thời trẻ bà không hề có ý nghĩ môn đăng hộ đối, nhưng càng lớn tuổi, bà càng bị ám ảnh. Ai cũng vậy, tiền tài và danh vọng đi đôi với nhau. Khi đã giàu có thì người ta tìm cách phô trương sự sang trọng, phô trương tên tuổi. Như bà, đã giàu, thì cũng tìm nơi tương xứng mà giao thiệp. Thế nên, hễ thấy thằng con trai nào mà gia đình nghèo là bà không ưa, không muốn con gái mình tiếp xúc vì rủi con bà yêu thằng nhà nghèo thì mất danh giá của bà. Hơn nữa, bà sợ nó dụ dỗ con gái bà vì tài sản của bà chứ chắc gì nó yêu. Cứ suy nghĩ như thế mãi rồi bà đâm ra sợ mất của. Khi bà không còn trên cõi đời nầy nữa, tài sản sẽ về tay con gái bà, nhưng rủi nó gặp thằng chồng đào mỏ thì nguy. Ðào được cái mỏ rồi, nó sẽ mặc sức tiêu pha, xài phí. Của hoạnh tài dại gì mà tiếc. Rồi nó sẽ đem tiền đi cho gái, mèo mả gà đồng, ăn chơi thoải mái cho đến khi tán gia bại sản thì con bà sẽ khổ. Càng lo nghĩ, bà càng đau đầu. Thế rồi, vì sợ mất của, bà bỏ điều kiện môn đăng hộ đối, chỉ cần một thằng rễ biết giữ của là đủ. Bà cũng không cần nó phải kinh danh, buôn bán. Mấy triệu đô la bà để lại, chỉ sống bình thường thôi, tiêu mấy đời cho hết. Thế nên trong những lúc chuyện trò, bà lộ ý cho con bà biết là một thằng con trai bình thường mà biết tiết kiệm thì đáng giá hơn những đứa con nhà giàu chỉ biết tiêu pha hoang phí. Cô An nghe thế mừng lắm nên cô nói với mẹ là hiện nay cô có một người bạn trai nhà nghèo nhưng học giỏi lắm, anh ta thương cô nhưng cô chưa đáp lại vì chưa biết quyết định của mẹ ra sao? Cô trình bày với vẻ lơ là để xem phản ứng của mẹ. Bà Dung biết con gái mình đã lớn, sắp lấy chồng, nếu không có đôi mắt nhận xét, chọn lựa của bà thì con bà dám lấy một thằng chồng, có thể đẹp trai, nhưng thuộc loại ăn chơi thì coi như tài sản của bà tan ra mây khói. Thế nên bà khuyên con gái khi có đứa nào tỏ tình thì đưa hắn về gặp bà trước, hễ bà đồng ý mới được đáp lại tình yêu của hắn.
Coi như bước thứ nhất cô An đã đạt được là đưa chàng ta về cho mẹ "coi mắt!", còn chuyện mẹ cô sẽ "phỏng vấn" thì cô sẽ chỉ vẽ cho người yêu cách ăn nói để lấy lòng mẹ cô.
Thế là một buổi sáng, bà Dung ở nhà để giải quyết hai chuyện. Bà muốn bán chiếc xe cũ cho một đứa bạn của cô An, mua cho cô một chiếc xe mới tinh, để khi ra trường, đi làm, người ta sẽ không coi thường con bà. Chuyện thứ hai là sẽ gặp thằng bạn trai của con gái để xem mặt mũi, quan niệm về cuộc sống, nhất là cách sử dụng tiền bạc của nó ra sao?
Cũng vì hẹn hai cậu con trai đến với hai mục đích khác nhau cùng một buổi sáng mà một chuyện tréo ngoe, tức cười đã xảy ra, tôi xin kể để bạn vui. Bà đã phỏng vấn thằng nhỏ mua xe về chuyện tiền bạc. Bà tưởng đó là đứa rắp ranh bắn sẻ con bà nên khi cậu mua xe đến, bà không cho con gái bà ở trên lầu biết. “An bận chút việc trên lầu, lát nữa nó sẽ xuống. Mời cậu uống trà. Cậu quen biết với An ra sao?” “Dạ cháu là bạn học, cùng trường, cùng lớp với An. Từ High school đến nay” “Ông bà nhà hiện làm gì?” “Ba mẹ cháu có tiệm ăn” “Có khá không?” “Dạ, sống cũng được” “Cậu có làm thêm việc gì không?” Bị cật vấn linh tinh, cậu ta bực mình, nhưng cố giữ lễ độ, hi vọng bà ta vừa lòng sẽ bán chiếc xe rẻ hơn chút đỉnh “Dạ, cháu đi học về là phải ra tiệm ăn phụ buôn bán” “Thế ông bà có cho tiền cậu để tiêu vặt không?” “Dạ, ba mẹ cháu kẹo lắm, chỉ cho tiền đổ xăng, mua sách hay việc gì cần lắm mà thôi” Trả lời cách đó thì bà cũng tạm vừa lòng. Mặt mũi cậu ta tuy không hiền lành lắm, áo quần lại ra vẻ dân chơi, nhưng cũng không bê bối đến độ bà không thể chấp nhận “Bộ cậu thích có nhiều tiền lắm sao?” “Dạ, tiền mà ai không thích, bác! Có tiền mua tiên cũng được mà bác” “Ví dụ bây giờ, thình lình cậu trúng số hoặc hưởng một di sản khoảng năm, bảy triệu, cậu sẽ làm gì?” Cậu ta cười tươi rói, tưởng như đang làm chủ thật sự mấy triệu đô la “Trước hết cháu mua một chiếc xe thật sang, kiểu như của các tài tử xi nê, mua một biệt thự, một chiếc du thuyền nho nhỏ, đủ chở năm bảy bạn trai, bạn gái, đi khắp năm châu bốn biển, chơi cho sướng” Bà Dung nghe mà muốn xỉu, tưởng như thằng nhỏ ngồi trước mặt bà đang ký hết chi phiếu nầy đến chi phiếu khác, từ các tài khoản của bà. Ký riết cho đến khi không còn đồng nào! “Trời đất ơi! Cậu xài kiểu đó, chỉ ít lâu sau là sạch bách! Cậu không làm ăn, kinh doanh gì sao?” “Dạ, của trên trời rơi xuống mà bác. Với lại người Việt mình ở hải ngoại có nói. Dại nhất là làm “bu di niùt” (business, kinh doanh), tiếp đến là nuôi chó, rồi lập gia đình đẻ con...phiền phức, bận rộn suốt ngày” “Ý cậu là muốn chơi qua đường chứ không muốn vợ con, không chịu làm ăn gì cả?” “Vợ con gì cho khổ thân bác ơi! Cháu thấy ba mẹ cháu quá khổ vì lo cho bọn cháu mà cháu ngán chuyện gia đình đến tận cổ. Ðang sống một mình, sướng chết, đâm đầu đi rước cái của nợ về, nó đẻ cho một bầy con. Nói thiệt bác nghe. Thà chết sướng hơn” Bà Dung ngán ngẩm “Cậu có khi nào nói chuyện với ba mẹ cậu như thế không?” “Dạ, ba cháu cũng nhắc nhở tụi cháu hoài, đừng chơi dại mà lấy vợ sớm. Cứ thảnh thơi cho đến khi nào chán đời hãy lấy vợ” Cậu ta lại cười ha hả như đang trò chuyện với bạn bè, rồi nói nhỏ với bà “Nhưng ba cháu lại dặn mấy bà chị, mấy đứa em gái cháu, là cố mà kiếm chồng cho sớm, cho cha mẹ đỡ lo. Nhà có con gái như chứa mấy tên khủng bố, có ngày nó lận một trái bom tự sát trong người thì chỉ có nước khóc ròng” Bà Dung tưởng cậu ta nói mỉa mai bà, bà vừa giận vừa tức cười “Vậy chứ cậu có biết cậu đến đây vì mục đích gì không? Cậu biết đang nói chuyện với ai không?” “Dạ, cháu biết bác là mẹ của An. An cũng có dặn cháu là phải gặp bác trước, để bác quyết định chứ An không có quyền gì hết. Nếu bác có ý giúp đỡ cháu thì cháu mới hi vọng...” Bà Dung, cứ nghĩ là cậu ta đến vì cô An chứ không phải vì chiếc xe, nên chẳng để ý đến câu trả lời của cậu “Tôi hỏi thật cậu, chuyện nầy quan trọng cả một đời người, vậy cậu muốn qua đường như cậu vừa nói với tôi hay cậu tính chuyện lâu dài” “Dạ, thứ “xế cần hên” (second hand, đồ cũ) đó thì xài tạm, chứ có tiền, cháu kéo một cái chưa cắt chỉ về xài cho sướng. Cháu nghèo mới xài thứ người khác phế thải ra” Lần nầy bà Dung lại tưởng cậu ta chê con gái bà, bà giận run người. Bà đứng lên, đến cầu thang, gọi vọng lên lầu “An! Xuống đây biểu!” Cô An "dạ" rồi vội vàng chạy xuống “Cậu nầy nói con là “xế cần hên”, người ta phế thải ra, kẹt lắm cậu mới xài” Cô An la lên “Trời đất! Mẹ lầm rồi. Anh nầy đến mua xe cũ chứ có mua con đâu mà mẹ nói là con xế cần hên” Ba Dung biết mình lầm nãy giờ bèn cười giả lả “Tôi tưởng cậu đến nói chuyện về con An. Chuyện xe cộ, sao cậu không nói ngay, cứ vòng vo tam quốc” “Dạ, cháu nói chuyện chiếc xe. Cháu cần một chiếc xe cũ mà bác thì hỏi những chuyện tiền bạc, gia đình, vợ con. Cháu tưởng bác nói cho vui để chờ An xuống” “Thôi, An sẽ đưa cậu ra coi xe. Cậu cứ chạy thử ít vòng, rồi tùy cậu, tôi không khen chê gì xe của tôi vì tôi không buôn bán những thứ đó, để thêm chật chỗ” Bà hỏi cô An “Khi nào thì bạn con đến?” “Dạ. Có lẽ ảnh cũng sắp đến. Con đưa bạn con lái thử xe rồi về ngay”
Khi cô An và cậu bạn vừa ra khỏi nhà thì cậu Du, người yêu của cô An, đến. Thấy chiếc xe cà tàng chạy vào sân, bà đã mất cảm tình rồi. Bà còn sợ chiếc xe làm bẩn sân nhà bà nữa. Bà nghĩ, ngữ đó mà đòi yêu con gái bà thì chẳng khác gì Trương Chi yêu Mị Nương. Nó đến xin việc bà cũng đuổi ra. Bà thở dài, rủa thầm "Ðồ mạt rệp mà đèo bòng!" Cậu con trai bước xuống xe. Khác với chiếc xe cũ kỹ, tăm tối, mặt mũi cậu ta sáng trưng như của thiên thần, tuy ăn mặc không sang trọng nhưng gọn gàng, chỉnh tề, khác hẳn cậu mua xe lúc nãy. Lúc cậu ta đến gần, bà nhìn kỹ mới thấy thằng nhỏ quả thật đẹp trai. Bà nhíu mày, cố nhớ đã gặp một người nào có gương mặt hao hao như vậy? Cậu ta cúi chào “Chào bác ạ! Thưa bác An có nhà không ạ? Cháu xin phép được gặp An” “Mời cậu vô nhà. An đi công chuyện, sắp về rồi. Mời cậu ngồi” “Dạ, cám ơn bác”
Cậu ta ngồi xuống, nhìn vơ vẩn mấy bức tranh trên tường. Bà Dung biết chắc con bà đã “mê” thằng nhỏ nầy rồi nên bà mở ngay cuộc phỏng vấn với nhiều ác cảm “An đưa một người bạn đi thử xe, chúng tôi muốn bán chiếc xe cũ, mua cho An một chiếc xe mới. An đẹp, con nhà giàu nên cần đi xe mới và đẹp mới xứng. Cậu có thích đi xe mới không?” “Dạ, cháu không thích đâu. Có xe mới đủ thứ phiền, đủ thứ tiền bảo hiểm, mà bảo hiểm lại cao nữa. Cháu chỉ cần một chiếc xe có máy móc tốt là đủ. Khỏi sợ mất, khỏi sợ bị cọ quẹt. Chiếc xe của cháu vậy chứ chạy cũng được lắm. Hư lặt vặt, cháu tự sửa được” Bà Dung mở lại bài phỏng vấn cũ “Nhưng nếu cậu giàu có, cỡ triệu phú, cậu có xài xe mới không?” “Triệu phú mà không đi xe sang trọng thì người ta khinh mình bủn xỉn” “Giả dụ như bây giờ cậu trúng số độc đắc cỡ năm, bảy triệu, cậu sẽ dùng tiền đó vào việc gì? Ðem kinh doanh hay đi du lịch với bồ bịch, hay mua một chiếc du thuyền, đi đây đó với bạn bè?” “Dạ không. Cháu không đầu tư hay kinh doanh mà cũng không xài phí kiểu đó” “Cậu làm gì?” “Cháu lập một quĩ học bỗng cho các học sinh nghèo ở Việt Nam” “Cậu nghĩ sao mà làm chuyện tào lao đó?” “Lúc còn ở Việt Nam, cháu nghèo lắm, đi học bụng đói là thường, Tết nhất không có cái áo lành mà mặc...” “Lúc đó cha mẹ cậu làm gì?” “Ba cháu đi tù cải tạo” “Còn mẹ?” “Lúc ba cháu đi tù thì mẹ cháu sinh ra cháu. Khi hiểu biết chút ít thì cháu chỉ nhớ một ám ảnh là mình đói bụng thường xuyên. Thấy người ta ăn chè cháo, bánh trái bên đường, cháu thèm chảy nước miếng. Khoảng cháu gần mười tuổi, ba cháu đi tù về thì mẹ cháu mất” “Ba cậu hiện nay làm gì?” “Dạ, làm tài xế lái xe buýt (bus) chở học sinh” “Nhà cửa ra sao?” “Dạ, thuê một căn apartment” Nghe đến đó bà Dung phát rầu. Làm sui với một gia đình như thế thì chẳng biết ăn nói thế nào với bà con, bạn bè? Chả lẽ trả lời rằng "Bên sui tôi làm tài xế cho trường học" Mà dù mình có chấp nhận đi nữa thì người ta sẽ đồn rằng mình điên hoặc con gái mình đã hư thân mất nết đến độ phải đem gán cho một thằng học trò nhà nghèo. Rồi khi cưới hỏi, giới thiệu sao đây? Chỗ đâu cho gia đình nhà gái đến làm lễ cưới, thăm viếng? “Cậu nhất định là có tiền thì đem về Việt Nam cấp học bổng?” “Chuyện đó chỉ là ước ao của ba cháu và cháu thôi. Ba cháu kể, gia đình ông bà nội cháu nghèo lắm. Thời còn nhỏ, ba cháu cũng phải vừa quét chợ vừa đi học, khổ lắm” “Chỉ có cậu với ba cậu mới làm chuyện khùng điên đó. Sống trên đời, ai cũng lo cho bản thân, cho vợ con, cha mẹ, anh em. Khi đã giàu sang, phú quí mới nghĩ đến chuyện làm phúc cho thiên hạ để lấy chút danh thơm. Thế cậu học hành, cha cậu có mong cậu làm nên sự nghiệp để sướng thân, nuôi vợ con, phụng dưỡng cha già hay cậu làm để kiếm tiền gửi về Việt Nam cho bọn học trò nghèo?” “Ba cháu có dặn là cố học, khi thành tài, có tiền gửi về Việt Nam giúp bà con, bạn bè, nếu khá hơn nữa thì giúp các học sinh nghèo trong làng xóm nơi mình đã sinh ra, lớn lên” Bà Dung thở dài ngao ngán. Không hiểu sao thằng nhỏ mặt mũi sáng sủa, thông minh như thế mà nói chuyện như người khùng?! Mà đã khùng như nó, khi lấy con bà làm vợ, nó dám đem hết của cải của bà về cho học trò nghèo bên Việt Nam lắm chứ không phải nói đùa. Ðẹp trai như thằng nhỏ nầy thì bà dám chắc con gái bà đã “lậm” nó rồi. Bây giờ vấn đề là phải làm sao cho con bà xa được thằng nhỏ nầy?
Bà đang lựa lời nói khích bằng cách mạt sát, khinh rẻ bọn nhà nghèo cho cậu ta tự ái mà không theo đuổi con bà nữa thì cậu ta bỗng đứng lên “Cháu xin phép bác được kiếu từ” “Ủa. Cậu không chờ An sao?” “Dạ, cháu đến thăm An, cháu sắp đi thực tập xa lắm. Nhờ bác nói lại với An, đừng đến gặp cháu nữa” “Tôi không hiểu ý cậu? Tự nhiên đến thăm An, chưa gặp thì lại bảo An đừng tìm gặp cậu nữa! Cậu có thể cho biết lý do được không?” “Xin lỗi bác cho cháu hỏi. Có phải biệt thự nầy là của bác không?” “Phải! Bộ An không cho cậu biết, tôi còn một tiệm vàng ngoài Phước Lộc Thọ sao?” “Dạ, An không nói gì cả. Thú thực, cháu và An có cảm tình với nhau. Hôm nay An dặn cháu đến có việc gì đấy, cháu không rõ lắm. Nhưng đến đây, cháu thấy gia đình bác giàu quá, cháu biết mình không nên tiếp tục chuyện tình cảm với An. Ba cháu cấm tiệt, không được giao thiệp, quen biết với người giàu” “Ba cậu là người từng trải, nói như vậy cũng đúng. Nhà giàu không khinh người, nhưng dù là bà con, anh em ruột thịt đi nữa, nhưng nghèo, khi giao thiệp cũng rất khó khăn huống gì người dưng” Rồi bà đánh một đòn quyết định “Cậu xử sự như vậy cũng phải. Tôi cũng biết, nghèo không phải là một cái tội, vì thế cậu quyết chí giúp đỡ người nghèo thì cũng đúng, nhưng đem tiền của, mồ hôi nước mắt của mình cho người khác để mình cũng nghèo như họ thì là người không bình thường. Tôi tin rằng quyết định cắt đứt liên hệ của cậu với An là một việc làm khôn ngoan. Cho tôi gửi lời thăm ba cậu. Nếu cần gì, cậu cứ ra tiệm vàng ngoài chợ, tôi sẽ rất sẵn sàng giúp đỡ cậu” “Dạ, cháu cám ơn lòng tốt của bác, nhưng cháu sẽ không làm phiền bác bao giờ. Cháu cũng rất thán phục bác nói rõ sự thật ý nghĩ của bác. Ðó là một bài học cháu không bao giờ quên” Bà lại nhìn cậu con trai, thấy nó rất dễ thương, lễ phép, điềm đạm nhưng từng trải và cương quyết. Có lẽ cuộc đời và hoàn cảnh đã tạo nên một con người như thế “Cậu có bất mãn khi tôi nói những điều không đáng nói với cậu không? Cậu có giận An đã có bà mẹ như thế không?” “Thưa bác, cháu không buồn đâu. Ðối với An, thú thật với bác, cháu thương An lắm, nhưng cháu không muốn liên hệ với An nữa vì sợ bác buồn tôïi nghiệp” Bà tò mò “Chả lẽ chỉ mới một buổi nói chuyện với tôi mà cậu hết thương An rồi sao?” “Dạ, đâu có dễ quên như vậy bác! Nhưng cháu là con trai, lại nhà nghèo, phải vất vả vì cuộc sống nên cháu chịu đựng được mọi khó khăn, đau khổ. Cháu chỉ sợ An buồn. Nhờ bác giải thích cho An hiểu lý do cháu không thể tiếp tục là bạn của An” “Cậu tự ái?” “Dạ, không có đâu bác. Cháu mặc cảm mình nghèo thì đúng hơn. Nhưng ba cháu có dạy cháu, nghèo không đáng xấu hổ, vì nghèo mà không giữ được tư cách, lương tri của một con người mới đáng trách” Khi cậu ta lái xe đi, bà Dung thở dài như vừa trút bỏ đuợc một gánh nặng. Cũng may là không có con gái ở nhà, nếu biết, nó sẽ giận bà lắm. Bà đang nghĩ cách nói cho con gái biết vì sao Du, đến lại bỏ về thì vừa lúc cô An với cậu bạn đưa xe vào sân. Bà đứng trước thềm nhà cười hỏi cậu ta “Sao. Thấy xe thế nào? Chê xe ra sao?” “Ồ. Xe còn tốt lắm bác. Bác định giá bao nhiêu?” Bà Dung nói số tiền. Cậu ta nài nỉ mấy câu. Bà ta cười bảo con gái đi lấy giấy tờ xe, đưa bà ký. Sau khi giải quyết xong chiếc xe, cô An hỏi mẹ “Anh Du có đến chưa mẹ?” “Nó đến rồi, nói chuyện một lát, nó xin về” “Sao ảnh không chờ con? Ảnh có nói vì sao bỏ về khôngï? Hay là mẹ đã nói gì khiến ảnh tự ái? Nhà ảnh nghèo lắm đó mẹ” “Con gọi điện thoại hỏi nó thì biết. Theo nó nói, gia đình mình giàu có, nó mặc cảm, nó không muốn mang tiếng đào mỏ” “Con biết ảnh thương con lắm. Ba ảnh cũng thương con như con ruột. Có điều, chẳng ai biết gia đình mình giàu. Con không đưa ảnh về nhà là vì thế. Ðể con gọi ảnh, con nói là ảnh nghe lời con liền. Ảnh thương con lắm”
Suốt mấy ngày sau đó, thấy mặt con gái dàu dàu, bà An biết cậu kia đã cương quyết dứt tình.
Khoảng gần một tháng sau, vào hôm hai mươi ba tết, đưa Ông Táo về trời, cô An nói với mẹ “Con năn nỉ anh Du, ảnh chịu đến nhà mình cho con thăm ảnh. Ảnh không cho con đến nhà, gặp ở trường, ảnh cũng bảo đừng nói chuyện với nhau, ít lâu sau sẽ quên nhau. Con khóc lóc, mời ảnh sáng mồng một tết, nhân dịp con mời các bạn đến ăn tết nhà mình, thì ảnh đồng ý nhưng nói là chỉ gặp lần cuối. Ra tết ảnh sẽ đi thực tập một nơi khác, rất xa” “Mẹ thấy, nó đã nói như thế là ý nó dứt khoát với con rồi, đừng níu kéo vô ích. Tốt nhất đừng mời nó về nhà mình. Mẹ không muốn. Mẹ biết rất rõ tình đời, nó nói mạnh dạn như thế, nhưng thâm tâm nó rất thèm muốn gia tài của nhà mình. Mẹ đồng ý là không phân biệt giàu nghèo, miễn ai thương yêu con chân thành thì mẹ vui lòng, nhưng con có biết, hôm đến đây, khi mẹ hỏi, nếu nó giàu có thì sẽ dùng tiền bạc đó làm gì, nó nói sẽ đem hết về Việt Nam cho học trò nghèo bên đó. Hoặc là nó điên hoặc là nó làm ra vẻ không cần tiền của để mình không nghi ngờ nó là thằng đào mỏ. Bây giờ nó không thèm gặp con, mà con thì đi năn nỉ nó. Có đứa con gái nào làm chuyện ngược đời như con bao giờ? Mẹ chỉ cần một điều kiện là, đứa nào làm chồng con thì phải biết gìn giữ gia tài nầy. Khi mẹ chết đi, mẹ đâu có mang của theo, mà mẹ chỉ sợ chồng con tiêu pha, phung phí, chỉ ít lâu sau là con sẽ khổ” Lần đầu tiên, cô An giận mẹ “Nhưng bây giờ tụi con hứa sẽ coi nhau như bạn thôi” “Con có chắc coi nó là bạn không? Nếu là bạn thì khi mẹ không đồng ý, con sẽ không quan tâm, ngược lại, con đi năn nỉ mẹ. Tốt nhất, con đừng hi vọng gì ở nó cả” “Nhưng tại sao con chỉ xin phép mẹ mời ảnh đến vui xuân với bạn bè, mẹ cũng không cho? Vì con thương mẹ, lúc nào con cũng mong sao cho mẹ vui lòng, nên con xin phép mẹ...” Bà Dung yên lặng như suy nghĩ để tìm một giải pháp “Thôi được. Mẹ đồng ý cho nó đến, nhưng khi nó đến, đừng trách mẹ nếu mẹ vô tình nói đến chuyện giàu nghèo. Con yêu nó, mẹ không cấm được, chỉ sợ khi con đã là vợ nó, con sẽ khổ. Chỉ cái mặc cảm nhà nghèo của nó đủ cho nó hành hạ con, tiêu pha thả dàn, con mà nói đến chuyện tiền bạc, nó sẽ bảo rằng con khinh nó nhà nghèo, lấy con để đào mỏ, vậy là vợ chồng sẽ xích mích nhau. Mẹ biết, con không bỏ nó được vì con yêu nó. Nó cũng không bỏ được con vì cái gia tài nầy” “Thưa mẹ, xứ Mỹ nầy, con cái, khi đã trưởng thành không bao giờ nhờ vả đến cha mẹ. Có nhiều cha mẹ giàu có, khi chết đi, họ để di chúc cho tài sản các hội thiện, con cái không được gì cả” Bà Dung dịu giọng “Bây giờ mẹ đồng ý cho con mời nó đến chung vui với bạn bè trong dịp Tết nầy. Khi nó đã nói như thế thì mẹ tin lời nó, tin ở con. Chỉ một lần thì đâu khó khăn gì, nhưng mẹ sẽ lánh mặt. Mẹ không muốn gặp nó để nó hiểu rằng, nó đến nhà nầy không có nghĩa là mẹ chấp nhận nó. Mẹ biết, nó đẹp trai như thế thì con không thể quên nó dễ dàng đâu. Nhưng mẹ không muốn vì một người khác mà mẹ con mình phải cãi cọ nhau” “Cám ơn mẹ, nhưng con biết mẹ không vui” “Mẹ biết, nó không chịu bỏ con đâu. Con là con mồi béo bở nhất mà nó sắp chộp được. Nhưng mẹ cũng cho con biết trước là mẹ có cách cho nó không thể tiếp tục chương trình đào mỏ của nó” “Mẹ làm cách nào?” “Nó đến đây, mẹ chỉ cần nói vu vơ một câu "Ðồ mạt rệp mà đèo bòng" Nếu nó nghe mà vẫn tiếp tục theo đuổi con, chứng tỏ là đứa không có tư cách, vô liêm sỹ, không xứng đáng với con. Còn nếu nó biết là bị khinh khiù, nó sẽ tự ái, lúc đó, con có lạy nó, nó vẫn bỏ con” Cô An kinh ngạc về mẹ mình “Xin mẹ đừng nói như thế với ảnh. Con chỉ mới nghe mà đã muốn xỉu. Câu nói đó nặng nề quá!” “Ðược rồi, mẹ sẽ không nói. Hôm đó mẹ sẽ không có mặt ở nhà để con được vui trọn vẹn với bạn bè. Mong rằng, sau buổi họp mặt đó, con sẽ giới thiệu với mẹ một bạn trai khác. Khi con có gia đình, dĩ vãng chỉ còn là kỷ niệm, con sẽ quên nó. Bây giờ mẹ sửa soạn lễ vật cúng đưa Ông Táo. Con có thì giờ thì dọn dẹp nhà cửa cho gọn ghẽ, ngăn nắp, lau chùi bàn thờ tổ tiên, bàn thờ Phật...” “Dạ, con lên phòng một lát sẽ xuống ngay”. Cô An lên phòng, đóng cửa lại, nằm khóc.
Bà Dung xuống bếp, sửa soạn lễ vật. Cúng ông Táo về Trời cũng đơn giản. Bà xào nấu vài món gì đó, thêm hoa quả và bánh mứt. Bà đặt tất cả trên một bàn nhỏ và lột vài chiếc bánh tét, bánh chưng chay đặt thêm vào là trông đã có vẻ trang trọng rồi. Bà quay lên phòng mặc thêm một chiếc áo dài, chải lại tóc cho tươm tất rồi xuống bếp thắp nhang đèn. Bà nghiêm trang khấn mấy lời với ông bà Táo, chúc quí ngài lên Trời vui vẻ, và với lễ vật và lòng thành, xin ông bà Táo phù hộ cho gia đình bà được sức khỏe, mua may bán đắc.
Khấn xong, bà quay ra thu dọn rác rưởi còn bừa bãi trong bếp, cho vào một bao nhựa nhỏ, đem ra sau nhà bỏ vào thùng rác lớn.
Khi bà mang bao rác ra sau nhà, mở nắp thùng rác, một mùi hôi bốc lên, xộc vào mũi, khiến bà sửng người, choáng váng như bị trúng gió. Từ ngày chồng qua đời, bà đi chùa và ăn chay trường. Bà có nấu riêng cho con gái nhưng rất ít khi, thế nên thùng rác của bà hầu như không có thịt cá mà chỉ toàn rau cỏ, hoa quả. Cỏ bà nhổ trong vườn hoa, trái cây hư thối, lá chuối gói bánh chưng, bánh tét... tích trữ trong thùng rác, phân hủy, bốc lên một mùi kỳ lạ, khi bà hít phải, giống như một thứ hóa chất, thình lình tác động vào thần kinh, khiến bà khựng lại, chới với.
Mùi rác.
Ðã mấy mươi năm bà mới gặp lại mùi rác của quê nhà.
Bà Dung ngồi xuống chiếc ghế gỗ bên cạnh, ngẩn ngơ như người mất hồn.
Mùi rác! Cả một dĩ vãng, một khung cảnh với bao con người, bao âm thanh quen thuộc ngày xưa, hiện ra trong tâm trí bà.
Khi còn ở Việt Nam, nhà bà là một tiệm vàng trước chợ của một thành phố nhỏ ở miền Trung. Buổi chiều, những người phu gom rác quét chợ lại thành một đống to, trước nhà bà, chỉ vài giờ sau, rác phân hủy, bốc hơi như khói, bay vào không gian. Người đi đường khó chịu, nhưng những nhà quanh đấy, ngửi mãi thành quen, riết rồi không cảm thấy gì cả.
Thời đó bà có yêu một cậu học trò, tên Hòa, là con một gia đình quét rác ở chợ.
Khi đi học, con gái phục nhất là những cậu học giỏi. Bà, lúc đó là cô Dung, yêu cậu Hòa vì cậu học giỏi nhất trường lại đẹp trai. Không phải chỉ mình cô yêu cậu Hòa mà còn nhiều cô nữ sinh khác nữa, thành ra, cô Dung phải làm sao giành được cậu Hòa cho riêng mình, nên cô thưa với cha mẹ là mình học kém quá, cần một người dạy kèm để có thể tranh đua với chúng bạn. Cha mẹ cô đồng ý và theo sự giới thiệu của cô, cậu Hòa được đến nhà dạy kèm cho cô. Mỗi buổi chiều đi học về, sau khi phụ giúp cha mẹ quét rác trong chợ, cậu tắm rửa, ăn mặc tươm tất, đến nhà cô Dung. Cả hai ngồi ở phòng khách, đối diện nhau, cậu Hòa tận tình chỉ vẻ nên chỉ vài tháng sau là cô Dung đạt nhiều điểm cao trong lớp. Cậu Hòa chỉ lo phận sự của mình vì đồng tiền nhưng cô Dung thì rất vui. Mỗi ngày được gặp người mình yêu thầm, được ngắm trộm, được đối đáp vơ vẩn mấy câu cũng đủ cho cô hạnh phúc rồi. Trong nhà, vì sợ gia đình biết nên cô rất cẩn thận, nhưng tối đến khi đem thùng rác ra đường cho cậu Hòa bỏ vào xe, cô được tự do chuyện trò thân mật mấy câu. Cô cố sao cho cậu Hòa biết được tình cảm của mình trong khi cậu Hòa thì ngay tình, chỉ biết lo học, giúp đỡ gia đình trong việc kiếm sống. Nhưng thời gian sau, cậu Hòa cũng cảm nhận được điều đó. Cậu Hòa biết mình nghèo nhưng thông minh và chăm chỉ, năm nào cũng giỏi nhất lớp, nên cậu nghĩ rằng, trong tương lai, mình chẳng thua kém ai. Vì thế cậu đủ tự tin để đáp lại tình cảm của cô Dung.
Thông thường, sau buổi dạy, khoảng tám giờ tối, cậu về nhà, ăn qua loa, lại cùng cha mẹ đẩy chiếc xe bò đi nhặt rác trên các đường phố mà chủ nhà để sẵn trước hiên trong những thùng nhỏ. Công việc đến một, hai giờ sáng mới xong. Cậu lại tắm rửa rồi lăn ra ngủ vùi đến sáng hôm sau dậy đi học.
Mẹ cô Dung rất khó tính, lúc nào cũng canh chừng, soi mói, xem con gái mình với cậu gia sư có tình ý nhau không? Vì thế, cả hai phải đóng đúng vai thầy trò rất nghiêm chỉnh. Cậu Hòa đến nhà cô Dung với quyển sách toán trên tay, dạy học xong, cậu cầm quyển sách của cô Dung đem về. Trong hai quyển sách, bao giờ cũng có những lá thư. Những dịp đi chơi chung với các bạn cùng trường như trại hè, tắm biển, leo núi... hai cô cậu được tự do chuyện trò, được nắm tay nhau, được sung sướng nghe các bạn chọc ghẹo, cặp đôi họ với nhau. Một lần qua đò với chúng bạn, cô ngã xuống nước, cậu Hòa phải nhào xuống vớt cô lên. Từ đó cô được các bạn gọi là "Con Mèo Ướt".
Tình yêu học trò chỉ có thế, nhưng cả hai đều nghĩ rằng, đời họ đã được buộc chặt vào nhau, không gì có thể chia lìa.
Năm đó, cậu Hòa học đệ nhất, cô Dung đệ nhị. Trong một buổi đi chơi chung với bạn bè, cô Dung hỏi cậu Hòa “Thi tú tài hai xong, anh định học ngành gì? Anh học giỏi, chắc chắn sẽ được học bỗng du học ngoại quốc” “Anh chưa biết nhưng ba anh muốn anh đi sỹ quan Ða Lạt. Ba anh chỉ mới lên thượng sỹ đã thành thương phế binh. Ba anh nói sỹ quan Ða Lạt oai lắm” Cô Dung yêu cậu, nghe cậu nói thế thì cô tưởng tượng ngay đến một ngày nào đó, cô sẽ được đi bên cạnh người chồng sỹ quan oai hùng. Cô ngắm cậu Hòa, thấy cậu đẹp trai như thế mà lại là sỹ quan Ða Lạt, ắt có nhiều người đẹp si mê. Nghĩ đến đấy, cô xụ mặt lại. Cậu Hòa ngạc nhiên hỏi “Có chuyện gì vậy?” “Em giận anh” Cậu Hòa không hiểu gì nhưng cũng nói “Anh xin lỗi em” Cô Dung tức cười, hỏi “Biết em giận anh điều gì không?” Cậu ngớ ra, nhưng cũng nói “Hễ em giận là anh biết mình đã làm điều gì em không bằng lòng” Cô cảm động “Em cám ơn anh”.
Thế rồi đến mùa thi. Học trò đệ nhị, đệ nhất ngày đêm bù đầu vào bài vở. Nam sinh lại càng phải chăm chỉ hơn, vì thi đậu mới được hoãn dịch, tiếp tục đi học, thi hỏng thì phải vào quân đội.
Hè năm đó, cô Dung đậu tú tài một, cậu Hòa đậu thú tài hai hạng ưu. Cha mẹ cậu rất hãnh diện và cậu thì thêm tự tin. Cậu coi cái bằng tú tài hạng ưu đó là chiếc chìa khóa mở cửa gia đình cô Dung và cậu sẽ đường hoàng bước vào mà không mặc cảm nhà nghèo. Cô Dung có báo với cha mẹ về việc cậu Hòa thi đậu, nhưng cha mẹ cô không quan tâm. Ðối với nhà giàu, bằng cấp, họ coi thường, có học giỏi cách mấy, cũng không bằng tiệm vàng với mấy căn nhà lầu mặt tiền của họ. Họ chỉ muốn kết thân với nhà giàu để khuyếch trương việc làm ăn. Không gì sung sướng bằng giàu có.
Sau kỳ thi, cậu Hòa không còn đến dạy kèm cô Dung nữa. Một hôm cậu đến thăm cô Dung. Cả hai không biết rằng những lá thư tình họ trao đổi nhau đã bị mẹ cô Dung khám phá ra. Tuy thư của cậu Hòa chỉ kể chuyện học hành rồi mấy giòng hẹn hò trong tương lai sẽ sống mãi bên nhau. Mẹ cô thì khi nào chấp nhận chuyện đó. Thế nên khi cô cậu đang chuyện trò vui vẻ với nhau trên phòng khách thì mẹ cô, sau nhà mắng chửi người làm, trong đó có câu "Mạt rệp mà cũng đèo bòng" Lúc đầu cậu Hòa không để ý, sau nghe mẹ cô to tiếng cũng chỉ với câu đó, cậu tái mặt, đứng lên, đi thẳng ra cửa, không một lời từ giả.
Hôm sau cô Dung đến nhà cậu Hòa, cậu không tiếp. Buổi tối, cô đứng chờ xe rác đi qua nhưng không gặp. Họ đã đổi hướng đi. Ðến khuya, xe rác mới đi ngang nhà cô. Cô nằm trên lầu, mở cửa sổ, lắng nghe tiếng bánh xe rác lăn cọc cạch nhưng không còn tiếng hát vui vẻ, vô tư của người yêu nữa. Rồi gia đình cậu cũng đã bỏ đi. Một gia đình nghèo khổ khác thay họ đẩy xe rác đi lấy rác trên các đường phố.
Về sau, cô Dung được cha mẹ gả cho một cậu con nhà giàu mà cô không ưa. Ðã vô học còn cộc cằn, thô lỗ, hợm mình. Năm bảy lăm, miền Nam sụp đổ, vợ chồng cô được chia cho một số vàng, hột xoàn và đô la, vượt biên qua Mỹ, tiếp tục kinh doanh vàng bạc. Ðược mấy năm, chồng cô bịnh chết, cô sống với cô con gái duy nhất và với một tài sản lớn.
Chiều nay, mùi lá gói bánh, mùi rau quả hư thối... giống hệt mùi rác ngày xưa ở quê nhà, đã gợi lại cho bà Dung thuở thanh xuân với một mối tình mà đã mấy mươi năm, mỗi khi nhớ đến, lòng bà vẫn còn thiết tha, rung động. Nhiều đêm bà nằm thao thức nhớ người cũ, bà như nghe rõ tiếng bánh xe chở rác cọc cạch như đánh nhịp một cách kiên nhẫn cho bài hát của người yêu nghêu ngao, trên đường khuya. Tất cả đã đi qua. Không biết người yêu của bà bây giờ ở đâu? Ra sao? Ước ao của bà là gặp lại người xưa trước khi từ gia cõi đời nầy. Tuổi bà đã xế bóng nên hi vọng như ngày càng xa vời.
Trong lúc bà Dung ngồi lặng bên thùng rác, suy nghĩ miên man, thì cô An từ trên lầu nhìn xuống, thấy mẹ khóc, tưởng mẹ buồn vì mình nên cô xuống lầu, đến bên bà, quì xuống, gục đầu vào lòng mẹ “Con xin lỗi đã làm mẹ buồn. Tết nay, nhất định con sẽ không mời Du đến nhà mình. Con dứt khoát sẽ không yêu Du nữa, không tìm gặp Du. Con sẽ quên Du. Xin mẹ đừng buồn vì chuyêïn đó, coi như đã qua rồi” Nói xong, cô An khóc nức nở. Cô biết khi đã hứa như thế là cô sẽ vĩnh viễn mất người yêu. Bà Dung nhớ lại chuyện cũ của mình, vì giàu nghèo mà mẹ bà chia rẽ bà với người yêu. Bây giờ, bà sắp bước theo vết chân của mẹ bà! Bà vuốt tóc con và hỏi “Khi dứt khoát với nó, con không buồn sao?” “Con biết chắc, không có Du trong đời, con khó sống nổi. Nhưng mẹ thì chỉ có một thôi” Rồi cô âu yếm với mẹ “Mẹ vô nhà kẻo lạnh” Bà vỗ vỗ lên lưng con gái như nhắc cô chú ý lời bà sẽ nói “Con nghe mẹ đây! Sang năm con sẽ tốt nghiệp, có thể con phải đi làm xa nhà. Con không thể sống một mình, mẹ không thể theo con, săn sóc con như thời con còn thơ dại được. Con cần một người bạn đời bên cạnh. Con sẽ phải lấy chồng” Cô lắc đầu “Con không thể lấy người mình không yêu làm chồng được!” “Bây giờ mẹ đổi ý rồi. Con đến mời Du và ba của Du, chiều ba mươi tết, đến nhà mình ăn cơm. Con mời trước rồi cho mẹ số điện thoại, mẹ gọi mời họ sau. Chỉ mấy người trong gia đình mình thôi. Bạn bè con, để sáng mồng một tết hãy mời” “Mẹ có nói câu. Ðồ mạt rệp... không?” “Không có đâu! Con yên tâm. Họ sẽ là người thân trong gia đình mình”.
Bà Dung đứng ở cửa đón cha con cậu Du. Ông Hòa xuống xe, cùng con trai bước đến. Bà Dung vừa thoáng thấy ông Hòa đã tái mặt, người run lên. Bà ôm ngực, tưởng mình nằm mơ. Ông Hòa, người bà yêu thương, tìm kiếm bao nhiêu năm, như từ trên trời hiện xuống. Dù có thay đổi chút ít, nhưng hình ảnh người xưa có bao giờ phai nhòa trong tâm trí bà. Ông bước lên thềm nhà, bà nhìn ông mà không hiểu ông đang nghĩ gì. Không thấy ông cười, chỉ hỏi “Răng mà đứng sửng như trời trồng rứa hè? Con Mèo Ướt!” Bà Dung vịn tay vào cánh cửa, lập cập “Anh Hòa! Phải không?” Ông Hòa dừng lại trước bà Dung “Anh đây! Em đừng tưởng đây là chuyện tiểu thuyết hay một vở kịch, mà tác giả đưa đẩy cho các nhân vật gặp nhau. Anh đến em hôm nay không phải tình cờ. Anh đã đi khắp nước Mỹ để tìm em. Khi tìm thấy em rồi, anh lại sắp xếp cho hai đứa nhỏ gặp nhau...” Bà Dung không dám nhìn ông Hòa “Anh làm cách nào? Em cứ tưởng, xứ Mỹ tự do, bọn nhỏ tự tìm đến nhau” “Anh phải cho thằng nhỏ đến học chung trường với con em. Thằng Du học giỏi lại đẹp trai, bọn con gái trong trường, đứa nào lại không thích nó. Thế là con em và con anh quen nhau” Bà Dung cảnh giác “Vậy là anh có âm mưu trong chuyện nầy?” Ðôi mắt ông Hòa rực sáng, ánh lên cơn giận dữ, rồi dịu xuống “Ðể cho em thấm thía khi nhìn thấy con em đau khổ. Chúng ta tan vỡ cũng chỉ vì đồng tiền, vì sự kỳ thị giàu nghèo. Chính em, đến nay, vẫn còn nghĩ rằng của cải, tiền tài là hạnh phúc” Bà Dung chợt hiểu. Bà kinh hoàng “Anh theo đuổi, tìm kiếm em suốt bao nhiêu năm, để trả cho được mối thù bị khinh bỉ vì anh cho rằng em không chấp nhận tình anh, không tiến tới hôn nhân với anh vì anh nghèo. Anh sắp xếp cho con anh mồi chài, dụ dỗ con em, phá nát đời con em để rồi sau đó bỏ nó. Anh trả được hận xưa chưa? Anh thỏa mãn lắm rồi phải không? Nhưng chuyện tan vỡ của hai đứa mình đâu phải lỗi của em mà anh mang mối hận đó suốt một đời?” Ông Hòa nhìn bà Dung, mặt trơ ra, lạnh như tượng đá “Nếu em đã nói một câu độc ác với con anh để đuổi nó ra, giống như mẹ em đã nói với anh, thì rõ ràng trước đây, em cũng đồng tình với gia đình trong việc dứt tình với anh. Bây giờ, nếu em cương quyết đặt mớ tài sản của em lên trên tình yêu, lên trên hạnh phúc của con em thì em ắt đã biết hậu quả sẽ như thế nào rồi” Bà Dung hỏi lại lần nữa “Hóa ra anh tìm cho ra mẹ con em không phải vì chút tình cảm ngày xưa mà muốn cho mẹ con em đau khổ?” Ông Hòa lắc đầu “Chúng nó yêu nhau... Anh chỉ nhắc nhở nó một điều là, nghèo không nhục, nhưng bị người giàu khinh mình nghèo mà không chịu tránh xa họ mới nhục. Anh hiểu con anh. Nó có nghị lực. Nó có tự ái của thằng con trai. Chỉ cần em vô tình nói chuyện giàu nghèo với nó là không còn cách chi níu kéo được nó” Bà Dung thở ra “Tâm hồn anh đã chai đá đến tàn nhẫn! Anh không hiểu em. Lúc đó, em đau khổ chỉ muốn chết đi, nhất là khi bị anh từ chối, không cho gặp mặt. Bao nhiêu đêm, em âm thầm khóc vì thương nhớ anh. Em cũng không ngờ chỉ vì một câu nói không phải của em mà anh thù hận em. Tự ái, mặc cảm đó anh đã truyền lại cho con anh, để thay anh trả thù em”
Hai cô cậu, An và Du ngạc nhiên, không ngờ cha và mẹ họ đã quen biết nhau từ trước. Chúng cũng không biết hai người đang nói chuyện về chúng. Bà Dung bảo “Hai đứa con vào chuẩn bị cúng rước ông bà. Ðồ cúng mẹ đã nấu sẵn dưới bếp, các con dọn lên bàn thờ, chờ mẹ vào ngay bây giờ” Rồi bà nói với ông Hòa “Anh đi với em ra sau nhà. Em chỉ cho anh thấy điều nầy” Ông Hòa yên lặng theo bà Dung ra sau vườn. Ðến chỗ thùng rác, bà Dung mở nắp thùng. Mùi rác như từ cái chợ tỉnh lỵ ngày xưa còn nguyên trong thùng, bốc lên, xộc vào mũi ông Hòa, nồng nàn mùi của dĩ vãng, khiến ông khựng lại. Bà Dung cúi xuống nói với thùng rác “Cám ơn nhé!” Bà quay nhìn ông Hòa, hi vọng mùi rác sẽ nhắc lại mối tình thơ mộng ngày xưa, nhưng ông vẫn không cười. Bà rùng mình chợt hiểu mình đã sai lầm khi tưởng rằng những kỷ niệm xưa của hai người cũng đẹp giống nhau, trái lại mùi rác nhắc ông nhớ đến những cực nhọc, tủi nhục của thời niên thiếu. Bà đã sống trên nhung lụa, vượt biển an toàn và tiếp tục làm giàu. Bà thường nhớ lại những chuyện cũ thời con gái để trang trí tâm hồn, để ngắm nghía, thưởng thức trong những lúc cô đơn. Còn ông Hòa, suốt đời, từ khi còn trai trẻ cho đến tuổi già, ông phải chiến đấu hết sức mình, nhưng rồi thất bại. Tình yêu đầu đời với bao dự định đẹp đẽ đã tan vỡ thành vết thương lòng, thành một ám ảnh thôi thúc rửa nhục. Mà những lý do thất bại không phải bởi chính ông. Ðó là điều khiến ông cay đắng và căm hận. Bà Dung ngước nhìn gương mặt khắc khổ của ông Hòa. Một nỗi thương cảm dâng lên khiến bà ứa nước mắt “Nhưng em đã mời anh và con đến đây...” Rồi bà đứng sát vào ông thì thầm, dọ dẫm “Anh có muốn em nói cám ơn mùi rác lần nữa không?” Ông Hòa nhìn bà Dung, mắt dịu lại, giọng ôn tồn “Tùy em!”
Bà đang lựa lời nói khích bằng cách mạt sát, khinh rẻ bọn nhà nghèo cho cậu ta tự ái mà không theo đuổi con bà nữa thì cậu ta bỗng đứng lên “Cháu xin phép bác được kiếu từ” “Ủa. Cậu không chờ An sao?” “Dạ, cháu đến thăm An, cháu sắp đi thực tập xa lắm. Nhờ bác nói lại với An, đừng đến gặp cháu nữa” “Tôi không hiểu ý cậu? Tự nhiên đến thăm An, chưa gặp thì lại bảo An đừng tìm gặp cậu nữa! Cậu có thể cho biết lý do được không?” “Xin lỗi bác cho cháu hỏi. Có phải biệt thự nầy là của bác không?” “Phải! Bộ An không cho cậu biết, tôi còn một tiệm vàng ngoài Phước Lộc Thọ sao?” “Dạ, An không nói gì cả. Thú thực, cháu và An có cảm tình với nhau. Hôm nay An dặn cháu đến có việc gì đấy, cháu không rõ lắm. Nhưng đến đây, cháu thấy gia đình bác giàu quá, cháu biết mình không nên tiếp tục chuyện tình cảm với An. Ba cháu cấm tiệt, không được giao thiệp, quen biết với người giàu” “Ba cậu là người từng trải, nói như vậy cũng đúng. Nhà giàu không khinh người, nhưng dù là bà con, anh em ruột thịt đi nữa, nhưng nghèo, khi giao thiệp cũng rất khó khăn huống gì người dưng” Rồi bà đánh một đòn quyết định “Cậu xử sự như vậy cũng phải. Tôi cũng biết, nghèo không phải là một cái tội, vì thế cậu quyết chí giúp đỡ người nghèo thì cũng đúng, nhưng đem tiền của, mồ hôi nước mắt của mình cho người khác để mình cũng nghèo như họ thì là người không bình thường. Tôi tin rằng quyết định cắt đứt liên hệ của cậu với An là một việc làm khôn ngoan. Cho tôi gửi lời thăm ba cậu. Nếu cần gì, cậu cứ ra tiệm vàng ngoài chợ, tôi sẽ rất sẵn sàng giúp đỡ cậu” “Dạ, cháu cám ơn lòng tốt của bác, nhưng cháu sẽ không làm phiền bác bao giờ. Cháu cũng rất thán phục bác nói rõ sự thật ý nghĩ của bác. Ðó là một bài học cháu không bao giờ quên” Bà lại nhìn cậu con trai, thấy nó rất dễ thương, lễ phép, điềm đạm nhưng từng trải và cương quyết. Có lẽ cuộc đời và hoàn cảnh đã tạo nên một con người như thế “Cậu có bất mãn khi tôi nói những điều không đáng nói với cậu không? Cậu có giận An đã có bà mẹ như thế không?” “Thưa bác, cháu không buồn đâu. Ðối với An, thú thật với bác, cháu thương An lắm, nhưng cháu không muốn liên hệ với An nữa vì sợ bác buồn tôïi nghiệp” Bà tò mò “Chả lẽ chỉ mới một buổi nói chuyện với tôi mà cậu hết thương An rồi sao?” “Dạ, đâu có dễ quên như vậy bác! Nhưng cháu là con trai, lại nhà nghèo, phải vất vả vì cuộc sống nên cháu chịu đựng được mọi khó khăn, đau khổ. Cháu chỉ sợ An buồn. Nhờ bác giải thích cho An hiểu lý do cháu không thể tiếp tục là bạn của An” “Cậu tự ái?” “Dạ, không có đâu bác. Cháu mặc cảm mình nghèo thì đúng hơn. Nhưng ba cháu có dạy cháu, nghèo không đáng xấu hổ, vì nghèo mà không giữ được tư cách, lương tri của một con người mới đáng trách” Khi cậu ta lái xe đi, bà Dung thở dài như vừa trút bỏ đuợc một gánh nặng. Cũng may là không có con gái ở nhà, nếu biết, nó sẽ giận bà lắm. Bà đang nghĩ cách nói cho con gái biết vì sao Du, đến lại bỏ về thì vừa lúc cô An với cậu bạn đưa xe vào sân. Bà đứng trước thềm nhà cười hỏi cậu ta “Sao. Thấy xe thế nào? Chê xe ra sao?” “Ồ. Xe còn tốt lắm bác. Bác định giá bao nhiêu?” Bà Dung nói số tiền. Cậu ta nài nỉ mấy câu. Bà ta cười bảo con gái đi lấy giấy tờ xe, đưa bà ký. Sau khi giải quyết xong chiếc xe, cô An hỏi mẹ “Anh Du có đến chưa mẹ?” “Nó đến rồi, nói chuyện một lát, nó xin về” “Sao ảnh không chờ con? Ảnh có nói vì sao bỏ về khôngï? Hay là mẹ đã nói gì khiến ảnh tự ái? Nhà ảnh nghèo lắm đó mẹ” “Con gọi điện thoại hỏi nó thì biết. Theo nó nói, gia đình mình giàu có, nó mặc cảm, nó không muốn mang tiếng đào mỏ” “Con biết ảnh thương con lắm. Ba ảnh cũng thương con như con ruột. Có điều, chẳng ai biết gia đình mình giàu. Con không đưa ảnh về nhà là vì thế. Ðể con gọi ảnh, con nói là ảnh nghe lời con liền. Ảnh thương con lắm”
Suốt mấy ngày sau đó, thấy mặt con gái dàu dàu, bà An biết cậu kia đã cương quyết dứt tình.
Khoảng gần một tháng sau, vào hôm hai mươi ba tết, đưa Ông Táo về trời, cô An nói với mẹ “Con năn nỉ anh Du, ảnh chịu đến nhà mình cho con thăm ảnh. Ảnh không cho con đến nhà, gặp ở trường, ảnh cũng bảo đừng nói chuyện với nhau, ít lâu sau sẽ quên nhau. Con khóc lóc, mời ảnh sáng mồng một tết, nhân dịp con mời các bạn đến ăn tết nhà mình, thì ảnh đồng ý nhưng nói là chỉ gặp lần cuối. Ra tết ảnh sẽ đi thực tập một nơi khác, rất xa” “Mẹ thấy, nó đã nói như thế là ý nó dứt khoát với con rồi, đừng níu kéo vô ích. Tốt nhất đừng mời nó về nhà mình. Mẹ không muốn. Mẹ biết rất rõ tình đời, nó nói mạnh dạn như thế, nhưng thâm tâm nó rất thèm muốn gia tài của nhà mình. Mẹ đồng ý là không phân biệt giàu nghèo, miễn ai thương yêu con chân thành thì mẹ vui lòng, nhưng con có biết, hôm đến đây, khi mẹ hỏi, nếu nó giàu có thì sẽ dùng tiền bạc đó làm gì, nó nói sẽ đem hết về Việt Nam cho học trò nghèo bên đó. Hoặc là nó điên hoặc là nó làm ra vẻ không cần tiền của để mình không nghi ngờ nó là thằng đào mỏ. Bây giờ nó không thèm gặp con, mà con thì đi năn nỉ nó. Có đứa con gái nào làm chuyện ngược đời như con bao giờ? Mẹ chỉ cần một điều kiện là, đứa nào làm chồng con thì phải biết gìn giữ gia tài nầy. Khi mẹ chết đi, mẹ đâu có mang của theo, mà mẹ chỉ sợ chồng con tiêu pha, phung phí, chỉ ít lâu sau là con sẽ khổ” Lần đầu tiên, cô An giận mẹ “Nhưng bây giờ tụi con hứa sẽ coi nhau như bạn thôi” “Con có chắc coi nó là bạn không? Nếu là bạn thì khi mẹ không đồng ý, con sẽ không quan tâm, ngược lại, con đi năn nỉ mẹ. Tốt nhất, con đừng hi vọng gì ở nó cả” “Nhưng tại sao con chỉ xin phép mẹ mời ảnh đến vui xuân với bạn bè, mẹ cũng không cho? Vì con thương mẹ, lúc nào con cũng mong sao cho mẹ vui lòng, nên con xin phép mẹ...” Bà Dung yên lặng như suy nghĩ để tìm một giải pháp “Thôi được. Mẹ đồng ý cho nó đến, nhưng khi nó đến, đừng trách mẹ nếu mẹ vô tình nói đến chuyện giàu nghèo. Con yêu nó, mẹ không cấm được, chỉ sợ khi con đã là vợ nó, con sẽ khổ. Chỉ cái mặc cảm nhà nghèo của nó đủ cho nó hành hạ con, tiêu pha thả dàn, con mà nói đến chuyện tiền bạc, nó sẽ bảo rằng con khinh nó nhà nghèo, lấy con để đào mỏ, vậy là vợ chồng sẽ xích mích nhau. Mẹ biết, con không bỏ nó được vì con yêu nó. Nó cũng không bỏ được con vì cái gia tài nầy” “Thưa mẹ, xứ Mỹ nầy, con cái, khi đã trưởng thành không bao giờ nhờ vả đến cha mẹ. Có nhiều cha mẹ giàu có, khi chết đi, họ để di chúc cho tài sản các hội thiện, con cái không được gì cả” Bà Dung dịu giọng “Bây giờ mẹ đồng ý cho con mời nó đến chung vui với bạn bè trong dịp Tết nầy. Khi nó đã nói như thế thì mẹ tin lời nó, tin ở con. Chỉ một lần thì đâu khó khăn gì, nhưng mẹ sẽ lánh mặt. Mẹ không muốn gặp nó để nó hiểu rằng, nó đến nhà nầy không có nghĩa là mẹ chấp nhận nó. Mẹ biết, nó đẹp trai như thế thì con không thể quên nó dễ dàng đâu. Nhưng mẹ không muốn vì một người khác mà mẹ con mình phải cãi cọ nhau” “Cám ơn mẹ, nhưng con biết mẹ không vui” “Mẹ biết, nó không chịu bỏ con đâu. Con là con mồi béo bở nhất mà nó sắp chộp được. Nhưng mẹ cũng cho con biết trước là mẹ có cách cho nó không thể tiếp tục chương trình đào mỏ của nó” “Mẹ làm cách nào?” “Nó đến đây, mẹ chỉ cần nói vu vơ một câu "Ðồ mạt rệp mà đèo bòng" Nếu nó nghe mà vẫn tiếp tục theo đuổi con, chứng tỏ là đứa không có tư cách, vô liêm sỹ, không xứng đáng với con. Còn nếu nó biết là bị khinh khiù, nó sẽ tự ái, lúc đó, con có lạy nó, nó vẫn bỏ con” Cô An kinh ngạc về mẹ mình “Xin mẹ đừng nói như thế với ảnh. Con chỉ mới nghe mà đã muốn xỉu. Câu nói đó nặng nề quá!” “Ðược rồi, mẹ sẽ không nói. Hôm đó mẹ sẽ không có mặt ở nhà để con được vui trọn vẹn với bạn bè. Mong rằng, sau buổi họp mặt đó, con sẽ giới thiệu với mẹ một bạn trai khác. Khi con có gia đình, dĩ vãng chỉ còn là kỷ niệm, con sẽ quên nó. Bây giờ mẹ sửa soạn lễ vật cúng đưa Ông Táo. Con có thì giờ thì dọn dẹp nhà cửa cho gọn ghẽ, ngăn nắp, lau chùi bàn thờ tổ tiên, bàn thờ Phật...” “Dạ, con lên phòng một lát sẽ xuống ngay”. Cô An lên phòng, đóng cửa lại, nằm khóc.
Bà Dung xuống bếp, sửa soạn lễ vật. Cúng ông Táo về Trời cũng đơn giản. Bà xào nấu vài món gì đó, thêm hoa quả và bánh mứt. Bà đặt tất cả trên một bàn nhỏ và lột vài chiếc bánh tét, bánh chưng chay đặt thêm vào là trông đã có vẻ trang trọng rồi. Bà quay lên phòng mặc thêm một chiếc áo dài, chải lại tóc cho tươm tất rồi xuống bếp thắp nhang đèn. Bà nghiêm trang khấn mấy lời với ông bà Táo, chúc quí ngài lên Trời vui vẻ, và với lễ vật và lòng thành, xin ông bà Táo phù hộ cho gia đình bà được sức khỏe, mua may bán đắc.
Khấn xong, bà quay ra thu dọn rác rưởi còn bừa bãi trong bếp, cho vào một bao nhựa nhỏ, đem ra sau nhà bỏ vào thùng rác lớn.
Khi bà mang bao rác ra sau nhà, mở nắp thùng rác, một mùi hôi bốc lên, xộc vào mũi, khiến bà sửng người, choáng váng như bị trúng gió. Từ ngày chồng qua đời, bà đi chùa và ăn chay trường. Bà có nấu riêng cho con gái nhưng rất ít khi, thế nên thùng rác của bà hầu như không có thịt cá mà chỉ toàn rau cỏ, hoa quả. Cỏ bà nhổ trong vườn hoa, trái cây hư thối, lá chuối gói bánh chưng, bánh tét... tích trữ trong thùng rác, phân hủy, bốc lên một mùi kỳ lạ, khi bà hít phải, giống như một thứ hóa chất, thình lình tác động vào thần kinh, khiến bà khựng lại, chới với.
Mùi rác.
Ðã mấy mươi năm bà mới gặp lại mùi rác của quê nhà.
Bà Dung ngồi xuống chiếc ghế gỗ bên cạnh, ngẩn ngơ như người mất hồn.
Mùi rác! Cả một dĩ vãng, một khung cảnh với bao con người, bao âm thanh quen thuộc ngày xưa, hiện ra trong tâm trí bà.
Khi còn ở Việt Nam, nhà bà là một tiệm vàng trước chợ của một thành phố nhỏ ở miền Trung. Buổi chiều, những người phu gom rác quét chợ lại thành một đống to, trước nhà bà, chỉ vài giờ sau, rác phân hủy, bốc hơi như khói, bay vào không gian. Người đi đường khó chịu, nhưng những nhà quanh đấy, ngửi mãi thành quen, riết rồi không cảm thấy gì cả.
Thời đó bà có yêu một cậu học trò, tên Hòa, là con một gia đình quét rác ở chợ.
Khi đi học, con gái phục nhất là những cậu học giỏi. Bà, lúc đó là cô Dung, yêu cậu Hòa vì cậu học giỏi nhất trường lại đẹp trai. Không phải chỉ mình cô yêu cậu Hòa mà còn nhiều cô nữ sinh khác nữa, thành ra, cô Dung phải làm sao giành được cậu Hòa cho riêng mình, nên cô thưa với cha mẹ là mình học kém quá, cần một người dạy kèm để có thể tranh đua với chúng bạn. Cha mẹ cô đồng ý và theo sự giới thiệu của cô, cậu Hòa được đến nhà dạy kèm cho cô. Mỗi buổi chiều đi học về, sau khi phụ giúp cha mẹ quét rác trong chợ, cậu tắm rửa, ăn mặc tươm tất, đến nhà cô Dung. Cả hai ngồi ở phòng khách, đối diện nhau, cậu Hòa tận tình chỉ vẻ nên chỉ vài tháng sau là cô Dung đạt nhiều điểm cao trong lớp. Cậu Hòa chỉ lo phận sự của mình vì đồng tiền nhưng cô Dung thì rất vui. Mỗi ngày được gặp người mình yêu thầm, được ngắm trộm, được đối đáp vơ vẩn mấy câu cũng đủ cho cô hạnh phúc rồi. Trong nhà, vì sợ gia đình biết nên cô rất cẩn thận, nhưng tối đến khi đem thùng rác ra đường cho cậu Hòa bỏ vào xe, cô được tự do chuyện trò thân mật mấy câu. Cô cố sao cho cậu Hòa biết được tình cảm của mình trong khi cậu Hòa thì ngay tình, chỉ biết lo học, giúp đỡ gia đình trong việc kiếm sống. Nhưng thời gian sau, cậu Hòa cũng cảm nhận được điều đó. Cậu Hòa biết mình nghèo nhưng thông minh và chăm chỉ, năm nào cũng giỏi nhất lớp, nên cậu nghĩ rằng, trong tương lai, mình chẳng thua kém ai. Vì thế cậu đủ tự tin để đáp lại tình cảm của cô Dung.
Thông thường, sau buổi dạy, khoảng tám giờ tối, cậu về nhà, ăn qua loa, lại cùng cha mẹ đẩy chiếc xe bò đi nhặt rác trên các đường phố mà chủ nhà để sẵn trước hiên trong những thùng nhỏ. Công việc đến một, hai giờ sáng mới xong. Cậu lại tắm rửa rồi lăn ra ngủ vùi đến sáng hôm sau dậy đi học.
Mẹ cô Dung rất khó tính, lúc nào cũng canh chừng, soi mói, xem con gái mình với cậu gia sư có tình ý nhau không? Vì thế, cả hai phải đóng đúng vai thầy trò rất nghiêm chỉnh. Cậu Hòa đến nhà cô Dung với quyển sách toán trên tay, dạy học xong, cậu cầm quyển sách của cô Dung đem về. Trong hai quyển sách, bao giờ cũng có những lá thư. Những dịp đi chơi chung với các bạn cùng trường như trại hè, tắm biển, leo núi... hai cô cậu được tự do chuyện trò, được nắm tay nhau, được sung sướng nghe các bạn chọc ghẹo, cặp đôi họ với nhau. Một lần qua đò với chúng bạn, cô ngã xuống nước, cậu Hòa phải nhào xuống vớt cô lên. Từ đó cô được các bạn gọi là "Con Mèo Ướt".
Tình yêu học trò chỉ có thế, nhưng cả hai đều nghĩ rằng, đời họ đã được buộc chặt vào nhau, không gì có thể chia lìa.
Năm đó, cậu Hòa học đệ nhất, cô Dung đệ nhị. Trong một buổi đi chơi chung với bạn bè, cô Dung hỏi cậu Hòa “Thi tú tài hai xong, anh định học ngành gì? Anh học giỏi, chắc chắn sẽ được học bỗng du học ngoại quốc” “Anh chưa biết nhưng ba anh muốn anh đi sỹ quan Ða Lạt. Ba anh chỉ mới lên thượng sỹ đã thành thương phế binh. Ba anh nói sỹ quan Ða Lạt oai lắm” Cô Dung yêu cậu, nghe cậu nói thế thì cô tưởng tượng ngay đến một ngày nào đó, cô sẽ được đi bên cạnh người chồng sỹ quan oai hùng. Cô ngắm cậu Hòa, thấy cậu đẹp trai như thế mà lại là sỹ quan Ða Lạt, ắt có nhiều người đẹp si mê. Nghĩ đến đấy, cô xụ mặt lại. Cậu Hòa ngạc nhiên hỏi “Có chuyện gì vậy?” “Em giận anh” Cậu Hòa không hiểu gì nhưng cũng nói “Anh xin lỗi em” Cô Dung tức cười, hỏi “Biết em giận anh điều gì không?” Cậu ngớ ra, nhưng cũng nói “Hễ em giận là anh biết mình đã làm điều gì em không bằng lòng” Cô cảm động “Em cám ơn anh”.
Thế rồi đến mùa thi. Học trò đệ nhị, đệ nhất ngày đêm bù đầu vào bài vở. Nam sinh lại càng phải chăm chỉ hơn, vì thi đậu mới được hoãn dịch, tiếp tục đi học, thi hỏng thì phải vào quân đội.
Hè năm đó, cô Dung đậu tú tài một, cậu Hòa đậu thú tài hai hạng ưu. Cha mẹ cậu rất hãnh diện và cậu thì thêm tự tin. Cậu coi cái bằng tú tài hạng ưu đó là chiếc chìa khóa mở cửa gia đình cô Dung và cậu sẽ đường hoàng bước vào mà không mặc cảm nhà nghèo. Cô Dung có báo với cha mẹ về việc cậu Hòa thi đậu, nhưng cha mẹ cô không quan tâm. Ðối với nhà giàu, bằng cấp, họ coi thường, có học giỏi cách mấy, cũng không bằng tiệm vàng với mấy căn nhà lầu mặt tiền của họ. Họ chỉ muốn kết thân với nhà giàu để khuyếch trương việc làm ăn. Không gì sung sướng bằng giàu có.
Sau kỳ thi, cậu Hòa không còn đến dạy kèm cô Dung nữa. Một hôm cậu đến thăm cô Dung. Cả hai không biết rằng những lá thư tình họ trao đổi nhau đã bị mẹ cô Dung khám phá ra. Tuy thư của cậu Hòa chỉ kể chuyện học hành rồi mấy giòng hẹn hò trong tương lai sẽ sống mãi bên nhau. Mẹ cô thì khi nào chấp nhận chuyện đó. Thế nên khi cô cậu đang chuyện trò vui vẻ với nhau trên phòng khách thì mẹ cô, sau nhà mắng chửi người làm, trong đó có câu "Mạt rệp mà cũng đèo bòng" Lúc đầu cậu Hòa không để ý, sau nghe mẹ cô to tiếng cũng chỉ với câu đó, cậu tái mặt, đứng lên, đi thẳng ra cửa, không một lời từ giả.
Hôm sau cô Dung đến nhà cậu Hòa, cậu không tiếp. Buổi tối, cô đứng chờ xe rác đi qua nhưng không gặp. Họ đã đổi hướng đi. Ðến khuya, xe rác mới đi ngang nhà cô. Cô nằm trên lầu, mở cửa sổ, lắng nghe tiếng bánh xe rác lăn cọc cạch nhưng không còn tiếng hát vui vẻ, vô tư của người yêu nữa. Rồi gia đình cậu cũng đã bỏ đi. Một gia đình nghèo khổ khác thay họ đẩy xe rác đi lấy rác trên các đường phố.
Về sau, cô Dung được cha mẹ gả cho một cậu con nhà giàu mà cô không ưa. Ðã vô học còn cộc cằn, thô lỗ, hợm mình. Năm bảy lăm, miền Nam sụp đổ, vợ chồng cô được chia cho một số vàng, hột xoàn và đô la, vượt biên qua Mỹ, tiếp tục kinh doanh vàng bạc. Ðược mấy năm, chồng cô bịnh chết, cô sống với cô con gái duy nhất và với một tài sản lớn.
Chiều nay, mùi lá gói bánh, mùi rau quả hư thối... giống hệt mùi rác ngày xưa ở quê nhà, đã gợi lại cho bà Dung thuở thanh xuân với một mối tình mà đã mấy mươi năm, mỗi khi nhớ đến, lòng bà vẫn còn thiết tha, rung động. Nhiều đêm bà nằm thao thức nhớ người cũ, bà như nghe rõ tiếng bánh xe chở rác cọc cạch như đánh nhịp một cách kiên nhẫn cho bài hát của người yêu nghêu ngao, trên đường khuya. Tất cả đã đi qua. Không biết người yêu của bà bây giờ ở đâu? Ra sao? Ước ao của bà là gặp lại người xưa trước khi từ gia cõi đời nầy. Tuổi bà đã xế bóng nên hi vọng như ngày càng xa vời.
Trong lúc bà Dung ngồi lặng bên thùng rác, suy nghĩ miên man, thì cô An từ trên lầu nhìn xuống, thấy mẹ khóc, tưởng mẹ buồn vì mình nên cô xuống lầu, đến bên bà, quì xuống, gục đầu vào lòng mẹ “Con xin lỗi đã làm mẹ buồn. Tết nay, nhất định con sẽ không mời Du đến nhà mình. Con dứt khoát sẽ không yêu Du nữa, không tìm gặp Du. Con sẽ quên Du. Xin mẹ đừng buồn vì chuyêïn đó, coi như đã qua rồi” Nói xong, cô An khóc nức nở. Cô biết khi đã hứa như thế là cô sẽ vĩnh viễn mất người yêu. Bà Dung nhớ lại chuyện cũ của mình, vì giàu nghèo mà mẹ bà chia rẽ bà với người yêu. Bây giờ, bà sắp bước theo vết chân của mẹ bà! Bà vuốt tóc con và hỏi “Khi dứt khoát với nó, con không buồn sao?” “Con biết chắc, không có Du trong đời, con khó sống nổi. Nhưng mẹ thì chỉ có một thôi” Rồi cô âu yếm với mẹ “Mẹ vô nhà kẻo lạnh” Bà vỗ vỗ lên lưng con gái như nhắc cô chú ý lời bà sẽ nói “Con nghe mẹ đây! Sang năm con sẽ tốt nghiệp, có thể con phải đi làm xa nhà. Con không thể sống một mình, mẹ không thể theo con, săn sóc con như thời con còn thơ dại được. Con cần một người bạn đời bên cạnh. Con sẽ phải lấy chồng” Cô lắc đầu “Con không thể lấy người mình không yêu làm chồng được!” “Bây giờ mẹ đổi ý rồi. Con đến mời Du và ba của Du, chiều ba mươi tết, đến nhà mình ăn cơm. Con mời trước rồi cho mẹ số điện thoại, mẹ gọi mời họ sau. Chỉ mấy người trong gia đình mình thôi. Bạn bè con, để sáng mồng một tết hãy mời” “Mẹ có nói câu. Ðồ mạt rệp... không?” “Không có đâu! Con yên tâm. Họ sẽ là người thân trong gia đình mình”.
Bà Dung đứng ở cửa đón cha con cậu Du. Ông Hòa xuống xe, cùng con trai bước đến. Bà Dung vừa thoáng thấy ông Hòa đã tái mặt, người run lên. Bà ôm ngực, tưởng mình nằm mơ. Ông Hòa, người bà yêu thương, tìm kiếm bao nhiêu năm, như từ trên trời hiện xuống. Dù có thay đổi chút ít, nhưng hình ảnh người xưa có bao giờ phai nhòa trong tâm trí bà. Ông bước lên thềm nhà, bà nhìn ông mà không hiểu ông đang nghĩ gì. Không thấy ông cười, chỉ hỏi “Răng mà đứng sửng như trời trồng rứa hè? Con Mèo Ướt!” Bà Dung vịn tay vào cánh cửa, lập cập “Anh Hòa! Phải không?” Ông Hòa dừng lại trước bà Dung “Anh đây! Em đừng tưởng đây là chuyện tiểu thuyết hay một vở kịch, mà tác giả đưa đẩy cho các nhân vật gặp nhau. Anh đến em hôm nay không phải tình cờ. Anh đã đi khắp nước Mỹ để tìm em. Khi tìm thấy em rồi, anh lại sắp xếp cho hai đứa nhỏ gặp nhau...” Bà Dung không dám nhìn ông Hòa “Anh làm cách nào? Em cứ tưởng, xứ Mỹ tự do, bọn nhỏ tự tìm đến nhau” “Anh phải cho thằng nhỏ đến học chung trường với con em. Thằng Du học giỏi lại đẹp trai, bọn con gái trong trường, đứa nào lại không thích nó. Thế là con em và con anh quen nhau” Bà Dung cảnh giác “Vậy là anh có âm mưu trong chuyện nầy?” Ðôi mắt ông Hòa rực sáng, ánh lên cơn giận dữ, rồi dịu xuống “Ðể cho em thấm thía khi nhìn thấy con em đau khổ. Chúng ta tan vỡ cũng chỉ vì đồng tiền, vì sự kỳ thị giàu nghèo. Chính em, đến nay, vẫn còn nghĩ rằng của cải, tiền tài là hạnh phúc” Bà Dung chợt hiểu. Bà kinh hoàng “Anh theo đuổi, tìm kiếm em suốt bao nhiêu năm, để trả cho được mối thù bị khinh bỉ vì anh cho rằng em không chấp nhận tình anh, không tiến tới hôn nhân với anh vì anh nghèo. Anh sắp xếp cho con anh mồi chài, dụ dỗ con em, phá nát đời con em để rồi sau đó bỏ nó. Anh trả được hận xưa chưa? Anh thỏa mãn lắm rồi phải không? Nhưng chuyện tan vỡ của hai đứa mình đâu phải lỗi của em mà anh mang mối hận đó suốt một đời?” Ông Hòa nhìn bà Dung, mặt trơ ra, lạnh như tượng đá “Nếu em đã nói một câu độc ác với con anh để đuổi nó ra, giống như mẹ em đã nói với anh, thì rõ ràng trước đây, em cũng đồng tình với gia đình trong việc dứt tình với anh. Bây giờ, nếu em cương quyết đặt mớ tài sản của em lên trên tình yêu, lên trên hạnh phúc của con em thì em ắt đã biết hậu quả sẽ như thế nào rồi” Bà Dung hỏi lại lần nữa “Hóa ra anh tìm cho ra mẹ con em không phải vì chút tình cảm ngày xưa mà muốn cho mẹ con em đau khổ?” Ông Hòa lắc đầu “Chúng nó yêu nhau... Anh chỉ nhắc nhở nó một điều là, nghèo không nhục, nhưng bị người giàu khinh mình nghèo mà không chịu tránh xa họ mới nhục. Anh hiểu con anh. Nó có nghị lực. Nó có tự ái của thằng con trai. Chỉ cần em vô tình nói chuyện giàu nghèo với nó là không còn cách chi níu kéo được nó” Bà Dung thở ra “Tâm hồn anh đã chai đá đến tàn nhẫn! Anh không hiểu em. Lúc đó, em đau khổ chỉ muốn chết đi, nhất là khi bị anh từ chối, không cho gặp mặt. Bao nhiêu đêm, em âm thầm khóc vì thương nhớ anh. Em cũng không ngờ chỉ vì một câu nói không phải của em mà anh thù hận em. Tự ái, mặc cảm đó anh đã truyền lại cho con anh, để thay anh trả thù em”
Hai cô cậu, An và Du ngạc nhiên, không ngờ cha và mẹ họ đã quen biết nhau từ trước. Chúng cũng không biết hai người đang nói chuyện về chúng. Bà Dung bảo “Hai đứa con vào chuẩn bị cúng rước ông bà. Ðồ cúng mẹ đã nấu sẵn dưới bếp, các con dọn lên bàn thờ, chờ mẹ vào ngay bây giờ” Rồi bà nói với ông Hòa “Anh đi với em ra sau nhà. Em chỉ cho anh thấy điều nầy” Ông Hòa yên lặng theo bà Dung ra sau vườn. Ðến chỗ thùng rác, bà Dung mở nắp thùng. Mùi rác như từ cái chợ tỉnh lỵ ngày xưa còn nguyên trong thùng, bốc lên, xộc vào mũi ông Hòa, nồng nàn mùi của dĩ vãng, khiến ông khựng lại. Bà Dung cúi xuống nói với thùng rác “Cám ơn nhé!” Bà quay nhìn ông Hòa, hi vọng mùi rác sẽ nhắc lại mối tình thơ mộng ngày xưa, nhưng ông vẫn không cười. Bà rùng mình chợt hiểu mình đã sai lầm khi tưởng rằng những kỷ niệm xưa của hai người cũng đẹp giống nhau, trái lại mùi rác nhắc ông nhớ đến những cực nhọc, tủi nhục của thời niên thiếu. Bà đã sống trên nhung lụa, vượt biển an toàn và tiếp tục làm giàu. Bà thường nhớ lại những chuyện cũ thời con gái để trang trí tâm hồn, để ngắm nghía, thưởng thức trong những lúc cô đơn. Còn ông Hòa, suốt đời, từ khi còn trai trẻ cho đến tuổi già, ông phải chiến đấu hết sức mình, nhưng rồi thất bại. Tình yêu đầu đời với bao dự định đẹp đẽ đã tan vỡ thành vết thương lòng, thành một ám ảnh thôi thúc rửa nhục. Mà những lý do thất bại không phải bởi chính ông. Ðó là điều khiến ông cay đắng và căm hận. Bà Dung ngước nhìn gương mặt khắc khổ của ông Hòa. Một nỗi thương cảm dâng lên khiến bà ứa nước mắt “Nhưng em đã mời anh và con đến đây...” Rồi bà đứng sát vào ông thì thầm, dọ dẫm “Anh có muốn em nói cám ơn mùi rác lần nữa không?” Ông Hòa nhìn bà Dung, mắt dịu lại, giọng ôn tồn “Tùy em!”
6. Cô Lành Về Quảng Nam...
Cô Lành Về Quảng Nam Thăm Bạn
(Vài nhân vật nói tiếng địa phương, xin cố gắng hiểu)
Cô Lành ở Mỹ về Việt Nam tìm thăm bạn cũ. Xuống máy bay ở Sài Gòn, cô đón xe ra Ðà Nẵng, mấy hôm sau, cô đi Vĩnh Ðiện, một thị trấn nhỏ, cách Ðà Nẵng vài chục cây số. Thực ra, trước đó vài ngày, cô có vô Vĩnh Ðiện, hỏi han vài người ở bến xe điều gì đó rồi cô lại về Ðà Nẵng. Lần nầy, cô đi Vĩnh Ðiện sớm. Trời còn lất phất mưa nên cô Lành phải mặc áo đi mưa trước khi xuống xe. Khi xe vừa ngừng thì những người chạy xe ôm vây quanh mời mọc. Họ nhao nhao lên với cô "Ði mô (đi đâu) cô? Tui đưa cô về nghe! Mời lên xe". Cô Lành nói "Tôi là khách quen của anh Hai Tí. Thấy ảnh đâu không?" Mọi người dãn ra "Phải Tí Kế Xuyên không? Hắn ngồi quán đằng kia kìa" Chữ "Kế Xuyên" dùng để chỉ những người nhà quê, bảo thủ, nhất là có giọng nói rặc Quảng Nam, giống như ta dùng chữ "Sịa" để chỉ dân "Huế nhà quê". Tuy là Việt kiều nhưng cô Lành trông rất xập xụi. Cô mặc một bộ bà ba cũ, ngoài khoác áo đi mưa, mang đôi dép nhật lẹp xẹp, tay cầm giỏ lác nhẹ tênh, giống các bà nội trợ, đi chợ buổi sáng về nấu ăn cho gia đình. Cô Lành theo hướng người xe thồ chỉ, đến một cái quán nhỏ, giống bất cứ quán nào ở bến xe thị trấn nghèo và vắng vẻ. Trước hiên quán là một chiếc bàn cũ với hai chiếc ghế dài. Một bình tích với bốn cái li thủy tinh không được sạch lắm. Ngay bên trong là một cái kệ bày mấy thứ kẹo, bánh, chuối, ổi ... Một người đàn ông, ngồi dựa lưng vào vách, tay cầm chiếc bánh ú, miệng nhóp nhép nhai, mắt nhìn tận đâu như đang suy nghĩ điều gì nên không thấy cô Lành bước vào. Anh ta khoảng trên bốn mươi, người cao, ốm nhưng rắn chắc, da đen thùi, xương gò má nhô cao, hai mắt sáng trưng thụt vào hốc mắt như mắt con khỉ. Anh mặc bộ đồ nhà binh của lính Cộng Hòa cũ, đã phai thành màu xám mốc. Một chiếc xe đạp thồ tựa vào vách quán. Cô Lành hỏi “Anh chạy xe thồ phải không?” “Dạ. Cô đi mô (đâu)?” “Tôi đi nhiều chỗ lắm. Anh biết Thanh Quít không?” “Nhà tui ở đó. Răng không biết?” “Thanh Quít, nhưng vô tuốt trong xa. Anh đi nổi không?” “Ăn thua chi! Lên Di Xiên (Duy Xuyên) tui cũng đi tới. Cô chờ cho chút nghe. Tui "en" (ăn) xong cái bánh ni là đi liền” Anh xe thồ nhét phần còn lại của chiếc bánh ú vào mồm, trẹo trạo nhai rồi trợn mắt nuốt. Anh lấy cái bình tích rót một thứ nước vàng vàng vào ly, bưng uống cạn rồi lấy tay quẹt ngang miệng, coi như làm vệ sinh sau bữa ăn. Anh nói vọng vào trong quán “Chặp nữa quay lại tính tiền luôn nghe, chị Tư”. Anh đẩy xe ra, lấy chiếc áo đi mưa gài ở yên sau mặc vào. Áo đi mưa màu xám tro, dày súc, giống như áo của lính cứu hỏa. Anh mặc ngược để tránh gió lùa vào áo. Anh lấy miếng giẻ nhét dưới yên xe lau cái yên sau cho hết nước mưa. Yên sau là một miếng gỗ lớn, có bọc nệm, làm thủ công nên trông thô kịch nhưng chắc chắn “Mời cô lên xe. Chừ đi mô đây (bây giờ đi đâu)?” Cô Lành ngồi lên yên sau “Anh cho tôi vô chợ Vĩnh Ðiện, mua ít quà cho người quen” “Cô ngồi rứa không được mô. Phải bỏ hai chưn (chân) hai bên, ôm tui cho chẹt (chặt). Ðường đất khó chạy lắm, ngồi rứa té bể đầu, tui mang họa” “Ôm anh, vợ anh có ghen không?” “Vợ con chi tui. Mà có vợ, hén (hắn) cũng không ghen được, chiện lồm en (chuyện làm ăn). Ghen tương, đúa (đói) trơ mỏ”.
Anh xe thồ đạp ra đường cái một đoạn rồi rẽ xuống đường làng. Ðường tráng xi măng nhưng hẹp lại có người đi nên xe phải lách qua, lách lại như làm xiếc. Cô Lành thò tay vào trong áo mưa, vòng ra trước ôm bụng anh xe thồ. Chiếc xe đạp, vì bôm bánh cứng ngắt nên cứ nẩy lên từng lúc. Thỉnh thoảng xe thắng thình lình khiến ngực cô Lành ép sát vào lưng anh xe thồ. Ngực cô căng cứng. Anh xe thồ phải đạp chậm lại. Xe ngừng ở đầu chợ. Cô Lành bước xuống “Anh chờ tôi ít phút. Anh biết chỗ nào bán cam, sữa hộp không?” Vì bị cô Lành ép ngực vào lưng mình nên anh xe thồ cố ý nhìn mặt cô Lành, nhưng cô trùm mũ áo mưa sùm sụp, chỉ thấy được hai con mắt ướt rượt, đuôi mắt kéo dài ra, rõ ràng cô đang cười bằng mắt với anh ta “Trong ni không có cam, quít chi mô. Sữa bò hợp (hộp) ở quán tê tề (kia kìa)”
(Vài nhân vật nói tiếng địa phương, xin cố gắng hiểu)
Cô Lành ở Mỹ về Việt Nam tìm thăm bạn cũ. Xuống máy bay ở Sài Gòn, cô đón xe ra Ðà Nẵng, mấy hôm sau, cô đi Vĩnh Ðiện, một thị trấn nhỏ, cách Ðà Nẵng vài chục cây số. Thực ra, trước đó vài ngày, cô có vô Vĩnh Ðiện, hỏi han vài người ở bến xe điều gì đó rồi cô lại về Ðà Nẵng. Lần nầy, cô đi Vĩnh Ðiện sớm. Trời còn lất phất mưa nên cô Lành phải mặc áo đi mưa trước khi xuống xe. Khi xe vừa ngừng thì những người chạy xe ôm vây quanh mời mọc. Họ nhao nhao lên với cô "Ði mô (đi đâu) cô? Tui đưa cô về nghe! Mời lên xe". Cô Lành nói "Tôi là khách quen của anh Hai Tí. Thấy ảnh đâu không?" Mọi người dãn ra "Phải Tí Kế Xuyên không? Hắn ngồi quán đằng kia kìa" Chữ "Kế Xuyên" dùng để chỉ những người nhà quê, bảo thủ, nhất là có giọng nói rặc Quảng Nam, giống như ta dùng chữ "Sịa" để chỉ dân "Huế nhà quê". Tuy là Việt kiều nhưng cô Lành trông rất xập xụi. Cô mặc một bộ bà ba cũ, ngoài khoác áo đi mưa, mang đôi dép nhật lẹp xẹp, tay cầm giỏ lác nhẹ tênh, giống các bà nội trợ, đi chợ buổi sáng về nấu ăn cho gia đình. Cô Lành theo hướng người xe thồ chỉ, đến một cái quán nhỏ, giống bất cứ quán nào ở bến xe thị trấn nghèo và vắng vẻ. Trước hiên quán là một chiếc bàn cũ với hai chiếc ghế dài. Một bình tích với bốn cái li thủy tinh không được sạch lắm. Ngay bên trong là một cái kệ bày mấy thứ kẹo, bánh, chuối, ổi ... Một người đàn ông, ngồi dựa lưng vào vách, tay cầm chiếc bánh ú, miệng nhóp nhép nhai, mắt nhìn tận đâu như đang suy nghĩ điều gì nên không thấy cô Lành bước vào. Anh ta khoảng trên bốn mươi, người cao, ốm nhưng rắn chắc, da đen thùi, xương gò má nhô cao, hai mắt sáng trưng thụt vào hốc mắt như mắt con khỉ. Anh mặc bộ đồ nhà binh của lính Cộng Hòa cũ, đã phai thành màu xám mốc. Một chiếc xe đạp thồ tựa vào vách quán. Cô Lành hỏi “Anh chạy xe thồ phải không?” “Dạ. Cô đi mô (đâu)?” “Tôi đi nhiều chỗ lắm. Anh biết Thanh Quít không?” “Nhà tui ở đó. Răng không biết?” “Thanh Quít, nhưng vô tuốt trong xa. Anh đi nổi không?” “Ăn thua chi! Lên Di Xiên (Duy Xuyên) tui cũng đi tới. Cô chờ cho chút nghe. Tui "en" (ăn) xong cái bánh ni là đi liền” Anh xe thồ nhét phần còn lại của chiếc bánh ú vào mồm, trẹo trạo nhai rồi trợn mắt nuốt. Anh lấy cái bình tích rót một thứ nước vàng vàng vào ly, bưng uống cạn rồi lấy tay quẹt ngang miệng, coi như làm vệ sinh sau bữa ăn. Anh nói vọng vào trong quán “Chặp nữa quay lại tính tiền luôn nghe, chị Tư”. Anh đẩy xe ra, lấy chiếc áo đi mưa gài ở yên sau mặc vào. Áo đi mưa màu xám tro, dày súc, giống như áo của lính cứu hỏa. Anh mặc ngược để tránh gió lùa vào áo. Anh lấy miếng giẻ nhét dưới yên xe lau cái yên sau cho hết nước mưa. Yên sau là một miếng gỗ lớn, có bọc nệm, làm thủ công nên trông thô kịch nhưng chắc chắn “Mời cô lên xe. Chừ đi mô đây (bây giờ đi đâu)?” Cô Lành ngồi lên yên sau “Anh cho tôi vô chợ Vĩnh Ðiện, mua ít quà cho người quen” “Cô ngồi rứa không được mô. Phải bỏ hai chưn (chân) hai bên, ôm tui cho chẹt (chặt). Ðường đất khó chạy lắm, ngồi rứa té bể đầu, tui mang họa” “Ôm anh, vợ anh có ghen không?” “Vợ con chi tui. Mà có vợ, hén (hắn) cũng không ghen được, chiện lồm en (chuyện làm ăn). Ghen tương, đúa (đói) trơ mỏ”.
Anh xe thồ đạp ra đường cái một đoạn rồi rẽ xuống đường làng. Ðường tráng xi măng nhưng hẹp lại có người đi nên xe phải lách qua, lách lại như làm xiếc. Cô Lành thò tay vào trong áo mưa, vòng ra trước ôm bụng anh xe thồ. Chiếc xe đạp, vì bôm bánh cứng ngắt nên cứ nẩy lên từng lúc. Thỉnh thoảng xe thắng thình lình khiến ngực cô Lành ép sát vào lưng anh xe thồ. Ngực cô căng cứng. Anh xe thồ phải đạp chậm lại. Xe ngừng ở đầu chợ. Cô Lành bước xuống “Anh chờ tôi ít phút. Anh biết chỗ nào bán cam, sữa hộp không?” Vì bị cô Lành ép ngực vào lưng mình nên anh xe thồ cố ý nhìn mặt cô Lành, nhưng cô trùm mũ áo mưa sùm sụp, chỉ thấy được hai con mắt ướt rượt, đuôi mắt kéo dài ra, rõ ràng cô đang cười bằng mắt với anh ta “Trong ni không có cam, quít chi mô. Sữa bò hợp (hộp) ở quán tê tề (kia kìa)”
Chợ Vĩnh Ðiện, gần Tết nên rộn rịp người mua, kẻ bán. Nông sản từ các làng lân cận đem đến. Khoai củ, gà vịt, rau quả. Ðặc biệt là rau và hoa, thứ hoa bình dân như vạn thọ, mào gà, phượng ta, cúc... khiến cho chợ rực rỡ, tươi mát, thơm tho. Có cả những cành mai của những nông dân đứng lóng ngóng đầu chợ, gặp ai cũng mời mua. Gà vịt cũng nhiều. Mấy chị đàn bà ngồi chò hỏ với mấy con gà, con vịt bị trói chân, nằm ngóc mỏ nhìn thiên hạ, vừa an phận vừa tuyệt vọng. Ai cũng đem hàng ra chợ để có chút tiền sắm Tết. Ðông khách nhất là mấy sạp vải, áo quần. Các bà, các cô lựa chọn, trả giá những mảnh vải nhiều màu sắc, những áo quần trẻ con đủ kiểu, lòe loẹt với hình những con thú, hoa lá... Cô Lành vào một tiệm tạp hóa mua mấy hộp sữa đặc. Cô tìm hàng cam, nho nhưng không thấy. Chợ nhà quê không có những hàng xa xỉ đó. Một lúc sau, cô Lành đi ra. Anh xe thồ đã trở đầu xe. Cô ngồi lên “Chừ (bây giờ) đi mô đây?” “Xong rồi. Anh đưa giùm tôi qua Thanh Quít”
Ðạp một lúc, anh xe thồ ngừng lại “Hết mưa rồi. Ðể tui cởi áo mưa. Ðộp (đạp) một chặp (lúc), nóng thố (tháo) mồ hôi, hôi rình, cô chịu chi thấu” “Anh chở bồ, đổ mồ hôi, cô bồ có than hôi rình không?” “Bồ bịch chi mô. Chỉ có khách chịu trận thôi. Họ không núa (nói), nhưng tui biết” “Bộ thời đi học anh không chở bồ đi chơi sao? Ði ăn quà rong, đi về nhà hái ổi, hái me...” “Chiện (chuyện) xưa rồi cô ơi, nhớ lồm (làm) chi cho mệt óc” “Nhưng cô bồ của anh đâu có than hôi. Cô đó còn khen thơm nữa. Cô ta ngồi sau, hít hít cái lưng rồi khen "Thơm quá!". Ðúng không?” “Cô tưởng tượng nghe cũng hay, giống tiểu thiết (thuyết) boa (ba) xu. Thôi, đi cho mau. Cô chỉ đường cho tôi” “Thì anh cứ chạy dọc bờ sông...” “Rồi tới mô?” “Gần hai chục năm, tôi cũng không nhớ rõ, nhưng trước nhà có cái máy bôm nước vô ruộng, có cái máng nước băng qua đường” “Năm bảy cái máy bơm nước, biết cái mô? Hễ thấy nhà, cô núa (nói), tui ngừng lại nghe! Cô đi thăm ai? Cô núa tên là tui biết liền. Tui sống ở đó từ nhỏ tới lớn. Ai tui không biết!” “Nói ra, sợ vừa đến là anh kêu rầm lên "Có khách đến thăm!" thì đổ bể hết. Tôi muốn cho những người đó bất ngờ... cho vui”.
Xe băng qua đường cái, đổ dốc, vào đường làng. Ðường đã được tráng xi măng. Một bên là sông, với hàng tre giữ bờ, một bên là đồng ruộng, đôi chỗ cất nhà, có cả nhà ngói, có quán bán lặt vặt, vừa là tiệm tạp hóa vừa làm quán ăn. Người đi đường cũng nhiều, không giống như trước đây, chỉ thấy ruộng và cây cối hoang tàn, nhà cửa xụp xệ. Chiến tranh đã chấm dứt, người dân không còn sợ bom đạn tàn phá nên đã chú tâm vào việc dựng lại nhà cửa cho khang trang. Anh Tí chăm chỉ đạp một lúc, không biết cô Lành muốn đến đâu nên nghi ngờ “Không chỉ chỗ mô, tui đạp miết, cô phải trỏa (trả) nhiều tiền, thiệt hại cô thôi” “Ôm anh kiểu nầy, anh không thấy thích sao? Nghề của anh, khi chở các cô, coi bộ anh khoái lắm. Phải không?” “Tội nghiệp tui, cô ơi! Ðộp (đạp) mệt thấy mẹ, sướng ích chi? Kiếm mấy đồng sống qua ngày” “Anh sống với ai?” “Có bòa (bà) mẹ. Mà nuôi không nổi. Bữa cơm, bữa chố (cháo)!” “Anh cứ đạp từ từ. Tôi không gấp. Khi chở khách, anh có nói chuyện với khách không?” “Ðộp (đạp) gần thì cũng núa (nói) mấy câu. Ði xa, thở bèng (bằng) mũi, bèng miệng. Khi lên dốc phải nín thở mà độp, thố (tháo) mồ hôi hột. Về nhòa (nhà), chưn tay rõa (rã) rời. Có chi vui mô mà chiện trò!” “Bây giờ anh cứ tưởng tượng đang chở cô bồ sau lưng, thong thả đưa người đẹp ngắm cảnh, ăn quà rong... Anh sẽ không thấy mệt” Anh xe thồ bỗng ngưng xe bên vệ đường, giọng nghiêm trang “Tui chạy xe thồ kiếm mấy đồng chớ không chở bồ bịch chi hết. Chở bồ thì không lấy tiền công. Mà tui với cô có quen biết chi mô? Cô muốn bồ cô chở khỏi trả tiền thì mời cô xuống đây. Tui ăn cục núa (nói) hòn. Thà mất lòng trước được lòng sau. Ði mô cô không núa, lại ôm tui cứng ngắt, còn núa chiện bồ bịch. Lồm như tui ở không chở cô đi chơi...” Cô Lành không giận còn đập tay lên lưng anh xe thồ một cách thân mật, cô cười mà nước mắt ứa ra, từ từ chảy xuống máù. Cô móc khăn ra chùi nước mắt, khịt mũi và nói “Tôi thuê anh từ giờ nầy đến bốn giờ chiều, anh đưa tôi ra lại bến xe về Ðà Nẵng. Anh tính bao nhiêu, tôi trả tiền trước. Anh yên tâm chưa?” Anh xe thồ dịu giọng “Cô núa nhòa (nói nhà) ai, tui đưa cô tới. Xin lỗi cô. Tính tui không thích núa chiện (nói chuyện) trai gái. Tui... bậy quá. Núa chộm (chạm) tự ái cô” Cô Lành ngồi im, không trả lời. Cô liếc nhìn anh xe thồ rồi ôm mặt khóc. Cô khóc ngon lành như cô bé bị mẹ mắng oan. Anh xe thồ bối rối. Anh không biết phải làm gì, đành vịn chặt chiếc xe cho cô ngồi khóc thoải mái. Cô khóc một lúc thì chùi nước mắt, giọng tỉnh rụi ‘Hễ đạp gần đến nhà nào phía trước đường có cái máy bôm nước, dưới đường có máng dẫn nước vô ruộng thì anh nói tên người chủ nhà đó. Bây giờ cảnh vật thay đổi hết rồi. Ruộng nương đã thành nhà cửa... Xin lỗi anh, tôi khóc không phải vì bị anh rầy la mà tôi thương những người thân yêu của tôi quá!’ Anh xe thồ quay nhìn trộm cô Lành. Anh nhíu mày suy nghĩ rồi quả quyết “Chừ ri (bây giờ thế nầy). Tui chở cô đi dọc bờ sông. Ðến cuối đường, là chỗ con đường ni quẹo vô xóm trong, cua như (coi như) hết con đường bờ sông, mà cô không tìm ra nhòa người thân của cô thì tui chở cô về lại bến xe để cô về Ðòa Nẻn (Ðà Nẵng). Tiền công thì tui tính như với người khoác (khác). Chẻn (chẳng) thiệt hại tui mà cũng chẻn thiệt hại cô. Cô ngồi vịn cho chẹt nghe!” “Dọc đường anh biết được nhà ai thì nói tên chủ nhà đó. Như vậy tôi sẽ nhớ ra. Biết đâu cái máy bôm nước dời chỗ khác hoặc nhà tôi muốn tìm đã sửa sang, xây cất lại... Anh cứ đạp từ từ”
Ðạp một lúc, anh xe thồ ngừng lại “Hết mưa rồi. Ðể tui cởi áo mưa. Ðộp (đạp) một chặp (lúc), nóng thố (tháo) mồ hôi, hôi rình, cô chịu chi thấu” “Anh chở bồ, đổ mồ hôi, cô bồ có than hôi rình không?” “Bồ bịch chi mô. Chỉ có khách chịu trận thôi. Họ không núa (nói), nhưng tui biết” “Bộ thời đi học anh không chở bồ đi chơi sao? Ði ăn quà rong, đi về nhà hái ổi, hái me...” “Chiện (chuyện) xưa rồi cô ơi, nhớ lồm (làm) chi cho mệt óc” “Nhưng cô bồ của anh đâu có than hôi. Cô đó còn khen thơm nữa. Cô ta ngồi sau, hít hít cái lưng rồi khen "Thơm quá!". Ðúng không?” “Cô tưởng tượng nghe cũng hay, giống tiểu thiết (thuyết) boa (ba) xu. Thôi, đi cho mau. Cô chỉ đường cho tôi” “Thì anh cứ chạy dọc bờ sông...” “Rồi tới mô?” “Gần hai chục năm, tôi cũng không nhớ rõ, nhưng trước nhà có cái máy bôm nước vô ruộng, có cái máng nước băng qua đường” “Năm bảy cái máy bơm nước, biết cái mô? Hễ thấy nhà, cô núa (nói), tui ngừng lại nghe! Cô đi thăm ai? Cô núa tên là tui biết liền. Tui sống ở đó từ nhỏ tới lớn. Ai tui không biết!” “Nói ra, sợ vừa đến là anh kêu rầm lên "Có khách đến thăm!" thì đổ bể hết. Tôi muốn cho những người đó bất ngờ... cho vui”.
Xe băng qua đường cái, đổ dốc, vào đường làng. Ðường đã được tráng xi măng. Một bên là sông, với hàng tre giữ bờ, một bên là đồng ruộng, đôi chỗ cất nhà, có cả nhà ngói, có quán bán lặt vặt, vừa là tiệm tạp hóa vừa làm quán ăn. Người đi đường cũng nhiều, không giống như trước đây, chỉ thấy ruộng và cây cối hoang tàn, nhà cửa xụp xệ. Chiến tranh đã chấm dứt, người dân không còn sợ bom đạn tàn phá nên đã chú tâm vào việc dựng lại nhà cửa cho khang trang. Anh Tí chăm chỉ đạp một lúc, không biết cô Lành muốn đến đâu nên nghi ngờ “Không chỉ chỗ mô, tui đạp miết, cô phải trỏa (trả) nhiều tiền, thiệt hại cô thôi” “Ôm anh kiểu nầy, anh không thấy thích sao? Nghề của anh, khi chở các cô, coi bộ anh khoái lắm. Phải không?” “Tội nghiệp tui, cô ơi! Ðộp (đạp) mệt thấy mẹ, sướng ích chi? Kiếm mấy đồng sống qua ngày” “Anh sống với ai?” “Có bòa (bà) mẹ. Mà nuôi không nổi. Bữa cơm, bữa chố (cháo)!” “Anh cứ đạp từ từ. Tôi không gấp. Khi chở khách, anh có nói chuyện với khách không?” “Ðộp (đạp) gần thì cũng núa (nói) mấy câu. Ði xa, thở bèng (bằng) mũi, bèng miệng. Khi lên dốc phải nín thở mà độp, thố (tháo) mồ hôi hột. Về nhòa (nhà), chưn tay rõa (rã) rời. Có chi vui mô mà chiện trò!” “Bây giờ anh cứ tưởng tượng đang chở cô bồ sau lưng, thong thả đưa người đẹp ngắm cảnh, ăn quà rong... Anh sẽ không thấy mệt” Anh xe thồ bỗng ngưng xe bên vệ đường, giọng nghiêm trang “Tui chạy xe thồ kiếm mấy đồng chớ không chở bồ bịch chi hết. Chở bồ thì không lấy tiền công. Mà tui với cô có quen biết chi mô? Cô muốn bồ cô chở khỏi trả tiền thì mời cô xuống đây. Tui ăn cục núa (nói) hòn. Thà mất lòng trước được lòng sau. Ði mô cô không núa, lại ôm tui cứng ngắt, còn núa chiện bồ bịch. Lồm như tui ở không chở cô đi chơi...” Cô Lành không giận còn đập tay lên lưng anh xe thồ một cách thân mật, cô cười mà nước mắt ứa ra, từ từ chảy xuống máù. Cô móc khăn ra chùi nước mắt, khịt mũi và nói “Tôi thuê anh từ giờ nầy đến bốn giờ chiều, anh đưa tôi ra lại bến xe về Ðà Nẵng. Anh tính bao nhiêu, tôi trả tiền trước. Anh yên tâm chưa?” Anh xe thồ dịu giọng “Cô núa nhòa (nói nhà) ai, tui đưa cô tới. Xin lỗi cô. Tính tui không thích núa chiện (nói chuyện) trai gái. Tui... bậy quá. Núa chộm (chạm) tự ái cô” Cô Lành ngồi im, không trả lời. Cô liếc nhìn anh xe thồ rồi ôm mặt khóc. Cô khóc ngon lành như cô bé bị mẹ mắng oan. Anh xe thồ bối rối. Anh không biết phải làm gì, đành vịn chặt chiếc xe cho cô ngồi khóc thoải mái. Cô khóc một lúc thì chùi nước mắt, giọng tỉnh rụi ‘Hễ đạp gần đến nhà nào phía trước đường có cái máy bôm nước, dưới đường có máng dẫn nước vô ruộng thì anh nói tên người chủ nhà đó. Bây giờ cảnh vật thay đổi hết rồi. Ruộng nương đã thành nhà cửa... Xin lỗi anh, tôi khóc không phải vì bị anh rầy la mà tôi thương những người thân yêu của tôi quá!’ Anh xe thồ quay nhìn trộm cô Lành. Anh nhíu mày suy nghĩ rồi quả quyết “Chừ ri (bây giờ thế nầy). Tui chở cô đi dọc bờ sông. Ðến cuối đường, là chỗ con đường ni quẹo vô xóm trong, cua như (coi như) hết con đường bờ sông, mà cô không tìm ra nhòa người thân của cô thì tui chở cô về lại bến xe để cô về Ðòa Nẻn (Ðà Nẵng). Tiền công thì tui tính như với người khoác (khác). Chẻn (chẳng) thiệt hại tui mà cũng chẻn thiệt hại cô. Cô ngồi vịn cho chẹt nghe!” “Dọc đường anh biết được nhà ai thì nói tên chủ nhà đó. Như vậy tôi sẽ nhớ ra. Biết đâu cái máy bôm nước dời chỗ khác hoặc nhà tôi muốn tìm đã sửa sang, xây cất lại... Anh cứ đạp từ từ”
Anh xe thồ bắt đầu nói tên những nhà nào mà anh biết. Ðộ nửa giờ, khi qua một cái máy bôm nước, anh làm như không biết tên chủ nhà, đạp qua luôn. Nhưng cô Lành đã đập tay lên lưng anh xe thồ “Anh dừng lại để tôi hỏi thăm. Nhà nầy coi bộ đúng rồi” Cô xuống xe, xăm xăm đi đến một ngôi nhà lợp tôn (tôle), coi bộ nghèo khổ hơn các nhà khác. Anh xe thồ vội đạp xe chạy ngược lại, dùng chiếc xe làm rào cản, không cho cô Lành bước vào “Cô biết nhòa (nhà) ai đây mà cô dốm (dám) bước vô? Nhòa công oan (nhà công an). Họ bắt nhốt cô bây chừ!” Cô Lành nhìn anh xe thồ cười “Anh giấu em đâu có được. Em thấy là nhận ra ngay. Bộ anh không muốn em đến thăm bác sao?” Vừa lúc một người đàn bà từ trong nhà đi ra, tay cầm cái chổi, có lẽ để quét sân. Bà ta khoảng trên sáu mươi tuổi. Cô Lành đẩy chiếc xe đạp của anh xe thồ qua một bên, bước vào sân và kêu lên “Thưa bác. Bác còn nhớ con không?” Cô Lành kéo mũ áo đi mưa đang trùm đầu xuống, hai tay vịn lên vai người đàn bà, nhìn bà, miệng cười vui mừng và chờ đợi. Người đàn bà nhìn chăm chăm cô Lành “Ai ri hè (ai vậy nè)? Cua (coi) quen quen” “Con là con Lành đây nè. Bác nhớ ra chưa. Lâu quá! Mấy chục năm rồi...” Người đàn bà sửng sờ, miệng mấp máy “Trời đất! Lành đây hả con? Răng cua khoác (khác) quá! Nhưng boác (bác) cũng nhớ được. Con vô nhòa (vô nhà)!” Bà ta mừng đến độ lúng túng, lập cập “Vô nhòa, con. Trời đất ơi! Mấy chục năm mới gặp lại con. Răng, hai đứa gặp nhau ở mô mà chở nhau về đây? Ngồi đây con. Ở lại chơi, chiều về, nghe con. Hiện nay con ở mô (ở đâu)? Chồng con ra răng (ra sao)? Lồm en (làm ăn) có khá không? Núa cho boác mừng (nói cho bác mừng)” Người đàn bà kéo cô Lành ngồi xuống bộ phản cũ xì, sứt mẻ, trầy trụa. Bà nói một hơi rồi nhìn cô Lành “Choa (cha) mi! Gần hai chục năm chớ ít ỏi chi. Con ở mô mà boác bét (bác bắt) anh Tí con roa Ðòa Nẻn tìm không thấy!” Cô Lành cúi mặt xuống, giọng giận lẫy “Ðể đó mà ảnh tìm. Lúc nãy, gặp con ở bến xe, ảnh không thèm nhìn con. Con phải làm bộ thuê ảnh chở đi tìm người quen. Ði ngang qua nhà bác, ảnh chạy luôn. Bác nghĩ, có đáng giận ảnh không? Bác còn nhớ, lúc ảnh bị thương, nằm ở bịnh viện Duy Tân, con vô thăm ảnh, săn sóc ảnh. Vậy mà khi xuất viện về, con về đây thăm ảnh, ảnh nói "Ðừng đến thăm nữa. Tôi sắp cưới vợ rồi" Từ đó con từ ảnh luôn, không đến đây nữa. Bác nghĩ coi. Tình nghĩa chi!” Người đàn bà gọi “Tí! Dô biểu cua. (vô bảo coi)” Anh xe thồ, tên Tí, nãy giờ đứng lóng ngóng trước sân, bèn bước vô, ngồi xuống ghế, không nhìn cô Lành “Răng con núa có vợ cho em con không đến đây nữa?” Anh Tí ngập ngừng “Thương phế binh, nuôi cái miệng không đủ, đèo bòng vợ con cho khổ lây. Con núa rứa cho cổ không tới nữa. Mà chắc chi gioa đình cổ chấp nhận thèng (thằng) thương phế binh. Phải biết thân phận mình chớ” Cô Lành thút thít khóc “Ảnh bỏ con đành đoạn. Trước đó ảnh viết thư nói thương con. Ảnh còn hỏi ý kiến con, bảo con thưa với ba má con, ảnh xin về phép, đưa bác ra Ðà Nẳng thăm gia đình con rồi xin làm đám hỏi, đám cưới, con có chịu không? Vậy mà chỉ mấy tháng sau, sau khi bị thương, ảnh bỏ con. Chắc có bồ rồi phản bội con. Bỏ mồi bắt bóng. Rồi bị cô bồ đá cho. Ðáng kiếp!” “Thiệt. Cái thèng! Mà xưa nay hén (hắn) có bồ bịch, vợ con chi mô? Thôi bỏ qua chiện đó đi. Chừ con ở lại en (ăn) cơm với gioa đình boác (gia đình bác). Tí, ngồi núa chiện (nói chuyện) với em. Mẹ ra sau bứt mớ rau nấu miếng canh, en cho moát rụt (mát ruột)” “Khỏi nấu nướng chi cho tốn công, bác. Lúc nãy ngang qua đằng kia, con thấy có gánh mì quảng, nhờ anh Tí đạp xe đi mua cho tiện. Con về đây thèm mì quảng” Người đàn bà móc túi đưa cho anh Tí mấy tờ bạc “Con mua boa (ba) tô, mượn luôn tô, chặp nữa đem trỏa (trả)” Cô Lành lấy mấy hộp sữa đặt trên bàn rồi đưa cái bị cói cho anh Tí đi mua mì. Mẹ anh Tí ngồi nói chuyện với cô Lành một lát thì xuống bếp nấu nước pha trà. Cô Lành ngồi ở nhà trên, vén áo mở cái túi nhỏ đeo trước bụng lấy ra một phong bì, trong đó có một xấp tiền và một lá thư. Cô đọc lá thư, ngẫm nghĩ một lúc, gạch xóa, viết thêm mấy giòng, bỏ lại vào phong bì, cô le lưỡi liếm mép phong bì, dán lại rồi đem xuống bếp, đưa cho mẹ anh Tí “Ðây là lá thư con gửi anh Tí, khi nào con về rồi bác mới đưa cho ảnh” Cô ôm mẹ anh Tí và khóc “Con thấy ảnh khổ con đứt ruột. Lúc nãy ảnh chở con, con ngồi sau, ôm ảnh, thấy xương với da, lại nghe ảnh vừa đạp xe vừa thở dốc, con khóc một trận. Con biểu ảnh đạp chậm chậm, coi như chở bồ đi chơi, cho đỡ mệt, vậy mà ảnh cự con, ảnh nói chở bồ không lấy tiền công. Ảnh chạy xe thồ, chở đi thì phải trả tiền công. Không biết ảnh có nhận ra con không mà không nghe ảnh nói với con được một tiếng dịu dàng. Chắc ảnh không còn thương con, không nhìn mặt con nữa. Phải không bác?” Mẹ anh Tí vuốt tóc cô Lành, thở dài “Hén không thương con thì thương ai? Hén thấy mình nghèo khổ quá nên gặp boạn bè, hén cũng giỏa lơ (giả lơ). Con về ghé thăm gioa đình boác rứa là quí rồi. Chừ thì đường ai nấy đi. Con cũng phải lo cho gioa đình con. Con thương hén, nhưng con phải giữ cái đức hạnh của người đàn boà, phải bổ (bảo) vệ hạnh phúc gioa đình con...” “Con đâu có chồng con chi. Ðời con, chỉ thương có mình anh Tí. Nay con về tìm thăm ảnh, tưởng ảnh đã lập gia đình rồi, không ngờ ảnh chưa có chi hết, con mừng lắm. Giả dụ như ảnh không còn thương con nữa, con cũng quyết không để ảnh với bác phải khổ đâu. Con nói điều nầy, bác khoan nói cho anh Tí biết, là con hiện ở bên Mỹ, con còn độc thân, con đi làm, không gọi rằng giàu nhưng lương khá lắm. Nếu ảnh tự ái không nhận sự giúp đỡ của con thì con gửi tiền giúp bác. Trường hợp ảnh còn thương con thì nhờ bác nói giùm con với ảnh. Con không lấy chồng vì thương ảnh, nếu ảnh không chịu cưới con thì con nhất định làm gái già chứ không lập gia đình với ai hết. Nhờ bác nói giùm con nghe bác. Hay là bác nói, ảnh không thương con cũng được nhưng phải cưới con để con về phụ với ảnh săn sóc bác, bác đã lớn tuổi rồi, bác cần một người đàn bà săn sóc khi bác ốm đau, bịnh hoạn. Thỉnh thoảng bác nói một câu, lâu ngày ảnh sẽ nghĩ lại” Mẹ anh Tí đẩy cô Lành ra, nhìn cô và trầm trồ “Chu choa, con là Việt kiều hả? Reng en mẹc (sao ăn măïc) nghèo khổ rứa? Boác cũng không ngờ. Con lồm rứa là con biết ý thèng Tí. Con mà xưng Việt kiều, hén không tiếp con mô” “Bởi vậy con mới ăn mặc như thế nầy. Bác cất lá thư đi, khi con về rồi thì đưa cho ảnh nghe bác. Thấy bác còn mạnh khỏe, con mừng lắm” “Hai boác (hai bác), anh chị em con, còn ai ở đây không? Hai boác có mạnh khỏe không?” “Dạ, qua hết bên Mỹ rồi. Cám ơn bác, ba mẹ con vẫn khỏe. Ba mẹ con cứ thắc mắc, tại sao, hai đứa con, con với anh Tí, tự nhiên chia tay? Con không biết trả lời sao! Bác dọ ý ảnh, khi nào ảnh xiêu lòng thì bác nói ảnh chuẩn bị cho con một số giấy tờ. Khai sinh, bản sao hộ khẩu, chứng minh nhân dân của ảnh và của bác. Qua Mỹ, con làm giấy tờ gửi về ảnh, biểu ảnh ra dịch vụ cho họ làm giấy tờ hôn thú. Bác cứ nói đại khái. Lần sau con về sẽ lo tiếp” “Nhưng con phải núa trực tiếp với hén...” “Dạ, lát nữa ảnh về con sẽ nói với ảnh”
Hai người đàn bà tâm sự với nhau một lúc thì anh Tí đem mì quảng về. Ăn uống xong, mẹ anh Tí giành phần dọn dẹp, ra sau bếp rửa chén bát, còn lại cô Lành và anh Tí ngồi ở nhà trên. Anh Tí rót nước trà mời cô Lành “Mời cô!” Cô Lành chống cằm nhìn anh Tí “Anh không kêu "em" được hay sao? Có gì mà coi bộ anh giận em dữ lắm?” Anh Tí ngồi nhìn ra đường “Lâu quá không gặp, thấy lọa (lạ), nên ngại, chứ chẳng có chi giận hờn” “Sao lúc chở em, anh nạt nộ em, làm em sợ anh” “Ðâu biết. Tưởng người lọa. Ðời mô tui nhìn đàn bòa, con gái” Cô Lành mở to mắt, nhìn sát mặt anh, thì thầm hỏi “Có phải anh bị thương rồi có chuyện gì xảy ra cho thân thể anh không mà anh không thèm nhìn đàn bà, con gái?” Anh Tí bưng ly nước uống “Chỉ bị thương cánh tay, bất khiển dụng ở tay, chớ có chi thay đổi mô! Ai cũng thay đổi hết, chỉ mình tui. Ðời ni là rứa đó!” “Vậy là em biết tại sao anh giận em rồi. Anh tưởng em thay lòng đổi dạ. Ðã có chồng hay ít ra cũng bồ bịch tùm lum. Phải không?” “Tui đâu dốm (dám). Ai muốn nghĩ răng thì nghĩ. Có tật giựt mình” Cô Lành thò tay qua, đăït bàn tay mình lên cánh tay anh Tí, vừa dịu dàng vừa bạo dạn “Em Lành của anh vẫn lành lặn như xưa. Em sẽ chứng minh cho anh thấy. Em để dành cho riêng anh thôi. Lúc nào anh muốn cũng được” Anh Tí quay nhìn cô Lành mắt trợn lên kinh ngạc nhưng coi bộ hết giận “En núa (ăn nói) kiểu chi? Học mô roa (học đâu ra)?” “Bây giờ anh nói thật cho em rõ. Trước đây, vì sao anh nói anh sẽ có vợ, đừng đến nữa? Anh có biết, anh nói câu đó mà em bịnh một tháng, khóc hết nước mắt...?” “Thân trai trỏa (trả) xong nợ nước, tàn phế, nuôi thân không xong, lấy chi nuôi vợ con? Cũng may cho cô. Cô lấy tui, sau bảy lăm, làm răng nuôi chồng trong tù, nuôi con, nuôi mẹ? Ngay bây chừ, cô nhìn nhòa tui đây, trống trước, trống sau, gộ (gạo) không đủ nấu. Cô ở được mấy bữa?” Cô Lành bóp chặt cánh tay anh Tí “Chuyện đó để em lo. Em chỉ hỏi anh. Anh còn thương em không? Mà không còn thương em, em cũng chấp nhận nữa. Miễn là anh cho em được thương anh, để em được gần anh, gần mẹ, săn sóc cho mẹ. Khi anh đi lính, em thường đến thăm mẹ. Mẹ coi em như con nên em cũng coi như mẹ ruột. Sau nầy, mẹ sẽ già yếu, anh là con trai, làm sao săn sóc cho mẹ được?” Anh Tí yên lặng, rót nước uống rồi nói “Thôi được! Nhưng cô chờ cho tuần sau, khi tui xây lại nhòa ni thành nhòa lầu, sắm một cái TV màu, một chiếc Hon Ðoa mới tinh... rồi tui roa Ðòa Nẻn đón cô về” “Bộ anh hóa phép màu hay sao?” “Phép tét (phép tắc) chi! Tui trúng độc đét (độc đắc), chi không có! Tuần ni không trúng thì tuần sau, tuần sau nữa. Cô cứ chờ, chớ tui đâu có phụ rảy chi cô. Chờ tới khi tui già, cô già, rồi chết là xong. Cô núa chiện trên trời! Trừ khi cô là triệu phú thì họa may. Nhưng cô giàu có, thì tui thòa (thà) chết còn hơn là nhờ cô” “Anh cũng bị tù cải tạo sao không đi diện HO?” “Tui đi tù. Bịnh sắp chết, chúng cho khiêng về chôn. Không biết răng, tự nhiên hết bịnh? Chưa đủ boa (ba) năm” “Bây giờ em lo được giấy tờ để anh và mẹ qua Mỹ. Anh nên vì em, vì mẹ mà đi Mỹ. Nghe anh!” “Lồm giấy tờ giỏa mộ (giả mạo) chỉ có đi tù chớ đi Mỹ chi!” “Nhưng em làm giấy tờ hợp pháp, anh có đi không?” “Dại chi không đi. Nhưng tiền bọac (bạc), chi phí tính răng (tính sao)?” “Qua Mỹ, anh làm có tiền, trả lại em” “Nhưng có chiện chi, tui không đi tù lần nữa đâu. Tui ngán đi tù rồi” “Bảo đảm với anh không sao đâu. Miễn anh "Ừ"ø một tiếng thì em lo xong ngay. "Ừ" đi anh!” “Tui biết cô chẻn lồm được chi mô (chẳng làm được gì đâu), nhưng tui cũng "Ừ" cho cô vui lòng” “Nhớ nghe! Hứa là phải giữ lời. Anh nhớ lúc còn đi học, mỗi khi anh và em hứa với nhau điều gì, mình thường nghéo tay nhau. Bây giờ mình cũng nghéo tay đi anh” “Thôi thôi, giòa (già) đầu rồi, đừng lồm (làm) trò trẻ!” Anh Tí lại làm nghiêm, cô Lành thì tìm cách sao cho anh ta cười. Cô biết tính anh Tí, nên không lấy đó làm buồn. Cô chợt hỏi “Con Hạnh còn ở bên nhà không?” “Hén (hắn) có đi mô! Giờ ni chéc (chắc) hén về rồi. Hén lồm bánh bông loan (làm bánh bông lan), bỏ mối ngoài chợ Vĩnh Ðiện và mấy tiệm en, quán nước. Ðể tui qua cua (coi) thử”
Khi anh Tí qua nhà cô Hạnh thì cô Lành lại kéo áo mở cái túi đeo trước bụng, móc ra một tờ trăm đô, xếp nhỏ lại bỏ vào túi. Ðây là quà cô dành cho cô bạn tên Hạnh, cũng là hàng xóm của anh Tí. Chỉ năm phút sau, cô Hạnh theo anh Tí đi vào. Anh Tí hỏi “Mi biết ai đây không?” Côâ Hạnh nhìn cô Lành, tần ngần một lúc rồi nói “Ai ri hè? Coi giống con Lành! Phải mi là con Lành không mi?” Côâ Lành đứng lên cười cười “Cho nói lại lần nữa. Cố nhớ coi!” Cô Hạnh la to lên “Tổ cha mi! Mi là con Lành chớ ai vô đây?” Hai cô nhào vô, ôm nhau. Cô Hạnh ứa nước mắt “Mấy chục năm ni mi đi mô? Tao bắt ông Tí đi tìm mi mà không biết mi đi mô?!” Rồi cô Hạnh cười “Tính tao hay khóc. Gặp mi tao mừng quá!” “Bộ mi khóc mừng gặp lại tao không đáng mấy giọt nước mắt sao mi tiếc. Ðừng làm như ông Tí. Gặp tao không thèm nhìn, còn nạt nộ tao nữa” “Ông đó tàng tàng (khùng khùng). Ðừng thèm để ý. Chừ mi qua nhà tao chơi. Ở lại với tao, mai về được không? Hay là sợ "heo kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem" mà đòi về sớm?” “Chồng con chi tao! Cầu cho có người đòi tòm tem mà người ta không thèm” Cô Lành nói với anh Tí “Anh Tí chờ em qua nhà Hạnh rồi về ngay nghe. Em cần nói với anh chuyện nầy”.
Cô Lành qua nhà cô Hạnh. Nhà vắng người. Hai cô ngồi trên giường. Cô Hạnh thò tay bóp bóp đùi cô Lành rồi dòm quanh người cô Lành “Coi bộ còn năng (cứng) gớm. Ngực cũng ngon, đùi, mông tròn vo. Mi chưa chồng con là đúng. Mi coi tao, chỗ nào cũng nhão nhẹt!” “Bộ không có ai ở nhà sao mi ăn nói tự do quá vậy?” “Ông xã tao đi làm, hai đứa con đi học. Khỏi lo! Cứ nói cho sướng miệng. Nhớ hồi còn đi học không? Mấy đứa con gái tụi mình, tụm năm, tụm ba ở nhà tao, ăn me, ăn ổi rồi nói tầm bậy tầm bạ... Sướng thiệt! Chừ khổ quá. Bao lâu nay, gặp được mi tao mới có dịp nói bậy” “ Bộ có chồng, mi không nói bậy với chồng được hay sao?” “Có nói chớ, nhưng nói chuyện khác. Chờ ổng nói trước, mình nói theo. Mi lấy chồng thì biết liền. Ủa, trước giờ mi đi đâu mà chưa chồng con chi cả? Mi lấy ông Tí đi, ổng cũng còn độc thân. Ngó rứa chớ ổng còn thương mi lắm. Mà mi chịu ổng không? Già rồi mi ơi. Tối ngủ ôm cái gối, sướng ích chi!” “Năm bảy tư, gia đình tao từ Vĩnh Ðiện dời ra Ðà Nẵng, năm bảy lăm, bỏ Ðà Nẵng đi luôn. Tao cũng thương ảnh lắm chớ! Nhưng không biết ảnh nghĩ sao? Ảnh lầm lỳ với tao từ sáng tới giờ” “Mi biết tính ổng rồi. Ổng cố chấp lắm. Giọng Kế Xuyên quê đặc mà ổng đâu chịu sửa. Ổng muốn làm mặt lạ vì ổng mặc cảm mình đạp xe thồ, mặc cảm nhà nghèo. Mi thấy đó, tết nhứt đến nơi mà nhà ổng có sắm sửa, chuẩn bị chi đâu! Ổng nghĩ như thời xưa, lấy vợ là phải nuôi vợ con, ổng sợ thêm miệng ăn nữa thì chết! Hơn nữa tao nghĩ, có lẽø ổng nghi mi đã lấy chồng hay bồ bịch gì đó, ổng tức mà không biết nói răng?! Nhưng tao biết, ổng thương mi lắm. Mi còn nhớ, khi ổng bị thương về nhà, mi ghé thăm, không biết mi với ổng có chuyện chi mà ổng qua nhà tao ngồi khóc ngon lành. Ổng nói mi bỏ ổng rồi. Coi bộ cứng rắn, lạnh lùng chớ ổng cũng mít ướt như tụi mình chớ chẳng hơn chi” “Mi cố nói giùm tao, sao cho ảnh chịu lấy tao, thì mi có cái đầu heo” “Mi yên tâm, để tao lo chuyện đó, ổng là của mi, chắc ăn như lấy đồ trong túi. Ngó rứa chớ tao nói là ổng nghe lời liền. Ổng coi tao như bạn thân, có gì cũng kể cho tao nghe” “Có khi nào ảnh nhắc đến tao không?” “Tao có hỏi Còn nhớ Lành không? Ổng nói. Không nhớ Lành thì nhớ ai? Có lẽ bây chừ Lành đã có chồng, có con rồi" Cô Lành móc túi lấy tờ bạc đã xếp nhỏ, bỏ vào túi cô Hạnh “Tao gửi mấy đồng cho hai cháu. Bây giờ tao phải về” Cô Hạnh nghĩ rằng bạn cho mình tờ một tờ bạc Việt Nam nên chỉ nói cám ơn mà không quan tâm” “Ủa. Mi nói sẽ ở lại với tao mà? Ở lại, tối nay nằm nói chuyện với nhau cho đã” “Rồi chồng mi nằm đâu?” “Ðừng lo chuyện đó. Tao tống ổng ra ngoài phản. Hay là mi qua nằm với ông Tí, tâm sự trắng đêm, cho đã thèm bấy lâu nay” “Ðồ quỉ sứ, nói chuyện bậy bạ. Ðể tao về. Ở lại đây, đêm hôm, giấy tờ, trình thưa, tao không muốn phiền mi” Hai người qua nhà anh Tí. Cô Lành xuống bếp ôm mẹ anh Tí, thì thầm “Bác nói giùm con, nghe bác. Tuần sau con về lại đây. Bác nhớ lo cho ảnh ăn uống, ảnh ốm quá, con thương ảnh quá!” “Choa mi! Tao cũng đưa xương mà mi chỉ nghĩ đến hén, bét (bắt) tao lo cho hén” Cô Lành cười chống chế “Thì bác cũng thương ảnh, thương con. Bác muốn con với ảnh yên tâm thì bác cũng phải ăn uống cho đầy đủ. Thôi, con về nghe bác” Cô tựa đầu vào vai bà như cô bé làm nũng với mẹ “Con muốn kêu bác bằng mẹ mà sợ anh Tí rầy con” “Hén quyền chi mà rầy con?”
Anh Tí đã đưa xe đạp ra sân, ý muốn cô Lành về sớm. Cô Lành qua chào từ giả cô Hạnh rồi bước ra, ngồi sau xe, vòng tay ôm bụng anh Tí và nói với cô Hạnh “Mi thấy, ai đi xe thồ cũng ôm eo ảnh. Tao ôm thì ảnh cự, nói sao ôm cứng ngắt” “Ổng cự mặc kệ ổng. Cứ ôm chặt cho tao. Ôm ngày ôm đêm, ổng cự riết rồi khoái chí, bắt mi ôm nữa” “Con quỉ nói trây! Tao về nghe!” Cô Hạnh vui vẻ la to lên “Không về thì đứng xuống, khó chi! Ê! Có phải hai anh chị hẹn hò, đưa nhau vô phòng ngủ không?” Hai cô lại cười như bị thọt lét. Cô Lành ngoái cổ lại nói “Mi thành nái xề rồi mi ơi! Nói trây không biết mắc cỡ!”
Anh Tí làm thinh, đạp xe ra đường. Cô Lành ngồi sau, ôm eo, tựa đầu vào lưng anh ta. Anh Tí bực mình “Ðừng lồm (làm) rứa, người ta thấy tề!” “Thời đi học, anh chở em đi chơi, em cũng ôm như thế nầy, sao anh không la em?” “Ði học khoác (khác), đi xe thồ khoác. Hồi trước là quê hương, đất nước mình, lồm chi không được. Chừ, lồm thân mất nước, vui thú chi” Cô Lành không ôm anh Tí nữa, sụt sùi khóc “Sao anh khó với em vậy?” Anh Tí yên lặng một lúc rồi thở dài “Xin lỗi. Tui buồn quá! Mất nước rồi. Buồn suốt đời. Biết ngày nồ (nào) mới vui được? Tôi chỉ sống qua ngày để nuôi mẹ giòa (già)ø, sướng ích chi mà nghĩ đến vợ con. Con cái "ngụy" lớn lên cũng chỉ để chúng ngồi lên đầu, hành họa (hạ), coi như trâu ngựa. Ði học chúng cũng không cho, đi lồm (làm) chúng cũng không cho” Cô Lành lại vòng hai tay, ôm bụng anh Tí “Bây giờ có em, em phụ với anh nuôi mẹ. Anh hãy quên chuyện nước nhà, mà nghĩ đến em. Anh có suy nghĩ, buồn phiền bao nhiêu cũng không làm được gì. Vận nước nó như vậy nhưng cũng sẽ đến ngày tươi sáng. Anh đã chiến đấu, đã bị thương thì coi như nợ nước anh đã trả rồi, nay anh có quyền nghĩ đến tình nhà. Bây giờ em về đây tìm anh. Anh và em, trước đây, có biết bao kỷ niệm. Anh có biết khi anh bảo em về, đừng đến anh nữa vì anh sắp lấy vợ, em khóc hết nước mắt. Em giận anh nhưng quyết làm gái già chứ không thèm để mắt đến ai cả. Anh có thương em không?”
Anh Tí yên lặng, đặt bàn tay trái, bàn tay bất khiển dụng của anh lên hai tay cô Lành đang ôm bụng anh. Anh bóp tay cô Lành, nhưng bàn tay thương tật nên chỉ mấy ngón tay là cử động nhẹ. Cô Lành ép hai bàn tay mình lên bàn tay anh Tí, dụi đầu vào lưng anh Tí “Bây giờ còn sớm, mình dừng ở quán nước đằng kia. Em nói chuyện nầy anh nghe”.
Hai người đàn bà tâm sự với nhau một lúc thì anh Tí đem mì quảng về. Ăn uống xong, mẹ anh Tí giành phần dọn dẹp, ra sau bếp rửa chén bát, còn lại cô Lành và anh Tí ngồi ở nhà trên. Anh Tí rót nước trà mời cô Lành “Mời cô!” Cô Lành chống cằm nhìn anh Tí “Anh không kêu "em" được hay sao? Có gì mà coi bộ anh giận em dữ lắm?” Anh Tí ngồi nhìn ra đường “Lâu quá không gặp, thấy lọa (lạ), nên ngại, chứ chẳng có chi giận hờn” “Sao lúc chở em, anh nạt nộ em, làm em sợ anh” “Ðâu biết. Tưởng người lọa. Ðời mô tui nhìn đàn bòa, con gái” Cô Lành mở to mắt, nhìn sát mặt anh, thì thầm hỏi “Có phải anh bị thương rồi có chuyện gì xảy ra cho thân thể anh không mà anh không thèm nhìn đàn bà, con gái?” Anh Tí bưng ly nước uống “Chỉ bị thương cánh tay, bất khiển dụng ở tay, chớ có chi thay đổi mô! Ai cũng thay đổi hết, chỉ mình tui. Ðời ni là rứa đó!” “Vậy là em biết tại sao anh giận em rồi. Anh tưởng em thay lòng đổi dạ. Ðã có chồng hay ít ra cũng bồ bịch tùm lum. Phải không?” “Tui đâu dốm (dám). Ai muốn nghĩ răng thì nghĩ. Có tật giựt mình” Cô Lành thò tay qua, đăït bàn tay mình lên cánh tay anh Tí, vừa dịu dàng vừa bạo dạn “Em Lành của anh vẫn lành lặn như xưa. Em sẽ chứng minh cho anh thấy. Em để dành cho riêng anh thôi. Lúc nào anh muốn cũng được” Anh Tí quay nhìn cô Lành mắt trợn lên kinh ngạc nhưng coi bộ hết giận “En núa (ăn nói) kiểu chi? Học mô roa (học đâu ra)?” “Bây giờ anh nói thật cho em rõ. Trước đây, vì sao anh nói anh sẽ có vợ, đừng đến nữa? Anh có biết, anh nói câu đó mà em bịnh một tháng, khóc hết nước mắt...?” “Thân trai trỏa (trả) xong nợ nước, tàn phế, nuôi thân không xong, lấy chi nuôi vợ con? Cũng may cho cô. Cô lấy tui, sau bảy lăm, làm răng nuôi chồng trong tù, nuôi con, nuôi mẹ? Ngay bây chừ, cô nhìn nhòa tui đây, trống trước, trống sau, gộ (gạo) không đủ nấu. Cô ở được mấy bữa?” Cô Lành bóp chặt cánh tay anh Tí “Chuyện đó để em lo. Em chỉ hỏi anh. Anh còn thương em không? Mà không còn thương em, em cũng chấp nhận nữa. Miễn là anh cho em được thương anh, để em được gần anh, gần mẹ, săn sóc cho mẹ. Khi anh đi lính, em thường đến thăm mẹ. Mẹ coi em như con nên em cũng coi như mẹ ruột. Sau nầy, mẹ sẽ già yếu, anh là con trai, làm sao săn sóc cho mẹ được?” Anh Tí yên lặng, rót nước uống rồi nói “Thôi được! Nhưng cô chờ cho tuần sau, khi tui xây lại nhòa ni thành nhòa lầu, sắm một cái TV màu, một chiếc Hon Ðoa mới tinh... rồi tui roa Ðòa Nẻn đón cô về” “Bộ anh hóa phép màu hay sao?” “Phép tét (phép tắc) chi! Tui trúng độc đét (độc đắc), chi không có! Tuần ni không trúng thì tuần sau, tuần sau nữa. Cô cứ chờ, chớ tui đâu có phụ rảy chi cô. Chờ tới khi tui già, cô già, rồi chết là xong. Cô núa chiện trên trời! Trừ khi cô là triệu phú thì họa may. Nhưng cô giàu có, thì tui thòa (thà) chết còn hơn là nhờ cô” “Anh cũng bị tù cải tạo sao không đi diện HO?” “Tui đi tù. Bịnh sắp chết, chúng cho khiêng về chôn. Không biết răng, tự nhiên hết bịnh? Chưa đủ boa (ba) năm” “Bây giờ em lo được giấy tờ để anh và mẹ qua Mỹ. Anh nên vì em, vì mẹ mà đi Mỹ. Nghe anh!” “Lồm giấy tờ giỏa mộ (giả mạo) chỉ có đi tù chớ đi Mỹ chi!” “Nhưng em làm giấy tờ hợp pháp, anh có đi không?” “Dại chi không đi. Nhưng tiền bọac (bạc), chi phí tính răng (tính sao)?” “Qua Mỹ, anh làm có tiền, trả lại em” “Nhưng có chiện chi, tui không đi tù lần nữa đâu. Tui ngán đi tù rồi” “Bảo đảm với anh không sao đâu. Miễn anh "Ừ"ø một tiếng thì em lo xong ngay. "Ừ" đi anh!” “Tui biết cô chẻn lồm được chi mô (chẳng làm được gì đâu), nhưng tui cũng "Ừ" cho cô vui lòng” “Nhớ nghe! Hứa là phải giữ lời. Anh nhớ lúc còn đi học, mỗi khi anh và em hứa với nhau điều gì, mình thường nghéo tay nhau. Bây giờ mình cũng nghéo tay đi anh” “Thôi thôi, giòa (già) đầu rồi, đừng lồm (làm) trò trẻ!” Anh Tí lại làm nghiêm, cô Lành thì tìm cách sao cho anh ta cười. Cô biết tính anh Tí, nên không lấy đó làm buồn. Cô chợt hỏi “Con Hạnh còn ở bên nhà không?” “Hén (hắn) có đi mô! Giờ ni chéc (chắc) hén về rồi. Hén lồm bánh bông loan (làm bánh bông lan), bỏ mối ngoài chợ Vĩnh Ðiện và mấy tiệm en, quán nước. Ðể tui qua cua (coi) thử”
Khi anh Tí qua nhà cô Hạnh thì cô Lành lại kéo áo mở cái túi đeo trước bụng, móc ra một tờ trăm đô, xếp nhỏ lại bỏ vào túi. Ðây là quà cô dành cho cô bạn tên Hạnh, cũng là hàng xóm của anh Tí. Chỉ năm phút sau, cô Hạnh theo anh Tí đi vào. Anh Tí hỏi “Mi biết ai đây không?” Côâ Hạnh nhìn cô Lành, tần ngần một lúc rồi nói “Ai ri hè? Coi giống con Lành! Phải mi là con Lành không mi?” Côâ Lành đứng lên cười cười “Cho nói lại lần nữa. Cố nhớ coi!” Cô Hạnh la to lên “Tổ cha mi! Mi là con Lành chớ ai vô đây?” Hai cô nhào vô, ôm nhau. Cô Hạnh ứa nước mắt “Mấy chục năm ni mi đi mô? Tao bắt ông Tí đi tìm mi mà không biết mi đi mô?!” Rồi cô Hạnh cười “Tính tao hay khóc. Gặp mi tao mừng quá!” “Bộ mi khóc mừng gặp lại tao không đáng mấy giọt nước mắt sao mi tiếc. Ðừng làm như ông Tí. Gặp tao không thèm nhìn, còn nạt nộ tao nữa” “Ông đó tàng tàng (khùng khùng). Ðừng thèm để ý. Chừ mi qua nhà tao chơi. Ở lại với tao, mai về được không? Hay là sợ "heo kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem" mà đòi về sớm?” “Chồng con chi tao! Cầu cho có người đòi tòm tem mà người ta không thèm” Cô Lành nói với anh Tí “Anh Tí chờ em qua nhà Hạnh rồi về ngay nghe. Em cần nói với anh chuyện nầy”.
Cô Lành qua nhà cô Hạnh. Nhà vắng người. Hai cô ngồi trên giường. Cô Hạnh thò tay bóp bóp đùi cô Lành rồi dòm quanh người cô Lành “Coi bộ còn năng (cứng) gớm. Ngực cũng ngon, đùi, mông tròn vo. Mi chưa chồng con là đúng. Mi coi tao, chỗ nào cũng nhão nhẹt!” “Bộ không có ai ở nhà sao mi ăn nói tự do quá vậy?” “Ông xã tao đi làm, hai đứa con đi học. Khỏi lo! Cứ nói cho sướng miệng. Nhớ hồi còn đi học không? Mấy đứa con gái tụi mình, tụm năm, tụm ba ở nhà tao, ăn me, ăn ổi rồi nói tầm bậy tầm bạ... Sướng thiệt! Chừ khổ quá. Bao lâu nay, gặp được mi tao mới có dịp nói bậy” “ Bộ có chồng, mi không nói bậy với chồng được hay sao?” “Có nói chớ, nhưng nói chuyện khác. Chờ ổng nói trước, mình nói theo. Mi lấy chồng thì biết liền. Ủa, trước giờ mi đi đâu mà chưa chồng con chi cả? Mi lấy ông Tí đi, ổng cũng còn độc thân. Ngó rứa chớ ổng còn thương mi lắm. Mà mi chịu ổng không? Già rồi mi ơi. Tối ngủ ôm cái gối, sướng ích chi!” “Năm bảy tư, gia đình tao từ Vĩnh Ðiện dời ra Ðà Nẵng, năm bảy lăm, bỏ Ðà Nẵng đi luôn. Tao cũng thương ảnh lắm chớ! Nhưng không biết ảnh nghĩ sao? Ảnh lầm lỳ với tao từ sáng tới giờ” “Mi biết tính ổng rồi. Ổng cố chấp lắm. Giọng Kế Xuyên quê đặc mà ổng đâu chịu sửa. Ổng muốn làm mặt lạ vì ổng mặc cảm mình đạp xe thồ, mặc cảm nhà nghèo. Mi thấy đó, tết nhứt đến nơi mà nhà ổng có sắm sửa, chuẩn bị chi đâu! Ổng nghĩ như thời xưa, lấy vợ là phải nuôi vợ con, ổng sợ thêm miệng ăn nữa thì chết! Hơn nữa tao nghĩ, có lẽø ổng nghi mi đã lấy chồng hay bồ bịch gì đó, ổng tức mà không biết nói răng?! Nhưng tao biết, ổng thương mi lắm. Mi còn nhớ, khi ổng bị thương về nhà, mi ghé thăm, không biết mi với ổng có chuyện chi mà ổng qua nhà tao ngồi khóc ngon lành. Ổng nói mi bỏ ổng rồi. Coi bộ cứng rắn, lạnh lùng chớ ổng cũng mít ướt như tụi mình chớ chẳng hơn chi” “Mi cố nói giùm tao, sao cho ảnh chịu lấy tao, thì mi có cái đầu heo” “Mi yên tâm, để tao lo chuyện đó, ổng là của mi, chắc ăn như lấy đồ trong túi. Ngó rứa chớ tao nói là ổng nghe lời liền. Ổng coi tao như bạn thân, có gì cũng kể cho tao nghe” “Có khi nào ảnh nhắc đến tao không?” “Tao có hỏi Còn nhớ Lành không? Ổng nói. Không nhớ Lành thì nhớ ai? Có lẽ bây chừ Lành đã có chồng, có con rồi" Cô Lành móc túi lấy tờ bạc đã xếp nhỏ, bỏ vào túi cô Hạnh “Tao gửi mấy đồng cho hai cháu. Bây giờ tao phải về” Cô Hạnh nghĩ rằng bạn cho mình tờ một tờ bạc Việt Nam nên chỉ nói cám ơn mà không quan tâm” “Ủa. Mi nói sẽ ở lại với tao mà? Ở lại, tối nay nằm nói chuyện với nhau cho đã” “Rồi chồng mi nằm đâu?” “Ðừng lo chuyện đó. Tao tống ổng ra ngoài phản. Hay là mi qua nằm với ông Tí, tâm sự trắng đêm, cho đã thèm bấy lâu nay” “Ðồ quỉ sứ, nói chuyện bậy bạ. Ðể tao về. Ở lại đây, đêm hôm, giấy tờ, trình thưa, tao không muốn phiền mi” Hai người qua nhà anh Tí. Cô Lành xuống bếp ôm mẹ anh Tí, thì thầm “Bác nói giùm con, nghe bác. Tuần sau con về lại đây. Bác nhớ lo cho ảnh ăn uống, ảnh ốm quá, con thương ảnh quá!” “Choa mi! Tao cũng đưa xương mà mi chỉ nghĩ đến hén, bét (bắt) tao lo cho hén” Cô Lành cười chống chế “Thì bác cũng thương ảnh, thương con. Bác muốn con với ảnh yên tâm thì bác cũng phải ăn uống cho đầy đủ. Thôi, con về nghe bác” Cô tựa đầu vào vai bà như cô bé làm nũng với mẹ “Con muốn kêu bác bằng mẹ mà sợ anh Tí rầy con” “Hén quyền chi mà rầy con?”
Anh Tí đã đưa xe đạp ra sân, ý muốn cô Lành về sớm. Cô Lành qua chào từ giả cô Hạnh rồi bước ra, ngồi sau xe, vòng tay ôm bụng anh Tí và nói với cô Hạnh “Mi thấy, ai đi xe thồ cũng ôm eo ảnh. Tao ôm thì ảnh cự, nói sao ôm cứng ngắt” “Ổng cự mặc kệ ổng. Cứ ôm chặt cho tao. Ôm ngày ôm đêm, ổng cự riết rồi khoái chí, bắt mi ôm nữa” “Con quỉ nói trây! Tao về nghe!” Cô Hạnh vui vẻ la to lên “Không về thì đứng xuống, khó chi! Ê! Có phải hai anh chị hẹn hò, đưa nhau vô phòng ngủ không?” Hai cô lại cười như bị thọt lét. Cô Lành ngoái cổ lại nói “Mi thành nái xề rồi mi ơi! Nói trây không biết mắc cỡ!”
Anh Tí làm thinh, đạp xe ra đường. Cô Lành ngồi sau, ôm eo, tựa đầu vào lưng anh ta. Anh Tí bực mình “Ðừng lồm (làm) rứa, người ta thấy tề!” “Thời đi học, anh chở em đi chơi, em cũng ôm như thế nầy, sao anh không la em?” “Ði học khoác (khác), đi xe thồ khoác. Hồi trước là quê hương, đất nước mình, lồm chi không được. Chừ, lồm thân mất nước, vui thú chi” Cô Lành không ôm anh Tí nữa, sụt sùi khóc “Sao anh khó với em vậy?” Anh Tí yên lặng một lúc rồi thở dài “Xin lỗi. Tui buồn quá! Mất nước rồi. Buồn suốt đời. Biết ngày nồ (nào) mới vui được? Tôi chỉ sống qua ngày để nuôi mẹ giòa (già)ø, sướng ích chi mà nghĩ đến vợ con. Con cái "ngụy" lớn lên cũng chỉ để chúng ngồi lên đầu, hành họa (hạ), coi như trâu ngựa. Ði học chúng cũng không cho, đi lồm (làm) chúng cũng không cho” Cô Lành lại vòng hai tay, ôm bụng anh Tí “Bây giờ có em, em phụ với anh nuôi mẹ. Anh hãy quên chuyện nước nhà, mà nghĩ đến em. Anh có suy nghĩ, buồn phiền bao nhiêu cũng không làm được gì. Vận nước nó như vậy nhưng cũng sẽ đến ngày tươi sáng. Anh đã chiến đấu, đã bị thương thì coi như nợ nước anh đã trả rồi, nay anh có quyền nghĩ đến tình nhà. Bây giờ em về đây tìm anh. Anh và em, trước đây, có biết bao kỷ niệm. Anh có biết khi anh bảo em về, đừng đến anh nữa vì anh sắp lấy vợ, em khóc hết nước mắt. Em giận anh nhưng quyết làm gái già chứ không thèm để mắt đến ai cả. Anh có thương em không?”
Anh Tí yên lặng, đặt bàn tay trái, bàn tay bất khiển dụng của anh lên hai tay cô Lành đang ôm bụng anh. Anh bóp tay cô Lành, nhưng bàn tay thương tật nên chỉ mấy ngón tay là cử động nhẹ. Cô Lành ép hai bàn tay mình lên bàn tay anh Tí, dụi đầu vào lưng anh Tí “Bây giờ còn sớm, mình dừng ở quán nước đằng kia. Em nói chuyện nầy anh nghe”.
5. Bí Mật Của Ông Thầy Thọt
“Con ơi nhớ lấy lời cha.
Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm”
Hội An là một thành phố cổ. Khoảng thế kỷ 15, 16 đã là thương cảng phồn vinh của miền Nam thời Chúa Nguyễn. Các thương thuyền ngoại quốc thường ghé vào trao đổi hàng hóa. Người Nhật, người Tàu, người Bồ Ðào Nha, người Tây Ban Nha có đại diện thương cục ở đấy. Sau nầy, lòng sông Thu Bồn, phía Cửa Ðại bị phù sa lấp dần, tàu thuyền lớn không vào được nên các thương nhân bỏ đi, chỉ còn lại người Tàu. Họ là thần dân nhà Minh bên Tàu, khi Mãn Thanh cai trị nước Tàu, họ bỏ xứ ra đi, đến Hội An họ ở luôn tại đấy. Một số lấy người bản xứ, sinh con, đẻ cháu, xưng là người Minh Hương để tỏ lòng tưởng nhớ đến nhà Minh. Tôi là người Minh Hương nhưng không biết tiếng Tàu, cũng không rõ gốc gác mình ra sao.
Hội An, rộng khoảng hai cây số vuông, có ba đường phố chính. Ðường Cường Ðể, đường Nguyễn Thái Học và đường Bạch Ðằng (bờ sông). Những đường phố sầm uất nhất đều là nhà cửa, tiệm buôn của người Tàu, bảng hiệu thường bằng chữ Tàu. Người Tàu có hệ thống buôn bán, giao dịch riêng. Họ giúp đỡ nhau trong thương trường và rất trọng chữ tín. Giống như người Tàu Chợ Lớn, họ sống tách biệt với xã hội người bản xứ. Ngay cả trong người Tàu, họ cũng có bang hội (tỉnh bên Tàu) riêng. Mỗi bang hội có chùa riêng giống như đình làng của người Việt ở thôn quê hay hội đồng hương ở hải ngoại. Chùa Phước Kiến, chùa Hải Nam, chùa Quảng Ðông…... Chùa Ngũ Bang lớn nhất, chung cho các bang hội, có trường dạy chữ Tàu, sân chơi bóng rổ, cầu lông...
Thời chiến tranh Việt- Pháp (1945-1954) việc buôn bán của người Tàu suy sụp, Hội An trở lại với cảnh cổ lổ và buồn bả với những đường phố vắng vẻ, nhà cửa rêu phong, đèn đóm tù mù, vàng vọt… cứ vậy cho đến bây giờ, thành “phố cổ”!
Có thể nói, dân Hội An toàn người Tàu và người Minh Hương (lai Tàu). Trải qua mấy trăm năm, người Minh Hương, tự coi như người Việt chính cống, dù vẫn còn đình Minh Hương trên đường Lê Lợi, nhưng không thấy cúng tế gì nữa. Hội An như một cái túi, ra vào chỉ con đường độc đạo Vĩnh Ðiện-Hội An. Không thương mãi, không sản xuất, không dịch vụ. Người nơi khác đến, không có cách gì để sinh sống. Năm 1954, dân miền Bắc di cư, được đưa vào Hội An, rồi cũng bỏ đi dần. Sau 1975, cán bộ Cộng Sản từ Bắc vào Hội An cai trị cũng nhiều, họ đem theo gia đình nên trong giao tiếp đã nghe tiếng Bắc, tiếng Nghệ Tĩnh.
Trước khi Hội An thành thương cảng, nó là lãnh thổ của Chiêm Thành. Di tích còn lại có thành Trà Kiệu, cố đô của Chiêm Thành, cách Hội An độ ba mươi cây số. Ngay tại Hội An thỉnh thoảng những người đào đất bắt gặp những tượng đá, vật dụng gia đình, nghe nói có khi gặp vàng nữa, nhưng dĩ nhiên chẳng ai dại gì nói ra. Trừ vàng, thường thì không ai muốn giữ các tượng đá trong nhà. Họ sợ ma Hời (người Chiêm Thành) vật chết. Họ đem để các tượng thần trước bình phong đền miếu hoặc gốc cây đa. Tôi có thấy một tượng phụ nữ Chàm bằng đá, rất đẹp, để trước miếu Quảng An, sau có ông thầy dạy vẽ trường Trần Quí Cáp, thầy Kiệm, đem về dùng làm mẫu cho học trò tập vẽ. Chúng tôi sợ ma Hời bắt thầy chết, vậy mà thầy vẫn sống nhăn, chả sao cả.
Về cái miếu Quảng An, nằm cạnh nhà thầy hiệu trưởng Hoàng Trung, trên đường Phan Chu Trinh, bên cạnh là con hẻm, chạy qua đường Trần Hưng Ðạo. Con hẻm rộng độ bốn mét. Một bên hẻm là vách tường nhà Vương Tử Hoàng, bạn học với tôi, một bên là hàng rào vườn của nhà cô Bích Hà, cây cối um tùm. Người ta đồn miếu Quảng An thờ ma Hời, nhưng không ai cúng ma Hời, chỉ thấy ngày rằm, mùng một có ông Ba Râu, nhà gần đó, ra thắp nhang. Ông Ba Râu, người Huế, đã già. Ông ăn cay rất tài. Một lần tôi thấy một bà gánh rau quả, ớt tỏi xuống chợ bán, ông Ba Râu nói “Bà bán ớt không cay, ai mua?” Bà hàng giận lắm “Ông ăn đi thì biết. Ông ăn hết cũng được” Bà ta để gánh hàng xuống, ông ta ngồi bốc ăn, hết trái ớt nầy đến trái kia như người ta ăn trái cây. Mọi người xúm lại coi và cười bà hàng khiến bà bị quê, gánh hàng đi thẳng. Xuân Thu nhị kỳ miếu Quảng An có lễ cầu an, rất long trọng. Lúc đó tôi còn học tiểu học, mỗi tối đi ngang qua miếu tôi sợ kinh khủng, không dám nhìn vào miếu, sợ ngài vật chết.
Trong hẻm nầy có giếng nước ngọt nổi tiếng. Ðó là giếng Bá Lễ. Nhà khá giả thường thuê người gánh nước giếng Bá Lễ về làm nước uống, nấu ăn. Thế nên giếng lúc nào cũng tấp nập người đến kéo nước. các cô, bà lấy đó làm nơi trò chuyện. Tối lại (trước 1975), có các chàng lính tráng lảng vảng ra tán tỉnh, cập kè các cô, thế nên về ban đêm con đường thường xuyên tối thui. Vì tuy có điện đường, nhưng các chàng lính lấy đá ném cho vỡ bóng đèn để tiện quờ quạng các em gánh nước. Nhân vật chính (ông Thầy Thọt) của câu chuyện tôi sắp kể sau đây, có dính líu đến cái miếu Quảng An nầy. Ông ta là bác của tôi, cũng chẳng biết liên hệ bà con ra sao, nhưng các người con của bác, lớn thì tôi kêu bằng anh, chị, nhỏ thì tôi kêu mầy tao cũng chẳng ai sửa sai. Nhà người bác nầy và nhà tôi ở trong khuôn viên của nhà thờ tộc Lê, trong hẻm, gần ngã tư Lê Lợi-Phan Chu Trinh, cách miếu Quảng An độ năm trăm mét. Người bác nầy không khá giả gì. Ông ta bán kẹo kéo. Sáng sớm ông nấu đường trong một cái chảo, rồi đổ ra một cái thau, thau được đặt trên một chậu nước nhỏ cho mau nguội, xong ông đánh đường trên một chạc ba gắn trên cột nhà cho trắng đường, thành cục kẹo bự. Ông đặt cục kẹo trên bàn, banh ra, đổ đậu phọng rang vào và kéo hai mép lại với nhau, giống như bác sĩ mổ bụng bịnh nhân, chữa trị xong, bỏ ruột gan vào và khâu lại vậy. Tôi thường dậy sớm, qua nhà ông ta, chờ khi đậu phọng rang đã nguội, tôi bóp cho vỏ mỏng tróc ra, bỏ vô mồm, ăn chán chê mà ông ta không nói tiếng nào. Ông ta coi tôi như con ruột. Sáng nào cũng để sẵn cho tôi, khi thì chén cơm chiên, khi thì tô cơm hến để tôi điểm tâm trước khi đi học. Ông kể lại lai lịch nghề kẹo kéo của ông ta một cách hãnh diện. Rằng trước đây, vào khoảng thập niên 1940 Hội An chỉ có một người Tàu bán kẹo kéo. Cách làm kẹo kéo khá đơn giản, nhưng chú Ba (Tàu) giấu nghề rất kỹ. Chú ở chung với người bà con trong một tiệm buôn. Sáng sớm, mới bốn năm giờ, chú đã dậy nấu kẹo. Chẳng phải chú siêng năng gì, nhưng chú sợ ban ngày, có người nhìn thấy sẽ ăn cắp nghề. Người bác tôi, lúc đó còn rất trẻ, làm công nhân khuân vác trong tiệm, âm mưu ăn cắp nghề nên xin chủ ngủ nhờ trong tiệm. Tối đến, bác ôm chiếc chiếu, leo lên đống hàng hóa nằm ngủ, đến gần sáng bác hé mắt theo dõi chú Ba làm kẹo. Tiến trình làm kẹo thì bác nắm được, nhưng có một thứ nước mà chú Ba vô phòng ngủ đem ra đổ vào đường trước khi nấu thì bác chịu, không biết là chất gì? Sau, bác rình lúc chú đi vắng, mò vô buồng chú, tìm. Hóa ra là hủ giấm chú giấu kỹ trong gậm giường. Sau nhiều lần nấu thử, bác tôi thành công. Bác làm một thùng kẹo kéo, nhờ người bạn đem đến trước tiệm, nơi chú Ba trọ, đứng đó suốt buổi, lại bán rất rẻ. Chú Ba buồn tình bỏ đi.
Thế là bác tôi hành nghề kẹo kéo từ đó. Nghề nầy cũng chỉ đủ nuôi vợ con sống qua ngày. Ði rả cẳng suốt ngày mà cái nhà tranh vách lá ngày càng xiêu vẹo. Một lần bác bị cảm vì hôm trước mắc mưa dông. Buổi sáng chủ nhật, bác trùm mền nằm, không làm kẹo. Tôi qua hỏi thăm, bác bảo người lạnh run, đau đầu... Tôi bảo bác đưa tiền, tôi ra tiệm thuốc tây mua thuốc cho. Tôi cầm tiền, ra tiệm thuốc tây, kể bịnh cho người bán thuốc, mua về cho bác uống, gần trưa là bác dậy nấu kẹo chuẩn bị đi bán. Bác bảo tôi đọc cái toa thuốc cho bác nghe, chữa bịnh gì, uống thế nào... xong bác đưa tiền cho tôi ra tiệm thuốc tây mua một mớ. Thế là bác vừa bán kẹo vừa làm thầy thuốc. Bác ôm thùng kẹo kéo đi khắp vùng ngoại ô, về cả vùng quê xa xôi, hẻo lánh. Người nào bịnh bác cũng vào thăm, sờ đầu, bắt mạch (?!), rồi bác cho ít thuốc cảm uống tạm. Chiều về bác bảo tôi ra tiệm thuốc tây, kể bịnh trạng của những bịnh nhân của bác và nhà thuốc đưa (bán) thuốc, đem về. Hôm sau bác đem thuốc cho bịnh nhân uống. Người dân nông thôn ít khi dùng thuốc tây, khi bịnh chỉ uống nước rễ cây, lá cây, xông hơi, cạo gió, nay uống thuốc tây, linh nghiệm như thần. Bác không biết chữ, chỉ đọc được các con số. Thỉnh thoảng bác nhìn lên lịch và làm ra vẻ thông thái “Chà bữa nay tám tây (phần trên của tờ lịch) rồi mà chỉ mới mồng hai âm lịch (phần dưới)!” Bác mù chữ nhưng nhớ công dụng các loại thuốc tây rất tài. Chỉ cần tôi đọc cái toa một lần là bác nhớ mãi. Ða số là thuốc trụ sinh, thuốc cảm và một vài thứ quảng cáo trên đài phát thanh, ví dụ đài phát thanh quảng cáo thuốc ho Acodine như sau "Trận gió thu phong rụng lá vàng. Lá rơi hàng xóm lá bay sang. Vàng bay mấy lá năm già nửa. Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng... Thiếp phụ chàng vì chàng ho dai dẳng suốt cả một mùa thu. Ðừng có lo! Ðã có A-cô-đin, trị dứt các chứng ho phong, ho gió, ho cảm, ho đàm..." Bác còn sai tôi đi mua thêm thuốc bán trong tiệm thuốc bắc như Tiêu Ban Lộ, Cứu Cấp Lục Thần Thủy... (đựng trong các ống thủy tinh giống như ống thuốc tây, về ngâm nước, lột tên thuốc dán trên ống thuốc thủy tinh, không ai biết thuốc gì). Thuốc tây thường là thuốc viên, bác bỏ vô cối giả thành bột, gói thành những gói nhỏ. Mẹ tôi gọi bác là ông thầy Thọt, chẳng phải bác què chân mà vì mỗi sáng bác cứ đem thuốc ra đâm thọt trong cái cối nghe cọc cạch, cọc cạch. Nhờ sáng kiến đó mà bác nổi danh mát tay ở vùng thôn quê. Thỉnh thoảng tôi thấy có người đem gà, vịt, chiếu Bàn Thạch đến biếu bác. Tôi thường qua nhà bác chơi với mấy người con của bác. Bác rất thương con, buổi chiều, bán kẹo về, làm gì bác cũng mua quà cho các con. Một lần, tôi thấy anh con trai của bác ăn một cái đùi gà, bác đứng bên cạnh, anh ta ăn xong, xương gà còn dính chút thịt, bác cầm lên gặm sạch rồi mới ném cho chó. Buổi tối, bác đem tiền bán kẹo từ thùng kẹo kéo ra, bảo tôi đếm lại. Thường là tiền một đồng, được bác xếp từng cọc mười đồng. Tôi đếm lại, thỉnh thoảng mỗi cọc dư một đồng, tôi để riêng ra, đếm xong, tôi nói số tiền dư đó, bác nói “Cho mi đó”.
Nhờ làm thầy thuốc, cuộc sống của gia đình bác coi mòi khá hơn trước chứ chẳng giàu có gì. Vậy mà đột nhiên, một hôm bác bảo tôi “Tao sẽ ra Ðà Nẳng ở, tao mua nhà ngoài đó rồi” Tôi hỏi “Bác làm gì mà giàu quá vậy?” Bác thì thầm một cách bí mật “Mầy đừng cho ai biết, con tao mầy cũng đừng cho biết. Tao bắt được vàng Hời, một con cua vàng sau miếu Quảng An”
Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm”
Hội An là một thành phố cổ. Khoảng thế kỷ 15, 16 đã là thương cảng phồn vinh của miền Nam thời Chúa Nguyễn. Các thương thuyền ngoại quốc thường ghé vào trao đổi hàng hóa. Người Nhật, người Tàu, người Bồ Ðào Nha, người Tây Ban Nha có đại diện thương cục ở đấy. Sau nầy, lòng sông Thu Bồn, phía Cửa Ðại bị phù sa lấp dần, tàu thuyền lớn không vào được nên các thương nhân bỏ đi, chỉ còn lại người Tàu. Họ là thần dân nhà Minh bên Tàu, khi Mãn Thanh cai trị nước Tàu, họ bỏ xứ ra đi, đến Hội An họ ở luôn tại đấy. Một số lấy người bản xứ, sinh con, đẻ cháu, xưng là người Minh Hương để tỏ lòng tưởng nhớ đến nhà Minh. Tôi là người Minh Hương nhưng không biết tiếng Tàu, cũng không rõ gốc gác mình ra sao.
Hội An, rộng khoảng hai cây số vuông, có ba đường phố chính. Ðường Cường Ðể, đường Nguyễn Thái Học và đường Bạch Ðằng (bờ sông). Những đường phố sầm uất nhất đều là nhà cửa, tiệm buôn của người Tàu, bảng hiệu thường bằng chữ Tàu. Người Tàu có hệ thống buôn bán, giao dịch riêng. Họ giúp đỡ nhau trong thương trường và rất trọng chữ tín. Giống như người Tàu Chợ Lớn, họ sống tách biệt với xã hội người bản xứ. Ngay cả trong người Tàu, họ cũng có bang hội (tỉnh bên Tàu) riêng. Mỗi bang hội có chùa riêng giống như đình làng của người Việt ở thôn quê hay hội đồng hương ở hải ngoại. Chùa Phước Kiến, chùa Hải Nam, chùa Quảng Ðông…... Chùa Ngũ Bang lớn nhất, chung cho các bang hội, có trường dạy chữ Tàu, sân chơi bóng rổ, cầu lông...
Thời chiến tranh Việt- Pháp (1945-1954) việc buôn bán của người Tàu suy sụp, Hội An trở lại với cảnh cổ lổ và buồn bả với những đường phố vắng vẻ, nhà cửa rêu phong, đèn đóm tù mù, vàng vọt… cứ vậy cho đến bây giờ, thành “phố cổ”!
Có thể nói, dân Hội An toàn người Tàu và người Minh Hương (lai Tàu). Trải qua mấy trăm năm, người Minh Hương, tự coi như người Việt chính cống, dù vẫn còn đình Minh Hương trên đường Lê Lợi, nhưng không thấy cúng tế gì nữa. Hội An như một cái túi, ra vào chỉ con đường độc đạo Vĩnh Ðiện-Hội An. Không thương mãi, không sản xuất, không dịch vụ. Người nơi khác đến, không có cách gì để sinh sống. Năm 1954, dân miền Bắc di cư, được đưa vào Hội An, rồi cũng bỏ đi dần. Sau 1975, cán bộ Cộng Sản từ Bắc vào Hội An cai trị cũng nhiều, họ đem theo gia đình nên trong giao tiếp đã nghe tiếng Bắc, tiếng Nghệ Tĩnh.
Trước khi Hội An thành thương cảng, nó là lãnh thổ của Chiêm Thành. Di tích còn lại có thành Trà Kiệu, cố đô của Chiêm Thành, cách Hội An độ ba mươi cây số. Ngay tại Hội An thỉnh thoảng những người đào đất bắt gặp những tượng đá, vật dụng gia đình, nghe nói có khi gặp vàng nữa, nhưng dĩ nhiên chẳng ai dại gì nói ra. Trừ vàng, thường thì không ai muốn giữ các tượng đá trong nhà. Họ sợ ma Hời (người Chiêm Thành) vật chết. Họ đem để các tượng thần trước bình phong đền miếu hoặc gốc cây đa. Tôi có thấy một tượng phụ nữ Chàm bằng đá, rất đẹp, để trước miếu Quảng An, sau có ông thầy dạy vẽ trường Trần Quí Cáp, thầy Kiệm, đem về dùng làm mẫu cho học trò tập vẽ. Chúng tôi sợ ma Hời bắt thầy chết, vậy mà thầy vẫn sống nhăn, chả sao cả.
Về cái miếu Quảng An, nằm cạnh nhà thầy hiệu trưởng Hoàng Trung, trên đường Phan Chu Trinh, bên cạnh là con hẻm, chạy qua đường Trần Hưng Ðạo. Con hẻm rộng độ bốn mét. Một bên hẻm là vách tường nhà Vương Tử Hoàng, bạn học với tôi, một bên là hàng rào vườn của nhà cô Bích Hà, cây cối um tùm. Người ta đồn miếu Quảng An thờ ma Hời, nhưng không ai cúng ma Hời, chỉ thấy ngày rằm, mùng một có ông Ba Râu, nhà gần đó, ra thắp nhang. Ông Ba Râu, người Huế, đã già. Ông ăn cay rất tài. Một lần tôi thấy một bà gánh rau quả, ớt tỏi xuống chợ bán, ông Ba Râu nói “Bà bán ớt không cay, ai mua?” Bà hàng giận lắm “Ông ăn đi thì biết. Ông ăn hết cũng được” Bà ta để gánh hàng xuống, ông ta ngồi bốc ăn, hết trái ớt nầy đến trái kia như người ta ăn trái cây. Mọi người xúm lại coi và cười bà hàng khiến bà bị quê, gánh hàng đi thẳng. Xuân Thu nhị kỳ miếu Quảng An có lễ cầu an, rất long trọng. Lúc đó tôi còn học tiểu học, mỗi tối đi ngang qua miếu tôi sợ kinh khủng, không dám nhìn vào miếu, sợ ngài vật chết.
Trong hẻm nầy có giếng nước ngọt nổi tiếng. Ðó là giếng Bá Lễ. Nhà khá giả thường thuê người gánh nước giếng Bá Lễ về làm nước uống, nấu ăn. Thế nên giếng lúc nào cũng tấp nập người đến kéo nước. các cô, bà lấy đó làm nơi trò chuyện. Tối lại (trước 1975), có các chàng lính tráng lảng vảng ra tán tỉnh, cập kè các cô, thế nên về ban đêm con đường thường xuyên tối thui. Vì tuy có điện đường, nhưng các chàng lính lấy đá ném cho vỡ bóng đèn để tiện quờ quạng các em gánh nước. Nhân vật chính (ông Thầy Thọt) của câu chuyện tôi sắp kể sau đây, có dính líu đến cái miếu Quảng An nầy. Ông ta là bác của tôi, cũng chẳng biết liên hệ bà con ra sao, nhưng các người con của bác, lớn thì tôi kêu bằng anh, chị, nhỏ thì tôi kêu mầy tao cũng chẳng ai sửa sai. Nhà người bác nầy và nhà tôi ở trong khuôn viên của nhà thờ tộc Lê, trong hẻm, gần ngã tư Lê Lợi-Phan Chu Trinh, cách miếu Quảng An độ năm trăm mét. Người bác nầy không khá giả gì. Ông ta bán kẹo kéo. Sáng sớm ông nấu đường trong một cái chảo, rồi đổ ra một cái thau, thau được đặt trên một chậu nước nhỏ cho mau nguội, xong ông đánh đường trên một chạc ba gắn trên cột nhà cho trắng đường, thành cục kẹo bự. Ông đặt cục kẹo trên bàn, banh ra, đổ đậu phọng rang vào và kéo hai mép lại với nhau, giống như bác sĩ mổ bụng bịnh nhân, chữa trị xong, bỏ ruột gan vào và khâu lại vậy. Tôi thường dậy sớm, qua nhà ông ta, chờ khi đậu phọng rang đã nguội, tôi bóp cho vỏ mỏng tróc ra, bỏ vô mồm, ăn chán chê mà ông ta không nói tiếng nào. Ông ta coi tôi như con ruột. Sáng nào cũng để sẵn cho tôi, khi thì chén cơm chiên, khi thì tô cơm hến để tôi điểm tâm trước khi đi học. Ông kể lại lai lịch nghề kẹo kéo của ông ta một cách hãnh diện. Rằng trước đây, vào khoảng thập niên 1940 Hội An chỉ có một người Tàu bán kẹo kéo. Cách làm kẹo kéo khá đơn giản, nhưng chú Ba (Tàu) giấu nghề rất kỹ. Chú ở chung với người bà con trong một tiệm buôn. Sáng sớm, mới bốn năm giờ, chú đã dậy nấu kẹo. Chẳng phải chú siêng năng gì, nhưng chú sợ ban ngày, có người nhìn thấy sẽ ăn cắp nghề. Người bác tôi, lúc đó còn rất trẻ, làm công nhân khuân vác trong tiệm, âm mưu ăn cắp nghề nên xin chủ ngủ nhờ trong tiệm. Tối đến, bác ôm chiếc chiếu, leo lên đống hàng hóa nằm ngủ, đến gần sáng bác hé mắt theo dõi chú Ba làm kẹo. Tiến trình làm kẹo thì bác nắm được, nhưng có một thứ nước mà chú Ba vô phòng ngủ đem ra đổ vào đường trước khi nấu thì bác chịu, không biết là chất gì? Sau, bác rình lúc chú đi vắng, mò vô buồng chú, tìm. Hóa ra là hủ giấm chú giấu kỹ trong gậm giường. Sau nhiều lần nấu thử, bác tôi thành công. Bác làm một thùng kẹo kéo, nhờ người bạn đem đến trước tiệm, nơi chú Ba trọ, đứng đó suốt buổi, lại bán rất rẻ. Chú Ba buồn tình bỏ đi.
Thế là bác tôi hành nghề kẹo kéo từ đó. Nghề nầy cũng chỉ đủ nuôi vợ con sống qua ngày. Ði rả cẳng suốt ngày mà cái nhà tranh vách lá ngày càng xiêu vẹo. Một lần bác bị cảm vì hôm trước mắc mưa dông. Buổi sáng chủ nhật, bác trùm mền nằm, không làm kẹo. Tôi qua hỏi thăm, bác bảo người lạnh run, đau đầu... Tôi bảo bác đưa tiền, tôi ra tiệm thuốc tây mua thuốc cho. Tôi cầm tiền, ra tiệm thuốc tây, kể bịnh cho người bán thuốc, mua về cho bác uống, gần trưa là bác dậy nấu kẹo chuẩn bị đi bán. Bác bảo tôi đọc cái toa thuốc cho bác nghe, chữa bịnh gì, uống thế nào... xong bác đưa tiền cho tôi ra tiệm thuốc tây mua một mớ. Thế là bác vừa bán kẹo vừa làm thầy thuốc. Bác ôm thùng kẹo kéo đi khắp vùng ngoại ô, về cả vùng quê xa xôi, hẻo lánh. Người nào bịnh bác cũng vào thăm, sờ đầu, bắt mạch (?!), rồi bác cho ít thuốc cảm uống tạm. Chiều về bác bảo tôi ra tiệm thuốc tây, kể bịnh trạng của những bịnh nhân của bác và nhà thuốc đưa (bán) thuốc, đem về. Hôm sau bác đem thuốc cho bịnh nhân uống. Người dân nông thôn ít khi dùng thuốc tây, khi bịnh chỉ uống nước rễ cây, lá cây, xông hơi, cạo gió, nay uống thuốc tây, linh nghiệm như thần. Bác không biết chữ, chỉ đọc được các con số. Thỉnh thoảng bác nhìn lên lịch và làm ra vẻ thông thái “Chà bữa nay tám tây (phần trên của tờ lịch) rồi mà chỉ mới mồng hai âm lịch (phần dưới)!” Bác mù chữ nhưng nhớ công dụng các loại thuốc tây rất tài. Chỉ cần tôi đọc cái toa một lần là bác nhớ mãi. Ða số là thuốc trụ sinh, thuốc cảm và một vài thứ quảng cáo trên đài phát thanh, ví dụ đài phát thanh quảng cáo thuốc ho Acodine như sau "Trận gió thu phong rụng lá vàng. Lá rơi hàng xóm lá bay sang. Vàng bay mấy lá năm già nửa. Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng... Thiếp phụ chàng vì chàng ho dai dẳng suốt cả một mùa thu. Ðừng có lo! Ðã có A-cô-đin, trị dứt các chứng ho phong, ho gió, ho cảm, ho đàm..." Bác còn sai tôi đi mua thêm thuốc bán trong tiệm thuốc bắc như Tiêu Ban Lộ, Cứu Cấp Lục Thần Thủy... (đựng trong các ống thủy tinh giống như ống thuốc tây, về ngâm nước, lột tên thuốc dán trên ống thuốc thủy tinh, không ai biết thuốc gì). Thuốc tây thường là thuốc viên, bác bỏ vô cối giả thành bột, gói thành những gói nhỏ. Mẹ tôi gọi bác là ông thầy Thọt, chẳng phải bác què chân mà vì mỗi sáng bác cứ đem thuốc ra đâm thọt trong cái cối nghe cọc cạch, cọc cạch. Nhờ sáng kiến đó mà bác nổi danh mát tay ở vùng thôn quê. Thỉnh thoảng tôi thấy có người đem gà, vịt, chiếu Bàn Thạch đến biếu bác. Tôi thường qua nhà bác chơi với mấy người con của bác. Bác rất thương con, buổi chiều, bán kẹo về, làm gì bác cũng mua quà cho các con. Một lần, tôi thấy anh con trai của bác ăn một cái đùi gà, bác đứng bên cạnh, anh ta ăn xong, xương gà còn dính chút thịt, bác cầm lên gặm sạch rồi mới ném cho chó. Buổi tối, bác đem tiền bán kẹo từ thùng kẹo kéo ra, bảo tôi đếm lại. Thường là tiền một đồng, được bác xếp từng cọc mười đồng. Tôi đếm lại, thỉnh thoảng mỗi cọc dư một đồng, tôi để riêng ra, đếm xong, tôi nói số tiền dư đó, bác nói “Cho mi đó”.
Nhờ làm thầy thuốc, cuộc sống của gia đình bác coi mòi khá hơn trước chứ chẳng giàu có gì. Vậy mà đột nhiên, một hôm bác bảo tôi “Tao sẽ ra Ðà Nẳng ở, tao mua nhà ngoài đó rồi” Tôi hỏi “Bác làm gì mà giàu quá vậy?” Bác thì thầm một cách bí mật “Mầy đừng cho ai biết, con tao mầy cũng đừng cho biết. Tao bắt được vàng Hời, một con cua vàng sau miếu Quảng An”
Trở lại chuyện miếu Quảng An. Thường thì ngày rằm, mồng một có ông Ba Râu ra thắp nhang, đèn. Cây đèn hột vịt, nhỏ xíu nên ánh sáng mờ ảo, bàn thờ trông càng âm u ma quái. Chẳng những bọn trẻ con chúng tôi mà cả đến người lớn cũng sợ. Mấy chị đàn bà chửi lộn thường gài nhau “Mầy có ngon ra miếu Quảng An thề với tao, đứa nào ăn ngược nói ngạo, ngài vật cho sặc máu ra”. Lại có lời đồn rằng có chị gánh nước và anh lính dẫn nhau vô miếu làm gì đấy, ngài bắt dính nhau phải chở đi nhà thương gỡ ra. Nhưng lời đồn hấp dẫn nhất là thỉnh thoảng vào ngày mồng một có bầy cua vàng bò ra kiếm ăn sáng rực cả một góc sân. Nhiều người rình, nhưng không ai xác nhận có bắt được cua vàng. Có thể họ bắt được nhưng giấu chăng? Chẳng hạn như ông bác họ của tôi bảo có bắt được cua vàng. Tôi không tin, tuy không bao giờ nói ra.
Thời câu chuyện tôi đang kể đây khoảng năm 1954, khi hiệp định Geneve chia cắt đất nước và đồng bào miền Bắc ồ ạt di cư vào Nam. Thành phố Hội An cũng hân hạnh được đón một số, phần đông là công chức hoặc tiểu thương. Vì thiếu chỗ nên các đình miếu được trưng dụng làm nơi cư ngụ cho đồng bào. Miếu Quảng An đón một gia đình, sau nầy tôi biết tên là ông Dần vì ông có sạp hàng ở chợ Hội An. Người Bắc di cư đa số là công giáo, họ chẳng sợ ma quỉ bao giờ. Ma quỉ thấy thánh giá là bỏ chạy cả. Ấy vậy mà miếu Quảng An đã làm cho gia đình ông Dần một phen sợ hãi. Nghe đồn rằng vào lúc gần khuya, đèn thắp sáng, mọi người còn thức, riêng ông Dần mới thiu thiu thì đứa con kêu thét lên, bà vợ cũng kêu thét lên khi thấy một cái đầu từ trên nóc miếu, chỗ có cửa sổ nhỏ, thò xuống, cái cổ cứ dài mãi ra mà chẳng thấy cái mình đâu cả? Cái đầu đen thùi, mắt trắng dã, miệng đỏ lói, nhe nanh như muốn cắn người ta. (các miếu thờ mái thường rất thấp, cửa sổ không có song cửa, xây cao để lấy ánh sáng). Khi ông Dần tỉnh ngủ thì chẳng thấy gì nhưng bà vợ cả quyết thấy rất rõ. Theo lời khuyên của mọi người, ông Dần nhờ một số bạn, buổi tối đến thổi kèn tây, tò te cho đến khuya. Ma quỉ nghe kèn tây sẽ bỏ đi hết. Tôi cùng một số bạn tối nào cũng đến xem thổi kèn. Có đèn điện sáng trưng nên tôi không còn sợ nữa. Ít lâu sau, hình như ông Dần mua đứt cái miếu nên cửa nẻo được lắp vào, sơn phết lại rất khang trang. Từ đó không thấy cúng cầu an “Xuân Thu nhị kỳ” nhưng ông Ba Râu vẫn vào thắp nhang mỗi rằm, mồng một, vì cái ngai thờ thần vẫn còn giữ lại trong tận cùng của miếu. Sau nầy, từ Mỹ, tôi về thăm Hội An thì cái miếu Quảng An đã bị đập bỏ và cán bộ nhà nước xây trên nền đó một nhà lầu ba tầng làm chỗ ở.
Chuyện người bác tôi tức ông thầy Thọt bảo rằng sẽ ra Ðà Nẳng mua nhà chỉ xảy ra sau khi chuyện ma xuất hiện nhác gia đình ông Dần ít lâu thôi. Tôi không tin chuyện bác tôi bắt được vàng. Trước đó có một lần, lúc gần khuya, trời lâm râm mưa, tôi đi coi ci nê về, thấy một người từ sau miếu đi ra. Tuy chỉ thoáng thấy dáng đi nhưng tôi biết đó là ông bác tôi. Sáng hôm sau, tôi nói ngay “Khi hôm con thấy bác sau miếu Quảng An” Bác bảo “Mầy đừng nói ai, tao rình bắt mấy con cua vàng. Có người ở trong miếu, nó động ổ nên bò ra kiếm ăn sau miếu” Thế rồi ít lâu sau bác mua nhà ngoài Ðà Nẳng. Nhà gần chợ Cồn, buôn bán rất khá giả. Sau nầy lớn lên, có lần ra Ðà Nẳng thi tú tài, tôi có trọ nhà bác mấy hôm. Ðó là một tiệm buôn sĩ, đủ thứ hàng hóa, từ áo quần may sẵn đến đồ gia dụng bằng nhựa, kẹo bánh thậm chí gạo cũng chất đầy những bao tạ trong góc nhà. Bạn hàng đến mua về bán ở các chợ thôn quê, Họ mua nhiều, phải chở bằng xích lô, ba gác ra bến xe. Vợ bác và cô con gái tất bật giao hàng, đếm tiền.
Thi xong, chưa có kết quả mà bác đã đãi tôi một bữa tiệc nhỏ “Tao biết mầy thi là đậu nên tao đãi mầy trước” Nhân lúc bác ngà ngà hơi rượu, tôi hỏi “Chuyện con rùa vàng có thật không bác?” Bác cười cười bảo “Mầy đã thấy rồi còn hỏi” “Nhưng con có thấy gì đâu?” “Cứ coi như thấy rồi đi, hỏi làm chi” Tôi biết bác không muốn nói, nhưng vẫn thắc mắc, không biết chuyện con cua vàng có thật không?
Ðậu tú tài xong, tôi vào Sài Gòn học tiếp, rồi thành công chức, rồi mất nước, tôi đi tù hơn sáu năm. Khi có vụ HO đi Mỹ, tôi ghé thăm bác, ông thầy Thọt ngày xưa. Hơn mấy mươi năm, bác đã già lắm rồi. Tóc bạc, răng rụng nhưng mập và trắng như một phú ông, đôi mắt vẫn còn vẻ tinh anh, ma mãnh của thời trước. Lúc trước bác thuộc giai cấp nghèo hèn, sau nầy giàu có, bác phát tướng, trông oai vệ, hoạt bát, nhất là trong giao tiếp, bác tự tin, gần như phách lối. Các con bác đã lập gia đình, chỉ có cô gái út còn sống với vợ chồng bác. Tối đó hai bác cháu ngồi lai rai, chuyện trò đến khuya. Vợ con bác đã ngủ trên lầu từ lâu. Khi bàn đến chuyện có số phận hay không, bác bảo “Ai cũng tin rằng mỗi người đều có số phận thì chẳng chịu cố gắng, chẳng chịu làm lụng, rốt cuộc chỉ đi ăn mày” Tôi cãi “Giày dép còn có số. Như bác chẳng làm gì cả, chỉ đi rình sau miếu Quảng An mấy lần là bắt được con cua vàng. Nhiều người cũng rình như bác mà đâu có gì. Ðúng là bác có số trời cho làm giàu” “Trời nào mà cho? Tao phải đem mưu kế, đem cái mạng tao ra...” Biết là bác sắp nói ra điều bí mật nên tôi nói khích “Gì mà mưu kế dữ vậy. Chịu khó rình mấy đêm làm gì cũng gặp cua vàng. Bác rình sau miếu Quảng An để bắt cua vàng cũng giống như con đi chơi khuya về thôi, nhưng đừng sợ ma như bác mới được” “Tao mà sợ ma à? Người ta sợ tao thì có. Chuyện ma hiện trong miếu để nhác vợ con ông Dần là tao, chứ ma nào” “Bác làm ma à? Sao bác lại chổng ngược người ngoài cửa sổ được, lại còn kéo cái cổ dài ra?” “Tao nằm trên nóc miếu thò đầu xuống dòm vô trong miếu. Còn chuyện cái cổ dài ra là vì chúng sợ quá tưởng vậy thôi” “Nhưng bác leo lên nóc miếu làm gì? Thò đầu vô miếu làm gì?” Bác cười tỉnh khô, để lộ mấy cái răng còn sót, đen thùi “Tao rình để ăn trộm chứ leo lên làm chi” Tôi năn nỉ “Bác kể thật con nghe. Con nghi đúng mà. Làm gì có chuyện con cua vàng” Bác làm một hơi rượu, khà một tiếng, rồi rung đùi coi bộ khoái trá lắm “Chuyện nầy chỉ vợ tao biết, bây giờ đến mầy là hết. Mấy đứa con tao mà biết, chúng sẽ khinh tao, mà không nghĩ rằng tao đi ăn trộm chỉ vì chúng mà thôi” “Nhưng trước giờ bác có làm nghề đó đâu. Bác lúc nào cũng làm ăn lương thiện. Mà sao bác chỉ rình có nhà ông Dần để ăn trộm mà không rình nhà khác?” Bác trầm ngâm một lúc như để nhớ lại chuyện cũ rồi kể “Bữa gia đình ông Dần mới dọn đến, tao đứng bán kẹo trước miếu Quảng An. Lúc đó bọn học trò đi học về, đứng xem gia đình ông Dần mới dọn đến cũng đông. Trong lúc bán kẹo, tao bỗng nghe trong miếu tiếng trẻ con khóc, thì ra bà Dần đánh đứa con nhỏ. Nó đang chơi với một mớ nhẫn, xuyến, dây chuyền, cà rá, hột xoàn... đứng xa mà tao thấy chói cả mắt. Tao bỗng nảy ra ý định ăn trộm vì thấy họ để của bừa bãi như thế ắt dễ tìm ra. Tao rình mấy đêm, thấy khó ăn quá, nhất là sau vụ vợ con ông ta thấy ma, nhưng ông Dần không tin. Mấy hôm sau tao thấy ông treo khẩu súng lục chỗ cột nhà, có lẽ mượn của ai đó để cảnh cáo tên trộm” “Coi bộ khó ăn, lại nguy hiểm nữa. Mất mạng như chơi” Tôi nói thế để bác thầy Thọt của tôi hứng chí, nói tiếp. Mà tôi thấy cũng nguy hiểm thật. Bác cười khoái trá “Mầy thấy con người hơn nhau ở cái đầu. Tao định trộm luôn khẩu súng nhưng làm thế khác gì chọc ổ kiến lửa là cảnh sát. Tao chỉ tìm lấy gói vàng mà thôi” “Nhưng sau đó ông Dần vẫn có tiền mở sạp áo quần ở chợ Hội An?” “Người chạy loạn nào cũng khôn mới sống được. Họ chia của. Vợ một gói, các con mỗi đứa lớn một gói, rủi có tản lạc thì cũng còn cái để mà sống. Tao biết nên chỉ tìm thấy một gói đủ rồi. Chẳng phải nhân đạo, nhưng lấy hết bắt buộc họ phải thưa cảnh sát để tìm cho ra. Mất chút đỉnh thì họ làm thinh luôn” “Nhưng người ta cảnh giác như thế, bác làm sao mà lục lọi được?” “Thì tao đã nói, dùng cái đầu trước, chân tay mới cục cựa sau” “Bác nói hết luôn đi. Cứ lòng vòng!” “Mầy biết ông Ba Râu không? Ông đó chuyên thắp nhang ngoài miếu Quảng An. Tao chờ lúc ông ta đi vắng đến nhà tráo một mớ mê hồn hương vào bó nhang. Hít một chút là ngủ say như chết. Ngày rằm, mồng một ông ta đem nhang ra thắp ngoài miếu, trong đó có nhang mê hồn hương của tao, thế là tao vào miếu lục soạn, cả nhà ông Dần đã bị mê hồn hương thì có khiêng mà vất ngoài đường cũng không hay” “Nhưng mê hồn hương ở đâu bác có?” “Cái nầy thì tao đã thề bán mạng không cho ai biết” “Bác cứ nói đại khái thôi, đâu cần phải tỉ mỉ” “Ừ, đó là ông thầy của tao cho. Ông ta là tổ sư ăn trộm, người Quảng Ðông, đem cả gia đình qua Việt Nam, có lẽ bị truy nã. Lúc đó ông ta đã già nhưng giàu lắm, nhà trên đường Nguyễn Thái Học, ở Hội An mình. Có nói tên mầy cũng không tin. Ông ta có bổn phận là ngày giỗ tổ phải cúng tổ bằng của ăn trộm. Ông ta già quá mà không có đồ đệ nên bảo tao đi trộm cắp giùm ông ta một vật gì đó để cúng tổ. Lúc đó tao nói rõ ý định ăn trộm nhà ông Dần, ông ta chỉ ngồi xích lô đi ngang trước miếu Quảng An có một lần là bày mưu cho tao làm vố đó. Dĩ nhiên muốn có mê hồn hương tao phải lạy ông ta làm sư phụ, lạy tổ xin vào nghề. Trộm vụ đó tao cúng tổ chiếc nhẫn vàng. Nhưng đó là vụ đầu tiên và cũng là vụ cuối cùng của tao” Tôi định bảo “Mưu kế là ở sư phụ bác, vậy mà bác kể như bác tài lắm vậy” nhưng tôi chỉ hỏi “Sau nầy bác có đến thăm sư phụ của bác không?” “Có chứ! Tao đâu quên ơn thầy. Thỉnh thoảng tao về Hội An ghé thăm. Ông ta giàu quá, đâu cần mình giúp, chỉ cần ngồi nghe ông ta kể chuyện là ông ta vui rồi. Ông ta học nghề từ nhỏ, thời còn ở bên Quảng Ðông lận” “Bác có đồng môn không? Thầy bác có dạy cho ai nữa không?” “Chỉ mình tao. Kẹt lắm tao mới đến học nghề ăn trộm. Bây giờ ăn cắp vặt thì được, ai dám lọ mọ, rình rập trong bóng tối, cảnh sát hay lính thấy được có mà ăn đạn. Mầy thấy cái trang thờ đàng kia? Ðó là bàn thờ tổ. Ông thầy tao trước khi chết, truyền bài vị và hình vẽ tổ sư cho tao vì không còn ai nối nghiệp. Ông ta không có con trai nối dõi, mấy đứa con gái thì biết gì trộm cắp” Tôi đứng lên, đến cái trang thờ có bài vị nhỏ treo trên tường. Cạnh bài vị là một bức tranh, vẽ một người giống như Quan Công, cũng râu dài nhưng mặt xám, chỉ có cặp mắt đỏ, trợn trừng, trông rất dữ dằn và hình như không có lông mày. Tôi hỏi “Ông thần Ăn Trộm nầy tên gì mà không có lông mày?” “Ðó là thần Bạch Mi, lông mày màu trắng” “Ủa, thần Bạch Mi là sư tổ của cô Thúy Kiều, đâu phải của nghề ăn trộm?” “Thúy Kiều là đứa nào? Tao nghe thầy tao giải nghĩa đây là ông tổ chung của bọn trộm cướp, đĩ điếm và cả ăn mày nữa. Thầy tao nói đó là hình vẽ ông Quản Trọng hay ông Quan Vân Trường gì đó” “Con nghĩ Quản Trọng thì đúng hơn. Con đọc trong Chiến Quôc Sách, thì thời Ðông Chu Liệt Quốc có vua Tề Hoàn Công dựng bảy dãy phố ngay trong cung, cho buôn bán để thu thuế. Quan tướng quốc là Quản Trọng mở thêm bảy trăm nhà chứa điếm, gọi là “Nữ Lư” (xóm đàn bà) để lấy thuế cho quốc gia nên dân đĩ điếm mới tôn ông Quản Trọng là tổ sư?” “Thầy tao kể một chuyện mà tao giở Ðông Châu Liệt Quốc ra đọc mà cũng tìm không ra. Ðó là ông Phạm Lãi có làm ăn chung với Quản Trọng. Nguyên nhân thế nầy. Phạm Lãi, sau khi giúp Việt vương Câu Tiễn diệt được Ngô Phù Sai thì đổi thành họ Chu, dẫn Tây Thi đến xứ Ðào Ðịnh sinh sống, người ta gọi ông ta là Ðào Chu Công. Phạm Lãi có vợ con rồi, Tây Thi chỉ là thiếp thôi nhưng được Phạm Lãi rất yêu quí. Khi nghe Quan tướng quốc Quản Trọng ở Tề lên kế hoạch phát triển kinh tế thì đưa gia đình đến Tề, hợp tác với Quản Trọng mở mang thương mại mà thành phú gia địch quốc. Còn chuyện trộm cắp, cướp giật, thầy tao kể tới kể lui nên tao nhớ rõ. Thoạt kỳ thủy thờ ông Lý Thiết Quày, sau đó thờ chung một ông tổ với nghề đĩ điếm. Sự tích như thế nầy. Khi nhà Minh bị nhà Thanh tiêu diệt thì phát sinh phong trào “Phản Thanh Phục Minh”, giới trộm cướp, ăn mày gia nhập Thiên Ðịa Hội. Họ nhận ông thần Mày Trắng làm sư tổ, thường đến các ổ điếm để cúng tổ, thực ra là để liên lạc nhau mà không bị nghi ngờø” “Bác có biết chuyện Liễu Ðạo Chân Nhân, cũng là tổ sư ăn trộm không?” “Biết chớ. Nhưng chuyện ông tổ sư nầy xảy ra vào thời Nguyên, trước thời Minh, Thanh. Nước Tàu rộng quá, mỗi nơi hùng cứ một ông tổ với bọn đệ tử, tay sai, coi như nghiệp đoàn bên Tây, bên Mỹ vậy” “Tại sao người ta gọi ăn trộm là Ðạo Chích?” “Ðó là tay chúa ăn trộm. Thời Xuân Thu, ở nước Lỗ có Liễu Hạ Huệ là một hiền sĩ nổi danh, nhưng lại có người em hành nghề ăn trộm, dưới trướng có cả nghìn tay chân, chuyên nghề ăn trộm cướp. Ai cũng ngán, đặt cho xước danh là Ðạo Chích. Ðức Khổng Tử dẫn theo Nhan Uyên, Tử Cống, Tử Hạ đến gặp Ðạo Chích, hi vọng thầy trò, mỗi người một câu, khuyên răn Ðạo Chích trở về “đường ngay lẽ phải”. Không ngờ Ðạo Chích, chưỉ mắng, đuổi ra, còn nói một câu, hậu thế còn lưu truyền “Làm lành cũng chết. Làm dữ cũng chết. Con người ta, nếu không lưu danh thiên cổ thì cũng nên lưu xú vạn niên” “Con nhớ, lúc nhỏ có đọc truyện Bát Tiên Quá Hải, trong đó có ông Lý Thiết Quày tu thành tiên, một hôm, ông ta xuất hồn đi đâu đó, bọn đệ tử tưởng thầy đã chết nên đem xác hỏa thiêu, khi hồn ông Lý Thiết Quày trở về thì không còn xác để nhập vào nên phải nhập vào xác một ông ăn mày vừa chết. Ăn mày thờ ông ta là đúng rồi. Bác học nghề ăn trộm có khó không?” “Tao chỉ học cấp tốc thôi. Thầy tao kể, muốn học để chính thức ra nghề phải mất gần chục năm mới thành tài, cứ mỗi năm lên một cấp. Lại phải học “đạo đức ăn trộm” nữa mới tức cười. Mầy nghe chắc cũng cười. Ai đời, cướp của, giết người mà còn nhân đạo. Ðó gọi là”Ngũ Bất Thâu” là năm điều cấm. Gia chủ gặp chuyện buồn. Không trộm. Gia chủ gặp chuyện vui. Không trộm. Trộm một lần, không trộm nữa. Gia chủ không đề phòng trước. Không thèm trộm. Quen biết với gia chủ. Không trộm” “Ðào tường, khoét vách mà học chi dữ vậy?” “Tao nghe vậy, biết vậy. Mỗi lần đến thăm, tao phải ngồi hàng giờ để nghe thầy tao vừa kể chuyện xưa vừa tâm sự. Ðó là thú vui của mấy người già cô đơn, như tao trò chuyện với mầy vậy thôi. Mà người già thì chuyện xưa nhớ rõ lắm trong khi chuyện mới đó lại quên ngay. Những gì tao nói với mầy là tao nghe sư phụ tao kể, chứ làm sao tao biết rành chuyện bên Tàu. Tao cũng không đọc sách bao nhiêu, mà sách vở viết về trộm cướp thì làm gì có! Ðể tao kể tiếp cho mà nghe. Ngoài chuyện học võ, học trộm cướp còn học nghề thầy thuốc, phù thủy, phong thủy, tướng số, nhất là kỳ môn độn giáp cho thông để biết ngày giờ, hướng xuất hành thuận tiện. Khởi đầu là cấp “Lôi”, sau lên “Ðiện” rồi lên cấp “Phong”, cấp thứ tám, cao nhất là cấp “Hỏa”. “Làm sao thi lên cấp?” “Cấp thấp thì thầy chỉ nhà cho mà ăn trộm, cấp cao thì đi ăn cướp, cao nữa thì thi kỳ môn độn giáp, binh thư, trận thế. Không muốn làm ăn trộm, ăn cướp thì về làm thầy thuốc, thầy tướng, số, thầy địa lý, phù thủy. Họ làm ăn mày để tiện đi khắp nơi dò la, nhà nào sơ hở thì tối đến vào ăn trộm, nhà đông người, giàu có, phòng thủ kiên cố, thì họ kéo cả bọn vào ăn cướp. Tuy làm ăn mày rách rưới, dơ dáy cho người ta không nghi ngờ, chứ họ cũng có sào huyệt trên núi, sống sung sướng với nhau. Ðiều quan trọng là không bao giờ được tiết lộ sư môn, sư tổ. Bị tra tấn, cực hình, chết thì chịu chứ không khai xuất thân từ đâu, không khai đồng môn, đồng bọn” “Thì ra trong kiếm hiệp, Kim Dung có nói đến Cái Bang, ăn mày bốn túi, tám túi, có thể là từ các trường dạy ăn trộm nầy. Ông Kim Dung cũng không nói mấy ông trong Ma Giáo, mấy ông trong Cái Bang võ nghệ cao cường nầy xuất thân từ môn phái nào? Họ dấu biệt tông tích nên bị gọi là bàng môn tả đạo” “Dám lắm đó mầy, nhưng thầy tao nói học nghề võ chỉ có hai con đường, hoặc bán thân cho đế vương, xông pha trận mạc, không làm tướng soái thì da ngựa bọc thây hoặc đi vào rừng xanh núi thẳm, làm những điều vô pháp vô thiên, trăng lu giết người, gió lớn phóng hỏa, gọi là “chia vai tụ nghĩa” thu nhận bọn bất lương, tập luyện võ nghệ, kết bè, kết lũ cho thật đông để đi ăn cướp, có thế lực thì chống lại quan quân triều đình, may ra, gặp thời thế thì phát đế vương, làm ông con trời, thất bại thì chịu mất đầu. Lưu Bang, Chu Nguyên Chương thời xưa bên Tàu cũng vậy thôi. Ðược là vua, thua là giặc mà mầy! Còn một nghề nữa, lương thiện hơn. Ðó là làm bảo tiêu. Bảo vệ hàng hóa trên đường vận chuyển (thủy, bộ). Ðứng đầu tiêu cục là một cao thủ võ lâm gọi là tiêu đầu, thuộc hạ gọi là tiêu tử. Các tiêu đầu cũng giấu biệt môn phái, sư môn...” Tôi nhận thấy, ông bác tôi, càng ngày càng văn minh tiến bộ, có lẽ nhờ chuyện trò với sư phụ, tiếp nhận thứ văn chương “ba tàu” đầy vẻ kiếm hiệp, phần khác cũng nhờ sống sung sướng nên thành trưởng giả. Có thể bác chịu học chữ nên không còn mặc cảm dốt nát. Tôi biết bác rất “sáng ý”, nhớ dai nên việc học chữ không khó khăn. Hơn chục năm rồi, có thể từ biết đọc, biết viết, bác đã “quá độ”, tiến lên “nhà nghiên cứu” không chừng. “Như vậy sư phụ phải truyền cho bác các bí quyết ăn trộm chứ?” “Dĩ nhiên, nhưng đại khái thôi” “Có truyền cho bác cách làm mê hồn hương không?” “Có chứ, cái nầy mới là bí truyền” “Bác nói cách chế mê hồn hương cho con nghe thử. Nghe cho vui, đại khái thôi” “Mầy biết, ngoài biển có con rắn biển, gọi là con đẻn. Có loại không độc, có loại cực độc, nước miếng nó dính vào da là chất độc cứ ăn dần từ thịt đến xương, giống như ghẻ lở, không thuốc nào chữa lành. Bị con đẻn đó cắn thì lăn ra ngủ mê man, ba ngày thì chết, cho nên người ta mới dùng trống, phèn la, nồi đồng gõ rầm rầm bên tai, lại phải la hét “Ðừng ngủ. Ngủ là chết luôn” phải banh mắt ra cho nó tỉnh ngủ. Qua đưọc ba ngày thì tỉnh. Lỡ ăn thịt nó cũng ngủ mê rồi chết. Người ta lấy con đẻn đó chế mê hồn hương” “Con đẻn đó như thế nào? Chế cách nào?” “Con đẻn đó dẹp lép như lá lúa, dài cỡ một thước, thân nó nhiều màu, xanh, đỏ, tím. Màu tím càng nhiều càng độc. Bắt được nó, không được giết, cứ treo nó ngoài nắng cho khô rồi đem nướng vàng, tán nhuyễn trộn với bột trầm. Dùng cọng tre như cọng nhang, nhúng vô hồ gạo rồi lăn vào bột đẻn đó như người ta làm nhang, đem phơi khô, vậy thôi” “Bác có chế mê hồn hương đó lần nào chưa?” Bác cười “Tao không nói được” Tôi nói đùa “Bác nhận con làm đồ đệ rồi cho một ít mê hồn hương để con hành nghề ăn trộm” Bác lắc đầu “Tướng mầy mà trộm đạo gì!” “Ủa, bộ ăn trộm cũng phải có tướng sao?” “Thì phải có tướng ăn trộm mới nhận làm đồ đệ. Ðâu dễ mầy!” “Bác nói thử. Tướng ăn trộm, tướng cướp của, giết người như thế nào?” “Mặt dơi, tai chuột là tướng xảo quyệt lại gian hùng. Mặt trơ, không vui, không buồn, mắt dữ tợn, có cô hồn là kẻ lấy việc tra tấn, giết người làm thú vui. Tướng ăn trộm thì mắt láo liên, không nhìn thẳng vào người đối diện, nói không thành câu vì cái tâm bất chánh...” Tôi định nói “Mắt bác láo liên, như vậy là bác có tướng ăn trộm” nhưng giữ miệng kịp “Bác cho con kể chuyện trộm đạo của bác trên báo được không?” Bác cười hề hề “Chờ khi tao đã chết rồi hãy đưa lên báo…” Tôi đến ngắm bài vị và bức họa ông thần Bạch Mi và nói “Bác nên nhờ ai vẽ một bức họa giống như vậy để thờ, còn bản chính thì bác cất kỹ làm của gia bảo. Tổ đãi bác nên bác mới có được bức họa nầy. Theo con đoán. Nếu tính từ thời tổ sư ăn trộm xa xưa đến nay thì bức họa phải được vẽ từ đời Minh, đời Thanh chứ không phải sau nầy. Bút pháp, màu sắc quá tài tình, quá đẹp. Tranh Tàu như thế nầy phải là tay danh họa mới vẽ được. Có thêm bài vị nầy làm gốc gác thì những chuyên viên xét nghiệm cổ vật sẽ xác nhận giá trị quí hiếm của nó”.
Tôi nghĩ, ông bác họ tôi đã không nói thật. Nghề ăn trộm của bác được sư phụ truyền dạy phải đến mức thượng thừa. Bác giả bộ lù khù nhưng rất khôn lanh Ăn cướp phải có sức lực và võ nghệ. Ăn trộm chỉ cần cái đầu. Ma mãnh thì bác không thua ai. Tôi nhìn quanh, thấy căn nhà tuy không lớn nhưng ở địa thế buôn bán như thế nầy thì chỉ một vụ trộm đó thôi, làm gì mua nỗi, chưa kể vàng bạc, châu báu ăn trộm được, bác cất giấu đâu đó. Bác không muốn cho thiên hạ biết nghề bất lương nầy, nhưng giữ mãi trong bụng, ấm ức, chịu không được. Nay thấy tôi cũng có thể tin tưởng, lại sắp đi Mỹ, nên nhân dịp nầy mà phét lát cho hả cái thú vị bấy lâu nay chất chứa trong lòng. Thử nghĩ coi, đang nghèo khó, nhà tranh vách lá, mưa dột tứ tung, cái ăn không đủ, bỗng nhiên mua nhà mặt tiền, mở tiệm ngay chỗ buôn bán sầm uất nhất.
Người trúng số phải la lên thật to, vênh mặt lên cho bỏ ghét cuộc đời. Nhưng ông bác tôi thì chịu, không thể kêu lên “Tôi ăn trộm nên mới được như thế nầy!” Tối đó, kể xong chuyện ăn trộm, như một dịp để khoe tài, bác ngồi cười mãi, coi bộ khoái trá lắm. Bác đã say, ngồi gục tới gục lui mà vẫn cười, miệng lầm bầm “Mấy người được như tao?”.
Thời câu chuyện tôi đang kể đây khoảng năm 1954, khi hiệp định Geneve chia cắt đất nước và đồng bào miền Bắc ồ ạt di cư vào Nam. Thành phố Hội An cũng hân hạnh được đón một số, phần đông là công chức hoặc tiểu thương. Vì thiếu chỗ nên các đình miếu được trưng dụng làm nơi cư ngụ cho đồng bào. Miếu Quảng An đón một gia đình, sau nầy tôi biết tên là ông Dần vì ông có sạp hàng ở chợ Hội An. Người Bắc di cư đa số là công giáo, họ chẳng sợ ma quỉ bao giờ. Ma quỉ thấy thánh giá là bỏ chạy cả. Ấy vậy mà miếu Quảng An đã làm cho gia đình ông Dần một phen sợ hãi. Nghe đồn rằng vào lúc gần khuya, đèn thắp sáng, mọi người còn thức, riêng ông Dần mới thiu thiu thì đứa con kêu thét lên, bà vợ cũng kêu thét lên khi thấy một cái đầu từ trên nóc miếu, chỗ có cửa sổ nhỏ, thò xuống, cái cổ cứ dài mãi ra mà chẳng thấy cái mình đâu cả? Cái đầu đen thùi, mắt trắng dã, miệng đỏ lói, nhe nanh như muốn cắn người ta. (các miếu thờ mái thường rất thấp, cửa sổ không có song cửa, xây cao để lấy ánh sáng). Khi ông Dần tỉnh ngủ thì chẳng thấy gì nhưng bà vợ cả quyết thấy rất rõ. Theo lời khuyên của mọi người, ông Dần nhờ một số bạn, buổi tối đến thổi kèn tây, tò te cho đến khuya. Ma quỉ nghe kèn tây sẽ bỏ đi hết. Tôi cùng một số bạn tối nào cũng đến xem thổi kèn. Có đèn điện sáng trưng nên tôi không còn sợ nữa. Ít lâu sau, hình như ông Dần mua đứt cái miếu nên cửa nẻo được lắp vào, sơn phết lại rất khang trang. Từ đó không thấy cúng cầu an “Xuân Thu nhị kỳ” nhưng ông Ba Râu vẫn vào thắp nhang mỗi rằm, mồng một, vì cái ngai thờ thần vẫn còn giữ lại trong tận cùng của miếu. Sau nầy, từ Mỹ, tôi về thăm Hội An thì cái miếu Quảng An đã bị đập bỏ và cán bộ nhà nước xây trên nền đó một nhà lầu ba tầng làm chỗ ở.
Chuyện người bác tôi tức ông thầy Thọt bảo rằng sẽ ra Ðà Nẳng mua nhà chỉ xảy ra sau khi chuyện ma xuất hiện nhác gia đình ông Dần ít lâu thôi. Tôi không tin chuyện bác tôi bắt được vàng. Trước đó có một lần, lúc gần khuya, trời lâm râm mưa, tôi đi coi ci nê về, thấy một người từ sau miếu đi ra. Tuy chỉ thoáng thấy dáng đi nhưng tôi biết đó là ông bác tôi. Sáng hôm sau, tôi nói ngay “Khi hôm con thấy bác sau miếu Quảng An” Bác bảo “Mầy đừng nói ai, tao rình bắt mấy con cua vàng. Có người ở trong miếu, nó động ổ nên bò ra kiếm ăn sau miếu” Thế rồi ít lâu sau bác mua nhà ngoài Ðà Nẳng. Nhà gần chợ Cồn, buôn bán rất khá giả. Sau nầy lớn lên, có lần ra Ðà Nẳng thi tú tài, tôi có trọ nhà bác mấy hôm. Ðó là một tiệm buôn sĩ, đủ thứ hàng hóa, từ áo quần may sẵn đến đồ gia dụng bằng nhựa, kẹo bánh thậm chí gạo cũng chất đầy những bao tạ trong góc nhà. Bạn hàng đến mua về bán ở các chợ thôn quê, Họ mua nhiều, phải chở bằng xích lô, ba gác ra bến xe. Vợ bác và cô con gái tất bật giao hàng, đếm tiền.
Thi xong, chưa có kết quả mà bác đã đãi tôi một bữa tiệc nhỏ “Tao biết mầy thi là đậu nên tao đãi mầy trước” Nhân lúc bác ngà ngà hơi rượu, tôi hỏi “Chuyện con rùa vàng có thật không bác?” Bác cười cười bảo “Mầy đã thấy rồi còn hỏi” “Nhưng con có thấy gì đâu?” “Cứ coi như thấy rồi đi, hỏi làm chi” Tôi biết bác không muốn nói, nhưng vẫn thắc mắc, không biết chuyện con cua vàng có thật không?
Ðậu tú tài xong, tôi vào Sài Gòn học tiếp, rồi thành công chức, rồi mất nước, tôi đi tù hơn sáu năm. Khi có vụ HO đi Mỹ, tôi ghé thăm bác, ông thầy Thọt ngày xưa. Hơn mấy mươi năm, bác đã già lắm rồi. Tóc bạc, răng rụng nhưng mập và trắng như một phú ông, đôi mắt vẫn còn vẻ tinh anh, ma mãnh của thời trước. Lúc trước bác thuộc giai cấp nghèo hèn, sau nầy giàu có, bác phát tướng, trông oai vệ, hoạt bát, nhất là trong giao tiếp, bác tự tin, gần như phách lối. Các con bác đã lập gia đình, chỉ có cô gái út còn sống với vợ chồng bác. Tối đó hai bác cháu ngồi lai rai, chuyện trò đến khuya. Vợ con bác đã ngủ trên lầu từ lâu. Khi bàn đến chuyện có số phận hay không, bác bảo “Ai cũng tin rằng mỗi người đều có số phận thì chẳng chịu cố gắng, chẳng chịu làm lụng, rốt cuộc chỉ đi ăn mày” Tôi cãi “Giày dép còn có số. Như bác chẳng làm gì cả, chỉ đi rình sau miếu Quảng An mấy lần là bắt được con cua vàng. Nhiều người cũng rình như bác mà đâu có gì. Ðúng là bác có số trời cho làm giàu” “Trời nào mà cho? Tao phải đem mưu kế, đem cái mạng tao ra...” Biết là bác sắp nói ra điều bí mật nên tôi nói khích “Gì mà mưu kế dữ vậy. Chịu khó rình mấy đêm làm gì cũng gặp cua vàng. Bác rình sau miếu Quảng An để bắt cua vàng cũng giống như con đi chơi khuya về thôi, nhưng đừng sợ ma như bác mới được” “Tao mà sợ ma à? Người ta sợ tao thì có. Chuyện ma hiện trong miếu để nhác vợ con ông Dần là tao, chứ ma nào” “Bác làm ma à? Sao bác lại chổng ngược người ngoài cửa sổ được, lại còn kéo cái cổ dài ra?” “Tao nằm trên nóc miếu thò đầu xuống dòm vô trong miếu. Còn chuyện cái cổ dài ra là vì chúng sợ quá tưởng vậy thôi” “Nhưng bác leo lên nóc miếu làm gì? Thò đầu vô miếu làm gì?” Bác cười tỉnh khô, để lộ mấy cái răng còn sót, đen thùi “Tao rình để ăn trộm chứ leo lên làm chi” Tôi năn nỉ “Bác kể thật con nghe. Con nghi đúng mà. Làm gì có chuyện con cua vàng” Bác làm một hơi rượu, khà một tiếng, rồi rung đùi coi bộ khoái trá lắm “Chuyện nầy chỉ vợ tao biết, bây giờ đến mầy là hết. Mấy đứa con tao mà biết, chúng sẽ khinh tao, mà không nghĩ rằng tao đi ăn trộm chỉ vì chúng mà thôi” “Nhưng trước giờ bác có làm nghề đó đâu. Bác lúc nào cũng làm ăn lương thiện. Mà sao bác chỉ rình có nhà ông Dần để ăn trộm mà không rình nhà khác?” Bác trầm ngâm một lúc như để nhớ lại chuyện cũ rồi kể “Bữa gia đình ông Dần mới dọn đến, tao đứng bán kẹo trước miếu Quảng An. Lúc đó bọn học trò đi học về, đứng xem gia đình ông Dần mới dọn đến cũng đông. Trong lúc bán kẹo, tao bỗng nghe trong miếu tiếng trẻ con khóc, thì ra bà Dần đánh đứa con nhỏ. Nó đang chơi với một mớ nhẫn, xuyến, dây chuyền, cà rá, hột xoàn... đứng xa mà tao thấy chói cả mắt. Tao bỗng nảy ra ý định ăn trộm vì thấy họ để của bừa bãi như thế ắt dễ tìm ra. Tao rình mấy đêm, thấy khó ăn quá, nhất là sau vụ vợ con ông ta thấy ma, nhưng ông Dần không tin. Mấy hôm sau tao thấy ông treo khẩu súng lục chỗ cột nhà, có lẽ mượn của ai đó để cảnh cáo tên trộm” “Coi bộ khó ăn, lại nguy hiểm nữa. Mất mạng như chơi” Tôi nói thế để bác thầy Thọt của tôi hứng chí, nói tiếp. Mà tôi thấy cũng nguy hiểm thật. Bác cười khoái trá “Mầy thấy con người hơn nhau ở cái đầu. Tao định trộm luôn khẩu súng nhưng làm thế khác gì chọc ổ kiến lửa là cảnh sát. Tao chỉ tìm lấy gói vàng mà thôi” “Nhưng sau đó ông Dần vẫn có tiền mở sạp áo quần ở chợ Hội An?” “Người chạy loạn nào cũng khôn mới sống được. Họ chia của. Vợ một gói, các con mỗi đứa lớn một gói, rủi có tản lạc thì cũng còn cái để mà sống. Tao biết nên chỉ tìm thấy một gói đủ rồi. Chẳng phải nhân đạo, nhưng lấy hết bắt buộc họ phải thưa cảnh sát để tìm cho ra. Mất chút đỉnh thì họ làm thinh luôn” “Nhưng người ta cảnh giác như thế, bác làm sao mà lục lọi được?” “Thì tao đã nói, dùng cái đầu trước, chân tay mới cục cựa sau” “Bác nói hết luôn đi. Cứ lòng vòng!” “Mầy biết ông Ba Râu không? Ông đó chuyên thắp nhang ngoài miếu Quảng An. Tao chờ lúc ông ta đi vắng đến nhà tráo một mớ mê hồn hương vào bó nhang. Hít một chút là ngủ say như chết. Ngày rằm, mồng một ông ta đem nhang ra thắp ngoài miếu, trong đó có nhang mê hồn hương của tao, thế là tao vào miếu lục soạn, cả nhà ông Dần đã bị mê hồn hương thì có khiêng mà vất ngoài đường cũng không hay” “Nhưng mê hồn hương ở đâu bác có?” “Cái nầy thì tao đã thề bán mạng không cho ai biết” “Bác cứ nói đại khái thôi, đâu cần phải tỉ mỉ” “Ừ, đó là ông thầy của tao cho. Ông ta là tổ sư ăn trộm, người Quảng Ðông, đem cả gia đình qua Việt Nam, có lẽ bị truy nã. Lúc đó ông ta đã già nhưng giàu lắm, nhà trên đường Nguyễn Thái Học, ở Hội An mình. Có nói tên mầy cũng không tin. Ông ta có bổn phận là ngày giỗ tổ phải cúng tổ bằng của ăn trộm. Ông ta già quá mà không có đồ đệ nên bảo tao đi trộm cắp giùm ông ta một vật gì đó để cúng tổ. Lúc đó tao nói rõ ý định ăn trộm nhà ông Dần, ông ta chỉ ngồi xích lô đi ngang trước miếu Quảng An có một lần là bày mưu cho tao làm vố đó. Dĩ nhiên muốn có mê hồn hương tao phải lạy ông ta làm sư phụ, lạy tổ xin vào nghề. Trộm vụ đó tao cúng tổ chiếc nhẫn vàng. Nhưng đó là vụ đầu tiên và cũng là vụ cuối cùng của tao” Tôi định bảo “Mưu kế là ở sư phụ bác, vậy mà bác kể như bác tài lắm vậy” nhưng tôi chỉ hỏi “Sau nầy bác có đến thăm sư phụ của bác không?” “Có chứ! Tao đâu quên ơn thầy. Thỉnh thoảng tao về Hội An ghé thăm. Ông ta giàu quá, đâu cần mình giúp, chỉ cần ngồi nghe ông ta kể chuyện là ông ta vui rồi. Ông ta học nghề từ nhỏ, thời còn ở bên Quảng Ðông lận” “Bác có đồng môn không? Thầy bác có dạy cho ai nữa không?” “Chỉ mình tao. Kẹt lắm tao mới đến học nghề ăn trộm. Bây giờ ăn cắp vặt thì được, ai dám lọ mọ, rình rập trong bóng tối, cảnh sát hay lính thấy được có mà ăn đạn. Mầy thấy cái trang thờ đàng kia? Ðó là bàn thờ tổ. Ông thầy tao trước khi chết, truyền bài vị và hình vẽ tổ sư cho tao vì không còn ai nối nghiệp. Ông ta không có con trai nối dõi, mấy đứa con gái thì biết gì trộm cắp” Tôi đứng lên, đến cái trang thờ có bài vị nhỏ treo trên tường. Cạnh bài vị là một bức tranh, vẽ một người giống như Quan Công, cũng râu dài nhưng mặt xám, chỉ có cặp mắt đỏ, trợn trừng, trông rất dữ dằn và hình như không có lông mày. Tôi hỏi “Ông thần Ăn Trộm nầy tên gì mà không có lông mày?” “Ðó là thần Bạch Mi, lông mày màu trắng” “Ủa, thần Bạch Mi là sư tổ của cô Thúy Kiều, đâu phải của nghề ăn trộm?” “Thúy Kiều là đứa nào? Tao nghe thầy tao giải nghĩa đây là ông tổ chung của bọn trộm cướp, đĩ điếm và cả ăn mày nữa. Thầy tao nói đó là hình vẽ ông Quản Trọng hay ông Quan Vân Trường gì đó” “Con nghĩ Quản Trọng thì đúng hơn. Con đọc trong Chiến Quôc Sách, thì thời Ðông Chu Liệt Quốc có vua Tề Hoàn Công dựng bảy dãy phố ngay trong cung, cho buôn bán để thu thuế. Quan tướng quốc là Quản Trọng mở thêm bảy trăm nhà chứa điếm, gọi là “Nữ Lư” (xóm đàn bà) để lấy thuế cho quốc gia nên dân đĩ điếm mới tôn ông Quản Trọng là tổ sư?” “Thầy tao kể một chuyện mà tao giở Ðông Châu Liệt Quốc ra đọc mà cũng tìm không ra. Ðó là ông Phạm Lãi có làm ăn chung với Quản Trọng. Nguyên nhân thế nầy. Phạm Lãi, sau khi giúp Việt vương Câu Tiễn diệt được Ngô Phù Sai thì đổi thành họ Chu, dẫn Tây Thi đến xứ Ðào Ðịnh sinh sống, người ta gọi ông ta là Ðào Chu Công. Phạm Lãi có vợ con rồi, Tây Thi chỉ là thiếp thôi nhưng được Phạm Lãi rất yêu quí. Khi nghe Quan tướng quốc Quản Trọng ở Tề lên kế hoạch phát triển kinh tế thì đưa gia đình đến Tề, hợp tác với Quản Trọng mở mang thương mại mà thành phú gia địch quốc. Còn chuyện trộm cắp, cướp giật, thầy tao kể tới kể lui nên tao nhớ rõ. Thoạt kỳ thủy thờ ông Lý Thiết Quày, sau đó thờ chung một ông tổ với nghề đĩ điếm. Sự tích như thế nầy. Khi nhà Minh bị nhà Thanh tiêu diệt thì phát sinh phong trào “Phản Thanh Phục Minh”, giới trộm cướp, ăn mày gia nhập Thiên Ðịa Hội. Họ nhận ông thần Mày Trắng làm sư tổ, thường đến các ổ điếm để cúng tổ, thực ra là để liên lạc nhau mà không bị nghi ngờø” “Bác có biết chuyện Liễu Ðạo Chân Nhân, cũng là tổ sư ăn trộm không?” “Biết chớ. Nhưng chuyện ông tổ sư nầy xảy ra vào thời Nguyên, trước thời Minh, Thanh. Nước Tàu rộng quá, mỗi nơi hùng cứ một ông tổ với bọn đệ tử, tay sai, coi như nghiệp đoàn bên Tây, bên Mỹ vậy” “Tại sao người ta gọi ăn trộm là Ðạo Chích?” “Ðó là tay chúa ăn trộm. Thời Xuân Thu, ở nước Lỗ có Liễu Hạ Huệ là một hiền sĩ nổi danh, nhưng lại có người em hành nghề ăn trộm, dưới trướng có cả nghìn tay chân, chuyên nghề ăn trộm cướp. Ai cũng ngán, đặt cho xước danh là Ðạo Chích. Ðức Khổng Tử dẫn theo Nhan Uyên, Tử Cống, Tử Hạ đến gặp Ðạo Chích, hi vọng thầy trò, mỗi người một câu, khuyên răn Ðạo Chích trở về “đường ngay lẽ phải”. Không ngờ Ðạo Chích, chưỉ mắng, đuổi ra, còn nói một câu, hậu thế còn lưu truyền “Làm lành cũng chết. Làm dữ cũng chết. Con người ta, nếu không lưu danh thiên cổ thì cũng nên lưu xú vạn niên” “Con nhớ, lúc nhỏ có đọc truyện Bát Tiên Quá Hải, trong đó có ông Lý Thiết Quày tu thành tiên, một hôm, ông ta xuất hồn đi đâu đó, bọn đệ tử tưởng thầy đã chết nên đem xác hỏa thiêu, khi hồn ông Lý Thiết Quày trở về thì không còn xác để nhập vào nên phải nhập vào xác một ông ăn mày vừa chết. Ăn mày thờ ông ta là đúng rồi. Bác học nghề ăn trộm có khó không?” “Tao chỉ học cấp tốc thôi. Thầy tao kể, muốn học để chính thức ra nghề phải mất gần chục năm mới thành tài, cứ mỗi năm lên một cấp. Lại phải học “đạo đức ăn trộm” nữa mới tức cười. Mầy nghe chắc cũng cười. Ai đời, cướp của, giết người mà còn nhân đạo. Ðó gọi là”Ngũ Bất Thâu” là năm điều cấm. Gia chủ gặp chuyện buồn. Không trộm. Gia chủ gặp chuyện vui. Không trộm. Trộm một lần, không trộm nữa. Gia chủ không đề phòng trước. Không thèm trộm. Quen biết với gia chủ. Không trộm” “Ðào tường, khoét vách mà học chi dữ vậy?” “Tao nghe vậy, biết vậy. Mỗi lần đến thăm, tao phải ngồi hàng giờ để nghe thầy tao vừa kể chuyện xưa vừa tâm sự. Ðó là thú vui của mấy người già cô đơn, như tao trò chuyện với mầy vậy thôi. Mà người già thì chuyện xưa nhớ rõ lắm trong khi chuyện mới đó lại quên ngay. Những gì tao nói với mầy là tao nghe sư phụ tao kể, chứ làm sao tao biết rành chuyện bên Tàu. Tao cũng không đọc sách bao nhiêu, mà sách vở viết về trộm cướp thì làm gì có! Ðể tao kể tiếp cho mà nghe. Ngoài chuyện học võ, học trộm cướp còn học nghề thầy thuốc, phù thủy, phong thủy, tướng số, nhất là kỳ môn độn giáp cho thông để biết ngày giờ, hướng xuất hành thuận tiện. Khởi đầu là cấp “Lôi”, sau lên “Ðiện” rồi lên cấp “Phong”, cấp thứ tám, cao nhất là cấp “Hỏa”. “Làm sao thi lên cấp?” “Cấp thấp thì thầy chỉ nhà cho mà ăn trộm, cấp cao thì đi ăn cướp, cao nữa thì thi kỳ môn độn giáp, binh thư, trận thế. Không muốn làm ăn trộm, ăn cướp thì về làm thầy thuốc, thầy tướng, số, thầy địa lý, phù thủy. Họ làm ăn mày để tiện đi khắp nơi dò la, nhà nào sơ hở thì tối đến vào ăn trộm, nhà đông người, giàu có, phòng thủ kiên cố, thì họ kéo cả bọn vào ăn cướp. Tuy làm ăn mày rách rưới, dơ dáy cho người ta không nghi ngờ, chứ họ cũng có sào huyệt trên núi, sống sung sướng với nhau. Ðiều quan trọng là không bao giờ được tiết lộ sư môn, sư tổ. Bị tra tấn, cực hình, chết thì chịu chứ không khai xuất thân từ đâu, không khai đồng môn, đồng bọn” “Thì ra trong kiếm hiệp, Kim Dung có nói đến Cái Bang, ăn mày bốn túi, tám túi, có thể là từ các trường dạy ăn trộm nầy. Ông Kim Dung cũng không nói mấy ông trong Ma Giáo, mấy ông trong Cái Bang võ nghệ cao cường nầy xuất thân từ môn phái nào? Họ dấu biệt tông tích nên bị gọi là bàng môn tả đạo” “Dám lắm đó mầy, nhưng thầy tao nói học nghề võ chỉ có hai con đường, hoặc bán thân cho đế vương, xông pha trận mạc, không làm tướng soái thì da ngựa bọc thây hoặc đi vào rừng xanh núi thẳm, làm những điều vô pháp vô thiên, trăng lu giết người, gió lớn phóng hỏa, gọi là “chia vai tụ nghĩa” thu nhận bọn bất lương, tập luyện võ nghệ, kết bè, kết lũ cho thật đông để đi ăn cướp, có thế lực thì chống lại quan quân triều đình, may ra, gặp thời thế thì phát đế vương, làm ông con trời, thất bại thì chịu mất đầu. Lưu Bang, Chu Nguyên Chương thời xưa bên Tàu cũng vậy thôi. Ðược là vua, thua là giặc mà mầy! Còn một nghề nữa, lương thiện hơn. Ðó là làm bảo tiêu. Bảo vệ hàng hóa trên đường vận chuyển (thủy, bộ). Ðứng đầu tiêu cục là một cao thủ võ lâm gọi là tiêu đầu, thuộc hạ gọi là tiêu tử. Các tiêu đầu cũng giấu biệt môn phái, sư môn...” Tôi nhận thấy, ông bác tôi, càng ngày càng văn minh tiến bộ, có lẽ nhờ chuyện trò với sư phụ, tiếp nhận thứ văn chương “ba tàu” đầy vẻ kiếm hiệp, phần khác cũng nhờ sống sung sướng nên thành trưởng giả. Có thể bác chịu học chữ nên không còn mặc cảm dốt nát. Tôi biết bác rất “sáng ý”, nhớ dai nên việc học chữ không khó khăn. Hơn chục năm rồi, có thể từ biết đọc, biết viết, bác đã “quá độ”, tiến lên “nhà nghiên cứu” không chừng. “Như vậy sư phụ phải truyền cho bác các bí quyết ăn trộm chứ?” “Dĩ nhiên, nhưng đại khái thôi” “Có truyền cho bác cách làm mê hồn hương không?” “Có chứ, cái nầy mới là bí truyền” “Bác nói cách chế mê hồn hương cho con nghe thử. Nghe cho vui, đại khái thôi” “Mầy biết, ngoài biển có con rắn biển, gọi là con đẻn. Có loại không độc, có loại cực độc, nước miếng nó dính vào da là chất độc cứ ăn dần từ thịt đến xương, giống như ghẻ lở, không thuốc nào chữa lành. Bị con đẻn đó cắn thì lăn ra ngủ mê man, ba ngày thì chết, cho nên người ta mới dùng trống, phèn la, nồi đồng gõ rầm rầm bên tai, lại phải la hét “Ðừng ngủ. Ngủ là chết luôn” phải banh mắt ra cho nó tỉnh ngủ. Qua đưọc ba ngày thì tỉnh. Lỡ ăn thịt nó cũng ngủ mê rồi chết. Người ta lấy con đẻn đó chế mê hồn hương” “Con đẻn đó như thế nào? Chế cách nào?” “Con đẻn đó dẹp lép như lá lúa, dài cỡ một thước, thân nó nhiều màu, xanh, đỏ, tím. Màu tím càng nhiều càng độc. Bắt được nó, không được giết, cứ treo nó ngoài nắng cho khô rồi đem nướng vàng, tán nhuyễn trộn với bột trầm. Dùng cọng tre như cọng nhang, nhúng vô hồ gạo rồi lăn vào bột đẻn đó như người ta làm nhang, đem phơi khô, vậy thôi” “Bác có chế mê hồn hương đó lần nào chưa?” Bác cười “Tao không nói được” Tôi nói đùa “Bác nhận con làm đồ đệ rồi cho một ít mê hồn hương để con hành nghề ăn trộm” Bác lắc đầu “Tướng mầy mà trộm đạo gì!” “Ủa, bộ ăn trộm cũng phải có tướng sao?” “Thì phải có tướng ăn trộm mới nhận làm đồ đệ. Ðâu dễ mầy!” “Bác nói thử. Tướng ăn trộm, tướng cướp của, giết người như thế nào?” “Mặt dơi, tai chuột là tướng xảo quyệt lại gian hùng. Mặt trơ, không vui, không buồn, mắt dữ tợn, có cô hồn là kẻ lấy việc tra tấn, giết người làm thú vui. Tướng ăn trộm thì mắt láo liên, không nhìn thẳng vào người đối diện, nói không thành câu vì cái tâm bất chánh...” Tôi định nói “Mắt bác láo liên, như vậy là bác có tướng ăn trộm” nhưng giữ miệng kịp “Bác cho con kể chuyện trộm đạo của bác trên báo được không?” Bác cười hề hề “Chờ khi tao đã chết rồi hãy đưa lên báo…” Tôi đến ngắm bài vị và bức họa ông thần Bạch Mi và nói “Bác nên nhờ ai vẽ một bức họa giống như vậy để thờ, còn bản chính thì bác cất kỹ làm của gia bảo. Tổ đãi bác nên bác mới có được bức họa nầy. Theo con đoán. Nếu tính từ thời tổ sư ăn trộm xa xưa đến nay thì bức họa phải được vẽ từ đời Minh, đời Thanh chứ không phải sau nầy. Bút pháp, màu sắc quá tài tình, quá đẹp. Tranh Tàu như thế nầy phải là tay danh họa mới vẽ được. Có thêm bài vị nầy làm gốc gác thì những chuyên viên xét nghiệm cổ vật sẽ xác nhận giá trị quí hiếm của nó”.
Tôi nghĩ, ông bác họ tôi đã không nói thật. Nghề ăn trộm của bác được sư phụ truyền dạy phải đến mức thượng thừa. Bác giả bộ lù khù nhưng rất khôn lanh Ăn cướp phải có sức lực và võ nghệ. Ăn trộm chỉ cần cái đầu. Ma mãnh thì bác không thua ai. Tôi nhìn quanh, thấy căn nhà tuy không lớn nhưng ở địa thế buôn bán như thế nầy thì chỉ một vụ trộm đó thôi, làm gì mua nỗi, chưa kể vàng bạc, châu báu ăn trộm được, bác cất giấu đâu đó. Bác không muốn cho thiên hạ biết nghề bất lương nầy, nhưng giữ mãi trong bụng, ấm ức, chịu không được. Nay thấy tôi cũng có thể tin tưởng, lại sắp đi Mỹ, nên nhân dịp nầy mà phét lát cho hả cái thú vị bấy lâu nay chất chứa trong lòng. Thử nghĩ coi, đang nghèo khó, nhà tranh vách lá, mưa dột tứ tung, cái ăn không đủ, bỗng nhiên mua nhà mặt tiền, mở tiệm ngay chỗ buôn bán sầm uất nhất.
Người trúng số phải la lên thật to, vênh mặt lên cho bỏ ghét cuộc đời. Nhưng ông bác tôi thì chịu, không thể kêu lên “Tôi ăn trộm nên mới được như thế nầy!” Tối đó, kể xong chuyện ăn trộm, như một dịp để khoe tài, bác ngồi cười mãi, coi bộ khoái trá lắm. Bác đã say, ngồi gục tới gục lui mà vẫn cười, miệng lầm bầm “Mấy người được như tao?”.
4. THẦY CÔ TỐNG KHUYẾN
3. BÍ ẨN MỘT CHUYỆN TÌNH
Tôi có thằng bạn nối khố. Nối khố đúng nghĩa, thân nhau từ nhỏ đến lớn. Cho đến bây giờ đầu hai thứ tóc mà vẫn mầy tao. Dĩ nhiên tôi phải gọi vợ hắn bằng chị một cách lễ phép. Chúng tôi sinh ra, lớn lên ở thành phố Hội An. Ðó là một thành phố cổ mà ai cũng biết. Cả mấy trăm năm mà hầu như ít có người sửa lại ngôi nhà của mình. Họ bảo thủ cũng có nhưng sửa để làm gì? Con cái lớn lên, đứa nào cũng tìm cách bay nhảy ra khỏi thành phố, vả lại nhà có hư, dột gì đâu? Nhà xưa, tường xây mấy lớp gạch dày, ngói lợp âm dương, sườn nhà bằng gỗ tốt, mấy cây cột nhà to tướng bằng gỗ lim, gõ...mối, mọt gặm gãy răng không ra. Có điều bất tiện là nhà nhiều cột quá. Tôi nhớ lúc nhỏ, khuya dậy đi tiểu, mắt nhắm mắt mở, hai tay quờ quạng phía trước, vậy mà cứ đập trán vô cột nhà hoài. Còn đường phố ở Hội An, ngay cả đường phố chính cũng chỉ rộng hơn đường hẻm ở Sài Gòn chút đỉnh, nghĩa là vừa cho chiếc xe hơi chạy một chiều. Có lẽ ngày xưa, cách đây khoảng bốn, năm trăm năm, người ta làm đường đủ cho hai chiếc xe ngựa tránh nhau mà thôi. Sau nầy, các con đường được mở tối đa, lấn đến sát thềm nhà, đến độ, bước ra khỏi cửa là đặt chân xuống lòng đường, khiến cho Hội An trông rất đặc biệt, như không có đường phố lớn và mọi nhà đều xây mặt ra hẻm. Hội An giống một cái túi, ra vào chỉ một con đường đi Vĩnh Ðiện, nối với Quốc lộ 1, cho nên con người ở đó loay hoay với nhau như trong tổ mối. Họ thân thiết nhau đến độ biết rõ gia phảø mấy đời trước của nhau.
Tôi xin dài dòng, linh tinh một chút về bạn tôi. Bạn tôi tên Công, trong lớp, ngồi gần tôi vì cùng vần C. Nhớ năm đó có cô Lê thị Tường Loan, giáo sư Anh văn, mới ra trường. Cô Tường Loan trẻ và đẹp lắm. Mỗi khi cô vào lớp là bọn đệ tử chúng tôi ngồi ngắm cô sa đà, quên cả trời trăng. Cô đã đẹp còn diện hết sẩy, mỗi ngày một áo dài khác nhau. Bọn con gái còn đếm được cô có mấy chục áo dài tất cả, mà cô thì cứ may áo mới hoài. Mùa đông, hơi lạnh một tí là cô diện áo ấm vào, trông như nữ minh tinh Hồng Kông. Cô mới ra trường, chỉ hơn bọn đệ tử năm, bảy tuổi nên chúng tôi xem như cùng trang lứa, tuy kính nể nhưng cũng thích chọc ghẹo cô. Thế nên, hễ nghe cô gọi đến tên Công lên trả bài, làm gì cả lớp cũng nhao nhao “Công ngủ rồi, cô!” Cô ngạc nghiên hỏi hắn “Sao trong lớp anh lại ngủ?” Hắn ú ớ “Dạ, mấy bạn chọc em đó cô” Ðúng là cô giáo mới ra trường, ngây thơ chi lạ! Nhưng sau cô cũng hiểu. Lần sau, cô gọi hắn, đứa nào nói “Công ngủ rồi ạ!” là cô làm nghiêm, mặt đỏ lên, và cô hành cái thằng dại miệng đó chết xác luôn. Nhưng khổ nổi, hễ cô mà gọi đến tên Công là bao nhiêu cái miệng ngứa ngáy. Sau mới nghĩ cách khác, chúng mách cô “Công còn thức, cô!” Lần nầy các cậu cũng vẫn bị phạt mà cứ ngơ ngác không hiểu vì sao?! Kể ra, để thấy rằng, Công, bạn tôi chẳng có giá trị gì cả.
Chuyện tôi và hắn thời tiểu học thì cho qua đi, lên trung học, khoảng đệ tứ, đệ tam tâm hồn mới có vấn đề, nghĩa là tập tểnh đi tìm người đẹp để dâng quả tim. Thời đó, khoảng thập niên sáu mươi, tôi nhớ, Hội An có nhiều người đẹp. Cô Hà thị Tuyết ở gần chợ đẹp ngây thơ, hiền hậu, cô “Liên chuột bạch” đường Nguyễn thái Học rất dễ thương. Cô Lý tuyết Ánh đã đẹp mà hát bài “Mai Quế” nhạc tàu, hay lắm. Cô Tuyết Trinh nhà ở tiệm ảnh Huỳnh Sỏ hát bài “Tôi vẫn yêu hoa màu tím” còn hay hơn ca sĩ Lệ Thanh. Còn một cô nữa, rất đẹp mà hát cũng hay, không thể nói tên ở đây vì là nhân vật chính trong chuyện tôi sắp kể. Tôi xin tạm gọi là cô An. Bạn tôi “si” cô nầy như là một thứ bịnh tâm thần. Càng yêu, hắn như càng mất tinh thần trước cô. Mới thấy người đẹp đằng xa là chân tay cứ run lên, thở không ra hơi. Bạn tôi xấu trai. Dân thành thị mà đen thùi, mặt hắn chành bành như mặt ông địa múa lân, chân tay cục mịch, khi đi cứ bước thình thịch xuống mặt đường như trâu dậm. Ngữ hắn thì hy vọng gì trước cô An, đẹp như tiên, học giỏi, hát hay. Hắn thua sút các bạn cùng tuổi, chỉ có tâm hồn thì hơi lãng mạn. Hắn làm thơ. Làm thơ ca tụng em An. Thơ hắn thường thấy xuất hiện trên báo, báo ở Sài Gòn đàng hoàng. Hắn xứng đáng được gọi là “nhà thơ”, nhưng chút danh vọng đó cũng chẳng giúp hắn được cô An tỏ cử chỉ gì ưu ái hơn các bạn khác.
Tôi xin dài dòng, linh tinh một chút về bạn tôi. Bạn tôi tên Công, trong lớp, ngồi gần tôi vì cùng vần C. Nhớ năm đó có cô Lê thị Tường Loan, giáo sư Anh văn, mới ra trường. Cô Tường Loan trẻ và đẹp lắm. Mỗi khi cô vào lớp là bọn đệ tử chúng tôi ngồi ngắm cô sa đà, quên cả trời trăng. Cô đã đẹp còn diện hết sẩy, mỗi ngày một áo dài khác nhau. Bọn con gái còn đếm được cô có mấy chục áo dài tất cả, mà cô thì cứ may áo mới hoài. Mùa đông, hơi lạnh một tí là cô diện áo ấm vào, trông như nữ minh tinh Hồng Kông. Cô mới ra trường, chỉ hơn bọn đệ tử năm, bảy tuổi nên chúng tôi xem như cùng trang lứa, tuy kính nể nhưng cũng thích chọc ghẹo cô. Thế nên, hễ nghe cô gọi đến tên Công lên trả bài, làm gì cả lớp cũng nhao nhao “Công ngủ rồi, cô!” Cô ngạc nghiên hỏi hắn “Sao trong lớp anh lại ngủ?” Hắn ú ớ “Dạ, mấy bạn chọc em đó cô” Ðúng là cô giáo mới ra trường, ngây thơ chi lạ! Nhưng sau cô cũng hiểu. Lần sau, cô gọi hắn, đứa nào nói “Công ngủ rồi ạ!” là cô làm nghiêm, mặt đỏ lên, và cô hành cái thằng dại miệng đó chết xác luôn. Nhưng khổ nổi, hễ cô mà gọi đến tên Công là bao nhiêu cái miệng ngứa ngáy. Sau mới nghĩ cách khác, chúng mách cô “Công còn thức, cô!” Lần nầy các cậu cũng vẫn bị phạt mà cứ ngơ ngác không hiểu vì sao?! Kể ra, để thấy rằng, Công, bạn tôi chẳng có giá trị gì cả.
Chuyện tôi và hắn thời tiểu học thì cho qua đi, lên trung học, khoảng đệ tứ, đệ tam tâm hồn mới có vấn đề, nghĩa là tập tểnh đi tìm người đẹp để dâng quả tim. Thời đó, khoảng thập niên sáu mươi, tôi nhớ, Hội An có nhiều người đẹp. Cô Hà thị Tuyết ở gần chợ đẹp ngây thơ, hiền hậu, cô “Liên chuột bạch” đường Nguyễn thái Học rất dễ thương. Cô Lý tuyết Ánh đã đẹp mà hát bài “Mai Quế” nhạc tàu, hay lắm. Cô Tuyết Trinh nhà ở tiệm ảnh Huỳnh Sỏ hát bài “Tôi vẫn yêu hoa màu tím” còn hay hơn ca sĩ Lệ Thanh. Còn một cô nữa, rất đẹp mà hát cũng hay, không thể nói tên ở đây vì là nhân vật chính trong chuyện tôi sắp kể. Tôi xin tạm gọi là cô An. Bạn tôi “si” cô nầy như là một thứ bịnh tâm thần. Càng yêu, hắn như càng mất tinh thần trước cô. Mới thấy người đẹp đằng xa là chân tay cứ run lên, thở không ra hơi. Bạn tôi xấu trai. Dân thành thị mà đen thùi, mặt hắn chành bành như mặt ông địa múa lân, chân tay cục mịch, khi đi cứ bước thình thịch xuống mặt đường như trâu dậm. Ngữ hắn thì hy vọng gì trước cô An, đẹp như tiên, học giỏi, hát hay. Hắn thua sút các bạn cùng tuổi, chỉ có tâm hồn thì hơi lãng mạn. Hắn làm thơ. Làm thơ ca tụng em An. Thơ hắn thường thấy xuất hiện trên báo, báo ở Sài Gòn đàng hoàng. Hắn xứng đáng được gọi là “nhà thơ”, nhưng chút danh vọng đó cũng chẳng giúp hắn được cô An tỏ cử chỉ gì ưu ái hơn các bạn khác.
Vì yêu em hắn đã làm một chuyện lạ đời. Xưa nay chỉ có hắn là đến nhà thờ cầu Chúa rồi đến chùa lạy Phật cầu xin cho em yêu hắn. Hắn chỉ khấn có một câu“Lạy Phật (hoặc) lạy Chúa cho em An yêu con!”. Chỉ riêng tôi hắn mới nói sự bí mật đó. Hắn bảo rằng với lòng thành của hắn, Phật, Chúa ắt động tâm vì các đấng đã chẳng dạy chúng sinh phải yêu thương nhau là gì? Tôi không nói ra nhưng nghĩ rằng, các đấng ấy hơi đâu lo chuyện tào lao. Giúp đỡ, an ủi lũ chúng sinh bất hạnh mà thế gian vẫn chưa hết đau khổ, thì giờ đâu mà lo cho hắn?! Ấy vậy mà phép lạ xảy ra mới kỳ. Hắn được người đẹp nắm tay dẫn đi rồi còn nhảy tót vào ngồi trong vòng tay hắn và ôm hắn nữa. Nguyên nhân như thế nầy. Hè năm đó trường Trần Quí Cáp tổ chức đi chơi Ngũ Hành Sơn, đi, về trong ngày. Ngũ Hành Sơn, còn gọi là Non Nước, cách Hội An độ vài mươi cây số, ở ngoại ô thành phố Ðà Nẵng, gồm năm ngọn núi đá nhỏ, có một số hang động, có chùa chiền, có đường lên trời, đường xuống biển. Lúc bấy giờ có một hang động mới vừa tìm thấy, nên ai cũng tò mò muốn xem. Sáng hôm đó, xe đỗ học sinh trước động mới. Các thầy cô sắp xếp học sinh đi vào động. Con gái đi riêng, con trai đi riêng. Khi vào, đèn đuốc được thắp sáng lên, tất cả lần lượt đi rất trật tự. Nhưng vào bên trong thì vì chỗ nào cũng có những hình tượng kỳ lạ, nên lũ học trò trầm trồ, đi linh tinh, gọi nhau ơi ới, chẳng còn hàng lối gì cả. Bạn tôi nhân lúc lộn xộn, lẻn chen vào toán con gái, hắn đi theo người đẹp. Trong động thiếu ánh sáng, đèn đuốc chập chờn. Ai cũng lo ngắm nghía mấy cái thạch nhủ. Ða số các cô mắt cứ nghiêng ngó chung quanh, tay thì nắm tay bạn cho khỏi lạc. Một lần, cô An, người đẹp của hắn, mắt nhìn lên nóc động, tay quờ quạng phía sau để nắm tay bạn, gái, dĩ nhiên. Hắn đứng sau, lẳng lặng đưa tay ra, thế là người đẹp vô tình cứ nắm lấy tay hắn lôi đi. Chỉ mình tôi theo dõi chuyện đó. Tôi thấy lúc nắm tay hắn, cô hơi khựng lại. Hú vía! cô không quay nhìn hắn. Hắn để cho cô dẫn đi cả buổi mới rút tay lại và quay về toán con trai. Tôi hỏi hắn sao không tiếp tục, hắn bảo sợ người đẹp phát giác, vả lại có cô thầy đứng gần đó. Ðàn ông con trai, già trẻ gì cũng giống nhau, yêu ai, nhất là yêu thầm, coi người đó như thần tượng, rất tôn quí, rất cao xa. Như bạn tôi yêu cô An, bỗng dưng được người đẹp nắm tay, thử hỏi có thứ hạnh phúc nào sánh bằng? Hắn mừng lắm, khoe với tôi rằng tay em dịu dàng, mát rượi. Rồi hắn cứ hôn mãi bàn tay (của hắn) đã được em nắm dẫn đi. Khi ra khỏi động, mọi người ngồi rải rác để thở vì ngộp và nóng. Thấy cô An ngồi hơi xa các bạn trên một tảng đá, hắn làm như vô tình đến ngồi bên cạnh. Thực ra học sinh, trai gái ngồi cạnh nhau là bình thường, nhưng với hắn, được ngồi bên em là một biến cố lớn. Hắn muốn gợi chuyện nhưng cứ đực ra, không dám mở miệng. Bỗng hắn thấy một con sâu róm đang bò đến gần tay người đẹp, hắn bảo.
-Có con sâu...
Cô An quay lại hỏi hắn.
-Công nói gì?
Vừa lúc con sâu bắt đầu bò lên ngón tay của cô, hắn chỉ con sâu và bảo.
-Con sâu kìa!.
Cô nhìn thấy và hét lên một tiếng khủng khiếp, mặt xanh lè, nhào ngay vào lòng hắn, một tay ôm hắn, tay kia cứ đưa ra ngoài, vẫy lia lịa. Ðúng là tiếng kêu “vang dội núi rừng”, khiến mọi người giật mình quay nhìn. Hắn ngớ người ra, chưa kịp “enjoy” cái hạnh phúc bất ngờ thì người đẹp đã bỏ chạy đến với các bạn gái. Thế là hắn hoàn toàn mất hồn, miệng cứ lẩm bẩm với tôi.
- Chắc tao chết mất! Ðội ơn Phật, đội ơn Chúa!
-Có con sâu...
Cô An quay lại hỏi hắn.
-Công nói gì?
Vừa lúc con sâu bắt đầu bò lên ngón tay của cô, hắn chỉ con sâu và bảo.
-Con sâu kìa!.
Cô nhìn thấy và hét lên một tiếng khủng khiếp, mặt xanh lè, nhào ngay vào lòng hắn, một tay ôm hắn, tay kia cứ đưa ra ngoài, vẫy lia lịa. Ðúng là tiếng kêu “vang dội núi rừng”, khiến mọi người giật mình quay nhìn. Hắn ngớ người ra, chưa kịp “enjoy” cái hạnh phúc bất ngờ thì người đẹp đã bỏ chạy đến với các bạn gái. Thế là hắn hoàn toàn mất hồn, miệng cứ lẩm bẩm với tôi.
- Chắc tao chết mất! Ðội ơn Phật, đội ơn Chúa!
Từ đó hắn rất siêng đi ngang qua nhà người đẹp, đôi khi cũng có gặp nhau, em cũng chào hỏi, chuyện trò vớ vẫn với hắn như một người bạn bình thường. Ấy vậy mà hắn lại thơ mộng hóa những lần gặp gỡ đó trong những vần thơ của hắn, tưởng như người đẹp cũng có yêu hắn một cách thầm kín. Thi tú tài hai xong, bọn tôi rủ nhau thi vào trường Hành Chánh. Sau bốn năm đèn sách, thi tốt nghiệp, hai đứa tôi học dỡ quá, ít điểm, nên khi chọn nhiệm sở, mấy chỗ ngon lành, bọn học giỏi chiếm cả, chỉ còn mấy tỉnh khói lửa mịt mù như Phước Long, Quảng Trị, Pleiku, Kontum...Hắn rủ tôi về Quảng Trị, có lẽ để dễ về Hội An thăm người đẹp.
Về Quảng Trị, mỗi đứa lãnh một chức phó quận ở miền quê, nhưng chiều nào cũng về nhà trọ ở thành phố Quảng Trị. Cơm hàng cháo chợ xong, hai đứa về nằm nói chuyện khào. Ðề tài hắn nói hoài không chán là chuyện em An, nhất là mỗi khi về thăm em, hắn kể say sưa em đẹp ra sao, chuyện trò những gì với hắn. Tôi khuyến khích hắn tỏ tình, hắn bảo.
-Tao khớp quá! Chỉ sợ em nói “Anh hiểu lầm sự tử tế của An rồi” là tao hết hy vọng. Vả lại...
Hắn không nói tiếp nhưng tôi biết hắn mặc cảm xấu trai, nên giải thích.
- Thời chiến tranh, hành chánh dù sao cũng đỡ hơn nhà binh, mầy không tiến tới, em lấy chồng, mầy chổng mỏ la trời.
Hắn nghe trúng ý nên hăng hái.
- Tuần sau, tao về nói đại, xem sao?
Tuần sau, hắn về Hội An, khi trở ra, tôi hỏi hắn.
- Kết quả ra sao?
Hắn làm thinh. Hỏi mãi, hắn mới bảo.
- Tao về, nghe người ta đồn rằng có một tên bác sĩ đang nhờ người mai mối.
- Em chịu không?
- Tao không biết, nhưng so với hắn, tao lép vế rõ ràng! Thế nên tao không ghé vào thăm em nữa.
Khuya đó, tôi thức giấc, thấy hắn ngồi đốt thơ. Ðúng là hình ảnh “chàng thi sĩ thất tình đốt thơ” Trầm tư, lặng lẽ, đau khổ âm thầm...trong ánh lửa bập bùng, khi tỏ, khi mờ của những bài thơ đang đi vào khói mây của dĩ vãng! Từ đó hắn biếng ăn, nhác uống, thân thể ốm o, mặt hắn đang tròn lại dài ra, hai má tóp lại, trông càng quái dị. Nhưng rồi một lần, tôi về Hội An thăm gia đình, khi ra Quảng Trị, tôi báo cho hắn một tin đáng cho hắn tiếp tục nuôi hy vọng. Em từ chối lời cầu hôn của anh chàng bác sĩ nọ. Hắn lý luận.
- Có lẽ em yêu một tên nào rồi, chứ không phải tao.
Tôi khuyến khích hắn.
- Dân hành chánh có cái phong thái riêng, vừa có vẻ ngạo mạn, tự tin lại vừa thanh cao, lãng mạn như một thư sinh.
Hắn coi bộ lên tinh thần, nhưng còn mặc cảm xấu trai.
- Tao chẳng thấy tao khác ở chỗ nào, e còn tệ hơn.
Tôi lại phải tái khẳng định.
- Mấy bài thơ trên báo đủ làm tim em rung động và yêu mầy. Mầy phải tự tin mà nhào vô kẻo trễ.
Lần nầy thì hắn cương quyết.
- Ðược, tao sẽ làm như mầy nói, nhưng để thong thả, tao phải lạy Phật, cầu Chúa... để lấy can đảm.
Sau cái tin vui đó, hắn ăn uống bình thường trở lại. Mặt hắn lại tròn, giống mặt cô Thúy Vân, em gái Thúy Kiều, trông không đến nỗi, và hắn lại tiếp tục chương trình ngày rằm, mồng một đi chùa, chủ nhật đi nhà thơ,ø trên cổ, hắn đeo sợi dây chuyền có tượng Phật và tượng Chúa Giê Su. Có lẽ cứ bị làm rộn hoài và cũng vì tội nghiệp hắn nên các Ngài (Chúa và Phật) định đem hồ sơ của hắn ra cứu xét thì vừa lúc Miền Nam sập tiệm. Quan lớn, quan nhỏ đi tù cả nút, dĩ nhiên tôi và hắn, cũng vô tù. Sau khi ra tù, tôi ở lì tại Sài Gòn, hắn thì về Hội An có lẽ để được gần người đẹp. Một lần về Hội An thăm nhà, tôi gặp hắn hành nghề chạy xe thồ, nghĩa là cứ ra bến xe Hội An đón khách với chiếc xe đạp, ai đi đâu thì hắn chở phía yên sau, kiếm tí tiền còm. Chẳng thấy hắn mặc cảm gì cả, gặp ai cũng cười hề hề. Lâu quá mới gặp, chúng tôi mừng rỡ kéo nhau vào quán nước trò chuyện. Tôi hỏi.
- Mầy còn siêng đi nhà thờ, đi chùa không?
Ý tôi muốn hỏi còn yêu cô An không? Hắn trả lời.
- Vẫn đi đều đều!
- Em bây giờ ra sao, ở đâu?
- Em vẫn ở đây. Bây giờ khá lắm. Ông bố với thằng em vượt biên, ở Mỹ, gởi hàng về, sống phây phả.
Kể ra có một người đẹp để tôn thờ cũng là một thú vui thanh tao, đâu cần được đáp lại, miễn người đẹp biết nhưng không tỏ vẻ khó chịu là tốt rồi. Trước kia hắn lép vế vì xấu trai, nay hắn tụt xuống hạng cùng đinh, thì dù hắn có lạy đến sói trán trước đức Phật hay quì mòn đầu gối trong nhà thờ cũng chẳng hy vọng gì. Theo chuyện cổ tích, sau khi gặp Mỵ Nương, Trương Chi tiếp tục hát đến khan cổ mà người đẹp không thèm nghe, nay hắn cũng vậy, những bài thơ tình trên báo của hắn trước đây cũng tương tự tiếng hát vô vọng của anh Trương Chi, chẳng có tác dụng gì. Ôi, thơ với thẩn! Thực tế vẫn tàn nhẫn, vẫn phủ phàng. Hai cậu (hắn và Trương Chi) chăûng có nghề ngỗng gì ra hồn, làm không đủ bỏ mồm, lấy gì nuôi vợ con nên hai nàng làm lơ cũng đúng thôi. Thế mà, lúc còn ở Sài Gòn, bỗng nhiên tôi được tin hắn cưới cô An làm vợ?! Tôi nêu giả thuyết, cô bị xe tung sứt tay, gãy gọng, bị hỏa hoạn cháy nám mặt mày hoặc cô linh tinh với ai lỡ mang bầu cần hắn đứng ra “nôm” thì tôi nghĩ hắn vẫn lời chán. Hắn có gì để trao đổi với cô An đâu?! Tôi nhớ rõ, chuyện hắn cưới cô An xảy ra trước tin đồn bọn tù cải tạo sẽ được đi Mỹ nên lý do cô thích đi Mỹ mà ưng hắn cũng không đúng.
Hôm đến sở di trú làm giấy tờ, phỏng vấn, vợ chồng tôi gặp vợ chồng hắn. Thấy cái lối săn sóc chồng đến độ âu yếm của vợ hắn, tôi nghĩ, cô An si mê hắn nhiều hơn là hắn si mê cô ta. Hắn có hai đứa con nhưng tôi vẫn hỏi.
- Ðứa nào là con của mầy?
Ý muốn biết cô An có con riêng không?
- Hai đứa nầy đây.
Cha con hắn giống nhau như khuôn đúc, cô An cũng vẫn đẹp như trước đây.
Ðến Mỹ, chúng tôi tuy ở khác tiểu bang, nhưng vẫn thường gọi nhau thăm hỏi. Rồi hắn bảo tôi qua tiểu bang hắn chơi ít hôm, tôi đồng ý. Thăm hắn cũng có nhưng mục đích chính là hỏi cho ra cái lý do hắn được cô An lấy làm chồng. Vợ chồng hắn ra đón chúng tôi tại phi trường. Về nhà đã có sẵn một bàn đồ nhậu. Khi đã ngà ngà say, tôi hỏi.
-Hai ông bà kể cho tụi nầy nghe cái nguyên nhân đưa đẩy hai người đi đến “sống chung hòa bình” Chị An nói cho tụi nầy biết. Thằng bạn tôi đây, ở tù về, chẳng ai dám giao thiệp, vậy mà chị lại chọn hắn ta, là cớ làm sao?
Vợ hắn mới kể.
- Bà cụ (tức mẹ của cô An, vợ hắn) bị bịnh ung thư. Khi phát giác ra thì đã quá trễ. Bịnh ung thư của đàn bà, đến thời kỳ trầm trọng thì có mùi hôi khó chịu, chẳng nhờ được ai phụ giúp cả. Gia đình chỉ có mình tôi, mà bà cụ thì cứ rên la suốt ngày đêm, chỉ vài tháng là tôi đã kiệt sức, e chết trước bà cụ mất! Cũng may, gặp ổng. Ổng xung phong đến thức đêm canh chừng bà cụ, tôi mới ngủ được chút đỉnh. Bà cụ thấy ổng tận tâm, không hề tỏ vẻ khó chịu nên bà cụ cảm động, trước khi mất, bắt hai đứa tôi làm lễ thành hôn, coi như cưới chạy tang. Nói là đám cưới chứ thực ra chỉ có lễ vật sơ sài, nhang đèn rồi lạy cáo tổ tiên, ông bà trước sự chứng giám của bà cụ mà thôi.
Vợ tôi nửa đùa nửa thật.
- Dám anh chị tò tí nhau, bà cụ bắt gặp, coi như ván đã đóng thuyền, thì cho “Thuyền ra cửa biển” luôn, phải không?
Bạn tôi đính chính.
- Lúc đó tôi coi bả như thiên thần, chéo áo cũng không dám động đến, mỗi ngày được gặp mặt người đẹp, lại được chuyện trò, tôi đã sướng mê rồi, còn ao ước gì hơn. Ngay sau buổi lễ gọi là đám cưới, tôi cứ nghĩ, bà cụ bắt buộc thì “nàng” phải vâng lời cho bà cụ vui lòng nhắm mắt, sau đó sẽ có màn cám ơn rồi đường ai nấy đi.
Vợ hắn thêm vào.
- Bấy giờ tôi chỉ còn bộ xương, đi không nổi, bà cụ thì rên la ngày đêm, tâm trí đâu nghĩ đến ba cái chuyện kỳ cục!
Tôi hỏi.
- Nguyên nhân nào đưa đến chuyện ông đến được với bà?
Vợ hắn nói.
- Bữa đó tôi lên Vĩnh Ðiện bổ mấy thang thuốc nam cho bà cụ, đến bến xe Hội An thì được ổng thồ về, đến nhà, vừa bước vô cửa, tôi xỉu vì mệt quá, ổng đỡ vô nhà. Thấy tình cảnh tôi, ổng xung phong đến săn sóc bà cụ về ban đêm để tôi có thể ngủ được chút ít. Bà cụ cảm động vì ngay cả đến người mình trả tiền công hậu hỉ mà cũng rút lui thì phải biết ổng chịu đựng giỏi đến bực nào!
- Ðồng ý là bà cụ cảm động, chị An cũng nhớ ơn đã chịu khó thức đêm, nhưng tôi thấy không phải là lý do để chị yêu thằng bạn tôi. Nhất là cái lối hai anh chị quấn quít nhau như tụi tôi thấy thì phải có tình yêu thắm thiết. Thằng bạn tôi trồng cây si chị từ lâu thì chẳng nói làm gì, còn chị, sao lại có thể như thế được?!
Cả hai vợ chồng chỉ cười chứ không trả lời. Hôm sau, buổi sáng, nhân hai người đàn bà rủ nhau đi chợ, chỉ còn mình tôi với thằng bạn, tôi hỏi bí quyết nào khiến hắn chịu đựng mùi hôi giỏi như vậy? Hắn nói.
- Tao nói nhưng tuyệt đối giữ bí mật, bà xã tao mà biết được thì việc tao chăm sóc bà cụ mất hết cả ý nghĩa. Nó đơn giản như thế nầy. Trong lúc ở tù, tao bị bịnh viêm xoang mũi nặng. Ra tù tao cũng chẳng có thuốc chữa. Tao nghe người ta mách đến một ông thầyï chữa thuốc nam bên Cẩm Phô. Tao đến, ổng dùng thứ thuốc bột màu trắng bỏ vô tờ giấy nhỏ, cuốn lại, thọc vô lỗ mũi tao rồi ổng thổi một cái. Thuốc chạy lên tới óc! Tao tóa hỏa tam tinh, xây mòng mòng như con gà dịch. Cả giờ sau mới tỉnh. Vậy mà thuốc hiệu nghiệm mới lạ! Cứ vài ngày tao đến cho ông thầy thổi thuốc một lần. Ít lâu sau bịnh hết hẳn nhưng từ đấy tao không ngửi được mùi gì ráo. Mũi tao điếc đặc nên dù có đứng bên cạnh cái xác trương sình tao cũng không biết thơm hôi gì. Tao chẳng ngu gì mà nói ra điều đó với bà xã tao, lại làm ra vẻ anh hùng “Em chịu đựng được thì anh cũng vì tình yêu mà chịu đựng được vậy!” Nhưng tao vẫn có một thắc mắc như vợ chồng mầy là dù vì cảm động tấm lòng của tao, vì vâng lời mà cụ mà chấp nhận tao thì bả cũng không thể có cái tình âu yếm, yêu thương tao một cách chân thành, nồng nàn như tụi mầy thấy. Tao đã nhiều lần hỏi bả như thế mà bả chỉ cười không trả lời. Vợ chồng mầy tìm cách hỏi thử xem điều bí mật đó giùm tao.
Hôm vợ chồng hắn tiễn chúng tôi ra phi trường, tôi kéo vợ hắn ra xa, hỏi riêng.
- Tôi hỏi chị một chuyện, chị phải nói thực. Coi bộ chị thương yêu bạn tôi nhiều hơn cả những người vợ bình thường?
- Thì tôi đã kể rồi, ổng như thế ai mà không cảm động.
- Tôi thấy cách yêu thương của chị không phải do lý trí mà từ quả tim chân thành.
Vợ hắn cười.
- Con mắt mấy ông tài thực! Ðược rồi, chỉ riêng anh tôi kể, nhưng đừng cho ai biết. Anh còn nhớ thời tụi mình đi học, có lần đi thăm Ngũ Hành Sơn, Non Nước không? Vụ con sâu bò trên tay tôi đó!.
- Nhớ rồi! Rồi sao nữa?
Cô đỏ mặt lên.
- Tôi thương ổng từ bữa đó.
- Bạn tôi suy luận đúng ngay chóc! Hắn bảo sao chị không bỏ chạy mà lại nhảy vào lòng hắn, còn ôm hắn nữa. Tôi thì cho rằng chỉ là tai nạn, chị hoảng quá, chứ ai mà cố ý.
Cô có vẻ mắc cỡ.
- Thực ra tôi không cố ý làm điều đó. Nhưng khi đang hoảng sợ mà có một người mình có cảm tình ngồi bên cạnh, tự nhiên phải chạy đến cầu cứu người đó.
- À, tôi biết rồi, bạn tôi làm thơ yêu chị, chị cảm động, có cảm tình?
- Chỉ đúng một phần.
- Vậy chứ cái phần kia là chuyện gì?
Cô ngập ngừng.
- Anh cũng biết, con gái mới lớn mà cầm tay con trai cả buổi, tự nhiên phải rung động, và...nhớ suốt đời!
Tôi chưng hửng.
- Vậy là chị cố ý cầm tay bạn tôi! Lúc ở trong Ðộng Mới tôi theo dõi, thấy hết. Hắn đưa tay cho chị nắm, tôi thấy chị hơi khựng lại, tôi nghĩ rằng chị không biết đó là bàn tay của hắn.
Cô cười.
- Lúc mới cầm đến tay ổng, tôi cảm thấy bàn tay cứng đơ, không dịu dàng như tay bọn con gái chúng tôi. Tôi liếc qua biết là tay ổng, tôi cầm luôn. Bàn tay ổng như có điện, chạy khắp người tôi. Ði loanh quanh trong động một lúc, tôi kéo ổng vô chỗ bóng tối, chờ hoài mà ổng không chịu ôm hôn tôi. Bây giờ vẫn còn tức!
Tôi cười nham nhở.
- Cưới nhau về, ôm bao nhiêu không được mà còn tức?!
Cô nguýt tôi.
- Bọn đàn ông các ông phàm phu tục tử, chẳng biết tình yêu là gì! Người ta nói lúc còn trẻ kia. Làm sao quên được.
Ðọc đến đây, bạn sẽ nghĩ rằng. Chuyện hợp lý, cô An yêu bạn tôi vì những bài thơ ca tụng cô, cảm động vì hắn tận tâm săn sóc bà cụ. Nhưng tại sao lại có những chuyện tình cờ ăn khớp với nhau một cách lạ lùng như vậy được? Con sâu ở đâu ra? Sao cứ nhè tay cô An mà bò lên? Vì sao mũi bạn tôi lại điếc đặc khi bà cụ bịnh? Tại sao cô An lăn ra bất tỉnh ngay khi bạn tôi đưa về đến nhà?
Nếu bạn là người vô thần thì tôi chịu thua. Ngược lại bạn tin có Chúa, có Phật thì tôi xin kể một sự thật. Hai đấng từ bi (Phật và Chúa) đã hội ý nhau giúp hắn. Ðúng ra các Ngài không bao giờ buộc người nầy phải yêu người kia như cha mẹ ép duyên con cái được, vì Tình Yêu là thứ Tự Do quí giá nhất các Ngài đã tặng cho loài người. Nhưng chả lẽ bạn tôi van xin, cầu khẩn bao nhiêu năm mà các Ngài nỡ làm ngơ?! Thế nên các Ngài đành bỏ chút thì giờ mà ra tay vậy.
Lúc bấy giờ, hai vị đó, trên chín tầng mây, nhìn xuống thế gian, theo dõi, xem bạn tôi đang làm gì? Khi thấy hắn ngồi bên cô An, Ðức Phật bèn bắt một con sâu bỏ cạnh tay cô. Ngài cũng hiểu tâm lý đàn bà lắm chứ. Gì chứ sâu, bọ, chuột, rắn...các cô sợ thất thần, nên cô An có nhảy tót vào lòng bạn tôi cũng là chuyện đương nhiên. Rồi trong thời gian bà cụ bịnh, lúc hắn chở cô An từ bến xe về nhà, đến lượt Chúa Giê Su, Ngài cúi xuống, thổi nhẹ, vậy là cô An xỉu ngay, và bạn tôi bồng vào nhà. Không gì sướng bằng được bồng trên tay người mình yêu thầm! Cho đến khi hai đứa cưới nhau, ôm nhau, các Ngài mới nhìn nhau, xoa tay mỉm cười.
Xin đừng tưởng hai đấng từ bi đó phải mất mấy năm theo dõi để thực hiện việc kết tóc xe tơ cho hai đứa. Không có đâu! Vỏn vẹn mười lăm phút thôi. Vì dưới thế gian một trăm năm thì trên thượng giới chỉ là một ngày. Sự thật là như vậy. Ðúng như vậy, các bạn ạ!
Về Quảng Trị, mỗi đứa lãnh một chức phó quận ở miền quê, nhưng chiều nào cũng về nhà trọ ở thành phố Quảng Trị. Cơm hàng cháo chợ xong, hai đứa về nằm nói chuyện khào. Ðề tài hắn nói hoài không chán là chuyện em An, nhất là mỗi khi về thăm em, hắn kể say sưa em đẹp ra sao, chuyện trò những gì với hắn. Tôi khuyến khích hắn tỏ tình, hắn bảo.
-Tao khớp quá! Chỉ sợ em nói “Anh hiểu lầm sự tử tế của An rồi” là tao hết hy vọng. Vả lại...
Hắn không nói tiếp nhưng tôi biết hắn mặc cảm xấu trai, nên giải thích.
- Thời chiến tranh, hành chánh dù sao cũng đỡ hơn nhà binh, mầy không tiến tới, em lấy chồng, mầy chổng mỏ la trời.
Hắn nghe trúng ý nên hăng hái.
- Tuần sau, tao về nói đại, xem sao?
Tuần sau, hắn về Hội An, khi trở ra, tôi hỏi hắn.
- Kết quả ra sao?
Hắn làm thinh. Hỏi mãi, hắn mới bảo.
- Tao về, nghe người ta đồn rằng có một tên bác sĩ đang nhờ người mai mối.
- Em chịu không?
- Tao không biết, nhưng so với hắn, tao lép vế rõ ràng! Thế nên tao không ghé vào thăm em nữa.
Khuya đó, tôi thức giấc, thấy hắn ngồi đốt thơ. Ðúng là hình ảnh “chàng thi sĩ thất tình đốt thơ” Trầm tư, lặng lẽ, đau khổ âm thầm...trong ánh lửa bập bùng, khi tỏ, khi mờ của những bài thơ đang đi vào khói mây của dĩ vãng! Từ đó hắn biếng ăn, nhác uống, thân thể ốm o, mặt hắn đang tròn lại dài ra, hai má tóp lại, trông càng quái dị. Nhưng rồi một lần, tôi về Hội An thăm gia đình, khi ra Quảng Trị, tôi báo cho hắn một tin đáng cho hắn tiếp tục nuôi hy vọng. Em từ chối lời cầu hôn của anh chàng bác sĩ nọ. Hắn lý luận.
- Có lẽ em yêu một tên nào rồi, chứ không phải tao.
Tôi khuyến khích hắn.
- Dân hành chánh có cái phong thái riêng, vừa có vẻ ngạo mạn, tự tin lại vừa thanh cao, lãng mạn như một thư sinh.
Hắn coi bộ lên tinh thần, nhưng còn mặc cảm xấu trai.
- Tao chẳng thấy tao khác ở chỗ nào, e còn tệ hơn.
Tôi lại phải tái khẳng định.
- Mấy bài thơ trên báo đủ làm tim em rung động và yêu mầy. Mầy phải tự tin mà nhào vô kẻo trễ.
Lần nầy thì hắn cương quyết.
- Ðược, tao sẽ làm như mầy nói, nhưng để thong thả, tao phải lạy Phật, cầu Chúa... để lấy can đảm.
Sau cái tin vui đó, hắn ăn uống bình thường trở lại. Mặt hắn lại tròn, giống mặt cô Thúy Vân, em gái Thúy Kiều, trông không đến nỗi, và hắn lại tiếp tục chương trình ngày rằm, mồng một đi chùa, chủ nhật đi nhà thơ,ø trên cổ, hắn đeo sợi dây chuyền có tượng Phật và tượng Chúa Giê Su. Có lẽ cứ bị làm rộn hoài và cũng vì tội nghiệp hắn nên các Ngài (Chúa và Phật) định đem hồ sơ của hắn ra cứu xét thì vừa lúc Miền Nam sập tiệm. Quan lớn, quan nhỏ đi tù cả nút, dĩ nhiên tôi và hắn, cũng vô tù. Sau khi ra tù, tôi ở lì tại Sài Gòn, hắn thì về Hội An có lẽ để được gần người đẹp. Một lần về Hội An thăm nhà, tôi gặp hắn hành nghề chạy xe thồ, nghĩa là cứ ra bến xe Hội An đón khách với chiếc xe đạp, ai đi đâu thì hắn chở phía yên sau, kiếm tí tiền còm. Chẳng thấy hắn mặc cảm gì cả, gặp ai cũng cười hề hề. Lâu quá mới gặp, chúng tôi mừng rỡ kéo nhau vào quán nước trò chuyện. Tôi hỏi.
- Mầy còn siêng đi nhà thờ, đi chùa không?
Ý tôi muốn hỏi còn yêu cô An không? Hắn trả lời.
- Vẫn đi đều đều!
- Em bây giờ ra sao, ở đâu?
- Em vẫn ở đây. Bây giờ khá lắm. Ông bố với thằng em vượt biên, ở Mỹ, gởi hàng về, sống phây phả.
Kể ra có một người đẹp để tôn thờ cũng là một thú vui thanh tao, đâu cần được đáp lại, miễn người đẹp biết nhưng không tỏ vẻ khó chịu là tốt rồi. Trước kia hắn lép vế vì xấu trai, nay hắn tụt xuống hạng cùng đinh, thì dù hắn có lạy đến sói trán trước đức Phật hay quì mòn đầu gối trong nhà thờ cũng chẳng hy vọng gì. Theo chuyện cổ tích, sau khi gặp Mỵ Nương, Trương Chi tiếp tục hát đến khan cổ mà người đẹp không thèm nghe, nay hắn cũng vậy, những bài thơ tình trên báo của hắn trước đây cũng tương tự tiếng hát vô vọng của anh Trương Chi, chẳng có tác dụng gì. Ôi, thơ với thẩn! Thực tế vẫn tàn nhẫn, vẫn phủ phàng. Hai cậu (hắn và Trương Chi) chăûng có nghề ngỗng gì ra hồn, làm không đủ bỏ mồm, lấy gì nuôi vợ con nên hai nàng làm lơ cũng đúng thôi. Thế mà, lúc còn ở Sài Gòn, bỗng nhiên tôi được tin hắn cưới cô An làm vợ?! Tôi nêu giả thuyết, cô bị xe tung sứt tay, gãy gọng, bị hỏa hoạn cháy nám mặt mày hoặc cô linh tinh với ai lỡ mang bầu cần hắn đứng ra “nôm” thì tôi nghĩ hắn vẫn lời chán. Hắn có gì để trao đổi với cô An đâu?! Tôi nhớ rõ, chuyện hắn cưới cô An xảy ra trước tin đồn bọn tù cải tạo sẽ được đi Mỹ nên lý do cô thích đi Mỹ mà ưng hắn cũng không đúng.
Hôm đến sở di trú làm giấy tờ, phỏng vấn, vợ chồng tôi gặp vợ chồng hắn. Thấy cái lối săn sóc chồng đến độ âu yếm của vợ hắn, tôi nghĩ, cô An si mê hắn nhiều hơn là hắn si mê cô ta. Hắn có hai đứa con nhưng tôi vẫn hỏi.
- Ðứa nào là con của mầy?
Ý muốn biết cô An có con riêng không?
- Hai đứa nầy đây.
Cha con hắn giống nhau như khuôn đúc, cô An cũng vẫn đẹp như trước đây.
Ðến Mỹ, chúng tôi tuy ở khác tiểu bang, nhưng vẫn thường gọi nhau thăm hỏi. Rồi hắn bảo tôi qua tiểu bang hắn chơi ít hôm, tôi đồng ý. Thăm hắn cũng có nhưng mục đích chính là hỏi cho ra cái lý do hắn được cô An lấy làm chồng. Vợ chồng hắn ra đón chúng tôi tại phi trường. Về nhà đã có sẵn một bàn đồ nhậu. Khi đã ngà ngà say, tôi hỏi.
-Hai ông bà kể cho tụi nầy nghe cái nguyên nhân đưa đẩy hai người đi đến “sống chung hòa bình” Chị An nói cho tụi nầy biết. Thằng bạn tôi đây, ở tù về, chẳng ai dám giao thiệp, vậy mà chị lại chọn hắn ta, là cớ làm sao?
Vợ hắn mới kể.
- Bà cụ (tức mẹ của cô An, vợ hắn) bị bịnh ung thư. Khi phát giác ra thì đã quá trễ. Bịnh ung thư của đàn bà, đến thời kỳ trầm trọng thì có mùi hôi khó chịu, chẳng nhờ được ai phụ giúp cả. Gia đình chỉ có mình tôi, mà bà cụ thì cứ rên la suốt ngày đêm, chỉ vài tháng là tôi đã kiệt sức, e chết trước bà cụ mất! Cũng may, gặp ổng. Ổng xung phong đến thức đêm canh chừng bà cụ, tôi mới ngủ được chút đỉnh. Bà cụ thấy ổng tận tâm, không hề tỏ vẻ khó chịu nên bà cụ cảm động, trước khi mất, bắt hai đứa tôi làm lễ thành hôn, coi như cưới chạy tang. Nói là đám cưới chứ thực ra chỉ có lễ vật sơ sài, nhang đèn rồi lạy cáo tổ tiên, ông bà trước sự chứng giám của bà cụ mà thôi.
Vợ tôi nửa đùa nửa thật.
- Dám anh chị tò tí nhau, bà cụ bắt gặp, coi như ván đã đóng thuyền, thì cho “Thuyền ra cửa biển” luôn, phải không?
Bạn tôi đính chính.
- Lúc đó tôi coi bả như thiên thần, chéo áo cũng không dám động đến, mỗi ngày được gặp mặt người đẹp, lại được chuyện trò, tôi đã sướng mê rồi, còn ao ước gì hơn. Ngay sau buổi lễ gọi là đám cưới, tôi cứ nghĩ, bà cụ bắt buộc thì “nàng” phải vâng lời cho bà cụ vui lòng nhắm mắt, sau đó sẽ có màn cám ơn rồi đường ai nấy đi.
Vợ hắn thêm vào.
- Bấy giờ tôi chỉ còn bộ xương, đi không nổi, bà cụ thì rên la ngày đêm, tâm trí đâu nghĩ đến ba cái chuyện kỳ cục!
Tôi hỏi.
- Nguyên nhân nào đưa đến chuyện ông đến được với bà?
Vợ hắn nói.
- Bữa đó tôi lên Vĩnh Ðiện bổ mấy thang thuốc nam cho bà cụ, đến bến xe Hội An thì được ổng thồ về, đến nhà, vừa bước vô cửa, tôi xỉu vì mệt quá, ổng đỡ vô nhà. Thấy tình cảnh tôi, ổng xung phong đến săn sóc bà cụ về ban đêm để tôi có thể ngủ được chút ít. Bà cụ cảm động vì ngay cả đến người mình trả tiền công hậu hỉ mà cũng rút lui thì phải biết ổng chịu đựng giỏi đến bực nào!
- Ðồng ý là bà cụ cảm động, chị An cũng nhớ ơn đã chịu khó thức đêm, nhưng tôi thấy không phải là lý do để chị yêu thằng bạn tôi. Nhất là cái lối hai anh chị quấn quít nhau như tụi tôi thấy thì phải có tình yêu thắm thiết. Thằng bạn tôi trồng cây si chị từ lâu thì chẳng nói làm gì, còn chị, sao lại có thể như thế được?!
Cả hai vợ chồng chỉ cười chứ không trả lời. Hôm sau, buổi sáng, nhân hai người đàn bà rủ nhau đi chợ, chỉ còn mình tôi với thằng bạn, tôi hỏi bí quyết nào khiến hắn chịu đựng mùi hôi giỏi như vậy? Hắn nói.
- Tao nói nhưng tuyệt đối giữ bí mật, bà xã tao mà biết được thì việc tao chăm sóc bà cụ mất hết cả ý nghĩa. Nó đơn giản như thế nầy. Trong lúc ở tù, tao bị bịnh viêm xoang mũi nặng. Ra tù tao cũng chẳng có thuốc chữa. Tao nghe người ta mách đến một ông thầyï chữa thuốc nam bên Cẩm Phô. Tao đến, ổng dùng thứ thuốc bột màu trắng bỏ vô tờ giấy nhỏ, cuốn lại, thọc vô lỗ mũi tao rồi ổng thổi một cái. Thuốc chạy lên tới óc! Tao tóa hỏa tam tinh, xây mòng mòng như con gà dịch. Cả giờ sau mới tỉnh. Vậy mà thuốc hiệu nghiệm mới lạ! Cứ vài ngày tao đến cho ông thầy thổi thuốc một lần. Ít lâu sau bịnh hết hẳn nhưng từ đấy tao không ngửi được mùi gì ráo. Mũi tao điếc đặc nên dù có đứng bên cạnh cái xác trương sình tao cũng không biết thơm hôi gì. Tao chẳng ngu gì mà nói ra điều đó với bà xã tao, lại làm ra vẻ anh hùng “Em chịu đựng được thì anh cũng vì tình yêu mà chịu đựng được vậy!” Nhưng tao vẫn có một thắc mắc như vợ chồng mầy là dù vì cảm động tấm lòng của tao, vì vâng lời mà cụ mà chấp nhận tao thì bả cũng không thể có cái tình âu yếm, yêu thương tao một cách chân thành, nồng nàn như tụi mầy thấy. Tao đã nhiều lần hỏi bả như thế mà bả chỉ cười không trả lời. Vợ chồng mầy tìm cách hỏi thử xem điều bí mật đó giùm tao.
Hôm vợ chồng hắn tiễn chúng tôi ra phi trường, tôi kéo vợ hắn ra xa, hỏi riêng.
- Tôi hỏi chị một chuyện, chị phải nói thực. Coi bộ chị thương yêu bạn tôi nhiều hơn cả những người vợ bình thường?
- Thì tôi đã kể rồi, ổng như thế ai mà không cảm động.
- Tôi thấy cách yêu thương của chị không phải do lý trí mà từ quả tim chân thành.
Vợ hắn cười.
- Con mắt mấy ông tài thực! Ðược rồi, chỉ riêng anh tôi kể, nhưng đừng cho ai biết. Anh còn nhớ thời tụi mình đi học, có lần đi thăm Ngũ Hành Sơn, Non Nước không? Vụ con sâu bò trên tay tôi đó!.
- Nhớ rồi! Rồi sao nữa?
Cô đỏ mặt lên.
- Tôi thương ổng từ bữa đó.
- Bạn tôi suy luận đúng ngay chóc! Hắn bảo sao chị không bỏ chạy mà lại nhảy vào lòng hắn, còn ôm hắn nữa. Tôi thì cho rằng chỉ là tai nạn, chị hoảng quá, chứ ai mà cố ý.
Cô có vẻ mắc cỡ.
- Thực ra tôi không cố ý làm điều đó. Nhưng khi đang hoảng sợ mà có một người mình có cảm tình ngồi bên cạnh, tự nhiên phải chạy đến cầu cứu người đó.
- À, tôi biết rồi, bạn tôi làm thơ yêu chị, chị cảm động, có cảm tình?
- Chỉ đúng một phần.
- Vậy chứ cái phần kia là chuyện gì?
Cô ngập ngừng.
- Anh cũng biết, con gái mới lớn mà cầm tay con trai cả buổi, tự nhiên phải rung động, và...nhớ suốt đời!
Tôi chưng hửng.
- Vậy là chị cố ý cầm tay bạn tôi! Lúc ở trong Ðộng Mới tôi theo dõi, thấy hết. Hắn đưa tay cho chị nắm, tôi thấy chị hơi khựng lại, tôi nghĩ rằng chị không biết đó là bàn tay của hắn.
Cô cười.
- Lúc mới cầm đến tay ổng, tôi cảm thấy bàn tay cứng đơ, không dịu dàng như tay bọn con gái chúng tôi. Tôi liếc qua biết là tay ổng, tôi cầm luôn. Bàn tay ổng như có điện, chạy khắp người tôi. Ði loanh quanh trong động một lúc, tôi kéo ổng vô chỗ bóng tối, chờ hoài mà ổng không chịu ôm hôn tôi. Bây giờ vẫn còn tức!
Tôi cười nham nhở.
- Cưới nhau về, ôm bao nhiêu không được mà còn tức?!
Cô nguýt tôi.
- Bọn đàn ông các ông phàm phu tục tử, chẳng biết tình yêu là gì! Người ta nói lúc còn trẻ kia. Làm sao quên được.
Ðọc đến đây, bạn sẽ nghĩ rằng. Chuyện hợp lý, cô An yêu bạn tôi vì những bài thơ ca tụng cô, cảm động vì hắn tận tâm săn sóc bà cụ. Nhưng tại sao lại có những chuyện tình cờ ăn khớp với nhau một cách lạ lùng như vậy được? Con sâu ở đâu ra? Sao cứ nhè tay cô An mà bò lên? Vì sao mũi bạn tôi lại điếc đặc khi bà cụ bịnh? Tại sao cô An lăn ra bất tỉnh ngay khi bạn tôi đưa về đến nhà?
Nếu bạn là người vô thần thì tôi chịu thua. Ngược lại bạn tin có Chúa, có Phật thì tôi xin kể một sự thật. Hai đấng từ bi (Phật và Chúa) đã hội ý nhau giúp hắn. Ðúng ra các Ngài không bao giờ buộc người nầy phải yêu người kia như cha mẹ ép duyên con cái được, vì Tình Yêu là thứ Tự Do quí giá nhất các Ngài đã tặng cho loài người. Nhưng chả lẽ bạn tôi van xin, cầu khẩn bao nhiêu năm mà các Ngài nỡ làm ngơ?! Thế nên các Ngài đành bỏ chút thì giờ mà ra tay vậy.
Lúc bấy giờ, hai vị đó, trên chín tầng mây, nhìn xuống thế gian, theo dõi, xem bạn tôi đang làm gì? Khi thấy hắn ngồi bên cô An, Ðức Phật bèn bắt một con sâu bỏ cạnh tay cô. Ngài cũng hiểu tâm lý đàn bà lắm chứ. Gì chứ sâu, bọ, chuột, rắn...các cô sợ thất thần, nên cô An có nhảy tót vào lòng bạn tôi cũng là chuyện đương nhiên. Rồi trong thời gian bà cụ bịnh, lúc hắn chở cô An từ bến xe về nhà, đến lượt Chúa Giê Su, Ngài cúi xuống, thổi nhẹ, vậy là cô An xỉu ngay, và bạn tôi bồng vào nhà. Không gì sướng bằng được bồng trên tay người mình yêu thầm! Cho đến khi hai đứa cưới nhau, ôm nhau, các Ngài mới nhìn nhau, xoa tay mỉm cười.
Xin đừng tưởng hai đấng từ bi đó phải mất mấy năm theo dõi để thực hiện việc kết tóc xe tơ cho hai đứa. Không có đâu! Vỏn vẹn mười lăm phút thôi. Vì dưới thế gian một trăm năm thì trên thượng giới chỉ là một ngày. Sự thật là như vậy. Ðúng như vậy, các bạn ạ!
2. Ăn Tết ở California
Ăn Tết Ở California (02/17/2013) (Xem: 3968) Tác giả là một nhà văn đã xuất bản 3 tác phẩm, góp bài cho Việt Báo Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua. Ông sinh tại Hội An, Quảng Nam, tốt nghiệp Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Cựu tù chinh trị, hiện định cư tại Virginia. Truyện tết Cali sau đây của ông có lời của tác giả trân trọng đề tặng cho nhân vật:
Kính tặng cô Nguyệt.
"A lô! Cho tôi gặp nhà văn Lê Văn Tám ạ!" "Dạ, Tám tôi nghe đây" "Chú còn mấy tập truyện của chú không chú?" "Dạ còn. Đủ ba tập" "Chú gửi cho cháu ba tập nghe!" "Dạ. Cô cho tên và địa chỉ, sáng mai tôi đi gửi ngay cho cô" "Cháu tên Nguyễn thị Chín, địa chỉ... Đó là tiệm nail của cháu" "Cô là chủ tiệm nail? Giàu lắm nghe!" "Chẳng giàu có gì đâu chú ơi! Kinh tế xuống, tiệm ế quá, ngồi không cũng buồn, mua chuyện chú đọc để giết thì giờ. Chị Nguyệt Thu, bạn cháu khen chú viết hay lắm, bảo cháu mua sách chú mà đọc" "Cho tôi gửi lời cám ơn cô Nguyệt Thu đã có lời khen. Và cám ơn cô đã gọi mua sách"
Tuần sau, vào một buổi tối "A lô! Cho cháu gặp chú Tám ạ!" "Dạ, Tám tôi nghe đây" "Chú dạ, cháu giảm thọ" "Dạ. Trên điện thoại, già trẻ, nam nữ gì tôi cũng dạ trước, nói chuyện sau" "Cháu nhận được sách chú gửi rồi. Cám ơn chú"
"Tôi cũng nhận được check cô gửi rồi. Cám ơn cô nhiều. Đọc xong, cô cho tôi vài nhận xét, dở chỗ nào? Đề nghị sửa đổi ra sao. Được vậy tôi mới tiến bộ. Ai cũng khen lấy lòng, đâu quí bằng chê." "Vậy là những lời chị Nguyệt Thu khen chú là vô giá trị, phải không? Cháu mét chị ấy. Người đọc khen thì phải cám ơn chứ!"
"Xin cô nói với cô Nguyệt Thu, tôi rất cám ơn. Còn nhận xét của cô ra sao sau khi đọc truyện của tôi?"
"Cháu chỉ mới đọc vài chuyện. Chẳng có gì hay ho. Nói chú viết dở thì tội nghiệp chú. Nhưng chị Nguyệt Thu thì lại khen nức nở. Đang ngồi đọc, chị ấy phì cười, đọc chuyện khác thì chùi nước mắt" "Bạn cô khóc hay ứa nước mắt?" "Chị ấy khóc, phải lấy khăn lau" "Vậy là cô ta gần năm mươi" "Sao chú biết?" "Những người lớn tuổi, hơi xúc động là chảy nước mắt dù họ đâu có muốn khóc. Ngáp cũng chảy nước mắt, ho cũng chảy nước mắt. Người ta nói mắt mũi kèm nhèm là vậy. Tuyến nước mắt bị hỏng rồi. Cô nhớ nhắc bạn cô, khi đọc sách tôi, xin cho vài ý kiến xây dựng nghe!" "Chị ấy khóc thiệt chứ không hơi xúc động như chú nói đâu, vì chị ấy chưa đến năm mươi. Ham nói chuyện, cháu quên những thắc mắc mà chị Nguyệt Thu nhờ cháu hỏi chú. Những chuyện chú viết, có thật không chú?" "Cũng có thật chút ít, viết thật quá, người ta chán. Tôi phải thêm chi tiết vào cho chuyện được hấp dẫn. Có ông nhà văn nào đó nói. Chuyện hư cấu bao giờ cũng thật hơn chuyện thật" "Cô gái ma trong tranh hiện ra với cậu thanh niên. Chuyện có thật không chú? Bức tranh đó bây giờ ở đâu chú?" "Làm gì có ma, thì làm sao mà chuyện thật được. Nói với bạn cô rằng đọc để giải trí, đừng tin những gì tôi viết mà bị ám ảnh. Có phải cô đang xuống xe không?" "Sao chú biết?" "Nghe cô đóng cửa cái rầm, còn bấm cái remote "tít, tít". Cô đang vô nhà. Phải không?" "Sai rồi. Cháu vô tiệm cơm chỉ." "Cơm chỉ là sao?" "Muốn ăn món nào thì chỉ món đó, người bán cho vô hộp, đem về nhà ăn, khỏi nấu nướng mất công" "Vậy cũng tiện. Nhưng tôi có ý kiến nầy, nếu không vừa ý thì đừng giận. Là nên nấu nướng cho chồng con, đó là niềm vui của người vợ. Nấu vài món đơn giản thôi, nhanh lắm." "Chú dạy đời lầm người rồi. Cháu sống một mình, chồng con gì đâu mà phải nấu nướng." "Cô chưa lập gia đình à? Xin lỗi nghe!" "Cháu cũng có chồng nhưng bây giờ tan hàng rồi. Đang ở chung với chị Nguyệt Thu, người mê truyện chú viết đó." "Tôi không dám hỏi chuyện riêng tư của cô, nhưng người như cô, vui vẻ, khôn lanh, có công ăn việc làm vững vàng thì dư sức có một gia đình đàng hoàng như những người khác." "Để hôm nào có thì giờ, cháu kể chuyện gia đình của cháu cho chú nghe. Chuyện dài lắm, chú mà nghe được dám viết thành tiểu thuyết hay lắm, nhưng kết cuộc là cháu đã li dị chồng cháu. Anh ta lăng nhăng quá. Trẻ không tha, già không từ. Hiện đang ở Việt Nam với cô vợ đáng tuổi con anh ta." “Chia buồn với cô, và khen cô có nghị lực. Lần sau, lấy chồng phải cẩn thận, lựa người đàng hoàng. Đừng hấp tấp" "Còn chú thì sao? Vợ con ra sao?" "Tôi cũng như cô. Ăn cơm chỉ" "Vậy là cháu biết mục đích lời khuyên của chú rồi. Ý chú muốn nói đàng hoàng như chú phải không?" "Tầm bậy. Tôi tám mươi tuổi, già hơn cô nhiều lắm. Hơn nữa, tôi thích sống độc thân. Tự do, thoải mái quen rồi" "Ông nào gặp gái cũng hát bài "độc thân, vợ bỏ, vợ chết". Khi người ta khám phá ra là có vợ sờ sờ ra đấy thì bảo không hạnh phúc, sắp li dị, rồi nói xấu vợ đủ điều. Mấy bài đó xưa quá chú ơi. Chú có bài hát nào khác mấy ông kia không?" "Biết hết! Vô mua đồ ăn mà về cho sớm." "Cháu đang sắp hàng đây." "Bye cô!" "Chú mất lịch sự. Để cháu, là đàn bà, nói bye trước." "Dạ. Xin lỗi. Tôi quen nói với bạn trai. Không muốn chuyện trò nữa thì bye, chẳng ai trách. Mà trước sau gì cô cũng bye tôi trước." "Bye chú!"
“A lô! Chú Tám!"
"Dạ. Tám tôi nghe đây. Tiệm vắng khách, gọi nói chuyện cho đỡ buồn. Phải không?" "Cháu bắt chước chú, nói. Biết hết! Quả nhiên, tiệm hơi vắng khách. Chị Nguyệt Thu, bạn cháu nhớ chú, bảo cháu gọi, hỏi thăm chú có mạnh khỏe không?" "Nói với bạn cô, đừng nhìn cái hình ở bìa sau tập truyện mà lầm. Cái hình đẹp trai, cao ráo đó tôi chụp cách đây cả vài chục năm. Bây giờ tôi già rồi, hom hem lắm. Có cảm tình thì tôi cám ơn, nhưng gặp thì sẽ thất vọng vô cùng" "Chị bạn cháu cũng rất già. Coi bộ còn già hơn chú nữa. Nhưng chị ấy nói, yêu chuyện chú viết, yêu nhân vật trong truyện, chứ tác giả thì chị ấy chỉ khen là có tài làm người đọc không chán" "Truyện tôi đăng báo, ra sách, từ trước đến nay, người ta không chê chỉ vì tội nghiệp tác giả, chứ khen thì hiếm lắm. Các ông văn sĩ khác được nhiều người khen nên họ coi thường, còn tôi, cô Nguyệt Thu là người duy nhất khen tôi nên tôi quí và có cảm tình với cô ấy lắm. Có cô Nguyệt Thu ở đó không? Cho tôi gặp trực tiếp để cám ơn cô ta" "Chú chờ cháu. Chị Nguyệt Thu ơi! Đến đây nói chuyện với nhà văn Lê văn Tám, "người đẹp" của chị nè. Sao chị lắc đầu? Mắc cỡ à? Cứ bắt em làm trung gian, mai mối mà chẳng ai trả công cả. Chú Tám ơi! Chị ấy mắc cỡ, không dám nói chuyện với chú" "Tết nay tôi qua Cali. ăn tết với bạn bè bên đó, tôi nhất định phải gặp cô Nguyệt Thu để cám ơn cô ta" "Để cháu hỏi trước chị Nguyệt Thu, có chịu cho chú gặp không? Cháu không quyết định được. Nếu chị Nguyệt Thu không muốn gặp chú, xin chú đừng đến tiệm của cháu mà tìm nghe. Chị ấy và cháu sẽ giận chú, không tiếp đâu. Nhưng hôm nào chú qua đây?" "Khoảng hăm chín, ba mươi tết. Tôi qua ăn tết với bạn bè" "Có thể cháu sẽ gặp chú, để xem mặt mũi hiện nay của chú ra sao. Dung nhan mùa hạ trong quá khứ của chú rất đáng để chị Nguyệt Thu của cháu chiêm ngưỡng. Cháu nói nhỏ với chú điều nầy. Chị Nguyệt Thu mặc cảm già và xấu, giọng khàn khàn như đàn ông nên không muốn nói chuyện với chú là vì vậy" "Thưa giùm tôi với cô Nguyệt Thu. Dù cô ta có già cỡ nào, đui què mẻ sứt, xấu xí cỡ nào tôi vẫn yêu thương, quí trọng cô ta. Nếu cô cũng có viết lách, cô sẽ thông cảm với tôi. Tôi rất yêu thương những nhân vật tôi dựng nên. Nay có người quan tâm đến chúng, tôi rất biết ơn. Tình cảm giữa tôi với cô Nguyệt Thu hoàn toàn trên tinh thần, trên sự cảm thông. Nó không liên hệ gì đến vật chất. Xin cô Nguyệt Thu đừng bận tâm về dung nhan hay giọng nói của mình" "Cháu không ngờ chú yêu nhân vật trong truyện của chú đến cỡ đó. Cháu tưởng những nhân vật chú dựng lên như là phương tiện để chú nói ra những suy nghĩ, tâm tình của chú, sau đó, chú sẽ quên đi" "Tôi có đọc đâu đó, hình như chuyện một nhà văn bên Pháp. Một hôm, một người bạn đến thăm nhà văn, thấy ông ta ngồi khóc sụt sùi. Hỏi vì sao khóc? Ông ta nói cô X. chết rồi. Ông bạn hoảng kinh hỏi. Cô X. nào? Cô ta là gì của anh? Vì sao chết? Chết khi nào? Ông ta mếu máo nói. Vừa mới chết. Bị bịnh chết. Người bạn hỏi. Cô ta chết, anh đến viếng thăm chưa? Đi ngay với tôi. Ông nhà văn lắc đầu, chỉ tay vào mấy trang giấy để trên bàn. Thì ra, cô X. là nhân vật do ông ta dựng nên trong một tác phẩm" "Cháu hiểu rồi. Cháu hiểu vì sao chú thương mến chị Nguyệt Thu của cháu. Để cháu thuyết phục chị ấy gặp chú, kẻo tội nghiệp chú"
"Chú Tám gọi, phải không? Cháu nghe đây. Cám ơn chú đã gọi cháu. Chị Nguyệt Thu nhớ chú nên cứ hỏi "Chú Tám có gọi không?" "Cô nói vậy để tôi mừng chứ tôi và cô Nguyệt Thu có gặp nhau, chuyện trò bao giờ mà nhớ? Cô biết hiện giờ tôi đang ở đâu không? Tôi đã về Cali. rồi. Sáng nay có mấy người bạn rủ đi điểm tâm, tôi mời cô và cô Nguyệt Thu cùng đi. Được không cô?" "Để cháu hỏi chị Nguyệt Thu. Gặp chú ở đâu? Lúc mấy giờ?" "Khách sạn tôi đang trọ nằm ở góc đường Westminster và Brookhurst. Gần đó có một tiệm phở. Mấy ông bạn hẹn tôi mười giờ sáng nay tại tiệm phở đó" "Cháu biết tiệm phở đó rồi. Khoảng mười giờ mà cháu và chị Nguyệt Thu không bận khách thì tụi cháu sẽ chạy đến ngay. Hi vọng sẽ đến đúng giờ. Bye chú"
Trước mười giờ, cô Chín đã đến tiệm phở. Cô ngồi vào một bàn ở góc tiệm, khuất sau mấy chậu cây cảnh. Cô gọi một tô phở, nhìn đồng hồ rồi nhìn quanh, tìm kiếm. Tiệm đông khách, đầy tiếng chào hỏi, chuyện trò, cười nói ồn ào. Một lúc có một toán đàn ông lớn tuổi đi vào, ngồi trên một bàn lớn, giữa tiệm. Ăn xong tô phở, cô Chín bình thản đến quày trả tiền, liếc nhìn mấy ông ngồi đó rồi về chỗ ngồi. Rồi cô rụt người xuống, nấp sau chậu cây cảnh, và lấy điện thoại ra bấm số. Bàn bên kia, một người đàn ông, tuổi trên sáu mươi, cao và gầy, đứng lên, lấy điện thoại ra, nhìn rồi áp lên tai "A lô. Cháu là Chín đây. Xin lỗi chú, cháu và chị Nguyệt Thu đang kẹt khách, không đến tiệm phở gặp chú được." "Khi nào xong?" "Khoảng nửa tiếng nữa" "Tụi tôi chờ được" "Cám ơn chú. Nhưng xin lần khác, nghe chú! Chị Nguyệt Thu có ý kiến như thế nầy. Tối mai, mời chú đến nhà tụi cháu ăn tất niên rồi đón giao thừa với tụi cháu. Được không chú?" "Mấy ông bạn cũng mời tôi đến nhà ăn tết, nhưng khi hai cô mời thì dù ông tổng thống Mỹ năn nỉ tôi đến nhà trắng, tôi cũng từ chối để đến thăm hai cô." "Tối mai, lúc mười giờ, tụi cháu chờ chú trước chợ Phước Lộc Thọ" "Chợ đông người, làm sao nhận ra hai cô?" "Tụi cháu sẽ ngồi trước cửa chợ, bên cạnh con sư tử bằng đá trắng" "Sợ lúc đó, nhiều cô ngồi bên con sư tử đá, tôi biết ai?" "Một trong hai đứa cháu sẽ ve vẫy chiếc khăn tay màu đỏ" "Tôi hiểu rồi. Đúng mười giờ tối mai. Phải không cô?" "Dạ. Nhưng tụi cháu sẽ ngồi ở đó từ mười giờ đến mười giờ năm phút là đi ngay. Như vậy để tiện cho chú, không muốn gặp thì cứ bảo là tới trễ. Dĩ nhiên, sau đó, coi như chấm dứt. Chú đừng gọi cháu, cũng đừng tới tiệm tụi cháu" "Tôi qua đây để thăm hai cô. Sao lại không muốn gặp?" "Lúc gặp mặt, chú sẽ biết tại sao. Hai đứa cháu xấu và già lắm. Không dám soi gương để nhìn mặt mình, nói vậy chú đủ biết xấu cỡ nào" "Bạn bè mà cô bận tâm làm gì chuyện đó. Chỉ sợ gọi taxi đến không kịp" "Nếu kẹt đường thì gọi cho cháu để tụi cháu chờ thêm ít phút nữa" "Tôi sẽ đến trước mười giờ cho chắc ăn."
Ông Tám đến chợ Phước Lộc Thọ đúng giờ. Trước chợ vắng hoe, chỉ có một bà già ngồi trên ghế dài, bên cạnh con sư tử đá. Ông không nghĩ rằng đó là cô Chín, vì giọng nói trong điện thoại là của người còn trẻ, khoảng bốn chục tuổi. Bà cụ nầy mà nói chuyện, tất giọng phải thều thào, run rẩy.
Ông Tám cứ đứng phân vân, không biết hai cô có đến không? Bỗng nhiên, ông thấy bà già đó cầm chiếc khăn tay màu đỏ, giơ lên và vung vẫy như người ta đuổi ruồi. Như vậy, bà cụ nầy là cô Nguyệt Thu, vì nghe cô Chín bảo rằng, cô Nguyệt Thu già và không dám nói trên điện thoại. Ông hết sức cảm động. Một người lớn tuổi như thế mà chịu đọc truyện của ông còn nhắn gửi lời khen nữa, thật đáng quí trọng. Ông Tám bước đến trước người đàn bà, cúi chào và nói "Chào cô Nguyệt Thu. Tôi là Lê Văn Tám đây. Có phải cô chờ tôi không?" Bà cụ ngước lên, giọng run run "Cô Nguyệt Thu nào? Tôi đâu có phải là cô Nguyệt Thu" Ông Tám cười vui vẻ "Tôi biết rồi. Cô là cô Chín. Phải không?" Bà cụ lắc đầu "Ông hỏi lầm người rồi" "Xin lỗi cụ. Tôi đến đây tìm một cô bạn. Thấy cụ vẫy khăn, tôi tưởng là dấu hiệu để nhận biết nhau." Bà cụ ngước nhìn ông Tám và nói "Cô hàng xóm của tôi, đưa tôi đi chơi từ chiều đến giờ. Cô ấy bảo tôi ngồi đây chờ, cô ra sau chợ lấy xe, rồi quay lại đón về. Cô ấy đưa cái khăn nầy, bảo vẫy lên. Có ai đến hỏi thì bảo ra parking sau chợ mà tìm."
Ông Tám cám ơn bà cụ rồi đi băng qua thương xá, ra cửa sau, bước xuống parking, đứng nhìn quanh. Bãi đậu xe còn lưa thưa mấy chiếc, có lẽ của người buôn bán trong thương xá, đang dọn dẹp để về chuẩn bị đón giao thừa. Ông Tám ra đứng giữa khoảng trống, để cô Chín, nếu có ở đó, dễ nhìn thấy. Đứng một lúc, không thấy ai, ông lấy điện thoại ra gọi "A lô! Phải cô Chín đó không? Tôi đang đứng trên parking sau chợ Phước Lộc Thọ đây. Tôi đến rất đúng giờ. Hiện cô đang ở đâu?"
"Chú đến đúng giờ hả? Có gặp cháu không?" "Cô hỏi kỳ cục vậy? Gặp cô thì đã không gọi điện thoại đến cô. Tôi chỉ thấy một bà cụ ngồi ở đó thôi" "Bà cụ đó là cháu. Chú thấy già quá nên không đến gặp. Phải không? Từ nay đừng gọi cháu, đừng đến tiệm cháu. Vĩnh biệt chú. Chú nói đủ thứ, nào là tinh thần, nào là tình cảm thôi chứ tuổi tác hay dung nhan chú không quan tâm. Bây giờ thấy bà già thì không thèm gặp" "Tôi có đến gặp. Hỏi có phải là cô Nguyệt Thu không? Bà cụ lắc đầu. Hỏi phải cô Chín không? Cũng lắc đầu. Nhưng bà cụ bảo tôi ra sau chợ, chỗ parking mà tìm cô. Tôi ra đây nãy giờ mà chẳng thấy ai cả! Bây giờ cô đang ở đâu? Tôi đến đúng giờ mà cô cũng cho tôi "leo cây" (thất hứa). Hay là lúc tôi xuống xe trước thương xá, cô thấy một ông già, cô chán quá không muốn gặp chứ gì? Bây giờ cô đang ở đâu?" Có tiếng cười rộ lên trong điện thoại "Cháu đang đứng sau lưng chú chớ ở đâu!"
Ông Tám quay ra phía sau. Một chị đàn bà, khoảng bốn mươi tuổi đang đứng nhìn ông cười "Cháu là Chín đây nè!" Ông Tám mừng rỡ "Tôi tưởng cô bỏ tôi bơ vơ nơi đất khách quê người..." Cô Chín cười, đến một chiếc xe đậu gần đó, mở cửa xe "Mời chú lên xe. Mình ra trước chợ đón bà cụ. Để bà cụ ngồi chờ nãy giờ, tội nghiệp."
Ông Tám lên ngồi ghế trước, liếc nhìn chị đàn bà, chỉ thấy mái tóc che nửa mặt và chiếc mũi thanh tú hơi hếch lên vẻ nghịch ngợm. Ông không dám nhìn lâu, nhưng cũng áng chừng, chị ta là một người đàn bà bình thường, chí thú làm ăn và vui tính, dễ gây cảm tình với khách. Người rất thực tế, không sống bằng nội tâm, không thích đọc sách báo "Sao cô Nguyệt Thu không đến?" "Chị Nguyệt Thu đang ở nhà cháu, sửa soạn, trang điểm cho đẹp để đón chú." "Cô làm tôi cảm động và hồi hộp quá.”
Xe ngừng trước thương xá, ông Tám xuống xe, mở cửa, bà cụ lên ngồi ở ghế sau. Xe chạy ra đường lớn. Một lúc sau, vào một khu gia cư với cây cối um tùm hai bên, với đèn đường tù mù, với những ngôi nhà thấp, kiểu xưa.
“Mình phải đưa bà cụ về nhà rồi mới về nhà cháu. Chị Nguyệt Thu đang chờ chú ở nhà. Chú cứ tiếp tục hồi hộp và cảm động. Gặp người đẹp xong, dám sáng tác thành một chuyện tình lãng mạn, hấp dẫn lắm. Phải không chú?" "Không có đâu! Tình bạn bè làm sao biến thành chuyện tình lãng mạn được. Lúc nãy có hồi hộp, nhưng bị lầm người, bây giờ hồi hộp lần nữa, hi vọng không bị lầm người" "Chú sắp thất vọng, vì chị nguyệt Thu còn già hơn bà cụ nầy nữa" "Không sao. Người lớn tuổi mà chịu khó đọc sách tôi thì tôi càng quí mến hơn."
Xe ngừng trước một ngôi nhà thấp, cũ kỹ. Cô Chín bấm điện thoại nói gì đấy. Cửa mở, một lũ nhỏ chạy ra xe, reo hò "Ngoại về! Ngoại về! Ngoại đi chơi có vui không ngoại? Có mua gì cho tụi con không ngoại?" Chúng mở cửa xe, dìu bà cụ vào nhà "Cha bây! Đứa nào cũng có quà cả. Cám ơn cô Nguyệt nghe!" "Dạ. Không có chi. Chúc bác năm mới sức khỏe, vui vẻ. Sáng mai bác có đi chùa không? Con ghé đón" "Đi chớ! Nhớ nghe. Tôi có phong bì mừng tuổi cô. Sáng mai, mời cô đến xông đất" "Con không dám đâu. Sáng mai con ngừng xe ngoài đường, bác đi ra."
Xe chạy tiếp, vòng vèo một vài khúc quanh rồi ngừng trước một ngôi nhà cũng giống như ngôi nhà lúc nãy "Mời chú vô nhà. Không biết chị Nguyệt Thu đi đâu mà không thấy xe?" Ông Tám giúp cô Chín xách mấy bịch rau quả, đi theo cô Chín. Cô lại mở điện thoại "Chị Nguyệt Thu đó hả. Em về nhà rồi, nhưng chị đi đâu? Em có đón nhà văn Lê Văn Tám về đây. Sao? Chị đang ở nhà bà chị trên Los. hả? Khi nào về? Chuẩn bị lên đường về đây hả? Không sao, chị yên tâm. Nếu chị không về kịp trước mười hai giờ thì em sẽ nhờ chú Tám giúp em nấu nướng, chuẩn bị đón giao thừa. Chị về sau giao thừa thì xông đất nhà em, em sẽ được hên suốt năm. Chị hên lắm nghe, được chú Tám hỏi thăm hoài, còn em, gặp chú, đón chú về đây mà chú không thèm nhìn em, không thèm khen em đẹp. Không phải người thiếu lịch sự mà vì hồn vía bị chị bắt mất rồi. Chú Tám nói, chưa gặp mặt mà chú đã "trồng cây si" chị rồi. Thực mà! Không phải chuyện vô lý, mà em cũng không nói thêm đâu. Chị nói sao? Chị cũng "trồng cây si" chú Tám à? Xứng đôi quá rồi. Tuổi hơi chênh lệch nhưng không sao. Chưa đến sáu mươi. Còn ngon lành, không phải tám mươi tuổi, già lọm khọm như chú nói đâu. Dạ. Bye chị! Nhớ về sớm kẻo chú Tám trông nghe!"
Ông Tám lắc đầu, không lên tiếng phản đối, chỉ yên lặng theo cô Chín vô nhà. Một ngôi nhà tiêu biểu của giai cấp bình dân ở Mỹ. Một phòng khách có xa lông, bàn ăn, nhà bếp ...Một bàn thờ nhỏ sát vách, có vẻ tạm bợ, cúng xong thì dẹp đi. Trên bàn thờ có hai chân đèn bằng đồng, cao cỡ gang tay, một lư hương bằng cái chén lớn, để phía trước, giữa bàn là đĩa trái cây, một bình hoa. Tựa vào vách là hai tấm hình của hai người lớn tuổi, có lẽ là cha mẹ cô Chín.
"Mời chú ngồi, cháu chuẩn bị lễ vật rước ông bà. Còn cúng giao thừa nữa" "Hình như người ta rước ông bà về vui xuân với con cháu từ chiều ba mươi tết, sao cô lại đón ông bà khuya quá vậy? Hay là các cụ gọi điện thoại cho cô, báo bị trễ tàu?" "Năm nào cháu cũng rước ông bà vào chiều ba mươi tết, đến khuya cúng giao thừa. Tết nào cháu cũng khóc vì nhớ nhà. Năm nay, có chú nên cháu rước ông bà hơi trễ, để khoe với ông bà rằng năm nay cháu không cô đơn, như vậy, các ngài cũng vui lây. Và cháu sẽ cười chứ không khóc như mọi năm. Bây giờ chú giúp cháu vài việc vặt. Cháu đã nấu sẵn mấy món rồi, chỉ hâm lại là xong. Chú lấy giùm cháu ấm nước, cho nước vào, bắt lên bếp, rồi lấy gói trà, cho vào bình trà nhỏ, để lát nữa cúng. Bình trà lớn thì dành cho chú và chị Nguyệt Thu. Cháu không biết uống trà. Chú lại đây phụ với cháu khiêng cái bàn nhỏ nầy ra trước cửa, để cúng giao thừa... Từ từ kẻo đổ bánh trái, hoa quả. Được rồi. Cám ơn chú! Chú mở cửa trước giùm cháu. Có lẽ chị Nguyệt Thu cũng sắp về rồi, chú đừng sốt ruột" "Tôi đâu có sốt ruột. Chỉ sợ cô thúc hối, cô ấy chạy xe quá nhanh, nguy hiểm"
Ông Tám làm theo lời cô Chín sai bảo, loanh quanh trong nhà, bưng thức ăn để lên bàn thờ, chế nước sôi vô bình trà... Đôi khi ông lúng túng, lớ ngớ khiến cô Chín cười "Vụng về như vậy, chú chỉ xứng với chị Nguyệt Thu thôi" "Bộ cô Nguyệt Thu cũng vụng về như tôi sao?" "Chị Nguyệt Thu giỏi lắm. Gì cũng làm được. Chú sẽ khỏi phải làm gì cả" "Khi nào có cô Nguyệt Thu, cô đừng nói vậy, cô ấy giận tôi, nghĩ rằng tôi không đứng đắn. Tôi với cô ấy chỉ là tình bạn văn nghệ thôi" "Cháu xin lỗi. Nhưng hình như chị Nguyệt Thu có cảm tình với chú nhiều lắm. Quá tình bạn văn nghệ" "Cô nói cho tôi vui thôi, chứ cô Nguyệt Thu có gặp người thật của tôi bao giờ mà vượt quá tình bạn. Tôi sợ lát nữa, về đây, cô ấy không thèm nhìn tôi vì tôi không giống như trong hình. Cô gọi cô Nguyệt Thu, hỏi đến đâu rồi? Định chờ cô ta về để cùng cúng giao thừa hay đúng mười hai giờ thì bắt đầu?" "Đúng giờ thì cúng. Chị ấy về trễ coi như xông đất năm mới" "Bây giờ còn sớm. Có lẽ mình nên rước ông bà trước"
Cô Chín trao cho ông Tám mấy chén, đũa để ông đặt lên bàn thờ và nói "Bây giờ cháu phải tắm rửa cho sạch sẽ, tinh khiết mà rước ông bà, đón chúa Xuân" "Nhiều người về Việt Nam ăn tết. Sao cô không về thăm nhà?" "Ba mẹ cháu mất rồi. Cháu không có anh chị em gì cả. Nói nhớ nhà chứ đúng ra là tủi thân. Nhà đâu còn mà nhớ!" Ông Tám an ủi "Mấy ông bà Việt kiều về Việt Nam "thăm nhà", nhưng rồi lại mong chóng đến ngày "về nhà" ở hải ngoại. Nơi nào mình sống tự do, an toàn, thoải mái, nơi đó là nhà"
Cô Chín đi vào phòng. Ông Tám ngồi xuống xa lông, nhìn quanh. Ông quen sống một mình, cô đơn cũng có cái thú của nó, nhưng ông biết, cô Chín, là đàn bà sẽ buồn lắm, nhất là trong những ngày cuối năm, thấy thiên hạ rộn ràng sắm tết, đón xuân, gia đình đoàn tụ, cô thì chỉ một mình. May mà có cô Nguyệt Thu ở chung, có người trò chuyện, chứ về nhà, thui thủi, cũng buồn thật.
Đang suy nghĩ vơ vẩn thì cô Chín đi ra. Cô như một người khác. Ông Tám chỉ nhìn thoáng nhưng cũng biết cô đẹp hơn lúc nãy. Mái tóc cô ngắn ngang vai, ôm lấy khuôn mặt bầu bỉnh, sáng như trăng rằm. Một chút phấn hồng lên má và chút son nhẹ trên môi. Cô mặc áo dài nhung đen, óng ánh màu tím đậm. Cô đến trước ông Tám cười duyên dáng "Chú cháu mình cùng cúng nghe!"
Vì cô đứng gần nên ông Tám mới thấy đôi mắt cô Chín đẹp. Vừa như ngơ ngác vừa buồn buồn, nhất là hàng mi dài khiến đôi mắt như sâu thẫm, long lanh. Ông Tám không dám nhìn lâu. Ông đến bàn thờ, thắp đèn, đốt nhang đưa cô Chín "Cô cúng trước, tôi cúng sau" Cô Chín vùng vằng, phụng phịu "Chú! Sao chú không khen cháu đẹp? Dù cho cháu xấu, chú cũng phải khen đẹp. Chú mất lịch sự!" Ông Tám bối rối "Xin lỗi cô. Lúc nãy tôi buột miệng định khen cô đẹp, áo cô cũng đẹp, nhưng trong nhà nầy chỉ có mình tôi với cô, tôi phải giữ lời, sợ cô hiểu lầm, cô sợ tội nghiệp" Cô Chín nhìn ông Tám cười "Chú nói vậy để an ủi cháu nhưng cháu biết, chú mong gặp chị Nguyêt Thu nên không quan tâm đến người khác. Hay là chú sợ chị Nguyệt Thu ghen. Phải không?" "Mong cô Nguyệt Thu thì có, nhưng thật tình tôi không có ý nghĩ gì khác ngoài tình bạn cả. Bây giờ cô cúng đi. Nhớ đừng khóc"
Cô Chín cầm mấy cây nhang, đến trước bàn thờ, ngần ngừ như mắc cỡ "Chú đừng nghe cháu khấn! Cháu cũng không khóc đâu" "Tôi sẽ ra cửa đứng, nhưng trước sau gì tôi cũng sẽ được nghe cô hoặc cô Nguyệt Thu khấn vong linh tôi" "Sao vậy chú?" "Tôi chết trước hai cô, sẽ hiện hồn đến thăm hai cô, hai cô sợ quá, khấn vái, năn nỉ tôi đừng đến thăm hai cô nữa" Cô Chín lại phụng phịu "Chú đừng làm cháu sợ. Cháu không biết chú đang đứng đây là ma hay là người? Chú viết chuyện ma nên bây giờ chú thành ma rồi" "Ma cà bông thì có. Tôi đứng xa rồi, cô cúng đi" Ông Tám đứng nhìn cô Chín cúng lạy. Hai bàn tay cô cầm nhang vái trước bàn thờ, thong thả, dịu dàng. Cô khấn lầm thầm rồi cắm nhang vào lư hương và ngồi xuống xếp chân, thành kính cúi lạy. Trong không khí trang nghiêm, mùi nhang thoang thoảng, ánh đèn lung linh, cô Chín như một cô bé đang lễ phép dâng lên cha mẹ, tổ tiên những lời chúc mừng với tấm lòng thành. Có thể cô cũng cầu xin quí ngài phù hộ cho cô, sang năm mới được sức khỏe, gặp nhiều may mắn.
Khi cô Chín cúng xong, ông Tám cũng đến trước bàn thờ, thắp nhang và vái lạy nhưng không khấn lời nào.
Cô Chín mời ông Tám đến xa lông uống trà. Hai người ngồi đối diện. Cô rót trà "Mời chú. Còn nửa giờ nữa là đến giao thừa" Ông Tám nhìn ra cửa. Cô Chín cười "Mong người đẹp về. Phải không?" "Tôi muốn gặp cô Nguyệt Thu để tìm hiểu, vì sao cô muốn gặp tôi mà lại không chịu nói trong điện thoại?" "Lát nữa, chị Nguyệt Thu về đây, chú sẽ hiểu vì sao. Cháu nói chuyện nầy chú nghe. Trong tập truyện của chú, có một truyện ngắn mà mỗi lần đọc đến là chị ấy khóc. Truyện "Núi Đá Chồng". Chị Nguyệt Thu nói. Chú kể chuyện chứ không viết truyện. Chuyện chú kể giống y như đã xảy ra cho chính chị ấy, cũng tại một quán cơm, nhưng trên đường Đa Lạt - Sài Gòn chứ không phải trên đường Đa Lạt - Nha Trang như trong truyện của chú. Truyện ngắn đó có thật không chú? Chú có phải là anh chàng đó không?" "Một cậu thanh niên gặp và chuyện trò với một cô gái, sau đó chia tay. Nó rất bình thường, có thể xảy ra bất cứ đâu. Tôi cũng gặp một cô bé như thế, nhưng mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn xúc động. Tôi kể chuyện đó để tưởng nhớ cô, để tưởng niệm một tình yêu ngây thơ, tinh khiết" "Chú có thể kể hết câu chuyện cho cháu nghe được không?" "Cô gái thật mà tôi gặp chỉ khoảng mười hai tuổi thôi. Chúng tôi đi từ Đa Lạt về Sài Gòn, dừng lại ăn cơm ở Định Quán. Cô bé đó phụ giúp gia đình bưng thức ăn cho khách. Cô bưng tô canh ra đứng sau lưng tôi. Thấy thức ăn nóng, sợ cô làm đổ, tôi đỡ lấy tô canh, nhưng cô lại để nguyên hai bàn tay cô với tô canh trên tay tôi. Cả hai lúng túng. Cô cười, tôi cũng cười rồi cả bàn ăn cùng cười vui, chế giễu cô, khiến đôi má cô hồng lên, rất dễ thương. Từ lúc đó, dù không có việc gì, cô cũng đứng loay hoay sau lưng tôi. Chúng tôi trò chuyện. Tôi hỏi cô tên gì? Học trường nào? Lớp mấy?... Chỉ vơ vẩn thôi, nhưng cô trả lời như hụt hơi, sau nầy nhớ lại, tôi mới biết là cô bé rất xúc động. Cô vào bếp một lúc lại đi ra, lại đứng sau lưng tôi, lính quính, lo lắng như muốn nói gì với tôi, rồi nhìn chiếc xe đò, như sợ xe chạy. Đến khi chúng tôi lên xe thì cô đứng trước cửa nhìn tôi đăm đăm. Không hiểu sao, xe không nổ máy. Mọi người lại phải xuống xe, vào quán ngồi chờ người tài xế sửa xe. Tôi lang thang đến một tảng đá lớn gần quán cơm, ngồi ngắm cảnh núi rừng hoang vắng. Chiều hôm đó, trời đầy mây, u ám như sắp mưa. Đường vắng, nhà thưa thớt, chung quanh là rừng. Cảnh vật thật buồn. Cô bé đó lại đến bên tôi. Tôi ra dấu, cô ngồi xuống cạnh tôi. Chúng tôi lại chuyện trò. Tôi hỏi về hai tảng đá vĩ đại chồng lên nhau gần đó, hỏi về cuộc sống của cô, nơi núi rừng, có buồn không? Cô trả lời, giọng bình tĩnh và vui chứ không ngập ngừng, hụt hơi như lúc nãy. Tôi xem cô như một em bé ngây thơ, và cô, quả thật rất ngây thơ, trong sáng. Khi xe sửa xong, tôi đứng dậy, ôm hôn lên trán cô và hẹn, có dịp, sẽ ghé thăm cô"
Cô Chín yên lặng một lúc rồi nói "Chị Nguyệt Thu nói chú tên Tâm chứ không phải tên Tám" Ông Tám ngạc nhiên "Sao cô ấy biết tên thật của tôi?" "Lát nữa gặp, chú hỏi chị ấy, cháu làm sao biết được. Chị ấy còn nói, chú ít tuổi, chứ không phải tám mươi như chú nói" "Cô nầy mới thật là tài. Chưa gặp mà biết hết về tôi"
Cô Chín nhìn xuống tách trà "Dám chị Nguyệt Thu là cô bé ở Định Quán, nên khi đọc truyện ngắn đó, chị ấy khóc. Lần nào cũng khóc và mong được gặp chú" "Có lẽ vậy nên cô Nguyệt Thu muốn gặp tôi. Nhưng điều chắc chắn là tôi và cô ta không nhận ra nhau. Mấy mươi năm rồi, ai cũng thay đổi, thành người lạ rồi!"
Đêm ba muơi tết, dù ở xứ người nhưng không khí thiêng liêng, đầm ấm của gia đình vẫn tràn ngập khắp nơi. Cả hai yên lặng lắng nghe bước chân của chúa Xuân đâu đây, để nhớ lại niềm vui rộn rã, háo hức chờ đợi tết của thời còn trẻ ở quê nhà. Bỗng nhiên cô Chín ngẩn lên nhìn ông Tám cười, như muốn nói điều gì quan trọng lắm nhưng lại thôi. "Chị Nguyệt Thu chưa về kịp. Chú cháu mình cúng giao thừa nghe!"
Cô đứng lên, đến thắp nhang, đưa cho ông Tám một cây nhang "Chú đứng cạnh cháu đây. Chú cháu mình cùng chào đón chúa Xuân. Chú có biết khấn như thế nào thì khấn giùm cháu." "Tôi cũng như cô, nhưng mình cứ thưa gửi bình thường, tưởng tượng như chúa Xuân và các vị thần đó đang đứng trước mặt vậy. Cốt ở lòng thành và tin tưởng rằng các vị đó có uy lực siêu nhiên, sẽ chấp nhận lời cầu xin của mình và ban phước lành cho mình. Cô cầm nhang để lên trán như tôi, tôi sẽ thưa với đất đai, thổ thần phù hộ cho cô được sức khỏe và nhiều may mắn trong việc làm ăn."
Ông Tám lầm thầm khấn, cô Chín thành kính lắng nghe và cùng lạy với ông. Cúng xong, cô vui vẻ nói "Sang năm mới rồi. Chị Nguyệt Thu chưa về. Chú xông đất nhà cháu nghe!" Ông Tám ngạc nhiên "Tôi đang đứng trong nhà cô thì làm sao xông đất được?" "Cháu có cách. Chú đi cửa sau, ra đường, lòng vòng đâu đó chừng mươi phút, rồi chú đến cửa trước, gõ cửa, cháu ra đón chú, vậy là chú xông đất nhà cháu" "Chỉ có cô mới nghĩ ra được cách xông đất kỳ lạ như thế nầy. Thôi thì, cô bảo sao, tôi cũng phải vâng lời để cô vui lòng" "Chú đi ra cửa nầy. Để cháu mở đèn sau nhà cho chú thấy đường. Nhớ nhà cháu chưa? Đừng đi lộn vào nhà khác, bị bà nào giữ lại thì chị Nguyệt Thu bắt đền cháu. Cháu làm sao kiếm một ông, vừa già vừa xấu như chú mà đền cho chị ấy?" Ông Tám cũng cười "Cô nói tôi mới biết vì sao tôi tán tỉnh cô nào cũng bị nhìn bằng nửa con mắt."
Ông Tám theo cửa sau, ra đường, một lát, quay lại. Cửa trước hé mở. Ông gõ cửa và chờ đợi. Cô Chín mở cửa và reo lên "Chào chú. Mời chú vào. Năm mới, chúc chú sức khỏe, vạn sự như y." Ông Tám bước vào nhà và lấy trong túi áo ra hai phong bì nhỏ màu đỏ, loại dùng để mừng tuổi cho trẻ con. Ông trao cho cô Chín một phong bì "Mừng cô thêm một tuổi. Thêm đẹp, thêm xinh." Cô Chín cầm lấy phong bì rồi ôm luôn ông Tám khiến ông ngỡ ngàng. Cô tựa đầu vào ngực ông và xoè tay ra "Phong bì kia cũng của cháu." Cô vói tới thì ông Tám giơ chiếc phong bì lên cao. "Không được. Đây là của cô Nguyệt Thu." Cô vẫn vói tay đến chiếc phong bì "Nguyệt Thu nào? Cháu là Nguyệt Thu dây!" Ông Tám kinh ngạc "Chứ lúc nãy cô gọi ai?" "Có gọi ai đâu? Cháu giả bộ nói vô điện thoại chứ có bấm số đâu!" "Vậy cô Chín là cô nào? Cô có hai tên à?" "Tên Chín là tên giả. Chú là Tám thì cháu là Chín. Em út, thua một nút. Tên thực của cháu là Nguyệt Thu. Nhưng mọi người đều gọi cháu là Nguyệt. Con bé Nguyệt trong tiệm cơm ở Định Quán đó. Tên Nguyệt. Đúng không?"
Trong nhà, yên tĩnh kỳ lạ, thơm nức mùi tết, mùi của nhang trầm, của hơi thở xúc động, của tiếng thì thầm vỗ về dịu dàng, của mùa Xuân len lén bước qua cửa, vào phòng khách...
Một lúc sau, cô Chín dụi mặt vào ngực ông Tám để chùi nước mắt. Rồi cô thở ra "Cám ơn Trời Phật đã xui khiến cháu đọc truyện chú viết và tìm thấy chú."
Phạm Thành Châu
Tác phẩm đã phát hành:
- Bức Họa Khỏa Thân (248 trang)
- Nhớ Huế (248 trang)
- Lý lẽ của trái tim (275 trang)
Ba tập truyện ngắn của Phạm Thành Châu có thể coi là món quà Xuân, quà sinh nhật thanh cao gửi đến bạn bè. Giá mỗi tập 12 USD. (trong nước Mỹ). Mua ba (3) tập trở lên, giá mỗi tập 10 USD kể cả cước phí. Gửi sách trước, trả tiền sau. Liên lạc:
Phạm Thành Châu 7004 Beverly Lane Springfield VA 22150
Phone
(703) 569-0124
(571) 480-3276 (c)
(xin để lại lời nhắn)
Phạm Thành Châu
Kính tặng cô Nguyệt.
"A lô! Cho tôi gặp nhà văn Lê Văn Tám ạ!" "Dạ, Tám tôi nghe đây" "Chú còn mấy tập truyện của chú không chú?" "Dạ còn. Đủ ba tập" "Chú gửi cho cháu ba tập nghe!" "Dạ. Cô cho tên và địa chỉ, sáng mai tôi đi gửi ngay cho cô" "Cháu tên Nguyễn thị Chín, địa chỉ... Đó là tiệm nail của cháu" "Cô là chủ tiệm nail? Giàu lắm nghe!" "Chẳng giàu có gì đâu chú ơi! Kinh tế xuống, tiệm ế quá, ngồi không cũng buồn, mua chuyện chú đọc để giết thì giờ. Chị Nguyệt Thu, bạn cháu khen chú viết hay lắm, bảo cháu mua sách chú mà đọc" "Cho tôi gửi lời cám ơn cô Nguyệt Thu đã có lời khen. Và cám ơn cô đã gọi mua sách"
Tuần sau, vào một buổi tối "A lô! Cho cháu gặp chú Tám ạ!" "Dạ, Tám tôi nghe đây" "Chú dạ, cháu giảm thọ" "Dạ. Trên điện thoại, già trẻ, nam nữ gì tôi cũng dạ trước, nói chuyện sau" "Cháu nhận được sách chú gửi rồi. Cám ơn chú"
"Tôi cũng nhận được check cô gửi rồi. Cám ơn cô nhiều. Đọc xong, cô cho tôi vài nhận xét, dở chỗ nào? Đề nghị sửa đổi ra sao. Được vậy tôi mới tiến bộ. Ai cũng khen lấy lòng, đâu quí bằng chê." "Vậy là những lời chị Nguyệt Thu khen chú là vô giá trị, phải không? Cháu mét chị ấy. Người đọc khen thì phải cám ơn chứ!"
"Xin cô nói với cô Nguyệt Thu, tôi rất cám ơn. Còn nhận xét của cô ra sao sau khi đọc truyện của tôi?"
"Cháu chỉ mới đọc vài chuyện. Chẳng có gì hay ho. Nói chú viết dở thì tội nghiệp chú. Nhưng chị Nguyệt Thu thì lại khen nức nở. Đang ngồi đọc, chị ấy phì cười, đọc chuyện khác thì chùi nước mắt" "Bạn cô khóc hay ứa nước mắt?" "Chị ấy khóc, phải lấy khăn lau" "Vậy là cô ta gần năm mươi" "Sao chú biết?" "Những người lớn tuổi, hơi xúc động là chảy nước mắt dù họ đâu có muốn khóc. Ngáp cũng chảy nước mắt, ho cũng chảy nước mắt. Người ta nói mắt mũi kèm nhèm là vậy. Tuyến nước mắt bị hỏng rồi. Cô nhớ nhắc bạn cô, khi đọc sách tôi, xin cho vài ý kiến xây dựng nghe!" "Chị ấy khóc thiệt chứ không hơi xúc động như chú nói đâu, vì chị ấy chưa đến năm mươi. Ham nói chuyện, cháu quên những thắc mắc mà chị Nguyệt Thu nhờ cháu hỏi chú. Những chuyện chú viết, có thật không chú?" "Cũng có thật chút ít, viết thật quá, người ta chán. Tôi phải thêm chi tiết vào cho chuyện được hấp dẫn. Có ông nhà văn nào đó nói. Chuyện hư cấu bao giờ cũng thật hơn chuyện thật" "Cô gái ma trong tranh hiện ra với cậu thanh niên. Chuyện có thật không chú? Bức tranh đó bây giờ ở đâu chú?" "Làm gì có ma, thì làm sao mà chuyện thật được. Nói với bạn cô rằng đọc để giải trí, đừng tin những gì tôi viết mà bị ám ảnh. Có phải cô đang xuống xe không?" "Sao chú biết?" "Nghe cô đóng cửa cái rầm, còn bấm cái remote "tít, tít". Cô đang vô nhà. Phải không?" "Sai rồi. Cháu vô tiệm cơm chỉ." "Cơm chỉ là sao?" "Muốn ăn món nào thì chỉ món đó, người bán cho vô hộp, đem về nhà ăn, khỏi nấu nướng mất công" "Vậy cũng tiện. Nhưng tôi có ý kiến nầy, nếu không vừa ý thì đừng giận. Là nên nấu nướng cho chồng con, đó là niềm vui của người vợ. Nấu vài món đơn giản thôi, nhanh lắm." "Chú dạy đời lầm người rồi. Cháu sống một mình, chồng con gì đâu mà phải nấu nướng." "Cô chưa lập gia đình à? Xin lỗi nghe!" "Cháu cũng có chồng nhưng bây giờ tan hàng rồi. Đang ở chung với chị Nguyệt Thu, người mê truyện chú viết đó." "Tôi không dám hỏi chuyện riêng tư của cô, nhưng người như cô, vui vẻ, khôn lanh, có công ăn việc làm vững vàng thì dư sức có một gia đình đàng hoàng như những người khác." "Để hôm nào có thì giờ, cháu kể chuyện gia đình của cháu cho chú nghe. Chuyện dài lắm, chú mà nghe được dám viết thành tiểu thuyết hay lắm, nhưng kết cuộc là cháu đã li dị chồng cháu. Anh ta lăng nhăng quá. Trẻ không tha, già không từ. Hiện đang ở Việt Nam với cô vợ đáng tuổi con anh ta." “Chia buồn với cô, và khen cô có nghị lực. Lần sau, lấy chồng phải cẩn thận, lựa người đàng hoàng. Đừng hấp tấp" "Còn chú thì sao? Vợ con ra sao?" "Tôi cũng như cô. Ăn cơm chỉ" "Vậy là cháu biết mục đích lời khuyên của chú rồi. Ý chú muốn nói đàng hoàng như chú phải không?" "Tầm bậy. Tôi tám mươi tuổi, già hơn cô nhiều lắm. Hơn nữa, tôi thích sống độc thân. Tự do, thoải mái quen rồi" "Ông nào gặp gái cũng hát bài "độc thân, vợ bỏ, vợ chết". Khi người ta khám phá ra là có vợ sờ sờ ra đấy thì bảo không hạnh phúc, sắp li dị, rồi nói xấu vợ đủ điều. Mấy bài đó xưa quá chú ơi. Chú có bài hát nào khác mấy ông kia không?" "Biết hết! Vô mua đồ ăn mà về cho sớm." "Cháu đang sắp hàng đây." "Bye cô!" "Chú mất lịch sự. Để cháu, là đàn bà, nói bye trước." "Dạ. Xin lỗi. Tôi quen nói với bạn trai. Không muốn chuyện trò nữa thì bye, chẳng ai trách. Mà trước sau gì cô cũng bye tôi trước." "Bye chú!"
“A lô! Chú Tám!"
"Dạ. Tám tôi nghe đây. Tiệm vắng khách, gọi nói chuyện cho đỡ buồn. Phải không?" "Cháu bắt chước chú, nói. Biết hết! Quả nhiên, tiệm hơi vắng khách. Chị Nguyệt Thu, bạn cháu nhớ chú, bảo cháu gọi, hỏi thăm chú có mạnh khỏe không?" "Nói với bạn cô, đừng nhìn cái hình ở bìa sau tập truyện mà lầm. Cái hình đẹp trai, cao ráo đó tôi chụp cách đây cả vài chục năm. Bây giờ tôi già rồi, hom hem lắm. Có cảm tình thì tôi cám ơn, nhưng gặp thì sẽ thất vọng vô cùng" "Chị bạn cháu cũng rất già. Coi bộ còn già hơn chú nữa. Nhưng chị ấy nói, yêu chuyện chú viết, yêu nhân vật trong truyện, chứ tác giả thì chị ấy chỉ khen là có tài làm người đọc không chán" "Truyện tôi đăng báo, ra sách, từ trước đến nay, người ta không chê chỉ vì tội nghiệp tác giả, chứ khen thì hiếm lắm. Các ông văn sĩ khác được nhiều người khen nên họ coi thường, còn tôi, cô Nguyệt Thu là người duy nhất khen tôi nên tôi quí và có cảm tình với cô ấy lắm. Có cô Nguyệt Thu ở đó không? Cho tôi gặp trực tiếp để cám ơn cô ta" "Chú chờ cháu. Chị Nguyệt Thu ơi! Đến đây nói chuyện với nhà văn Lê văn Tám, "người đẹp" của chị nè. Sao chị lắc đầu? Mắc cỡ à? Cứ bắt em làm trung gian, mai mối mà chẳng ai trả công cả. Chú Tám ơi! Chị ấy mắc cỡ, không dám nói chuyện với chú" "Tết nay tôi qua Cali. ăn tết với bạn bè bên đó, tôi nhất định phải gặp cô Nguyệt Thu để cám ơn cô ta" "Để cháu hỏi trước chị Nguyệt Thu, có chịu cho chú gặp không? Cháu không quyết định được. Nếu chị Nguyệt Thu không muốn gặp chú, xin chú đừng đến tiệm của cháu mà tìm nghe. Chị ấy và cháu sẽ giận chú, không tiếp đâu. Nhưng hôm nào chú qua đây?" "Khoảng hăm chín, ba mươi tết. Tôi qua ăn tết với bạn bè" "Có thể cháu sẽ gặp chú, để xem mặt mũi hiện nay của chú ra sao. Dung nhan mùa hạ trong quá khứ của chú rất đáng để chị Nguyệt Thu của cháu chiêm ngưỡng. Cháu nói nhỏ với chú điều nầy. Chị Nguyệt Thu mặc cảm già và xấu, giọng khàn khàn như đàn ông nên không muốn nói chuyện với chú là vì vậy" "Thưa giùm tôi với cô Nguyệt Thu. Dù cô ta có già cỡ nào, đui què mẻ sứt, xấu xí cỡ nào tôi vẫn yêu thương, quí trọng cô ta. Nếu cô cũng có viết lách, cô sẽ thông cảm với tôi. Tôi rất yêu thương những nhân vật tôi dựng nên. Nay có người quan tâm đến chúng, tôi rất biết ơn. Tình cảm giữa tôi với cô Nguyệt Thu hoàn toàn trên tinh thần, trên sự cảm thông. Nó không liên hệ gì đến vật chất. Xin cô Nguyệt Thu đừng bận tâm về dung nhan hay giọng nói của mình" "Cháu không ngờ chú yêu nhân vật trong truyện của chú đến cỡ đó. Cháu tưởng những nhân vật chú dựng lên như là phương tiện để chú nói ra những suy nghĩ, tâm tình của chú, sau đó, chú sẽ quên đi" "Tôi có đọc đâu đó, hình như chuyện một nhà văn bên Pháp. Một hôm, một người bạn đến thăm nhà văn, thấy ông ta ngồi khóc sụt sùi. Hỏi vì sao khóc? Ông ta nói cô X. chết rồi. Ông bạn hoảng kinh hỏi. Cô X. nào? Cô ta là gì của anh? Vì sao chết? Chết khi nào? Ông ta mếu máo nói. Vừa mới chết. Bị bịnh chết. Người bạn hỏi. Cô ta chết, anh đến viếng thăm chưa? Đi ngay với tôi. Ông nhà văn lắc đầu, chỉ tay vào mấy trang giấy để trên bàn. Thì ra, cô X. là nhân vật do ông ta dựng nên trong một tác phẩm" "Cháu hiểu rồi. Cháu hiểu vì sao chú thương mến chị Nguyệt Thu của cháu. Để cháu thuyết phục chị ấy gặp chú, kẻo tội nghiệp chú"
"Chú Tám gọi, phải không? Cháu nghe đây. Cám ơn chú đã gọi cháu. Chị Nguyệt Thu nhớ chú nên cứ hỏi "Chú Tám có gọi không?" "Cô nói vậy để tôi mừng chứ tôi và cô Nguyệt Thu có gặp nhau, chuyện trò bao giờ mà nhớ? Cô biết hiện giờ tôi đang ở đâu không? Tôi đã về Cali. rồi. Sáng nay có mấy người bạn rủ đi điểm tâm, tôi mời cô và cô Nguyệt Thu cùng đi. Được không cô?" "Để cháu hỏi chị Nguyệt Thu. Gặp chú ở đâu? Lúc mấy giờ?" "Khách sạn tôi đang trọ nằm ở góc đường Westminster và Brookhurst. Gần đó có một tiệm phở. Mấy ông bạn hẹn tôi mười giờ sáng nay tại tiệm phở đó" "Cháu biết tiệm phở đó rồi. Khoảng mười giờ mà cháu và chị Nguyệt Thu không bận khách thì tụi cháu sẽ chạy đến ngay. Hi vọng sẽ đến đúng giờ. Bye chú"
Trước mười giờ, cô Chín đã đến tiệm phở. Cô ngồi vào một bàn ở góc tiệm, khuất sau mấy chậu cây cảnh. Cô gọi một tô phở, nhìn đồng hồ rồi nhìn quanh, tìm kiếm. Tiệm đông khách, đầy tiếng chào hỏi, chuyện trò, cười nói ồn ào. Một lúc có một toán đàn ông lớn tuổi đi vào, ngồi trên một bàn lớn, giữa tiệm. Ăn xong tô phở, cô Chín bình thản đến quày trả tiền, liếc nhìn mấy ông ngồi đó rồi về chỗ ngồi. Rồi cô rụt người xuống, nấp sau chậu cây cảnh, và lấy điện thoại ra bấm số. Bàn bên kia, một người đàn ông, tuổi trên sáu mươi, cao và gầy, đứng lên, lấy điện thoại ra, nhìn rồi áp lên tai "A lô. Cháu là Chín đây. Xin lỗi chú, cháu và chị Nguyệt Thu đang kẹt khách, không đến tiệm phở gặp chú được." "Khi nào xong?" "Khoảng nửa tiếng nữa" "Tụi tôi chờ được" "Cám ơn chú. Nhưng xin lần khác, nghe chú! Chị Nguyệt Thu có ý kiến như thế nầy. Tối mai, mời chú đến nhà tụi cháu ăn tất niên rồi đón giao thừa với tụi cháu. Được không chú?" "Mấy ông bạn cũng mời tôi đến nhà ăn tết, nhưng khi hai cô mời thì dù ông tổng thống Mỹ năn nỉ tôi đến nhà trắng, tôi cũng từ chối để đến thăm hai cô." "Tối mai, lúc mười giờ, tụi cháu chờ chú trước chợ Phước Lộc Thọ" "Chợ đông người, làm sao nhận ra hai cô?" "Tụi cháu sẽ ngồi trước cửa chợ, bên cạnh con sư tử bằng đá trắng" "Sợ lúc đó, nhiều cô ngồi bên con sư tử đá, tôi biết ai?" "Một trong hai đứa cháu sẽ ve vẫy chiếc khăn tay màu đỏ" "Tôi hiểu rồi. Đúng mười giờ tối mai. Phải không cô?" "Dạ. Nhưng tụi cháu sẽ ngồi ở đó từ mười giờ đến mười giờ năm phút là đi ngay. Như vậy để tiện cho chú, không muốn gặp thì cứ bảo là tới trễ. Dĩ nhiên, sau đó, coi như chấm dứt. Chú đừng gọi cháu, cũng đừng tới tiệm tụi cháu" "Tôi qua đây để thăm hai cô. Sao lại không muốn gặp?" "Lúc gặp mặt, chú sẽ biết tại sao. Hai đứa cháu xấu và già lắm. Không dám soi gương để nhìn mặt mình, nói vậy chú đủ biết xấu cỡ nào" "Bạn bè mà cô bận tâm làm gì chuyện đó. Chỉ sợ gọi taxi đến không kịp" "Nếu kẹt đường thì gọi cho cháu để tụi cháu chờ thêm ít phút nữa" "Tôi sẽ đến trước mười giờ cho chắc ăn."
Ông Tám đến chợ Phước Lộc Thọ đúng giờ. Trước chợ vắng hoe, chỉ có một bà già ngồi trên ghế dài, bên cạnh con sư tử đá. Ông không nghĩ rằng đó là cô Chín, vì giọng nói trong điện thoại là của người còn trẻ, khoảng bốn chục tuổi. Bà cụ nầy mà nói chuyện, tất giọng phải thều thào, run rẩy.
Ông Tám cứ đứng phân vân, không biết hai cô có đến không? Bỗng nhiên, ông thấy bà già đó cầm chiếc khăn tay màu đỏ, giơ lên và vung vẫy như người ta đuổi ruồi. Như vậy, bà cụ nầy là cô Nguyệt Thu, vì nghe cô Chín bảo rằng, cô Nguyệt Thu già và không dám nói trên điện thoại. Ông hết sức cảm động. Một người lớn tuổi như thế mà chịu đọc truyện của ông còn nhắn gửi lời khen nữa, thật đáng quí trọng. Ông Tám bước đến trước người đàn bà, cúi chào và nói "Chào cô Nguyệt Thu. Tôi là Lê Văn Tám đây. Có phải cô chờ tôi không?" Bà cụ ngước lên, giọng run run "Cô Nguyệt Thu nào? Tôi đâu có phải là cô Nguyệt Thu" Ông Tám cười vui vẻ "Tôi biết rồi. Cô là cô Chín. Phải không?" Bà cụ lắc đầu "Ông hỏi lầm người rồi" "Xin lỗi cụ. Tôi đến đây tìm một cô bạn. Thấy cụ vẫy khăn, tôi tưởng là dấu hiệu để nhận biết nhau." Bà cụ ngước nhìn ông Tám và nói "Cô hàng xóm của tôi, đưa tôi đi chơi từ chiều đến giờ. Cô ấy bảo tôi ngồi đây chờ, cô ra sau chợ lấy xe, rồi quay lại đón về. Cô ấy đưa cái khăn nầy, bảo vẫy lên. Có ai đến hỏi thì bảo ra parking sau chợ mà tìm."
Ông Tám cám ơn bà cụ rồi đi băng qua thương xá, ra cửa sau, bước xuống parking, đứng nhìn quanh. Bãi đậu xe còn lưa thưa mấy chiếc, có lẽ của người buôn bán trong thương xá, đang dọn dẹp để về chuẩn bị đón giao thừa. Ông Tám ra đứng giữa khoảng trống, để cô Chín, nếu có ở đó, dễ nhìn thấy. Đứng một lúc, không thấy ai, ông lấy điện thoại ra gọi "A lô! Phải cô Chín đó không? Tôi đang đứng trên parking sau chợ Phước Lộc Thọ đây. Tôi đến rất đúng giờ. Hiện cô đang ở đâu?"
"Chú đến đúng giờ hả? Có gặp cháu không?" "Cô hỏi kỳ cục vậy? Gặp cô thì đã không gọi điện thoại đến cô. Tôi chỉ thấy một bà cụ ngồi ở đó thôi" "Bà cụ đó là cháu. Chú thấy già quá nên không đến gặp. Phải không? Từ nay đừng gọi cháu, đừng đến tiệm cháu. Vĩnh biệt chú. Chú nói đủ thứ, nào là tinh thần, nào là tình cảm thôi chứ tuổi tác hay dung nhan chú không quan tâm. Bây giờ thấy bà già thì không thèm gặp" "Tôi có đến gặp. Hỏi có phải là cô Nguyệt Thu không? Bà cụ lắc đầu. Hỏi phải cô Chín không? Cũng lắc đầu. Nhưng bà cụ bảo tôi ra sau chợ, chỗ parking mà tìm cô. Tôi ra đây nãy giờ mà chẳng thấy ai cả! Bây giờ cô đang ở đâu? Tôi đến đúng giờ mà cô cũng cho tôi "leo cây" (thất hứa). Hay là lúc tôi xuống xe trước thương xá, cô thấy một ông già, cô chán quá không muốn gặp chứ gì? Bây giờ cô đang ở đâu?" Có tiếng cười rộ lên trong điện thoại "Cháu đang đứng sau lưng chú chớ ở đâu!"
Ông Tám quay ra phía sau. Một chị đàn bà, khoảng bốn mươi tuổi đang đứng nhìn ông cười "Cháu là Chín đây nè!" Ông Tám mừng rỡ "Tôi tưởng cô bỏ tôi bơ vơ nơi đất khách quê người..." Cô Chín cười, đến một chiếc xe đậu gần đó, mở cửa xe "Mời chú lên xe. Mình ra trước chợ đón bà cụ. Để bà cụ ngồi chờ nãy giờ, tội nghiệp."
Ông Tám lên ngồi ghế trước, liếc nhìn chị đàn bà, chỉ thấy mái tóc che nửa mặt và chiếc mũi thanh tú hơi hếch lên vẻ nghịch ngợm. Ông không dám nhìn lâu, nhưng cũng áng chừng, chị ta là một người đàn bà bình thường, chí thú làm ăn và vui tính, dễ gây cảm tình với khách. Người rất thực tế, không sống bằng nội tâm, không thích đọc sách báo "Sao cô Nguyệt Thu không đến?" "Chị Nguyệt Thu đang ở nhà cháu, sửa soạn, trang điểm cho đẹp để đón chú." "Cô làm tôi cảm động và hồi hộp quá.”
Xe ngừng trước thương xá, ông Tám xuống xe, mở cửa, bà cụ lên ngồi ở ghế sau. Xe chạy ra đường lớn. Một lúc sau, vào một khu gia cư với cây cối um tùm hai bên, với đèn đường tù mù, với những ngôi nhà thấp, kiểu xưa.
“Mình phải đưa bà cụ về nhà rồi mới về nhà cháu. Chị Nguyệt Thu đang chờ chú ở nhà. Chú cứ tiếp tục hồi hộp và cảm động. Gặp người đẹp xong, dám sáng tác thành một chuyện tình lãng mạn, hấp dẫn lắm. Phải không chú?" "Không có đâu! Tình bạn bè làm sao biến thành chuyện tình lãng mạn được. Lúc nãy có hồi hộp, nhưng bị lầm người, bây giờ hồi hộp lần nữa, hi vọng không bị lầm người" "Chú sắp thất vọng, vì chị nguyệt Thu còn già hơn bà cụ nầy nữa" "Không sao. Người lớn tuổi mà chịu khó đọc sách tôi thì tôi càng quí mến hơn."
Xe ngừng trước một ngôi nhà thấp, cũ kỹ. Cô Chín bấm điện thoại nói gì đấy. Cửa mở, một lũ nhỏ chạy ra xe, reo hò "Ngoại về! Ngoại về! Ngoại đi chơi có vui không ngoại? Có mua gì cho tụi con không ngoại?" Chúng mở cửa xe, dìu bà cụ vào nhà "Cha bây! Đứa nào cũng có quà cả. Cám ơn cô Nguyệt nghe!" "Dạ. Không có chi. Chúc bác năm mới sức khỏe, vui vẻ. Sáng mai bác có đi chùa không? Con ghé đón" "Đi chớ! Nhớ nghe. Tôi có phong bì mừng tuổi cô. Sáng mai, mời cô đến xông đất" "Con không dám đâu. Sáng mai con ngừng xe ngoài đường, bác đi ra."
Xe chạy tiếp, vòng vèo một vài khúc quanh rồi ngừng trước một ngôi nhà cũng giống như ngôi nhà lúc nãy "Mời chú vô nhà. Không biết chị Nguyệt Thu đi đâu mà không thấy xe?" Ông Tám giúp cô Chín xách mấy bịch rau quả, đi theo cô Chín. Cô lại mở điện thoại "Chị Nguyệt Thu đó hả. Em về nhà rồi, nhưng chị đi đâu? Em có đón nhà văn Lê Văn Tám về đây. Sao? Chị đang ở nhà bà chị trên Los. hả? Khi nào về? Chuẩn bị lên đường về đây hả? Không sao, chị yên tâm. Nếu chị không về kịp trước mười hai giờ thì em sẽ nhờ chú Tám giúp em nấu nướng, chuẩn bị đón giao thừa. Chị về sau giao thừa thì xông đất nhà em, em sẽ được hên suốt năm. Chị hên lắm nghe, được chú Tám hỏi thăm hoài, còn em, gặp chú, đón chú về đây mà chú không thèm nhìn em, không thèm khen em đẹp. Không phải người thiếu lịch sự mà vì hồn vía bị chị bắt mất rồi. Chú Tám nói, chưa gặp mặt mà chú đã "trồng cây si" chị rồi. Thực mà! Không phải chuyện vô lý, mà em cũng không nói thêm đâu. Chị nói sao? Chị cũng "trồng cây si" chú Tám à? Xứng đôi quá rồi. Tuổi hơi chênh lệch nhưng không sao. Chưa đến sáu mươi. Còn ngon lành, không phải tám mươi tuổi, già lọm khọm như chú nói đâu. Dạ. Bye chị! Nhớ về sớm kẻo chú Tám trông nghe!"
Ông Tám lắc đầu, không lên tiếng phản đối, chỉ yên lặng theo cô Chín vô nhà. Một ngôi nhà tiêu biểu của giai cấp bình dân ở Mỹ. Một phòng khách có xa lông, bàn ăn, nhà bếp ...Một bàn thờ nhỏ sát vách, có vẻ tạm bợ, cúng xong thì dẹp đi. Trên bàn thờ có hai chân đèn bằng đồng, cao cỡ gang tay, một lư hương bằng cái chén lớn, để phía trước, giữa bàn là đĩa trái cây, một bình hoa. Tựa vào vách là hai tấm hình của hai người lớn tuổi, có lẽ là cha mẹ cô Chín.
"Mời chú ngồi, cháu chuẩn bị lễ vật rước ông bà. Còn cúng giao thừa nữa" "Hình như người ta rước ông bà về vui xuân với con cháu từ chiều ba mươi tết, sao cô lại đón ông bà khuya quá vậy? Hay là các cụ gọi điện thoại cho cô, báo bị trễ tàu?" "Năm nào cháu cũng rước ông bà vào chiều ba mươi tết, đến khuya cúng giao thừa. Tết nào cháu cũng khóc vì nhớ nhà. Năm nay, có chú nên cháu rước ông bà hơi trễ, để khoe với ông bà rằng năm nay cháu không cô đơn, như vậy, các ngài cũng vui lây. Và cháu sẽ cười chứ không khóc như mọi năm. Bây giờ chú giúp cháu vài việc vặt. Cháu đã nấu sẵn mấy món rồi, chỉ hâm lại là xong. Chú lấy giùm cháu ấm nước, cho nước vào, bắt lên bếp, rồi lấy gói trà, cho vào bình trà nhỏ, để lát nữa cúng. Bình trà lớn thì dành cho chú và chị Nguyệt Thu. Cháu không biết uống trà. Chú lại đây phụ với cháu khiêng cái bàn nhỏ nầy ra trước cửa, để cúng giao thừa... Từ từ kẻo đổ bánh trái, hoa quả. Được rồi. Cám ơn chú! Chú mở cửa trước giùm cháu. Có lẽ chị Nguyệt Thu cũng sắp về rồi, chú đừng sốt ruột" "Tôi đâu có sốt ruột. Chỉ sợ cô thúc hối, cô ấy chạy xe quá nhanh, nguy hiểm"
Ông Tám làm theo lời cô Chín sai bảo, loanh quanh trong nhà, bưng thức ăn để lên bàn thờ, chế nước sôi vô bình trà... Đôi khi ông lúng túng, lớ ngớ khiến cô Chín cười "Vụng về như vậy, chú chỉ xứng với chị Nguyệt Thu thôi" "Bộ cô Nguyệt Thu cũng vụng về như tôi sao?" "Chị Nguyệt Thu giỏi lắm. Gì cũng làm được. Chú sẽ khỏi phải làm gì cả" "Khi nào có cô Nguyệt Thu, cô đừng nói vậy, cô ấy giận tôi, nghĩ rằng tôi không đứng đắn. Tôi với cô ấy chỉ là tình bạn văn nghệ thôi" "Cháu xin lỗi. Nhưng hình như chị Nguyệt Thu có cảm tình với chú nhiều lắm. Quá tình bạn văn nghệ" "Cô nói cho tôi vui thôi, chứ cô Nguyệt Thu có gặp người thật của tôi bao giờ mà vượt quá tình bạn. Tôi sợ lát nữa, về đây, cô ấy không thèm nhìn tôi vì tôi không giống như trong hình. Cô gọi cô Nguyệt Thu, hỏi đến đâu rồi? Định chờ cô ta về để cùng cúng giao thừa hay đúng mười hai giờ thì bắt đầu?" "Đúng giờ thì cúng. Chị ấy về trễ coi như xông đất năm mới" "Bây giờ còn sớm. Có lẽ mình nên rước ông bà trước"
Cô Chín trao cho ông Tám mấy chén, đũa để ông đặt lên bàn thờ và nói "Bây giờ cháu phải tắm rửa cho sạch sẽ, tinh khiết mà rước ông bà, đón chúa Xuân" "Nhiều người về Việt Nam ăn tết. Sao cô không về thăm nhà?" "Ba mẹ cháu mất rồi. Cháu không có anh chị em gì cả. Nói nhớ nhà chứ đúng ra là tủi thân. Nhà đâu còn mà nhớ!" Ông Tám an ủi "Mấy ông bà Việt kiều về Việt Nam "thăm nhà", nhưng rồi lại mong chóng đến ngày "về nhà" ở hải ngoại. Nơi nào mình sống tự do, an toàn, thoải mái, nơi đó là nhà"
Cô Chín đi vào phòng. Ông Tám ngồi xuống xa lông, nhìn quanh. Ông quen sống một mình, cô đơn cũng có cái thú của nó, nhưng ông biết, cô Chín, là đàn bà sẽ buồn lắm, nhất là trong những ngày cuối năm, thấy thiên hạ rộn ràng sắm tết, đón xuân, gia đình đoàn tụ, cô thì chỉ một mình. May mà có cô Nguyệt Thu ở chung, có người trò chuyện, chứ về nhà, thui thủi, cũng buồn thật.
Đang suy nghĩ vơ vẩn thì cô Chín đi ra. Cô như một người khác. Ông Tám chỉ nhìn thoáng nhưng cũng biết cô đẹp hơn lúc nãy. Mái tóc cô ngắn ngang vai, ôm lấy khuôn mặt bầu bỉnh, sáng như trăng rằm. Một chút phấn hồng lên má và chút son nhẹ trên môi. Cô mặc áo dài nhung đen, óng ánh màu tím đậm. Cô đến trước ông Tám cười duyên dáng "Chú cháu mình cùng cúng nghe!"
Vì cô đứng gần nên ông Tám mới thấy đôi mắt cô Chín đẹp. Vừa như ngơ ngác vừa buồn buồn, nhất là hàng mi dài khiến đôi mắt như sâu thẫm, long lanh. Ông Tám không dám nhìn lâu. Ông đến bàn thờ, thắp đèn, đốt nhang đưa cô Chín "Cô cúng trước, tôi cúng sau" Cô Chín vùng vằng, phụng phịu "Chú! Sao chú không khen cháu đẹp? Dù cho cháu xấu, chú cũng phải khen đẹp. Chú mất lịch sự!" Ông Tám bối rối "Xin lỗi cô. Lúc nãy tôi buột miệng định khen cô đẹp, áo cô cũng đẹp, nhưng trong nhà nầy chỉ có mình tôi với cô, tôi phải giữ lời, sợ cô hiểu lầm, cô sợ tội nghiệp" Cô Chín nhìn ông Tám cười "Chú nói vậy để an ủi cháu nhưng cháu biết, chú mong gặp chị Nguyêt Thu nên không quan tâm đến người khác. Hay là chú sợ chị Nguyệt Thu ghen. Phải không?" "Mong cô Nguyệt Thu thì có, nhưng thật tình tôi không có ý nghĩ gì khác ngoài tình bạn cả. Bây giờ cô cúng đi. Nhớ đừng khóc"
Cô Chín cầm mấy cây nhang, đến trước bàn thờ, ngần ngừ như mắc cỡ "Chú đừng nghe cháu khấn! Cháu cũng không khóc đâu" "Tôi sẽ ra cửa đứng, nhưng trước sau gì tôi cũng sẽ được nghe cô hoặc cô Nguyệt Thu khấn vong linh tôi" "Sao vậy chú?" "Tôi chết trước hai cô, sẽ hiện hồn đến thăm hai cô, hai cô sợ quá, khấn vái, năn nỉ tôi đừng đến thăm hai cô nữa" Cô Chín lại phụng phịu "Chú đừng làm cháu sợ. Cháu không biết chú đang đứng đây là ma hay là người? Chú viết chuyện ma nên bây giờ chú thành ma rồi" "Ma cà bông thì có. Tôi đứng xa rồi, cô cúng đi" Ông Tám đứng nhìn cô Chín cúng lạy. Hai bàn tay cô cầm nhang vái trước bàn thờ, thong thả, dịu dàng. Cô khấn lầm thầm rồi cắm nhang vào lư hương và ngồi xuống xếp chân, thành kính cúi lạy. Trong không khí trang nghiêm, mùi nhang thoang thoảng, ánh đèn lung linh, cô Chín như một cô bé đang lễ phép dâng lên cha mẹ, tổ tiên những lời chúc mừng với tấm lòng thành. Có thể cô cũng cầu xin quí ngài phù hộ cho cô, sang năm mới được sức khỏe, gặp nhiều may mắn.
Khi cô Chín cúng xong, ông Tám cũng đến trước bàn thờ, thắp nhang và vái lạy nhưng không khấn lời nào.
Cô Chín mời ông Tám đến xa lông uống trà. Hai người ngồi đối diện. Cô rót trà "Mời chú. Còn nửa giờ nữa là đến giao thừa" Ông Tám nhìn ra cửa. Cô Chín cười "Mong người đẹp về. Phải không?" "Tôi muốn gặp cô Nguyệt Thu để tìm hiểu, vì sao cô muốn gặp tôi mà lại không chịu nói trong điện thoại?" "Lát nữa, chị Nguyệt Thu về đây, chú sẽ hiểu vì sao. Cháu nói chuyện nầy chú nghe. Trong tập truyện của chú, có một truyện ngắn mà mỗi lần đọc đến là chị ấy khóc. Truyện "Núi Đá Chồng". Chị Nguyệt Thu nói. Chú kể chuyện chứ không viết truyện. Chuyện chú kể giống y như đã xảy ra cho chính chị ấy, cũng tại một quán cơm, nhưng trên đường Đa Lạt - Sài Gòn chứ không phải trên đường Đa Lạt - Nha Trang như trong truyện của chú. Truyện ngắn đó có thật không chú? Chú có phải là anh chàng đó không?" "Một cậu thanh niên gặp và chuyện trò với một cô gái, sau đó chia tay. Nó rất bình thường, có thể xảy ra bất cứ đâu. Tôi cũng gặp một cô bé như thế, nhưng mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn xúc động. Tôi kể chuyện đó để tưởng nhớ cô, để tưởng niệm một tình yêu ngây thơ, tinh khiết" "Chú có thể kể hết câu chuyện cho cháu nghe được không?" "Cô gái thật mà tôi gặp chỉ khoảng mười hai tuổi thôi. Chúng tôi đi từ Đa Lạt về Sài Gòn, dừng lại ăn cơm ở Định Quán. Cô bé đó phụ giúp gia đình bưng thức ăn cho khách. Cô bưng tô canh ra đứng sau lưng tôi. Thấy thức ăn nóng, sợ cô làm đổ, tôi đỡ lấy tô canh, nhưng cô lại để nguyên hai bàn tay cô với tô canh trên tay tôi. Cả hai lúng túng. Cô cười, tôi cũng cười rồi cả bàn ăn cùng cười vui, chế giễu cô, khiến đôi má cô hồng lên, rất dễ thương. Từ lúc đó, dù không có việc gì, cô cũng đứng loay hoay sau lưng tôi. Chúng tôi trò chuyện. Tôi hỏi cô tên gì? Học trường nào? Lớp mấy?... Chỉ vơ vẩn thôi, nhưng cô trả lời như hụt hơi, sau nầy nhớ lại, tôi mới biết là cô bé rất xúc động. Cô vào bếp một lúc lại đi ra, lại đứng sau lưng tôi, lính quính, lo lắng như muốn nói gì với tôi, rồi nhìn chiếc xe đò, như sợ xe chạy. Đến khi chúng tôi lên xe thì cô đứng trước cửa nhìn tôi đăm đăm. Không hiểu sao, xe không nổ máy. Mọi người lại phải xuống xe, vào quán ngồi chờ người tài xế sửa xe. Tôi lang thang đến một tảng đá lớn gần quán cơm, ngồi ngắm cảnh núi rừng hoang vắng. Chiều hôm đó, trời đầy mây, u ám như sắp mưa. Đường vắng, nhà thưa thớt, chung quanh là rừng. Cảnh vật thật buồn. Cô bé đó lại đến bên tôi. Tôi ra dấu, cô ngồi xuống cạnh tôi. Chúng tôi lại chuyện trò. Tôi hỏi về hai tảng đá vĩ đại chồng lên nhau gần đó, hỏi về cuộc sống của cô, nơi núi rừng, có buồn không? Cô trả lời, giọng bình tĩnh và vui chứ không ngập ngừng, hụt hơi như lúc nãy. Tôi xem cô như một em bé ngây thơ, và cô, quả thật rất ngây thơ, trong sáng. Khi xe sửa xong, tôi đứng dậy, ôm hôn lên trán cô và hẹn, có dịp, sẽ ghé thăm cô"
Cô Chín yên lặng một lúc rồi nói "Chị Nguyệt Thu nói chú tên Tâm chứ không phải tên Tám" Ông Tám ngạc nhiên "Sao cô ấy biết tên thật của tôi?" "Lát nữa gặp, chú hỏi chị ấy, cháu làm sao biết được. Chị ấy còn nói, chú ít tuổi, chứ không phải tám mươi như chú nói" "Cô nầy mới thật là tài. Chưa gặp mà biết hết về tôi"
Cô Chín nhìn xuống tách trà "Dám chị Nguyệt Thu là cô bé ở Định Quán, nên khi đọc truyện ngắn đó, chị ấy khóc. Lần nào cũng khóc và mong được gặp chú" "Có lẽ vậy nên cô Nguyệt Thu muốn gặp tôi. Nhưng điều chắc chắn là tôi và cô ta không nhận ra nhau. Mấy mươi năm rồi, ai cũng thay đổi, thành người lạ rồi!"
Đêm ba muơi tết, dù ở xứ người nhưng không khí thiêng liêng, đầm ấm của gia đình vẫn tràn ngập khắp nơi. Cả hai yên lặng lắng nghe bước chân của chúa Xuân đâu đây, để nhớ lại niềm vui rộn rã, háo hức chờ đợi tết của thời còn trẻ ở quê nhà. Bỗng nhiên cô Chín ngẩn lên nhìn ông Tám cười, như muốn nói điều gì quan trọng lắm nhưng lại thôi. "Chị Nguyệt Thu chưa về kịp. Chú cháu mình cúng giao thừa nghe!"
Cô đứng lên, đến thắp nhang, đưa cho ông Tám một cây nhang "Chú đứng cạnh cháu đây. Chú cháu mình cùng chào đón chúa Xuân. Chú có biết khấn như thế nào thì khấn giùm cháu." "Tôi cũng như cô, nhưng mình cứ thưa gửi bình thường, tưởng tượng như chúa Xuân và các vị thần đó đang đứng trước mặt vậy. Cốt ở lòng thành và tin tưởng rằng các vị đó có uy lực siêu nhiên, sẽ chấp nhận lời cầu xin của mình và ban phước lành cho mình. Cô cầm nhang để lên trán như tôi, tôi sẽ thưa với đất đai, thổ thần phù hộ cho cô được sức khỏe và nhiều may mắn trong việc làm ăn."
Ông Tám lầm thầm khấn, cô Chín thành kính lắng nghe và cùng lạy với ông. Cúng xong, cô vui vẻ nói "Sang năm mới rồi. Chị Nguyệt Thu chưa về. Chú xông đất nhà cháu nghe!" Ông Tám ngạc nhiên "Tôi đang đứng trong nhà cô thì làm sao xông đất được?" "Cháu có cách. Chú đi cửa sau, ra đường, lòng vòng đâu đó chừng mươi phút, rồi chú đến cửa trước, gõ cửa, cháu ra đón chú, vậy là chú xông đất nhà cháu" "Chỉ có cô mới nghĩ ra được cách xông đất kỳ lạ như thế nầy. Thôi thì, cô bảo sao, tôi cũng phải vâng lời để cô vui lòng" "Chú đi ra cửa nầy. Để cháu mở đèn sau nhà cho chú thấy đường. Nhớ nhà cháu chưa? Đừng đi lộn vào nhà khác, bị bà nào giữ lại thì chị Nguyệt Thu bắt đền cháu. Cháu làm sao kiếm một ông, vừa già vừa xấu như chú mà đền cho chị ấy?" Ông Tám cũng cười "Cô nói tôi mới biết vì sao tôi tán tỉnh cô nào cũng bị nhìn bằng nửa con mắt."
Ông Tám theo cửa sau, ra đường, một lát, quay lại. Cửa trước hé mở. Ông gõ cửa và chờ đợi. Cô Chín mở cửa và reo lên "Chào chú. Mời chú vào. Năm mới, chúc chú sức khỏe, vạn sự như y." Ông Tám bước vào nhà và lấy trong túi áo ra hai phong bì nhỏ màu đỏ, loại dùng để mừng tuổi cho trẻ con. Ông trao cho cô Chín một phong bì "Mừng cô thêm một tuổi. Thêm đẹp, thêm xinh." Cô Chín cầm lấy phong bì rồi ôm luôn ông Tám khiến ông ngỡ ngàng. Cô tựa đầu vào ngực ông và xoè tay ra "Phong bì kia cũng của cháu." Cô vói tới thì ông Tám giơ chiếc phong bì lên cao. "Không được. Đây là của cô Nguyệt Thu." Cô vẫn vói tay đến chiếc phong bì "Nguyệt Thu nào? Cháu là Nguyệt Thu dây!" Ông Tám kinh ngạc "Chứ lúc nãy cô gọi ai?" "Có gọi ai đâu? Cháu giả bộ nói vô điện thoại chứ có bấm số đâu!" "Vậy cô Chín là cô nào? Cô có hai tên à?" "Tên Chín là tên giả. Chú là Tám thì cháu là Chín. Em út, thua một nút. Tên thực của cháu là Nguyệt Thu. Nhưng mọi người đều gọi cháu là Nguyệt. Con bé Nguyệt trong tiệm cơm ở Định Quán đó. Tên Nguyệt. Đúng không?"
Trong nhà, yên tĩnh kỳ lạ, thơm nức mùi tết, mùi của nhang trầm, của hơi thở xúc động, của tiếng thì thầm vỗ về dịu dàng, của mùa Xuân len lén bước qua cửa, vào phòng khách...
Một lúc sau, cô Chín dụi mặt vào ngực ông Tám để chùi nước mắt. Rồi cô thở ra "Cám ơn Trời Phật đã xui khiến cháu đọc truyện chú viết và tìm thấy chú."
Phạm Thành Châu
Tác phẩm đã phát hành:
- Bức Họa Khỏa Thân (248 trang)
- Nhớ Huế (248 trang)
- Lý lẽ của trái tim (275 trang)
Ba tập truyện ngắn của Phạm Thành Châu có thể coi là món quà Xuân, quà sinh nhật thanh cao gửi đến bạn bè. Giá mỗi tập 12 USD. (trong nước Mỹ). Mua ba (3) tập trở lên, giá mỗi tập 10 USD kể cả cước phí. Gửi sách trước, trả tiền sau. Liên lạc:
Phạm Thành Châu 7004 Beverly Lane Springfield VA 22150
Phone
(703) 569-0124
(571) 480-3276 (c)
(xin để lại lời nhắn)
Phạm Thành Châu
1. Chuyện Vợ Ông Nhà Thơ
Chuyện Vợ "Ông Nhà Thơ" (12/21/2012) (Xem: 12002) Tác giả sinh quán tại Hội An, Quảng Nam, tốt nghiệp Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Cựu tù chinh trị, hiện định cư tại Virginia, đã góp bài cho Việt Báo Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua. Nhà văn Võ Phiến nhận xét về các nhân vật trong ba tập truyện của Phạm Thành Châu đã xuất bản, phải kêu là tuyệt vời. Sao mà họ chung tình đến thế. Nhân vật trong truyện mới của ông Châu sau đây còn “trên cả tuyệt vời”, nói theo kiểu các trang mạng phổ biến từ trong nước.
Ở hải ngoại, mười ông Việt Nam sồn sồn, cỡ trên dưới sáu mươi tuổi thì có đến chín ông là nhà thơ. (Xin bạn đồng ý với tôi, vì chính bạn cũng từng làm thơ, từ thời còn đi học ở quê nhà, nhưng không gửi đăng báo vì khiêm tốn đấy thôi). Ở hải ngoại, cuộc mưu sinh tuy bận rộn nhưng một lúc nào đó, những "rung động bất chợt của những nỗi nhớ, những kỷ niệm…", khiến tâm hồn lãng mạn cảm hứng thành những vần thơ, phải ghi xuống để khi rãnh rỗi, đem ra ngâm nga, tự thưởng thức. Và "chủ đề" của các ông, bà hiện nay là "quê cũ và người xưa".
Sự thực, với các ông, trong chín nhà thơ đó, hết tám ông, thời còn đi học không hề có người yêu, yêu thầm thì họa may. Lý do đơn giản là thuở học trò, cứ vác quả tim cô đơn đi cà lơ thất thểu ngoài đường chứ chẳng cậu nào dám tán tỉnh hay tỏ tình với người đẹp. Nhưng trong "thơ văn hoài niệm" ông nào cũng sắm cho mình một lô các cô nữ sinh, xinh đẹp, ngây thơ... và nhất là cũng yêu "chàng" (nhà thơ) say đắm. Nhưng đau khổ thay! Người yêu lên xe hoa với người khác khiến chàng thành "thi sĩ".
Người làm thơ, trước hết là để cho mình ngâm nga, sau đó (tự thấy hay) mới quyết định mời thiên hạ cùng thưởng thức. Thời đại khoa học tân tiến, chỉ cần mở computer tung thơ mình lên "net" là có hàng trăm, hàng nghìn người đọc. Rồi thì những hồn thơ đồng cảm tìm đến nhau. Trước còn sơ giao, sau thành thân thiết. Khoảng năm 1994, ở hải ngoại, có Hội Thơ Tài Tử, qui tụ hàng nghìn nhà thơ trên khắp thế giới. Họ góp thơ để phát hành những tập thơ "Cụm Hoa Tình Yêu" dày năm, bảy trăm trang của mấy trăm nhà thơ, lại còn hẹn nhau cứ mỗi hai năm, cùng họp mặt để đem thơ mình ra ngâm nga, cùng thưởng thức, sau đó rủ nhau đi thăm thắng cảnh, đi ăn uống, vui chơi… Nơi họp mặt thường là các thành phố đẹp ở Mỹ, Châu Âu… Mới đây nhất là cuộc họp mặt của Hội Thơ Tài Tử ngày 14 tháng 9 năm 2012 tại Dalas, Texas kỷ niệm 18 năm thành lập, qui tụ nhiều nhà thơ khắp thế giới, có cả những nhà thơ từ Việt Nam sang. Trên thế giới, xưa nay, chưa có hội thơ nào qui tụ nhiều nhà thơ đến như vậy. Tuy vậy còn có hàng trăm thi sĩ người Việt hải ngoại không vô hội, họ làm thơ chỉ phổ biến trong bạn bè, thậm chí để riêng mình ngâm nga.
Tôi biết có một ông nhà thơ thuộc loại đó. Nhà thơ Xuân Tình với tập "Thơ Xuân Tình". Tình yêu trong thơ ông ta mênh mông, lai láng như muốn tràn ra ngoài những giòng chữ.
Chuyện đó có gì lạ đâu?
Điều lạ mà tôi sắp kể ra đây lại là bà vợ ông nhà thơ đó.
Bà vợ ông nhà thơ làm chủ hai tiệm nail (làm móng tay), khá lắm, nên ông chồng ở nhà, đi vô đi ra và làm thơ chơi để giết thì giờ. Vợ ông ta rất yêu chồng, yêu luôn thơ của chồng. Làm chủ tiệm nail lại phải lo chuyện gia đình, chợ búa, nấu nướng, giặt giũ áo quần, rửa chén bát... bận túi bụi, vậy mà về đến nhà là ôm chồng hôn và âu yếm hỏi "Bữa nay ông xã em làm được mấy bài thơ? Đọc cho em nghe với!" Trong khi ông chồng đi lấy mấy bài thơ vừa sáng tác thì bà vợ nấu nước pha trà. Hai người ngồi ở phòng khách, vợ tựa đầu trên vai chồng, lắng nghe chồng ngâm thơ. Và dù là những câu thơ bí hiểm cách mấy, bà vợ cũng suýt soa khen hay. Chuyện ngắn là chuyện dài "cô đọng", bài thơ là chuyên ngắn "cô đọng" Bà ta không cần biết điều đó. Bà chỉ cảm nhận được chồng mình có gì đó cao quí hơn người khác. Chồng bà là "nhà thơ". Bà yêu chồng, yêu hồn thơ của chồng. Sau khi cùng chồng uống chén trà thơm, bà ta hôn chồng lần nữa rồi mới đứng lên lo chuyện cơm nước. Bà ta nấu vài món thôi, nhưng nấu nhiều. Lũ con, nhà gần đấy, đã nên vợ nên chồng, nhưng vẫn giữ thói ăn bám mẹ. Buổi chiều chúng chỉ chờ mẹ gọi là cả gia đình kéo đến ăn, đã khỏi nấu nướng mà được mẹ cho ăn ngon còn bới đem về để sáng mai đem đi làm.
Chuyện hai ông bà yêu thơ hơi quá đáng, có thể làm bạn nghi ngờ tôi "sáng tác". Làm gì có bà vợ yêu chồng kiểu đóng kịch như vậy? Xin bạn kiên nhẫn đọc những chuyện vô lý tiếp theo. Vợ chồng tôi có quen với vợ chồng nhà thơ nên mới biết mà kể cho bạn nghe.
Ông nhà thơ nầy là một ông cù lần. Suốt ngày ở trong nhà, cứ lừ nhừ, khật khừ như con gà rù, chẳng bạn bè, chẳng hội đoàn, ngay cả hội "Thơ Tài Tử" ông ta cũng không tham gia. Một lần gặp vợ tôi, bà chủ tiệm nail khoe thơ chồng mình hay lắm, tôi hỏi sao không gửi đăng báo để thiên hạ cùng thưởng thức? Bà ta nói rằng, có gửi nhưng không thấy báo nào đăng! Tôi mới tiết lộ cho bà ta cái "mánh" giống như của tôi (mỗi khi gửi truyện đến các báo) "Chị gửi khoảng chục bài thơ của ông xã chị, kèm theo một chi phiếu mua một năm báo, họ sẽ coi như "bài cậy đăng". Nhất định thơ của ông xã chị sẽ xuất hiện trên báo đó". Bà ta bảo rằng không biết làm cách nào? Tôi bảo cứ ký cho tôi năm ba cái chi phiếu, tôi sẽ lo giùm cho.
Vậy là cả năm tờ báo, thuộc loại "văn học nghệ thuật" ở Cali., Texas đều đăng thơ của ông chồng bà chủ tiệm nail. Bà ta đem mấy tờ báo ra tiệm khoe với khách hàng người Việt rồi cám ơn tôi rối rít "Ông xã em vui lắm. Không ngờ thơ mình được các báo giá trị đăng. Cám ơn anh nhiều lắm" Như vậy là bà ta không cho chồng biết đó là "những bài thơ cậy đăng". Tôi bảo "Có một cách làm cho ông xã chị khoái hơn nữa là ra mắt thơ" Chuyện móng tay, móng chân thì bà ra rành, nhưng về văn học nghệ thuật thì bà ta lại phải nhờ tôi "Em có nghe chuyện ra mắt thơ, nhưng không biết làm cách nào? Anh có thể giúp em được không? Miễn ông xã em vui thì tốn kém bao nhiêu em cũng không ngại" "Ra mắt thơ nhiêu khê hơn đăng thơ trên báo, nhất là ông xã chị không quen biết nhiều với báo chí, ít giao thiệp với đồng hương địa phương ở đây. Tôi lên chương trình như thế nầy để chị về bàn với ông xã chị trước khi quyết định vì tốn tiền lắm. Trước hết là in những bài thơ của ông xã chị thành tập, gọi là "thi phẩm". Muốn chơi sang thì nhờ một ông nhạc sĩ phổ nhạc khoảng mươi bài thơ, thuê ca sĩ hát và thu vào CD, sau đó tổ chức một buổi ra mắt thơ, có ca sĩ hát "thơ phổ nhạc". Hôm ra mắt thơ, ông xã chị ngồi sẵn chỗ ra vào, ký tặng thơ và CD. Nhớ đừng ép mua, kiểu bắt chẹt đó khiến người ta bực mình. Người ta đến là may lắm rồi. Muốn buổi ra mắt thơ được đông vui, chị phải quảng cáo trên đài phát thanh, trên TV, trên báo chí thật rầm rộ. Nhưng tôi báo trước là chục nghìn không đủ đâu" Bà ta sáng mắt lên "Bao nhiêu cũng được miễn sao chồng em được mọi người biết tên, báo chí, truyền hình, phát thanh đưa tin, gọi chồng em là "thi sĩ" là chồng em vui rồi. Anh cố giúp giùm em. Anh đừng ngại chuyện tiền bạc" "Tôi chỉ giới thiệu những người lo chuyện ra mắt thơ với chị, họ sẽ sắp xếp mọi việc. Chị yên tâm".
Vài tháng sau, việc in ấn, phổ nhạc, thu CD đã xong, tôi gọi cho một ông trưởng ban nhạc kiêm MC (người điều khiển chương trình), chuyên phục vụ đám ma, đám cưới, hội xuân, ra mắt sách... nhờ ông ta lo giùm, rồi gọi một ông bạn, nhà "phê bình văn học nghệ thuật" ở Cali. nhờ giới thiệu tập thơ. Ông ta bảo, đây là dịp qua Virginia thăm bạn bè mà không tốn tiền nhưng phải gửi cho ông ta tập thơ rồi lo cho ông ta vé máy bay, khách sạn và vài chai rượu là đủ, và muốn ông ta nói trong bao lâu (nửa giờ, một giờ?), ông ta cam đoan sẽ làm phổng mũi tác giả và khán giả sẽ vỗ tay liên tục. Ông bạn "nhà phê bình" nầy tính hơi khùng khùng, nhưng cũng rất khôn. Ông ta góp nhặt những đoạn văn từ những bài phê bình, nhận định văn học trên các báo, xào nấu lại thành những bài thuyết trình hoa mỹ, thánh thót của riêng mình. Ông ta có khoảng năm, bảy bài thuyết trình tiền chế như thế, thủ sẵn, khi có người nhờ, giới thiệu một tác phẩm, thì chỉ việc lựa bài nào thích hợp với tác phẩm, nhét vào đó tên tác giả là thành một bài giới thiệu nghe rất mê ly. Một tập thơ, tập truyện, dở cách mấy mà qua tay ông ta với bài thuyết trình cũng trở thành "kiệt tác". Đương nhiên, tác giả sướng mê, khán giả cũng khoái lỗ tai.
Thật ra, tôi vốn tính lười. Vợ sai còn không chịu làm, hơi sức đâu làm chuyện tào lao! Nhưng vì tôi không ưa ông nhà thơ nầy nên muốn phá chơi, vì trước đây vài năm, ông ta gặp ai cũng chào hỏi vui vẻ, còn rủ đi uống cà phê để tán phét, về sau, bỗng nhiên, ông ta rút vô nhà, gặp bạn bè, chào hỏi, ông ta chỉ gật đầu mà không thèm mở miệng, có lẽ ông ta thành nhà thơ, thuộc "cõi trên", không thèm giao tiếp với bọn tầm thường. Bây giờ, tôi xúi ra mắt thơ mà không ai đến để ông ta "quê", cho bỏ ghét. Hơn nữa, tôi tò mò muốn biết về bà chủ tiệm nail nầy. Yêu thương chồng, chiều chồng theo kiểu kỳ quái đó thì xưa nay hiếm thấy. Bà nào nghe chồng in thơ, ra mắt thơ là nhăn mặt rồi. Đã tốn kém còn phải mang về cả nghìn tập thơ, để chật nhà. Muốn gửi tặng bạn bè, phải moi óc, có được vài chục địa chỉ là quá nhiều, lại phải ký tên, ra bưu điện gửi, tốn kém, phiền phức vô cùng! Nhiều ông còn đi các tiểu bang khác, ra mắt thơ, các bà vợ rầu lắm mà không dám nói. Riêng bà vợ ông nhà thơ nầy thì lại hối hả, chạy ngược, chạy xuôi, gọi người nầy, người kia nhờ vả, năn nỉ, đốc thúc... Tôi được bà ta coi như quân sư, gì cũng hỏi ý kiến, tôi thấy tội nghiệp nên cố giúp. Vì biết kết quả sẽ không ra gì nên tôi giao hẹn trước "Tôi giúp ông bà hết mình rồi nhưng người ta có đến hay không, tôi không chịu trách nhiệm".
Hôm ra mắt thơ, vợ chồng tôi có đến phụ giúp việc chào đón quan khách, sắp xếp chỗ ngồi. Thật không ngờ, khách đến chật nhà hàng! Không biết ai xúi mà bà ta mời một cô ca sĩ nổi tiếng từ Cali. qua. Thế là cứ nghe báo chí, đài phát thanh quảng cáo có cô ca sĩ Ngọc Hạ hát là người ta ùn ùn kéo đến. Hơn nữa đã nghe hát "chùa" (miễn phí) lại được tác giả tặng không tập thơ với CD ca nhạc, lại có nước ngọt, bánh kẹo để nhâm nhi, được gặp bạn bè trò chuyện rôm rả (chả cần biết diễn giả đang nói gì!) Vợ chồng nhà thơ mặt mũi sáng rỡ, nhất là ông chồng, không còn là con gà rù nữa, lúc nào cũng tươi cười, ký tên tặng thơ không ngơi tay. Có điều lạ là, không biết từ đâu kéo đến một lô người đẹp. Tôi thật sự kinh ngạc, không ngờ thơ ông ta làm rung động quả tim của những cô trẻ đẹp đến như vậy! Các cô rất hấp dẫn, thơm tho, ngon lành. "Nói chung" là cô nào cũng nõn nà. Cô có cánh tay trắng nuốt thì mặc áo hở cả nách, cô có đùi thon dài thì mặc quần trên đầu gối hai gang tay, cô có ngực tròn, trắng, mịn như trứng gà bóc thì chỉ che ngực một phần tư thôi. Có cô, diện giống như nữ tài tử xi nê đến dự đại hội điện ảnh Oscar, phía sau, từ cổ đến dưới eo (lưng) để trống trải, thoáng mát, nên cô đi đâu thì đầu các ông quẹo theo hướng đó. Đã vậy các cô lại đi lung tung, gặp ông nào cũng chào, chào theo kiểu Nhật, nghĩa là cúi gập người xuống. Các ông thấy hết, mặt thộn ra, như bị bắt mất vía. Có lẽ xong buổi ra mắt thơ mà các cô chưa về, các ông cũng không chịu về. Tôi đâm ra ước được như ông nhà thơ, để trong mấy chục cô "hâm mộ thơ" đó làm gì cũng có vài cô sa vào vòng tay của tôi. Có điều lạ là bà vợ ông ta không tỏ ý khó chịu trước những lời ca tụng, tán tỉnh gần như tỏ tình của các cô (nõn nà) nầy với ông chồng (nhà thơ), mà còn về hùa theo rồi cười đùa vui vẻ nữa. Vì sao bà ta lại quá tử tế với chồng đến như vậy?
Buổi ra mắt thơ thành công ngoài mơ ước. Người điều khiển chương trình quả là chuyên nghiệp. Anh ta mở miệng là khán giả cười vui như xem hài kịch. Nhà phê bình văn học nghệ thuật thì đúng là danh bất hư truyền. Vì tôi mãi chiêm ngưỡng vẻ đẹp giai nhân nên đôi mắt và hồn vía tôi cứ bám sát theo các cô đang ỏng ẹo đi lòng vòng khắp nơi, nên không biết ông ta nói gì nhưng thỉnh thoảng nghe tiếng vỗ tay rào rào.
Sau hôm ra mắt thơ đó, tò mò, tôi đem thi phẩm "Thơ Xuân Tình" ra đọc. Không hiểu ông bà nào đánh máy, trình bày tập thơ cho ông ta, đã ghi một câu đáng kinh ngạc, ngay bìa trước tập thơ, dưới tấm hình tác giả rằng "Thi sĩ lãng mạn được mến mộ nhất hiện nay tại hải ngoại, người đã hi sinh cả đời mình để viết nên những trang sử thi đau thương…"
Tôi cũng mượn bài diễn văn của nhà phê bình văn học để nghiên cứu, hi vọng sẽ biết được giá trị của thi phẩm. Đọc suốt tập thơ và bài "phê bình văn học" tôi chỉ rút ra được một kết luận là nhà phê bình quả là đại tài. Tôi xin trích vài đoạn văn tiêu biểu sau đây: "Lãng mạn và đầy cá tính là yếu tố hấp dẫn trong thơ Xuân Tình. Đó là một thông điệp, chuyên chở bằng chữ nghĩa, gần như lạnh lùng, không cảm xúc về những vấn nạn của hiện thực đầy cảm tính, nhưng lóng lánh trong đó là những mảnh suy tưởng sắc sảo, những rung động ẩn mật của tình yêu. Tuyệt vời hơn nữa là với sự thông minh, dí dỏm, nhà thơ Xuân Tình đã lôi cuốn người thưởng ngoạn vào những tình huống bất ngờ, đầy hình ảnh và âm thanh của đam mê, buông thả và cộng hưởng" (?!). Trong một đoạn khác, ông ta viết "Từ vị trí một người thưởng ngoạn bình thường, tôi nghĩ, nhà thơ Xuân Tình có trong tay một cách thế thi ca để thể hiện sự hiện hữu của mình. Một nhà thơ phá cách, nhiều tìm tòi thử nghiệm, cách tân ở kỹ thuật, đậm tính thời cuộc ở nội dung. Thơ ông được giải thoát, được tự do, vượt trên mọi câu thúc xã hội, vượt qua cả hàng rào tín ngưỡng, đạo lý, vượt khỏi tâm lý rụt rè, khép kín để bay bổng về một thế giới mới, một linh hồn mới, một hơi thở mới. Từ đó, người ta thấy được cái phong phú của cuộc sống, cái sâu thẵm của tâm hồn và cái trớ trêu của định mệnh"
Tôi chịu thua, không hiểu gì về bài nhận định thơ theo lối tiền chế đó! Chỉ duy nhất một câu (không biết ông ta thuổng của ai) lộ rõ ý mỉa mai mà ít người để ý "Thơ rất lạ, một ưu điểm nhưng cũng là nhược điểm vì sẽ kén người thưởng thức" Tôi hỏi "nhà phê bình văn học" nghĩ thế nào mà viết toàn những câu ca tụng nghe rổn rảng như chuông mà chẳng thực tế, rõ ràng gì cả? Ông ta hỏi tôi "Ông có đi dự đám ma lần nào chưa? Có nghe người ta đọc điếu văn chưa? Tôi nhận định văn học trong những buổi ra mắt sách, ra mắt thơ cũng giống như người ta đọc điếu văn trong các đám ma vậy thôi. Chỉ ca tụng, suy tôn tác giả, tác phẩm chứ không phê bình, góp ý. Tác giả khoái chí, người nghe vui tai. Có hại cho ai đâu? Anh chê văn, thơ người ta vì văn, thơ của anh dở hơn của người ta. Nhà văn, nhà thơ thất bại thành nhà phê bình là vậy"
Còn về thi sĩ Xuân Tình, cá nhân tôi nhận xét thì, quả thực ông nhà thơ của chúng ta đã "bước lùi về quá khứ một bước và tiến tới hậu hiện đại ba bước". Nhiều bài thơ, tôi đoán, ông ta nhắm mắt viết bừa những câu bí hiểm điên khùng rồi ngắt ra từng đoạn, xuống giòng, thế là thành một bài thơ tự do, trừu tượng, siêu hình gì đó? Có những câu rất công thức như "Từ em về với người ta. Anh rời phố thị khóc tà huy xưa..." hoặc rất khó hiểu như "Em cổ tích ta vong thân mục tử, ôm mặt trời độc tấu khúc cuồng phong"...
Tôi biết, bạn nghĩ rằng tôi (nhà văn thất bại thành nhà phê bình) đang phịa ra một chuyện vừa dở vừa vô lý. Tôi còn điên đầu hơn nữa. Thế nên, nhân một hôm bà ta đến nhà để cám ơn sự giúp đỡ của vợ chồng tôi về buổi ra mắt thơ, tôi hỏi bà ta "Tôi có vài thắc mắc, nếu không tiện thì chị đừng trả lời. Như thế nầy. Tôi chưa thấy bà vợ nào hăng hái ủng hộ chồng in thơ, ra mắt thơ một cách tốn kém như chị. Ông xã chị ham vui thì chấp nhận được, nhưng chị lại sốt sắng hơn chồng nữa. Vậy là sao?" Bà ta ngồi yên một lúc rồi bỗng khóc òa. Vợ tôi hoảng kinh, ôm lấy bà ta, vỗ về "Có chuyện gì vậy? Chị không muốn nói thì thôi, đừng kể ra đây" Rồi làm bộ trách tôi "Anh sao tò mò chuyện người ta? Xin lỗi chị. Ông xã em vô ý quá!". Bà ta vừa khóc vừa lắc đầu, một lúc sau mới mếu máo nói "Chồng em bị ung thư sắp chết. Mổ rồi, chữa đủ cách rồi, nhưng bác sĩ bảo riêng với em là ảnh chịu đựng giỏi lắm là hai năm. Bởi vậy em phải làm sao cho ảnh vui trong những ngày cuối cùng khi vợ chồng còn bên nhau. Bán nhà em cũng làm. Cứ nghĩ đến mỗi ngày vợ chồng mỗi cách biệt, đêm nào em cũng khóc" Vợ chồng tôi vội xin lỗi "Ảnh bị bịnh mà tụi tôi không hề biết. Thật có lỗi quá!" Bà ta lại lắc đầu "Chồng em dặn trong nhà là không được nói cho người ngoài biết chuyện bịnh hoạn của ảnh. Ảnh không muốn ai hỏi han, thăm viếng, an ủi, thương hại" Trước đó, tôi nghĩ rằng bà ta là người điên, giờ đây, tôi lại thấy thật đáng kính phục, thương chồng quá sức! Bà ta nói tiếp "Em phải làm gấp, trước ngày đưa chồng em tái khám, vì sợ, bác sĩ mà tìm thấy di căn thì chẳng khác gì bị kêu án tử hình. Lúc đó vui thú gì mà ra mắt, ra mũi. Em sợ mất ăn mất ngủ mà ảnh thì vẫn bình thản làm thơ còn đồng ý cho em tổ chức ra mắt thơ nữa" Vừa thán phục bà vợ, bây giờ tôi lại kính nể ông chồng. Hiếm người thấy thần chết vác lưỡi hái đứng trước cửa mà vẫn làm thơ tỉnh bơ.
Sau ngày ông thi sĩ Xuân Tình tái khám, vợ chồng tôi không dám hỏi thăm sợ ông chồng giận vợ, đã dặn là không cho ai biết, sao có người gọi hỏi? Vậy mà một hôm, bà vợ điện thoại, mời chúng tôi đi nhà hàng, ăn mừng buổi ra mắt thơ thành công mỹ mãn.
Chiều thứ bảy, những người đã góp công, phụ giúp trong buổi ra mắt thơ, có cả mấy cô hấp dẫn đi nhởn nhơ bữa trước nữa, tổng cộng trên vài chục người, đến nhà hàng đông đủ. Bà vợ ông nhà thơ đứng lên nói mấy lời cám ơn, chờ mọi người vỗ tay xong, bà ta mới long trọng báo một tin vui "Hôm thứ hai, ông xã tôi đi tái khám, mấy ngày sau có kết quả từ bịnh viện cho biết, tình trạng rất khả quan, nghĩa là không thấy di căn hay bịnh lan qua các bộ phận khác" Mọi người nâng ly chúc mừng nhà thơ khỏi bịnh. Ông ta đứng lên tươi cười nói "Tôi bị ung thư bao tử đã lâu nhưng không cho ai biết. Bữa nay thì coi như khá hơn trước. Bác sĩ nói vậy thì biết vậy, dù sao đi nữa, tôi vui sống được đến ngày nay là nhờ vợ tôi". Đang ăn uống chuyện trò thì bà vợ ông nhà thơ có điện thoại. Bà ta nói lớn như muốn mọi người chú ý "Alô! Dạ đúng rồi ạ! Dạ, em có biết nhà sách Văn Chương của anh. Anh cần mang đến ngay hai mươi tập Thơ Xuân Tình? Thế hả? Một bà bên Pháp qua Mỹ thăm bà con, người ta nhờ mua đem về Pháp? Ôi. Thật hân hạnh cho vợ chồng em quá! Cám ơn anh nhiều lắm. Dạ, chủ nhật nầy em đem thơ đến, được không ạ? Dạ, cám ơn anh" Bà ta bỏ điện thoại vào xách tay, giọng bình thản "Sáng hôm qua, nhà sách Bình Minh cũng gọi bảo đem đến hai chục tập Thơ Xuân Tình. Một bà từ bên Úc qua Mỹ chơi mua một mớ. Thằng con chúng tôi đưa tập Thơ Xuân Tình của ba nó lên "nét" (internet), báo chí đem xuống in ra nên người ta biết và hỏi mua" Mọi người ngớ ra rồi lại vỗ tay chúc mừng. Ông chồng ngồi cười cười, nói mấy lời khiêm tốn, nhưng mặt cứ vếch lên trời, coi bộ thú vị lắm. Thật đáng kinh ngạc. Một nhà thơ vô danh, chỉ sau mấy bài thơ đưa lên "net", đăng báo và một buổi ra mắt thơ bỗng trở thành nhà thơ "kiệt xuất"! Hay là bà ta làm bộ như có người mua thơ để chúng tôi lác mắt chơi, và cũng để cho chồng vui chứ chẳng ai khùng điên đi mua loại thơ đó về Úc, về Pháp tặng bạn bè!
Mấy hôm sau, tôi đến nhà sách Văn Chương. Ông bà chủ nhà sách là chỗ quen biết. Tôi mua vài cuốn sách rồi làm như vô tình, hỏi chuyện về thơ, về phát hành, mua bán thơ. Ông chủ nhà sách dẫn tôi đến một góc kẹt, chỉ một dãy các tập thơ "Những nhà thơ nổi tiếng thì bán chạy lắm, còn những người khác gửi bán, tôi nể tình nhận, nhưng chẳng bao giờ bán được thơ. Thế nên, tôi dồn hết những "thi phẩm" của họ vào góc đó, gọi là Nghĩa Địa Thơ". Rồi ông ta tiếp "Có một chuyện lạ. Anh có biết nhà thơ Xuân Tình là ai không?" Tôi lắc đầu, vờ không biết "Tôi chỉ đọc báo và biết ông ta vừa ra mắt thơ tuần trước ở thành phố mình" "Tôi có đọc thử, thơ ông ta cũng nhì nhằng, tàm tạm, vậy mà có người mua cả chục tập, đem về Pháp, Úc tặng bạn bè. Sáng nay tôi vừa giao hai chục tập thơ cho một bà, bà ta còn đòi mua thêm mấy chục tập nữa" "Có thể mình không đủ trình độ thưởng thức thơ ông ta. Kiểu nầy ông ta dám lãnh một giải thưởng thơ quốc tế nào đó thì cũng không nên ngạc nhiên" "Đúng vậy. Ở đời có những bất ngờ mà chẳng ai lường trước được!"
Đọc đến đây, quí vị sẽ nghĩ "Đúng là một chuyện phịa có hậu nhưng vụng về và vô lý. Nhà thơ ra mắt thơ thành công, bịnh ung thư lành hẳn, vợ chồng hạnh phúc!"
Nhưng xin thưa quí vị, chuyện đời đâu có đơn giản quá như vậy? Phần sau đây mới làm người đọc bàng hoàng.
Nguyên nhân thế nầy. Bà vợ ông nhà thơ đang khỏe mạnh bỗng thấy đau đầu khủng khiếp. Đi bác sĩ rồi khẩn cấp đưa vô bịnh viện mổ ngay. Bà ta có khối u trong đầu. Bịnh viện thử máu, chụp hình rồi chụp thuốc mê để mổ. Mổ xong, bà ta đi luôn, không tỉnh dậy nữa. Mới tuần trước còn thấy bà ta chào hỏi, cười nói với mọi người, tuần sau, bà ta biến mất trên thế gian!
Sau khi chôn cất vợ, ông nhà thơ đem những tấm hình vợ rọi lớn lên, treo kín các vách tường trong nhà. Trong phòng ngủ thì một bức chân dung vợ lớn hơn nữa, che lấp cái màn hình TV, để khi vào giường, thay vì xem TV, ông ta nằm ngắm vợ. Suốt ngày ông nhà thơ chỉ quanh quẩn giữa bốn bức tường, để nhìn đâu cũng thấy vợ. Có thể nói ông ta điên vì thương nhớ vợ chứ không phải thất tình.
Một năm sau, nhân giỗ đầu của bà chủ tiệm nails, chúng tôi được mời đến dự. Ông chồng có vẻ tỉnh táo, bớt nhớ vợ. Khi về, tôi nói với vợ tôi những thắc mắc về buổi ra mắt thơ, về những tập thơ bán qua Châu Âu, châu Úc. Vợ tôi giải thích "Chị ấy bắt mấy cô thợ nail (thợ móng tay) trong tiệm diện vô, sao cho sexy, đi nhởn nhơ cho mấy ông vui, để khỏi chán, bỏ về sớm" Tôi kinh ngạc "Không ngờ bà ta khôn lanh quá cỡ. Bả làm cách nào mà bên Pháp, Úc cũng nghe danh ông ta mà tìm mua thơ?" Vợ tôi lại cười, chấp hai tay vái vái vào khoảng không như vái vong linh bà vợ ông nhà thơ rồi thì thầm, như sợ bà ta nghe được "Chị ấy dặn tụi em phải giữ thật bí mật. Chỉ nhờ tụi em, giả bộ như người từ Pháp, Úc, qua Mỹ tìm mua Thơ Xuân Tình. Cứ hỏi mua tối đa, mấy chục tập cũng được, chỉ trả lại tiền"
Bạn thấy, chuyện tôi kể chẳng hay ho gì, phải không? Không hay nhưng rất đẹp. Đó là tình yêu thương chồng của bà chủ tiệm Nails. Hiếm ông nào có được người vợ như thế.
Phạm Thành Châu
Tác phẩm đã phát hành:
- Bức Họa Khỏa Thân (248 trang)
- Nhớ Huế (248 trang)
- Lý lẽ của trái tim (275 trang)
Ba tập truyện ngắn của Phạm Thành Châu có thể coi là món quà Xuân, quà sinh nhật thanh cao gửi đến bạn bè. Giá mỗi tập 12 USD. (trong nước Mỹ). Mua ba (3) tập trở lên, giá mỗi tập 10 USD kể cả cước phí. Gửi sách trước, trả tiền sau.
L/L: Phạm Thành Châu 7004 Beverly Lane Springfield VA 22150
Phone (703) 569-0124 (571) 480 - 3276) (c)
(xin để lại lời nhắn)
Ở hải ngoại, mười ông Việt Nam sồn sồn, cỡ trên dưới sáu mươi tuổi thì có đến chín ông là nhà thơ. (Xin bạn đồng ý với tôi, vì chính bạn cũng từng làm thơ, từ thời còn đi học ở quê nhà, nhưng không gửi đăng báo vì khiêm tốn đấy thôi). Ở hải ngoại, cuộc mưu sinh tuy bận rộn nhưng một lúc nào đó, những "rung động bất chợt của những nỗi nhớ, những kỷ niệm…", khiến tâm hồn lãng mạn cảm hứng thành những vần thơ, phải ghi xuống để khi rãnh rỗi, đem ra ngâm nga, tự thưởng thức. Và "chủ đề" của các ông, bà hiện nay là "quê cũ và người xưa".
Sự thực, với các ông, trong chín nhà thơ đó, hết tám ông, thời còn đi học không hề có người yêu, yêu thầm thì họa may. Lý do đơn giản là thuở học trò, cứ vác quả tim cô đơn đi cà lơ thất thểu ngoài đường chứ chẳng cậu nào dám tán tỉnh hay tỏ tình với người đẹp. Nhưng trong "thơ văn hoài niệm" ông nào cũng sắm cho mình một lô các cô nữ sinh, xinh đẹp, ngây thơ... và nhất là cũng yêu "chàng" (nhà thơ) say đắm. Nhưng đau khổ thay! Người yêu lên xe hoa với người khác khiến chàng thành "thi sĩ".
Người làm thơ, trước hết là để cho mình ngâm nga, sau đó (tự thấy hay) mới quyết định mời thiên hạ cùng thưởng thức. Thời đại khoa học tân tiến, chỉ cần mở computer tung thơ mình lên "net" là có hàng trăm, hàng nghìn người đọc. Rồi thì những hồn thơ đồng cảm tìm đến nhau. Trước còn sơ giao, sau thành thân thiết. Khoảng năm 1994, ở hải ngoại, có Hội Thơ Tài Tử, qui tụ hàng nghìn nhà thơ trên khắp thế giới. Họ góp thơ để phát hành những tập thơ "Cụm Hoa Tình Yêu" dày năm, bảy trăm trang của mấy trăm nhà thơ, lại còn hẹn nhau cứ mỗi hai năm, cùng họp mặt để đem thơ mình ra ngâm nga, cùng thưởng thức, sau đó rủ nhau đi thăm thắng cảnh, đi ăn uống, vui chơi… Nơi họp mặt thường là các thành phố đẹp ở Mỹ, Châu Âu… Mới đây nhất là cuộc họp mặt của Hội Thơ Tài Tử ngày 14 tháng 9 năm 2012 tại Dalas, Texas kỷ niệm 18 năm thành lập, qui tụ nhiều nhà thơ khắp thế giới, có cả những nhà thơ từ Việt Nam sang. Trên thế giới, xưa nay, chưa có hội thơ nào qui tụ nhiều nhà thơ đến như vậy. Tuy vậy còn có hàng trăm thi sĩ người Việt hải ngoại không vô hội, họ làm thơ chỉ phổ biến trong bạn bè, thậm chí để riêng mình ngâm nga.
Tôi biết có một ông nhà thơ thuộc loại đó. Nhà thơ Xuân Tình với tập "Thơ Xuân Tình". Tình yêu trong thơ ông ta mênh mông, lai láng như muốn tràn ra ngoài những giòng chữ.
Chuyện đó có gì lạ đâu?
Điều lạ mà tôi sắp kể ra đây lại là bà vợ ông nhà thơ đó.
Bà vợ ông nhà thơ làm chủ hai tiệm nail (làm móng tay), khá lắm, nên ông chồng ở nhà, đi vô đi ra và làm thơ chơi để giết thì giờ. Vợ ông ta rất yêu chồng, yêu luôn thơ của chồng. Làm chủ tiệm nail lại phải lo chuyện gia đình, chợ búa, nấu nướng, giặt giũ áo quần, rửa chén bát... bận túi bụi, vậy mà về đến nhà là ôm chồng hôn và âu yếm hỏi "Bữa nay ông xã em làm được mấy bài thơ? Đọc cho em nghe với!" Trong khi ông chồng đi lấy mấy bài thơ vừa sáng tác thì bà vợ nấu nước pha trà. Hai người ngồi ở phòng khách, vợ tựa đầu trên vai chồng, lắng nghe chồng ngâm thơ. Và dù là những câu thơ bí hiểm cách mấy, bà vợ cũng suýt soa khen hay. Chuyện ngắn là chuyện dài "cô đọng", bài thơ là chuyên ngắn "cô đọng" Bà ta không cần biết điều đó. Bà chỉ cảm nhận được chồng mình có gì đó cao quí hơn người khác. Chồng bà là "nhà thơ". Bà yêu chồng, yêu hồn thơ của chồng. Sau khi cùng chồng uống chén trà thơm, bà ta hôn chồng lần nữa rồi mới đứng lên lo chuyện cơm nước. Bà ta nấu vài món thôi, nhưng nấu nhiều. Lũ con, nhà gần đấy, đã nên vợ nên chồng, nhưng vẫn giữ thói ăn bám mẹ. Buổi chiều chúng chỉ chờ mẹ gọi là cả gia đình kéo đến ăn, đã khỏi nấu nướng mà được mẹ cho ăn ngon còn bới đem về để sáng mai đem đi làm.
Chuyện hai ông bà yêu thơ hơi quá đáng, có thể làm bạn nghi ngờ tôi "sáng tác". Làm gì có bà vợ yêu chồng kiểu đóng kịch như vậy? Xin bạn kiên nhẫn đọc những chuyện vô lý tiếp theo. Vợ chồng tôi có quen với vợ chồng nhà thơ nên mới biết mà kể cho bạn nghe.
Ông nhà thơ nầy là một ông cù lần. Suốt ngày ở trong nhà, cứ lừ nhừ, khật khừ như con gà rù, chẳng bạn bè, chẳng hội đoàn, ngay cả hội "Thơ Tài Tử" ông ta cũng không tham gia. Một lần gặp vợ tôi, bà chủ tiệm nail khoe thơ chồng mình hay lắm, tôi hỏi sao không gửi đăng báo để thiên hạ cùng thưởng thức? Bà ta nói rằng, có gửi nhưng không thấy báo nào đăng! Tôi mới tiết lộ cho bà ta cái "mánh" giống như của tôi (mỗi khi gửi truyện đến các báo) "Chị gửi khoảng chục bài thơ của ông xã chị, kèm theo một chi phiếu mua một năm báo, họ sẽ coi như "bài cậy đăng". Nhất định thơ của ông xã chị sẽ xuất hiện trên báo đó". Bà ta bảo rằng không biết làm cách nào? Tôi bảo cứ ký cho tôi năm ba cái chi phiếu, tôi sẽ lo giùm cho.
Vậy là cả năm tờ báo, thuộc loại "văn học nghệ thuật" ở Cali., Texas đều đăng thơ của ông chồng bà chủ tiệm nail. Bà ta đem mấy tờ báo ra tiệm khoe với khách hàng người Việt rồi cám ơn tôi rối rít "Ông xã em vui lắm. Không ngờ thơ mình được các báo giá trị đăng. Cám ơn anh nhiều lắm" Như vậy là bà ta không cho chồng biết đó là "những bài thơ cậy đăng". Tôi bảo "Có một cách làm cho ông xã chị khoái hơn nữa là ra mắt thơ" Chuyện móng tay, móng chân thì bà ra rành, nhưng về văn học nghệ thuật thì bà ta lại phải nhờ tôi "Em có nghe chuyện ra mắt thơ, nhưng không biết làm cách nào? Anh có thể giúp em được không? Miễn ông xã em vui thì tốn kém bao nhiêu em cũng không ngại" "Ra mắt thơ nhiêu khê hơn đăng thơ trên báo, nhất là ông xã chị không quen biết nhiều với báo chí, ít giao thiệp với đồng hương địa phương ở đây. Tôi lên chương trình như thế nầy để chị về bàn với ông xã chị trước khi quyết định vì tốn tiền lắm. Trước hết là in những bài thơ của ông xã chị thành tập, gọi là "thi phẩm". Muốn chơi sang thì nhờ một ông nhạc sĩ phổ nhạc khoảng mươi bài thơ, thuê ca sĩ hát và thu vào CD, sau đó tổ chức một buổi ra mắt thơ, có ca sĩ hát "thơ phổ nhạc". Hôm ra mắt thơ, ông xã chị ngồi sẵn chỗ ra vào, ký tặng thơ và CD. Nhớ đừng ép mua, kiểu bắt chẹt đó khiến người ta bực mình. Người ta đến là may lắm rồi. Muốn buổi ra mắt thơ được đông vui, chị phải quảng cáo trên đài phát thanh, trên TV, trên báo chí thật rầm rộ. Nhưng tôi báo trước là chục nghìn không đủ đâu" Bà ta sáng mắt lên "Bao nhiêu cũng được miễn sao chồng em được mọi người biết tên, báo chí, truyền hình, phát thanh đưa tin, gọi chồng em là "thi sĩ" là chồng em vui rồi. Anh cố giúp giùm em. Anh đừng ngại chuyện tiền bạc" "Tôi chỉ giới thiệu những người lo chuyện ra mắt thơ với chị, họ sẽ sắp xếp mọi việc. Chị yên tâm".
Vài tháng sau, việc in ấn, phổ nhạc, thu CD đã xong, tôi gọi cho một ông trưởng ban nhạc kiêm MC (người điều khiển chương trình), chuyên phục vụ đám ma, đám cưới, hội xuân, ra mắt sách... nhờ ông ta lo giùm, rồi gọi một ông bạn, nhà "phê bình văn học nghệ thuật" ở Cali. nhờ giới thiệu tập thơ. Ông ta bảo, đây là dịp qua Virginia thăm bạn bè mà không tốn tiền nhưng phải gửi cho ông ta tập thơ rồi lo cho ông ta vé máy bay, khách sạn và vài chai rượu là đủ, và muốn ông ta nói trong bao lâu (nửa giờ, một giờ?), ông ta cam đoan sẽ làm phổng mũi tác giả và khán giả sẽ vỗ tay liên tục. Ông bạn "nhà phê bình" nầy tính hơi khùng khùng, nhưng cũng rất khôn. Ông ta góp nhặt những đoạn văn từ những bài phê bình, nhận định văn học trên các báo, xào nấu lại thành những bài thuyết trình hoa mỹ, thánh thót của riêng mình. Ông ta có khoảng năm, bảy bài thuyết trình tiền chế như thế, thủ sẵn, khi có người nhờ, giới thiệu một tác phẩm, thì chỉ việc lựa bài nào thích hợp với tác phẩm, nhét vào đó tên tác giả là thành một bài giới thiệu nghe rất mê ly. Một tập thơ, tập truyện, dở cách mấy mà qua tay ông ta với bài thuyết trình cũng trở thành "kiệt tác". Đương nhiên, tác giả sướng mê, khán giả cũng khoái lỗ tai.
Thật ra, tôi vốn tính lười. Vợ sai còn không chịu làm, hơi sức đâu làm chuyện tào lao! Nhưng vì tôi không ưa ông nhà thơ nầy nên muốn phá chơi, vì trước đây vài năm, ông ta gặp ai cũng chào hỏi vui vẻ, còn rủ đi uống cà phê để tán phét, về sau, bỗng nhiên, ông ta rút vô nhà, gặp bạn bè, chào hỏi, ông ta chỉ gật đầu mà không thèm mở miệng, có lẽ ông ta thành nhà thơ, thuộc "cõi trên", không thèm giao tiếp với bọn tầm thường. Bây giờ, tôi xúi ra mắt thơ mà không ai đến để ông ta "quê", cho bỏ ghét. Hơn nữa, tôi tò mò muốn biết về bà chủ tiệm nail nầy. Yêu thương chồng, chiều chồng theo kiểu kỳ quái đó thì xưa nay hiếm thấy. Bà nào nghe chồng in thơ, ra mắt thơ là nhăn mặt rồi. Đã tốn kém còn phải mang về cả nghìn tập thơ, để chật nhà. Muốn gửi tặng bạn bè, phải moi óc, có được vài chục địa chỉ là quá nhiều, lại phải ký tên, ra bưu điện gửi, tốn kém, phiền phức vô cùng! Nhiều ông còn đi các tiểu bang khác, ra mắt thơ, các bà vợ rầu lắm mà không dám nói. Riêng bà vợ ông nhà thơ nầy thì lại hối hả, chạy ngược, chạy xuôi, gọi người nầy, người kia nhờ vả, năn nỉ, đốc thúc... Tôi được bà ta coi như quân sư, gì cũng hỏi ý kiến, tôi thấy tội nghiệp nên cố giúp. Vì biết kết quả sẽ không ra gì nên tôi giao hẹn trước "Tôi giúp ông bà hết mình rồi nhưng người ta có đến hay không, tôi không chịu trách nhiệm".
Hôm ra mắt thơ, vợ chồng tôi có đến phụ giúp việc chào đón quan khách, sắp xếp chỗ ngồi. Thật không ngờ, khách đến chật nhà hàng! Không biết ai xúi mà bà ta mời một cô ca sĩ nổi tiếng từ Cali. qua. Thế là cứ nghe báo chí, đài phát thanh quảng cáo có cô ca sĩ Ngọc Hạ hát là người ta ùn ùn kéo đến. Hơn nữa đã nghe hát "chùa" (miễn phí) lại được tác giả tặng không tập thơ với CD ca nhạc, lại có nước ngọt, bánh kẹo để nhâm nhi, được gặp bạn bè trò chuyện rôm rả (chả cần biết diễn giả đang nói gì!) Vợ chồng nhà thơ mặt mũi sáng rỡ, nhất là ông chồng, không còn là con gà rù nữa, lúc nào cũng tươi cười, ký tên tặng thơ không ngơi tay. Có điều lạ là, không biết từ đâu kéo đến một lô người đẹp. Tôi thật sự kinh ngạc, không ngờ thơ ông ta làm rung động quả tim của những cô trẻ đẹp đến như vậy! Các cô rất hấp dẫn, thơm tho, ngon lành. "Nói chung" là cô nào cũng nõn nà. Cô có cánh tay trắng nuốt thì mặc áo hở cả nách, cô có đùi thon dài thì mặc quần trên đầu gối hai gang tay, cô có ngực tròn, trắng, mịn như trứng gà bóc thì chỉ che ngực một phần tư thôi. Có cô, diện giống như nữ tài tử xi nê đến dự đại hội điện ảnh Oscar, phía sau, từ cổ đến dưới eo (lưng) để trống trải, thoáng mát, nên cô đi đâu thì đầu các ông quẹo theo hướng đó. Đã vậy các cô lại đi lung tung, gặp ông nào cũng chào, chào theo kiểu Nhật, nghĩa là cúi gập người xuống. Các ông thấy hết, mặt thộn ra, như bị bắt mất vía. Có lẽ xong buổi ra mắt thơ mà các cô chưa về, các ông cũng không chịu về. Tôi đâm ra ước được như ông nhà thơ, để trong mấy chục cô "hâm mộ thơ" đó làm gì cũng có vài cô sa vào vòng tay của tôi. Có điều lạ là bà vợ ông ta không tỏ ý khó chịu trước những lời ca tụng, tán tỉnh gần như tỏ tình của các cô (nõn nà) nầy với ông chồng (nhà thơ), mà còn về hùa theo rồi cười đùa vui vẻ nữa. Vì sao bà ta lại quá tử tế với chồng đến như vậy?
Buổi ra mắt thơ thành công ngoài mơ ước. Người điều khiển chương trình quả là chuyên nghiệp. Anh ta mở miệng là khán giả cười vui như xem hài kịch. Nhà phê bình văn học nghệ thuật thì đúng là danh bất hư truyền. Vì tôi mãi chiêm ngưỡng vẻ đẹp giai nhân nên đôi mắt và hồn vía tôi cứ bám sát theo các cô đang ỏng ẹo đi lòng vòng khắp nơi, nên không biết ông ta nói gì nhưng thỉnh thoảng nghe tiếng vỗ tay rào rào.
Sau hôm ra mắt thơ đó, tò mò, tôi đem thi phẩm "Thơ Xuân Tình" ra đọc. Không hiểu ông bà nào đánh máy, trình bày tập thơ cho ông ta, đã ghi một câu đáng kinh ngạc, ngay bìa trước tập thơ, dưới tấm hình tác giả rằng "Thi sĩ lãng mạn được mến mộ nhất hiện nay tại hải ngoại, người đã hi sinh cả đời mình để viết nên những trang sử thi đau thương…"
Tôi cũng mượn bài diễn văn của nhà phê bình văn học để nghiên cứu, hi vọng sẽ biết được giá trị của thi phẩm. Đọc suốt tập thơ và bài "phê bình văn học" tôi chỉ rút ra được một kết luận là nhà phê bình quả là đại tài. Tôi xin trích vài đoạn văn tiêu biểu sau đây: "Lãng mạn và đầy cá tính là yếu tố hấp dẫn trong thơ Xuân Tình. Đó là một thông điệp, chuyên chở bằng chữ nghĩa, gần như lạnh lùng, không cảm xúc về những vấn nạn của hiện thực đầy cảm tính, nhưng lóng lánh trong đó là những mảnh suy tưởng sắc sảo, những rung động ẩn mật của tình yêu. Tuyệt vời hơn nữa là với sự thông minh, dí dỏm, nhà thơ Xuân Tình đã lôi cuốn người thưởng ngoạn vào những tình huống bất ngờ, đầy hình ảnh và âm thanh của đam mê, buông thả và cộng hưởng" (?!). Trong một đoạn khác, ông ta viết "Từ vị trí một người thưởng ngoạn bình thường, tôi nghĩ, nhà thơ Xuân Tình có trong tay một cách thế thi ca để thể hiện sự hiện hữu của mình. Một nhà thơ phá cách, nhiều tìm tòi thử nghiệm, cách tân ở kỹ thuật, đậm tính thời cuộc ở nội dung. Thơ ông được giải thoát, được tự do, vượt trên mọi câu thúc xã hội, vượt qua cả hàng rào tín ngưỡng, đạo lý, vượt khỏi tâm lý rụt rè, khép kín để bay bổng về một thế giới mới, một linh hồn mới, một hơi thở mới. Từ đó, người ta thấy được cái phong phú của cuộc sống, cái sâu thẵm của tâm hồn và cái trớ trêu của định mệnh"
Tôi chịu thua, không hiểu gì về bài nhận định thơ theo lối tiền chế đó! Chỉ duy nhất một câu (không biết ông ta thuổng của ai) lộ rõ ý mỉa mai mà ít người để ý "Thơ rất lạ, một ưu điểm nhưng cũng là nhược điểm vì sẽ kén người thưởng thức" Tôi hỏi "nhà phê bình văn học" nghĩ thế nào mà viết toàn những câu ca tụng nghe rổn rảng như chuông mà chẳng thực tế, rõ ràng gì cả? Ông ta hỏi tôi "Ông có đi dự đám ma lần nào chưa? Có nghe người ta đọc điếu văn chưa? Tôi nhận định văn học trong những buổi ra mắt sách, ra mắt thơ cũng giống như người ta đọc điếu văn trong các đám ma vậy thôi. Chỉ ca tụng, suy tôn tác giả, tác phẩm chứ không phê bình, góp ý. Tác giả khoái chí, người nghe vui tai. Có hại cho ai đâu? Anh chê văn, thơ người ta vì văn, thơ của anh dở hơn của người ta. Nhà văn, nhà thơ thất bại thành nhà phê bình là vậy"
Còn về thi sĩ Xuân Tình, cá nhân tôi nhận xét thì, quả thực ông nhà thơ của chúng ta đã "bước lùi về quá khứ một bước và tiến tới hậu hiện đại ba bước". Nhiều bài thơ, tôi đoán, ông ta nhắm mắt viết bừa những câu bí hiểm điên khùng rồi ngắt ra từng đoạn, xuống giòng, thế là thành một bài thơ tự do, trừu tượng, siêu hình gì đó? Có những câu rất công thức như "Từ em về với người ta. Anh rời phố thị khóc tà huy xưa..." hoặc rất khó hiểu như "Em cổ tích ta vong thân mục tử, ôm mặt trời độc tấu khúc cuồng phong"...
Tôi biết, bạn nghĩ rằng tôi (nhà văn thất bại thành nhà phê bình) đang phịa ra một chuyện vừa dở vừa vô lý. Tôi còn điên đầu hơn nữa. Thế nên, nhân một hôm bà ta đến nhà để cám ơn sự giúp đỡ của vợ chồng tôi về buổi ra mắt thơ, tôi hỏi bà ta "Tôi có vài thắc mắc, nếu không tiện thì chị đừng trả lời. Như thế nầy. Tôi chưa thấy bà vợ nào hăng hái ủng hộ chồng in thơ, ra mắt thơ một cách tốn kém như chị. Ông xã chị ham vui thì chấp nhận được, nhưng chị lại sốt sắng hơn chồng nữa. Vậy là sao?" Bà ta ngồi yên một lúc rồi bỗng khóc òa. Vợ tôi hoảng kinh, ôm lấy bà ta, vỗ về "Có chuyện gì vậy? Chị không muốn nói thì thôi, đừng kể ra đây" Rồi làm bộ trách tôi "Anh sao tò mò chuyện người ta? Xin lỗi chị. Ông xã em vô ý quá!". Bà ta vừa khóc vừa lắc đầu, một lúc sau mới mếu máo nói "Chồng em bị ung thư sắp chết. Mổ rồi, chữa đủ cách rồi, nhưng bác sĩ bảo riêng với em là ảnh chịu đựng giỏi lắm là hai năm. Bởi vậy em phải làm sao cho ảnh vui trong những ngày cuối cùng khi vợ chồng còn bên nhau. Bán nhà em cũng làm. Cứ nghĩ đến mỗi ngày vợ chồng mỗi cách biệt, đêm nào em cũng khóc" Vợ chồng tôi vội xin lỗi "Ảnh bị bịnh mà tụi tôi không hề biết. Thật có lỗi quá!" Bà ta lại lắc đầu "Chồng em dặn trong nhà là không được nói cho người ngoài biết chuyện bịnh hoạn của ảnh. Ảnh không muốn ai hỏi han, thăm viếng, an ủi, thương hại" Trước đó, tôi nghĩ rằng bà ta là người điên, giờ đây, tôi lại thấy thật đáng kính phục, thương chồng quá sức! Bà ta nói tiếp "Em phải làm gấp, trước ngày đưa chồng em tái khám, vì sợ, bác sĩ mà tìm thấy di căn thì chẳng khác gì bị kêu án tử hình. Lúc đó vui thú gì mà ra mắt, ra mũi. Em sợ mất ăn mất ngủ mà ảnh thì vẫn bình thản làm thơ còn đồng ý cho em tổ chức ra mắt thơ nữa" Vừa thán phục bà vợ, bây giờ tôi lại kính nể ông chồng. Hiếm người thấy thần chết vác lưỡi hái đứng trước cửa mà vẫn làm thơ tỉnh bơ.
Sau ngày ông thi sĩ Xuân Tình tái khám, vợ chồng tôi không dám hỏi thăm sợ ông chồng giận vợ, đã dặn là không cho ai biết, sao có người gọi hỏi? Vậy mà một hôm, bà vợ điện thoại, mời chúng tôi đi nhà hàng, ăn mừng buổi ra mắt thơ thành công mỹ mãn.
Chiều thứ bảy, những người đã góp công, phụ giúp trong buổi ra mắt thơ, có cả mấy cô hấp dẫn đi nhởn nhơ bữa trước nữa, tổng cộng trên vài chục người, đến nhà hàng đông đủ. Bà vợ ông nhà thơ đứng lên nói mấy lời cám ơn, chờ mọi người vỗ tay xong, bà ta mới long trọng báo một tin vui "Hôm thứ hai, ông xã tôi đi tái khám, mấy ngày sau có kết quả từ bịnh viện cho biết, tình trạng rất khả quan, nghĩa là không thấy di căn hay bịnh lan qua các bộ phận khác" Mọi người nâng ly chúc mừng nhà thơ khỏi bịnh. Ông ta đứng lên tươi cười nói "Tôi bị ung thư bao tử đã lâu nhưng không cho ai biết. Bữa nay thì coi như khá hơn trước. Bác sĩ nói vậy thì biết vậy, dù sao đi nữa, tôi vui sống được đến ngày nay là nhờ vợ tôi". Đang ăn uống chuyện trò thì bà vợ ông nhà thơ có điện thoại. Bà ta nói lớn như muốn mọi người chú ý "Alô! Dạ đúng rồi ạ! Dạ, em có biết nhà sách Văn Chương của anh. Anh cần mang đến ngay hai mươi tập Thơ Xuân Tình? Thế hả? Một bà bên Pháp qua Mỹ thăm bà con, người ta nhờ mua đem về Pháp? Ôi. Thật hân hạnh cho vợ chồng em quá! Cám ơn anh nhiều lắm. Dạ, chủ nhật nầy em đem thơ đến, được không ạ? Dạ, cám ơn anh" Bà ta bỏ điện thoại vào xách tay, giọng bình thản "Sáng hôm qua, nhà sách Bình Minh cũng gọi bảo đem đến hai chục tập Thơ Xuân Tình. Một bà từ bên Úc qua Mỹ chơi mua một mớ. Thằng con chúng tôi đưa tập Thơ Xuân Tình của ba nó lên "nét" (internet), báo chí đem xuống in ra nên người ta biết và hỏi mua" Mọi người ngớ ra rồi lại vỗ tay chúc mừng. Ông chồng ngồi cười cười, nói mấy lời khiêm tốn, nhưng mặt cứ vếch lên trời, coi bộ thú vị lắm. Thật đáng kinh ngạc. Một nhà thơ vô danh, chỉ sau mấy bài thơ đưa lên "net", đăng báo và một buổi ra mắt thơ bỗng trở thành nhà thơ "kiệt xuất"! Hay là bà ta làm bộ như có người mua thơ để chúng tôi lác mắt chơi, và cũng để cho chồng vui chứ chẳng ai khùng điên đi mua loại thơ đó về Úc, về Pháp tặng bạn bè!
Mấy hôm sau, tôi đến nhà sách Văn Chương. Ông bà chủ nhà sách là chỗ quen biết. Tôi mua vài cuốn sách rồi làm như vô tình, hỏi chuyện về thơ, về phát hành, mua bán thơ. Ông chủ nhà sách dẫn tôi đến một góc kẹt, chỉ một dãy các tập thơ "Những nhà thơ nổi tiếng thì bán chạy lắm, còn những người khác gửi bán, tôi nể tình nhận, nhưng chẳng bao giờ bán được thơ. Thế nên, tôi dồn hết những "thi phẩm" của họ vào góc đó, gọi là Nghĩa Địa Thơ". Rồi ông ta tiếp "Có một chuyện lạ. Anh có biết nhà thơ Xuân Tình là ai không?" Tôi lắc đầu, vờ không biết "Tôi chỉ đọc báo và biết ông ta vừa ra mắt thơ tuần trước ở thành phố mình" "Tôi có đọc thử, thơ ông ta cũng nhì nhằng, tàm tạm, vậy mà có người mua cả chục tập, đem về Pháp, Úc tặng bạn bè. Sáng nay tôi vừa giao hai chục tập thơ cho một bà, bà ta còn đòi mua thêm mấy chục tập nữa" "Có thể mình không đủ trình độ thưởng thức thơ ông ta. Kiểu nầy ông ta dám lãnh một giải thưởng thơ quốc tế nào đó thì cũng không nên ngạc nhiên" "Đúng vậy. Ở đời có những bất ngờ mà chẳng ai lường trước được!"
Đọc đến đây, quí vị sẽ nghĩ "Đúng là một chuyện phịa có hậu nhưng vụng về và vô lý. Nhà thơ ra mắt thơ thành công, bịnh ung thư lành hẳn, vợ chồng hạnh phúc!"
Nhưng xin thưa quí vị, chuyện đời đâu có đơn giản quá như vậy? Phần sau đây mới làm người đọc bàng hoàng.
Nguyên nhân thế nầy. Bà vợ ông nhà thơ đang khỏe mạnh bỗng thấy đau đầu khủng khiếp. Đi bác sĩ rồi khẩn cấp đưa vô bịnh viện mổ ngay. Bà ta có khối u trong đầu. Bịnh viện thử máu, chụp hình rồi chụp thuốc mê để mổ. Mổ xong, bà ta đi luôn, không tỉnh dậy nữa. Mới tuần trước còn thấy bà ta chào hỏi, cười nói với mọi người, tuần sau, bà ta biến mất trên thế gian!
Sau khi chôn cất vợ, ông nhà thơ đem những tấm hình vợ rọi lớn lên, treo kín các vách tường trong nhà. Trong phòng ngủ thì một bức chân dung vợ lớn hơn nữa, che lấp cái màn hình TV, để khi vào giường, thay vì xem TV, ông ta nằm ngắm vợ. Suốt ngày ông nhà thơ chỉ quanh quẩn giữa bốn bức tường, để nhìn đâu cũng thấy vợ. Có thể nói ông ta điên vì thương nhớ vợ chứ không phải thất tình.
Một năm sau, nhân giỗ đầu của bà chủ tiệm nails, chúng tôi được mời đến dự. Ông chồng có vẻ tỉnh táo, bớt nhớ vợ. Khi về, tôi nói với vợ tôi những thắc mắc về buổi ra mắt thơ, về những tập thơ bán qua Châu Âu, châu Úc. Vợ tôi giải thích "Chị ấy bắt mấy cô thợ nail (thợ móng tay) trong tiệm diện vô, sao cho sexy, đi nhởn nhơ cho mấy ông vui, để khỏi chán, bỏ về sớm" Tôi kinh ngạc "Không ngờ bà ta khôn lanh quá cỡ. Bả làm cách nào mà bên Pháp, Úc cũng nghe danh ông ta mà tìm mua thơ?" Vợ tôi lại cười, chấp hai tay vái vái vào khoảng không như vái vong linh bà vợ ông nhà thơ rồi thì thầm, như sợ bà ta nghe được "Chị ấy dặn tụi em phải giữ thật bí mật. Chỉ nhờ tụi em, giả bộ như người từ Pháp, Úc, qua Mỹ tìm mua Thơ Xuân Tình. Cứ hỏi mua tối đa, mấy chục tập cũng được, chỉ trả lại tiền"
Bạn thấy, chuyện tôi kể chẳng hay ho gì, phải không? Không hay nhưng rất đẹp. Đó là tình yêu thương chồng của bà chủ tiệm Nails. Hiếm ông nào có được người vợ như thế.
Phạm Thành Châu
Tác phẩm đã phát hành:
- Bức Họa Khỏa Thân (248 trang)
- Nhớ Huế (248 trang)
- Lý lẽ của trái tim (275 trang)
Ba tập truyện ngắn của Phạm Thành Châu có thể coi là món quà Xuân, quà sinh nhật thanh cao gửi đến bạn bè. Giá mỗi tập 12 USD. (trong nước Mỹ). Mua ba (3) tập trở lên, giá mỗi tập 10 USD kể cả cước phí. Gửi sách trước, trả tiền sau.
L/L: Phạm Thành Châu 7004 Beverly Lane Springfield VA 22150
Phone (703) 569-0124 (571) 480 - 3276) (c)
(xin để lại lời nhắn)