***Dành riêng cho chính CHS.TQC.HA biên khảo. Không nhận những bài truy cập từ những phương tiện khác.(sẽ có trang cho mục đích này). Cám ơn.
1. Một cách nhìn về lịch sử xung đột Việt-Hoa
Phạm Dzũng (Hiệu chỉnh tháng 4-2013) Tháng Tư 29, 2013 · 12:14 AM I- Hiện tượng Di dân và đồng hóa trong lịch sử hình thành một quốc gia Nhìn tổng thể về lịch sử loài người kể từ khi còn là những bộ lạc, người ta ghi nhận sự hình thành, phát triển hoặc tiêu vong của các cộng đồng dân cư (sắc tộc, bộ lạc, xã hội thành thị…), của nhiều định chế chính trị và quyền lực quân sự, như là các quốc gia, các đế quốc, và ngay cả của nhiều nền văn minh. Tất cả những diễn trình lịch sử đó đều tuân theo quy luật biến dịch, mà trong đó có quy luật thiên nhiên khắc nghiệt: “Đấu tranh sinh tồn”, thể hiện qua hiện tượng di dân và đồng hóa (kể cả bị đồng hóa). Hiện tượng này đã liên miên xảy ra từ hàng vạn năm trước và sẽ còn xẩy ra bây giờ và sau này. Vậy nếu áp dụng cách nhìn hiện tượng học “Lịch sử xã hội loài người là lịch sử di dân và đồng hóa (và bị đồng hóa)”, thì có thể thấy rõ động lực của nhiều chu kỳ biến động lịch sử trên thế giới từ xưa đến nay. Cũng từ cách nhìn này, có thể tiên liệu được động thái của nước lớn đối với các nước lân bang nhỏ hơn,và nếu ứng dựng vào lịch sử xung đột Việt Hoa sẽ nhìn thấy được bản chất đảng cầm quyền Cộng Sản VN cùng các sách lược của nó về nội trị và ngoại giao, dựa vào điều kiện và lịch sử hình thành và phát triển của nó, qua đó đánh giá được các chính sách, chiến lược nó đã và đang thực hiện (kể từ 1929), cũng như tiên liệu được kế sách của đảng cầm quyền khi đối phó với thời thế, cùng những hệ lụy của nó đối với tương lai của đất nước VN và nhất là đối với sự tồn tại của dân tộc Việt. |
Cũng nên ghi nhận rằng, về bản chất (định nghĩa), thì:
-“Quốc Gia (hay Nước, Nhà nước, Đất Nước)” chỉ là một Định chế chính trị (political institution) của một vùng lãnh thổ có dân cư; Định chế thì có tính ngắn hạn và dễ thay đổi, thí dụ: Nước Chiêm Thành đã tiêu tan, Quốc-gia Việt Nam Cộng Hòa nay đã không còn nữa (thay thế bằng Nước CHXHVN Việt Nam), Nước Mỹ (Hợp chủng Quốc Mỹ Châu) thì mới có mặt từ khoảng 400 năm nay.
-“Tổ Quốc” là một khái niệm tình cảm cộng đồng đối với khu vực địa lý mà một cộng đồng dân cư đã sinh sống qua nhiều thế hệ, thí dụ: người Việt ở Mỹ chỉ vài ba thế hệ nữa là đa số dù muốn hay không cũng sẽ không còn thiết tha đến đất nước Việt, mà sẽ chỉ còn biết Tổ Quốc mình, Đất nước mình là Mỹ Quốc.
-“Dân tộc” là một tập hợp sinh học thuần nhất của những cư dân sinh sống trong một vùng địa lý.
Như vậy, “Dân tộc” là một thực thể, do đó tồn tại lâu dài hơn là những định chế và tình cảm cộng đồng, và cũng là yếu tố căn bản cho Quốc Gia hoặc một cộng đồng dân cư.
Tuy nhiên, sự hình thành một Quốc Gia ổn định lâu dài là điều kiện cần để hình thành và phát triển nền văn hóa và văn minh đặc trưng của một dân tộc hoặc cộng đồng dân cư, cho nên nếu mất nước là sẽ mất tất cả. Một dân tộc khi đã bị nô lệ hóa thì bao nhiêu thành tựu về văn hóa rực rỡ trong cả nghìn năm lịch sử cũng sẽ chỉ còn lại một số di chỉ khảo cổ nằm im trong lòng đất hoặc trong Viện Bảo Tàng.
Về lãnh vực Chủng tộc học, luật thiên nhiên chung cuộc vẫn là cạnh tranh và sinh tồn. Chủng tộc nào đoàn kết, mạnh mẽ, khôn ngoan, sanh đẻ nhiều, chấp nhận mạo hiểm, chấp nhận di dân và lai giống thì sẽ ưu thế hơn các chủng người khác. Ưu thế này chỉ là ưu thế sinh học, là sự tồn tại và phát tán di thể (gene) trong quần thể loài người trên thế giới hoặc trong dân số 1 quốc gia. Mông cổ, Mãn Thanh về quân sự mạnh hơn Hán, nhưng cũng bị Hán hóa vì dân số Hán đông hơn và văn hóa cao hơn, hơn nữa, còn tự nguyện bị đồng hóa, vì dân Mông, Mãn vẫn thán phục, ưa chuộng văn hóa Hán tộc; Tiến trình xâm lăng và di dân đồng hóa với địa phương của dân du mục Bắc Á (Mông, Mãn … ) đã xảy ra từ cả vạn năm nay, cho nên nếu xét về gene (= chủng, giống, di thể), thì nhiều dân tộc đã có lai di thể Mông Cổ mà không biết: Hoa,Việt (Mường), Hàn, Thái, Nhật, Mexico và một số vùng bên Ấn, Hồi, Nga, Mỹ châu .. v.v…
Xem ra, diễn trình di dân và lai giống đối với loài người là không thể đảo ngược. Thời Hoa Kỳ lập quốc, những di dân từ Âu Châu qua đã xóa sổ hàng triệu người bản xứ Mỹ Châu (vốn thuộc các chủng Mongoloid Á châu). Nhưng ngày nay, sự hình thành và phát triển nước Mỹ hợp chủng trên cơ sở các định chế dân chủ sẽ là mô hình thích hợp nhất cho diễn trình này một cách nhân bản (không tàn sát dân hoặc diệt chủng văn hóa, bóc lột tài nguyên và nô lệ hóa), khác hẳn với sự hình thành các đế quốc kiểu phong kiến, thực dân, phát xít và cộng sản.
II- Cuộc đấu tranh sinh tồn của Việt tộc chống sự xâm lược của Hán tộc.
A-Bắc xâm và Nam tiến
Lịch sử và khảo cổ học đã chứng minh nhiều dân tộc (sắc tộc, bộ lạc, quốc gia…) ở vùng Hoa Nam, lưu vực sông Dương Tử đã bị xâm lược và đồng hóa bởi những sắc dân Hoa Bắc (Hán tộc). Những sắc tộc nào di dân được xuống Đông Nam Á thì tồn tại được đến ngày nay mà không (hoặc ít) bị đồng hóa, là nhờ địa thế hiểm trở, khí hậu nhiệt đới, và sức sống (dân khí) (*1) của dân tộc đó.
Khuynh hướng nam tiến là bắt buộc đối với người phương bắc (Bắc Á: Mông, Mãn, Hán …), vì không thể bắc tiến và tây tiến được, và hiện nay cũng vì cần hướng phát triển ra biển và khai thác tài nguyên biển.
Người Việt cũng vậy, trước sức ép do luồng nam tiến của Hán tộc, sau nhiều đợt di dân, Việt tộc quần cư ở đồng bằng sông Hồng, sông Mã, tạm yên được với Bắc phương vài ngàn năm nhờ vào địa hình biên giới hiểm trở. Trong khoảng thời gian này người Việt cũng phải mở nước bằng cách nam tiến, thôn tính và đồng hóa Chiêm Thành, Chân Lạp (nửa nước Miên) (*2), chuẩn bị tây tiến và bắc tiến bằng con đường từ phía Đông Nam (nếu thôn tính xong Miên) để thôn tính Lào. Mộng gồm thâu Đông Dương (hoặc thành lập Liên bang Đông Dương) của người Việt vẫn được ôm ấp kể từ thời các vua chúa nhà Nguyễn, vì địa lý nước Việt rất bất lợi cho sự thống nhất và an ninh lãnh thổ và phát triển kinh tế, văn hóa: rặng Trường Sơn phía Tây làm cho miền Trung quá hẹp, rất dễ bị đứt khúc ở khoảng vĩ tuyến 17-18 như lịch sử đã từng chứng minh (Trịnh Nguyễn phân tranh từ thế kỷ 16 đến tk 18, Hiệp Định Geneve tk. 19). Địa lý các nước Miên, Lào cũng bất lợi không kém. Chỉ khi hình thành được “Liên bang Đông Dương”, mở rộng địa lý đất đai và dân số thì mới hy vọng chận đứng chiến tranh xâm lược của nước lớn phía Bắc.
Khi Thực dân Pháp lập được ách đô hộ trên toàn cõi Việt Nam (Hòa ước Giáp Tuất 15/3/1874), thì lục tỉnh miền tây nam bộ mới được sát nhập vào VN được khoảng năm mươi năm. Trước đó một chút, nếu VN canh tân kịp đồng thời với Nhật, thì nhiều phần chắc là cho tới ngày nay VN đã kiểm soát được cả Thái Lan, Miến Điện, và trở thành mối đe dọa lớn đối với Tàu, vì biết chừng đâu sẽ có đủ thế lực để đòi lại đất cũ là Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam (Nước Nam Việt thời Triệu Đà), thực hiện được hoài bão của vua Quang Trung. Nhưng cũng chưa biết chừng, khi gồm thâu được đất cũ, người Việt lại bị Hán hóa giống như dân Mông, Mãn, vì dân số Việt ít hơn, văn hóa đặc trưng cũng không cao hơn.
Xuyên suốt lịch sử, người Tàu từ Hoa Nam di dân liên tục vào VN và các nước Đông Nam Á từ rất lâu, trước cả thời phong kiến bắc thuộc, hoặc vì tha phương cầu thực hoặc tìm không gian sinh tồn hoặc qua chiến tranh xâm lược hoặc là hệ lụy các biến động chính trị cận đại, td. Thiên Địa Hội phản Thanh phục Minh, biến cố chiến tranh (*3). Khi họ vào ít, và không kèm tổ chức chính trị bang hội thì họ bị Việt đồng hóa, td: người Tiều (Triều Châu: Minh Hương) ở miền Trung, lục tỉnh miền Tây và Rạch Giá …, nhưng nếu họ vào nhiều và có tổ chức bang hội, thì họ thành lập khu vực riêng có tiềm năng trở thành khu tự trị (td: Chợ Lớn), nếu họ tổ chức được chính quyền thì họ tách ra làm quốc gia riêng: Singapore, Đài Loan …, không chịu tùng phục chánh quốc nữa, giống như thời xa xưa An Dương Vương Thục Phán xâm lăng đánh thắng Vua Hùng, và rồi Triệu Đà (207-137BC) sau khi thắng An Dương Vương vậy (*4).
Người Tàu cũng như người Việt, có đầu óc phong kiến, có mộng làm vua một cõi, đồng thời cũng có thói thần phục kẻ mạnh, là kẻ có tài gồm thâu thiên hạ. Thời xưa (trên 3000 năm trước) vốn không có nước Tàu (Trung Hoa), vùng đất đai rộng lớn đó là nơi sinh sống của rất nhiều sắc dân của hàng trăm nước lớn nhỏ, kể cả rất nhiều bộ lạc vùng rừng núi xa xôi, họ luôn luôn đánh nhau để thôn tính thêm đât đai và nô lệ (thời Xuân Thu, Chiến Quôc), chỉ sau thời Đông Chu liệt quốc, Tần Thủy Hoàng thôn tính xong 6 nước cuối cùng, nước Tàu mới thống nhứt, gọi là Trung Hoa. Nên biết nước Tần của Tần Thủy Hoàng từ thời Đông Chu trở về trước vốn là một sắc dân ở tây bắc nước Tàu, là giống dân lai giữa Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ (Ulghur: Thổ Phồn, Hồi Hột), tạo nên người Hoa Bắc, vốn gốc du mục nên rất thiện chiến và hung bạo (*5). Địa lý hình thể và kinh tế của nước Tàu là một nguyên nhân hình thành chủ nghĩa bá quyền: những vùng phía nam và phía đông có nhiều đồng bằng đất đai phì nhiêu, nhiều sông lớn, khí hậu thuận lợi cho canh tác, do đó dân sống sung túc, trong khi những vùng rộng lớn phía tây và phía bắc có nhiều đồi núi và sa mạc chiếm 2/3 diện tích cả nước, khí hậu khắc nghiệt, nghèo tài nguyên, do đó luôn luôn tìm cách di dân hoặc xâm lược những vùng trù phú hơn. Như vậy nước Tàu hình thành do chiến tranh xâm lược. Lịch sử hình thành nước Tàu là lịch sử xâm lăng và đồng hóa bằng bạo lực chiến tranh. Khi Tàu mạnh cũng vậy, mà khi Tàu yếu, lại càng cần tìm thế chính thống hoặc đánh lạc hướng những bất mãn và khủng hoảng nội bộ bằng cách gây chiến với các lân bang.
-“Quốc Gia (hay Nước, Nhà nước, Đất Nước)” chỉ là một Định chế chính trị (political institution) của một vùng lãnh thổ có dân cư; Định chế thì có tính ngắn hạn và dễ thay đổi, thí dụ: Nước Chiêm Thành đã tiêu tan, Quốc-gia Việt Nam Cộng Hòa nay đã không còn nữa (thay thế bằng Nước CHXHVN Việt Nam), Nước Mỹ (Hợp chủng Quốc Mỹ Châu) thì mới có mặt từ khoảng 400 năm nay.
-“Tổ Quốc” là một khái niệm tình cảm cộng đồng đối với khu vực địa lý mà một cộng đồng dân cư đã sinh sống qua nhiều thế hệ, thí dụ: người Việt ở Mỹ chỉ vài ba thế hệ nữa là đa số dù muốn hay không cũng sẽ không còn thiết tha đến đất nước Việt, mà sẽ chỉ còn biết Tổ Quốc mình, Đất nước mình là Mỹ Quốc.
-“Dân tộc” là một tập hợp sinh học thuần nhất của những cư dân sinh sống trong một vùng địa lý.
Như vậy, “Dân tộc” là một thực thể, do đó tồn tại lâu dài hơn là những định chế và tình cảm cộng đồng, và cũng là yếu tố căn bản cho Quốc Gia hoặc một cộng đồng dân cư.
Tuy nhiên, sự hình thành một Quốc Gia ổn định lâu dài là điều kiện cần để hình thành và phát triển nền văn hóa và văn minh đặc trưng của một dân tộc hoặc cộng đồng dân cư, cho nên nếu mất nước là sẽ mất tất cả. Một dân tộc khi đã bị nô lệ hóa thì bao nhiêu thành tựu về văn hóa rực rỡ trong cả nghìn năm lịch sử cũng sẽ chỉ còn lại một số di chỉ khảo cổ nằm im trong lòng đất hoặc trong Viện Bảo Tàng.
Về lãnh vực Chủng tộc học, luật thiên nhiên chung cuộc vẫn là cạnh tranh và sinh tồn. Chủng tộc nào đoàn kết, mạnh mẽ, khôn ngoan, sanh đẻ nhiều, chấp nhận mạo hiểm, chấp nhận di dân và lai giống thì sẽ ưu thế hơn các chủng người khác. Ưu thế này chỉ là ưu thế sinh học, là sự tồn tại và phát tán di thể (gene) trong quần thể loài người trên thế giới hoặc trong dân số 1 quốc gia. Mông cổ, Mãn Thanh về quân sự mạnh hơn Hán, nhưng cũng bị Hán hóa vì dân số Hán đông hơn và văn hóa cao hơn, hơn nữa, còn tự nguyện bị đồng hóa, vì dân Mông, Mãn vẫn thán phục, ưa chuộng văn hóa Hán tộc; Tiến trình xâm lăng và di dân đồng hóa với địa phương của dân du mục Bắc Á (Mông, Mãn … ) đã xảy ra từ cả vạn năm nay, cho nên nếu xét về gene (= chủng, giống, di thể), thì nhiều dân tộc đã có lai di thể Mông Cổ mà không biết: Hoa,Việt (Mường), Hàn, Thái, Nhật, Mexico và một số vùng bên Ấn, Hồi, Nga, Mỹ châu .. v.v…
Xem ra, diễn trình di dân và lai giống đối với loài người là không thể đảo ngược. Thời Hoa Kỳ lập quốc, những di dân từ Âu Châu qua đã xóa sổ hàng triệu người bản xứ Mỹ Châu (vốn thuộc các chủng Mongoloid Á châu). Nhưng ngày nay, sự hình thành và phát triển nước Mỹ hợp chủng trên cơ sở các định chế dân chủ sẽ là mô hình thích hợp nhất cho diễn trình này một cách nhân bản (không tàn sát dân hoặc diệt chủng văn hóa, bóc lột tài nguyên và nô lệ hóa), khác hẳn với sự hình thành các đế quốc kiểu phong kiến, thực dân, phát xít và cộng sản.
II- Cuộc đấu tranh sinh tồn của Việt tộc chống sự xâm lược của Hán tộc.
A-Bắc xâm và Nam tiến
Lịch sử và khảo cổ học đã chứng minh nhiều dân tộc (sắc tộc, bộ lạc, quốc gia…) ở vùng Hoa Nam, lưu vực sông Dương Tử đã bị xâm lược và đồng hóa bởi những sắc dân Hoa Bắc (Hán tộc). Những sắc tộc nào di dân được xuống Đông Nam Á thì tồn tại được đến ngày nay mà không (hoặc ít) bị đồng hóa, là nhờ địa thế hiểm trở, khí hậu nhiệt đới, và sức sống (dân khí) (*1) của dân tộc đó.
Khuynh hướng nam tiến là bắt buộc đối với người phương bắc (Bắc Á: Mông, Mãn, Hán …), vì không thể bắc tiến và tây tiến được, và hiện nay cũng vì cần hướng phát triển ra biển và khai thác tài nguyên biển.
Người Việt cũng vậy, trước sức ép do luồng nam tiến của Hán tộc, sau nhiều đợt di dân, Việt tộc quần cư ở đồng bằng sông Hồng, sông Mã, tạm yên được với Bắc phương vài ngàn năm nhờ vào địa hình biên giới hiểm trở. Trong khoảng thời gian này người Việt cũng phải mở nước bằng cách nam tiến, thôn tính và đồng hóa Chiêm Thành, Chân Lạp (nửa nước Miên) (*2), chuẩn bị tây tiến và bắc tiến bằng con đường từ phía Đông Nam (nếu thôn tính xong Miên) để thôn tính Lào. Mộng gồm thâu Đông Dương (hoặc thành lập Liên bang Đông Dương) của người Việt vẫn được ôm ấp kể từ thời các vua chúa nhà Nguyễn, vì địa lý nước Việt rất bất lợi cho sự thống nhất và an ninh lãnh thổ và phát triển kinh tế, văn hóa: rặng Trường Sơn phía Tây làm cho miền Trung quá hẹp, rất dễ bị đứt khúc ở khoảng vĩ tuyến 17-18 như lịch sử đã từng chứng minh (Trịnh Nguyễn phân tranh từ thế kỷ 16 đến tk 18, Hiệp Định Geneve tk. 19). Địa lý các nước Miên, Lào cũng bất lợi không kém. Chỉ khi hình thành được “Liên bang Đông Dương”, mở rộng địa lý đất đai và dân số thì mới hy vọng chận đứng chiến tranh xâm lược của nước lớn phía Bắc.
Khi Thực dân Pháp lập được ách đô hộ trên toàn cõi Việt Nam (Hòa ước Giáp Tuất 15/3/1874), thì lục tỉnh miền tây nam bộ mới được sát nhập vào VN được khoảng năm mươi năm. Trước đó một chút, nếu VN canh tân kịp đồng thời với Nhật, thì nhiều phần chắc là cho tới ngày nay VN đã kiểm soát được cả Thái Lan, Miến Điện, và trở thành mối đe dọa lớn đối với Tàu, vì biết chừng đâu sẽ có đủ thế lực để đòi lại đất cũ là Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam (Nước Nam Việt thời Triệu Đà), thực hiện được hoài bão của vua Quang Trung. Nhưng cũng chưa biết chừng, khi gồm thâu được đất cũ, người Việt lại bị Hán hóa giống như dân Mông, Mãn, vì dân số Việt ít hơn, văn hóa đặc trưng cũng không cao hơn.
Xuyên suốt lịch sử, người Tàu từ Hoa Nam di dân liên tục vào VN và các nước Đông Nam Á từ rất lâu, trước cả thời phong kiến bắc thuộc, hoặc vì tha phương cầu thực hoặc tìm không gian sinh tồn hoặc qua chiến tranh xâm lược hoặc là hệ lụy các biến động chính trị cận đại, td. Thiên Địa Hội phản Thanh phục Minh, biến cố chiến tranh (*3). Khi họ vào ít, và không kèm tổ chức chính trị bang hội thì họ bị Việt đồng hóa, td: người Tiều (Triều Châu: Minh Hương) ở miền Trung, lục tỉnh miền Tây và Rạch Giá …, nhưng nếu họ vào nhiều và có tổ chức bang hội, thì họ thành lập khu vực riêng có tiềm năng trở thành khu tự trị (td: Chợ Lớn), nếu họ tổ chức được chính quyền thì họ tách ra làm quốc gia riêng: Singapore, Đài Loan …, không chịu tùng phục chánh quốc nữa, giống như thời xa xưa An Dương Vương Thục Phán xâm lăng đánh thắng Vua Hùng, và rồi Triệu Đà (207-137BC) sau khi thắng An Dương Vương vậy (*4).
Người Tàu cũng như người Việt, có đầu óc phong kiến, có mộng làm vua một cõi, đồng thời cũng có thói thần phục kẻ mạnh, là kẻ có tài gồm thâu thiên hạ. Thời xưa (trên 3000 năm trước) vốn không có nước Tàu (Trung Hoa), vùng đất đai rộng lớn đó là nơi sinh sống của rất nhiều sắc dân của hàng trăm nước lớn nhỏ, kể cả rất nhiều bộ lạc vùng rừng núi xa xôi, họ luôn luôn đánh nhau để thôn tính thêm đât đai và nô lệ (thời Xuân Thu, Chiến Quôc), chỉ sau thời Đông Chu liệt quốc, Tần Thủy Hoàng thôn tính xong 6 nước cuối cùng, nước Tàu mới thống nhứt, gọi là Trung Hoa. Nên biết nước Tần của Tần Thủy Hoàng từ thời Đông Chu trở về trước vốn là một sắc dân ở tây bắc nước Tàu, là giống dân lai giữa Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ (Ulghur: Thổ Phồn, Hồi Hột), tạo nên người Hoa Bắc, vốn gốc du mục nên rất thiện chiến và hung bạo (*5). Địa lý hình thể và kinh tế của nước Tàu là một nguyên nhân hình thành chủ nghĩa bá quyền: những vùng phía nam và phía đông có nhiều đồng bằng đất đai phì nhiêu, nhiều sông lớn, khí hậu thuận lợi cho canh tác, do đó dân sống sung túc, trong khi những vùng rộng lớn phía tây và phía bắc có nhiều đồi núi và sa mạc chiếm 2/3 diện tích cả nước, khí hậu khắc nghiệt, nghèo tài nguyên, do đó luôn luôn tìm cách di dân hoặc xâm lược những vùng trù phú hơn. Như vậy nước Tàu hình thành do chiến tranh xâm lược. Lịch sử hình thành nước Tàu là lịch sử xâm lăng và đồng hóa bằng bạo lực chiến tranh. Khi Tàu mạnh cũng vậy, mà khi Tàu yếu, lại càng cần tìm thế chính thống hoặc đánh lạc hướng những bất mãn và khủng hoảng nội bộ bằng cách gây chiến với các lân bang.
B-Bàn tay Đại Hán trong mọi biến
động quân sự, chính trị tại Việt Nam và Đông Dương-
Trong thế cạnh tranh sinh tồn Hoa-Việt , nước Tàu với 5 ngàn năm lịch sử bành trướng bằng bạo lực chiến tranh đã tạo thành tiềm thức trong đầu của bất cứ cá nhân hoặc tập đoàn lãnh đạo nào của nước Tàu một thứ luận lý về quyền lực và phát triển dân tộc chủ nghĩa quá khích, gọi là “Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán”. Cho tới cận đại, Tàu chỉ còn duy nhất 1 hướng để bành trướng và phát triển, là hướng Đông nam để ra biển đông qua ngả các nước Đông Dương, và muốn vậy, phải làm chủ được Việt Nam bằng bất cứ giá nào. Tàu chưa thể trực tiếp xâm lăng bằng quân sự vì bài học lịch sử thất bại còn đó, vì vậy, “Tằm ăn dâu” phải là con đường duy nhất Tàu chọn để làm chủ Việt Nam, trực tiếp (biến VN thành 1 tỉnh như đã từng làm trong lịch sử thời Hán, Minh) hay gián tiếp (biến VN thành 1 bang tự trị về hành chánh giống như Nội Mông, Tân Cương và Tây Tạng). Tối thiểu cũng phải biến miền Bắc VN thành phên dậu, giống như Bắc Hàn, để tránh thế bao vây của các cường quốc biển. Để thực hiện kế sách đó, Tàu phải làm sao cho Việt càng ngày càng yếu đi để trở thành lệ thuộc vào Tàu, và cách tốt nhất vẫn là xâm lăng văn hóa, tạo ra hoặc thúc đẩy nội chiến, gây chia rẽ, phân hóa dân tộc, và phá hoại tiềm lực kinh tế.
Trên thế giới từ xưa tới nay, sự kiện các nước tìm cách ảnh hưởng khống chế lẫn nhau là điều không thể không xảy ra, cũng như sự kiện các nước lớn tìm cách can thiệp, khống chế các nước nhỏ bằng quân sự, kinh tế, hoặc chính trị (qua sự thành lập và yểm trợ các thế lực chống đối trong nước) để thôn tính đất đai, bóc lột tài nguyên và lao động, hoặc đặt căn cứ quân sự cũng là không thể tránh được. Những lời tuyên bố hữu nghị chỉ là thủ thuật chính trị để ru ngủ, lừa bịp. Chỉ khi nào có được dân khí cường thịnh, đoàn kết một lòng để xây dựng một nền kinh tế phát triển (như Nhật, Hàn) đồng thời có chánh sách ngoại giao và liên minh khôn khéo (như Thái Lan, Phi luật Tân, Kampuchia, Miến Điện…), thì mới tạo nên một thực lực làm cho nước ngoài phải kiêng nể, mới giữ được độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ, hạn chế hoặc khống chế được các can thiệp từ nước ngoài. Tiếc thay, điều này dường như đã và đang không thực hiện được ở Việt Nam.
Vậy sẽ có phần thiếu sót cho cả 2 phe người Việt (Quốc, Cộng…) và các bình luận gia khi gọi cuộc chiến ở Việt Nam 1954-1975 là chiến tranh Ý- thức- hệ (quốc cộng, giai cấp … ), hoặc giải phóng (chống Mỹ cứu nước…). Ngay cả chiến tranh giải thực trước 1954 cũng đã bị Tàu, kể cả Trung Hoa Dân Quốc (*6), lợi dụng chiêu bài đồng minh, đồng chí, hữu nghị, cố vấn vv…, ngoài mặt là giúp đỡ, nhưng bề trong là để thực hiện cả 1 kế sách thâm sâu, lâu dài để thâm nhập sâu, tạo quyền lực mềm, tiêu diệt cho bằng hết mọi mầm mống đối lập (gồm cả những nhà ái quốc có tư tưởng dân tộc độc lập), tạo ảnh hưởng văn hóa (hủy diệt văn hóa địa phương, truyền bá văn hóa phong kiến khuyển nho, hoặc chủ nghĩa bạo lực Cộng Sản…), ảnh hưởng quân sự (qua các lớp đào tạo sĩ quan, quân nhân, chuyên viên), cài thế lực chính trị (cài đạt, mua chuộc, dung dưỡng những nhân vật thân Tàu hoặc không có tinh thần dân tộc vững chắc vào các cấp chính quyền). Tàu không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để dùng ảnh hưởng vô cùng lớn của mình để thực hiện kế sách “Tằm ăn dâu”, không chỉ trong những thời kỳ có chiến tranh, mà cả trong những thời kỳ có vẻ thân thiện hữu nghị Tàu vẫn dùng mọi cách, hoặc trực tiếp qua áp lực kinh tế, chính trị, quân sự, hoặc gián tiếp qua tình báo và phản tình báo gây chia rẽ, hoang mang và lũng đoạn nội bộ để làm yếu thế lực Việt, băng hoại tinh thần dân tộc Việt, văn hóa Việt, và cả cơ cấu tổ chức xã hội Việt, tạo điều kiện để lấn chiếm biên giới hoặc xâm lăng như họ đã từng làm trong suốt chiều dài lịch sử.
Ví dụ: Cuộc Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) 1956 đẫm máu để thực hiện đấu tranh giai cấp cuồng tín kiểu Mao-ít, và ngay sau đó là vụ án Nhân Văn giai phẩm rập khuôn theo chiến dịch Trăm Hoa đua nở của Tàu (Bách gia tề phóng, bách hoa tề khai)…. không thể không xảy ra vì nó nằm trong sách lược căn bản trong âm mưu thôn tính VN của Tàu cộng với sự phục tùng hoặc đồng lõa của các lãnh tụ CS Việt. Thực chất là chỉ mượn màu đấu tranh giai cấp để che mắt mọi người, nhằm che dấu dã tâm chính là:
1-Tiêu diệt sớm những người có tinh thần dân tộc trong hàng ngũ Việt Minh, họ là những tinh hoa của dân tộc Việt, họ đều có học, đều xuất thân từ những gia đình khá giả hoặc tương đối khá giả (do đó dễ bị quy kết vào giai cấp địa chủ bóc lột), họ đã hy sinh tất cả để theo cách mạng vì lý tưởng chống thực dân để giải phóng dân tộc, họ đã hết lòng chiến đấu dưới lá cờ Việt Minh chỉ do lòng yêu nước, họ có uy tín trong dân rất cao sau nhiều chiến thắng quân sự (dĩ nhiên là với sự giúp đỡ có hậu ý của CS Tàu). Nếu những người này không bị tàn sát, thì sau này họ chắc chắn sẽ là những đảng viên cao cấp, những nhà lãnh đạo chính trị quân sự có tài và có tinh thần dân tộc, sẵn sàng bảo vệ tổ quốc trước dã tâm xâm lược của bọn bành trướng bá quyền.
2-Đồng thời dùng khủng bố nhà nước để thanh lọc răn đe những phần tử còn lưng chừng và dân chúng, khiến họ thêm sợ hãi để mà khuất phục tuyệt đối. Chính sách khủng bố nhà nước này đã tỏ ra là rất thành công, có lãnh tụ Đảng đã phải tuyên bố từ bỏ giai cấp bằng cách đấu tố chính cha mẹ mình (td: Trường Chinh) (*7).
CCRĐ bên Tàu là rập khuôn theo kiểu Nga, mục đích là để củng cố quyền lực Đảng và lãnh tụ, nhưng khi Tàu ép buộc Hồ Chí Minh áp dụng CCRĐ ở Bắc Việt, thì Tàu lồng vào âm mưu phá hoại thâm độc của họ, vì rõ ràng là trong kế sách xâm lược “tằm ăn dâu” của Tàu thì việc triệt bỏ sớm những lãnh tụ tương lai có tinh thần dân tộc trong hàng ngũ Việt Minh, và triệt tiêu mọi mầm mống chống đối chính là một bước tiến công quyết định (ra tay sớm, diệt địch từ trứng nước), vì có triệt bỏ được những lãnh tụ tương lai này và làm tê liệt tinh thần dân tộc của dân Việt, thì về lâu về dài Tàu mới nắm chắc được đảng cầm quyền CSVN để thực hiện những bước thôn tính kế tiếp.
Do vậy, phải nhìn thấy cuộc CCRĐ không phải là do sư sai lầm của các lãnh tụ CSVN hoặc sự ngu muội của cấp thừa hành, mà là sự cài đặt sắp xếp có bài bản và áp lực cực lớn của Tàu (có cả 1 đoàn cố vấn Tầu, đặc trách về CCRĐ bên cạnh Bộ chính trị Đảng CSVN lúc đó) (*8).
Không nhìn thấy rằng dã tâm cực kỳ thâm độc này của Tàu nếu được thực hiện sẽ ảnh hưởng sâu xa lâu dài thế nào đối với vận mệnh dân tộc và đất nước, thì quả là các lãnh tụ CSVN quá ngây thơ, không xứng đáng là nhà lãnh tụ, và vẫn phải chịu trách nhiệm với lịch sử, với nhân dân vì đã làm cho đất nước suy sụp, tạo cơ hội cho ngoại bang can thiệp và xâm lược.(*9)
Nhưng nếu đã nhìn thấy dã tâm này của Tàu mà vẫn đang tâm nhắm mắt tàn sát đồng chí, đồng đội, đồng bào thì phải gọi là gì đây? Chính danh thì phải gọi đó là tay sai cho giặc, là phản quốc, là bán nước, là có nợ máu với nhân dân.
Chỉ cần nhìn lại lịch sử, đọc lại tài liệu của chính Đảng CSVN để suy nghĩ về cuộc CCRĐ tắm máu “trời long đất lở”, mà bề ngoài thì xem ra vô lý này (thanh trừng, đầy đọa và giết oan hơn nửa triệu người, gồm trong đó có đến 43% tổng số cán bộ đảng viên bất kể cấp bậc và công trạng ) (*10) cũng đủ để thấy sự thật về bản chất tay sai của lãnh tụ và tập đoàn lãnh đạo đảng CSVN ngay từ 1956, thế mà cho tới ngày hôm nay, vẫn còn quá nhiều người, vẫn còn hoang mang, hoặc vẫn tiếp tục bị tuyên truyền và khẩu hiệu lừa gạt, vẫn tôn sùng những bàn tay nhuộm đầy máu đồng chí, đồng đội, đồng bào; những bàn tay đã và sắp đẩy muôn triêu đồng bào vào cái chết để thực hiện dã tâm diệt chủng và xâm lược của Tàu. Nếu cứ tiếp tục ngây thơ như thế này mãi thì không còn bao lâu đất nước ta cũng sẽ phải bị mất vào tay Tàu.
Vụ Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968 mà lực lượng chính là quân đội miền Bắc xâm nhập, đã thất bại về mặt quân sự , nhưng nó là tiếp tục xuyên suốt sách lược chính trị độc tôn vốn là bản chất của mọi chế độ độc tài, do vậy phải thấy mục tiêu bề trong thâm sâu của chiến dịch đó chính là nhằm tiêu diệt những người chiến đấu chống chính quyền miền Nam (VNCH) vì lý tưởng dân tộc chủ nghĩa (tin rằng Mỹ xâm lăng VN như kiểu Tây thực dân), do đó đã phá nát lực lượng chính trị và quân sự hậu thuẫn cho phe MTGP miền Nam, có tiềm năng chia xẻ hoặc chống đối lại quyền lực chính trị của CS Bắc Việt. Miền Bắc đã thành công trong mục tiêu đó, vì đã mượn tay lực lượng VNCH miền Nam để làm triệt tiêu trên 70% lực lượng chiến đấu cũa MT Giải Phóng Miền Nam (*11 ). Nhờ đó sau 1975, miền Bắc có thể áp đặt quyền lực chính trị và mô hình kinh tế XHCN hoang tưởng trên toàn miền Nam mà không bị phe miền Nam chống đối, cho dù mô hình kinh tế què quặt này đã làm cho miền Nam phá sản, sắp chết đói.
Cũng như các vua chúa nhà Nguyễn với đầu óc phục Tàu, sợ Tàu đã làm cho Việt Nam mất cơ hội hiện đại hóa như nước Nhật cùng thời, đầu óc của những người lãnh đạo CSVN từ xưa tới nay cũng là phục Tàu, sợ Tàu, chắc không mấy người thấy được sự hiểm độc của Chủ Nghĩa CS đối với sự tồn tại của Quốc gia và dân tộc VN. Hơn thế nữa, mặc dù trong Đảng CSVN cũng có người thấy được bản chất bành trướng bá quyền Đại Hán và dã tâm xâm lược của lãnh đạo CS Tàu (phe Lê Duẩn sau 1975), và tìm cách chống trả, nhưng khổ thay, do bị ngộ độc tư tưởng bởi nọc độc Chủ Nghĩa CS (*12), nên sau khi chiếm được miền nam, liền áp dụng chính sách kỳ thị chánh trị đối với người miền nam, nhất là đối với những cựu quân nhân viên chức của phe thua trận, gây nên chia rẽ dân tộc. Đồng thời vẫn giáo điều áp đặt kinh tế XHCN vào miền Nam VN làm cho nền kinh tế đang lên này bị bức tử, phá sản, tức là vẫn trúng kế của kẻ thù phương Bắc (chia rẽ dân tộc, phá hoại sinh lực kinh tế, tự cô lập với cộng đồng thế giới…), đồng thời chiến lược chiếm đóng Kampuchia và chống đối với Tàu mà dựa vào độc nhất có một nước đồng minh duy nhất theo XHCN là Liên Xô như trước đây, là 1 nước cờ bấp bênh (nước xa không cứu được lửa gần), và đã thất bại, khiến cho sự tồn vong của VN càng ở vào cái thế nguy hiểm hơn, vừa mất thêm đất đai (sau khi thua cuộc chiến biên giới Việt-Hoa 1979 và 1983), vừa lệ thuộc Tàu nặng nề thêm về mặt chính trị (sau khi Liên Xô sụp đổ). Điều này gây hậu quả tai hại nghiêm trọng cho nền độc lập và tiềm lực nước Việt, chứng tỏ trình độ nhận thức và bản lãnh chính trị kém cỏi của lãnh đạo Đảng CSVN, ít ra là vào thời điểm quan trọng đó (*13)- Thử nghĩ xem, nước Mỹ sau cuộc Nội chiến Nam Bắc tàn khốc không thua gì ở Việt Nam, phe thắng trận miền Bắc nếu cũng cư xử quá khích, kỳ thị, hẹp hòi với phe thua trận miền Nam như ở VN sau năm 1975, thì đâu có được 1 nước Mỹ hùng mạnh như ngày nay? Rõ ràng là những người lãnh đạo CSVN mà kiến thức về khoa học quản lý đất nước kể như không có, lại còn bị nhiễm nọc độc Chủ nghĩa CS nên tư duy sáng suốt về chính trị, đồng thời tình dân tộc, nghĩa đồng bào cũng đã bị mất hết.
Trong thế cạnh tranh sinh tồn Hoa-Việt , nước Tàu với 5 ngàn năm lịch sử bành trướng bằng bạo lực chiến tranh đã tạo thành tiềm thức trong đầu của bất cứ cá nhân hoặc tập đoàn lãnh đạo nào của nước Tàu một thứ luận lý về quyền lực và phát triển dân tộc chủ nghĩa quá khích, gọi là “Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán”. Cho tới cận đại, Tàu chỉ còn duy nhất 1 hướng để bành trướng và phát triển, là hướng Đông nam để ra biển đông qua ngả các nước Đông Dương, và muốn vậy, phải làm chủ được Việt Nam bằng bất cứ giá nào. Tàu chưa thể trực tiếp xâm lăng bằng quân sự vì bài học lịch sử thất bại còn đó, vì vậy, “Tằm ăn dâu” phải là con đường duy nhất Tàu chọn để làm chủ Việt Nam, trực tiếp (biến VN thành 1 tỉnh như đã từng làm trong lịch sử thời Hán, Minh) hay gián tiếp (biến VN thành 1 bang tự trị về hành chánh giống như Nội Mông, Tân Cương và Tây Tạng). Tối thiểu cũng phải biến miền Bắc VN thành phên dậu, giống như Bắc Hàn, để tránh thế bao vây của các cường quốc biển. Để thực hiện kế sách đó, Tàu phải làm sao cho Việt càng ngày càng yếu đi để trở thành lệ thuộc vào Tàu, và cách tốt nhất vẫn là xâm lăng văn hóa, tạo ra hoặc thúc đẩy nội chiến, gây chia rẽ, phân hóa dân tộc, và phá hoại tiềm lực kinh tế.
Trên thế giới từ xưa tới nay, sự kiện các nước tìm cách ảnh hưởng khống chế lẫn nhau là điều không thể không xảy ra, cũng như sự kiện các nước lớn tìm cách can thiệp, khống chế các nước nhỏ bằng quân sự, kinh tế, hoặc chính trị (qua sự thành lập và yểm trợ các thế lực chống đối trong nước) để thôn tính đất đai, bóc lột tài nguyên và lao động, hoặc đặt căn cứ quân sự cũng là không thể tránh được. Những lời tuyên bố hữu nghị chỉ là thủ thuật chính trị để ru ngủ, lừa bịp. Chỉ khi nào có được dân khí cường thịnh, đoàn kết một lòng để xây dựng một nền kinh tế phát triển (như Nhật, Hàn) đồng thời có chánh sách ngoại giao và liên minh khôn khéo (như Thái Lan, Phi luật Tân, Kampuchia, Miến Điện…), thì mới tạo nên một thực lực làm cho nước ngoài phải kiêng nể, mới giữ được độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ, hạn chế hoặc khống chế được các can thiệp từ nước ngoài. Tiếc thay, điều này dường như đã và đang không thực hiện được ở Việt Nam.
Vậy sẽ có phần thiếu sót cho cả 2 phe người Việt (Quốc, Cộng…) và các bình luận gia khi gọi cuộc chiến ở Việt Nam 1954-1975 là chiến tranh Ý- thức- hệ (quốc cộng, giai cấp … ), hoặc giải phóng (chống Mỹ cứu nước…). Ngay cả chiến tranh giải thực trước 1954 cũng đã bị Tàu, kể cả Trung Hoa Dân Quốc (*6), lợi dụng chiêu bài đồng minh, đồng chí, hữu nghị, cố vấn vv…, ngoài mặt là giúp đỡ, nhưng bề trong là để thực hiện cả 1 kế sách thâm sâu, lâu dài để thâm nhập sâu, tạo quyền lực mềm, tiêu diệt cho bằng hết mọi mầm mống đối lập (gồm cả những nhà ái quốc có tư tưởng dân tộc độc lập), tạo ảnh hưởng văn hóa (hủy diệt văn hóa địa phương, truyền bá văn hóa phong kiến khuyển nho, hoặc chủ nghĩa bạo lực Cộng Sản…), ảnh hưởng quân sự (qua các lớp đào tạo sĩ quan, quân nhân, chuyên viên), cài thế lực chính trị (cài đạt, mua chuộc, dung dưỡng những nhân vật thân Tàu hoặc không có tinh thần dân tộc vững chắc vào các cấp chính quyền). Tàu không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để dùng ảnh hưởng vô cùng lớn của mình để thực hiện kế sách “Tằm ăn dâu”, không chỉ trong những thời kỳ có chiến tranh, mà cả trong những thời kỳ có vẻ thân thiện hữu nghị Tàu vẫn dùng mọi cách, hoặc trực tiếp qua áp lực kinh tế, chính trị, quân sự, hoặc gián tiếp qua tình báo và phản tình báo gây chia rẽ, hoang mang và lũng đoạn nội bộ để làm yếu thế lực Việt, băng hoại tinh thần dân tộc Việt, văn hóa Việt, và cả cơ cấu tổ chức xã hội Việt, tạo điều kiện để lấn chiếm biên giới hoặc xâm lăng như họ đã từng làm trong suốt chiều dài lịch sử.
Ví dụ: Cuộc Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) 1956 đẫm máu để thực hiện đấu tranh giai cấp cuồng tín kiểu Mao-ít, và ngay sau đó là vụ án Nhân Văn giai phẩm rập khuôn theo chiến dịch Trăm Hoa đua nở của Tàu (Bách gia tề phóng, bách hoa tề khai)…. không thể không xảy ra vì nó nằm trong sách lược căn bản trong âm mưu thôn tính VN của Tàu cộng với sự phục tùng hoặc đồng lõa của các lãnh tụ CS Việt. Thực chất là chỉ mượn màu đấu tranh giai cấp để che mắt mọi người, nhằm che dấu dã tâm chính là:
1-Tiêu diệt sớm những người có tinh thần dân tộc trong hàng ngũ Việt Minh, họ là những tinh hoa của dân tộc Việt, họ đều có học, đều xuất thân từ những gia đình khá giả hoặc tương đối khá giả (do đó dễ bị quy kết vào giai cấp địa chủ bóc lột), họ đã hy sinh tất cả để theo cách mạng vì lý tưởng chống thực dân để giải phóng dân tộc, họ đã hết lòng chiến đấu dưới lá cờ Việt Minh chỉ do lòng yêu nước, họ có uy tín trong dân rất cao sau nhiều chiến thắng quân sự (dĩ nhiên là với sự giúp đỡ có hậu ý của CS Tàu). Nếu những người này không bị tàn sát, thì sau này họ chắc chắn sẽ là những đảng viên cao cấp, những nhà lãnh đạo chính trị quân sự có tài và có tinh thần dân tộc, sẵn sàng bảo vệ tổ quốc trước dã tâm xâm lược của bọn bành trướng bá quyền.
2-Đồng thời dùng khủng bố nhà nước để thanh lọc răn đe những phần tử còn lưng chừng và dân chúng, khiến họ thêm sợ hãi để mà khuất phục tuyệt đối. Chính sách khủng bố nhà nước này đã tỏ ra là rất thành công, có lãnh tụ Đảng đã phải tuyên bố từ bỏ giai cấp bằng cách đấu tố chính cha mẹ mình (td: Trường Chinh) (*7).
CCRĐ bên Tàu là rập khuôn theo kiểu Nga, mục đích là để củng cố quyền lực Đảng và lãnh tụ, nhưng khi Tàu ép buộc Hồ Chí Minh áp dụng CCRĐ ở Bắc Việt, thì Tàu lồng vào âm mưu phá hoại thâm độc của họ, vì rõ ràng là trong kế sách xâm lược “tằm ăn dâu” của Tàu thì việc triệt bỏ sớm những lãnh tụ tương lai có tinh thần dân tộc trong hàng ngũ Việt Minh, và triệt tiêu mọi mầm mống chống đối chính là một bước tiến công quyết định (ra tay sớm, diệt địch từ trứng nước), vì có triệt bỏ được những lãnh tụ tương lai này và làm tê liệt tinh thần dân tộc của dân Việt, thì về lâu về dài Tàu mới nắm chắc được đảng cầm quyền CSVN để thực hiện những bước thôn tính kế tiếp.
Do vậy, phải nhìn thấy cuộc CCRĐ không phải là do sư sai lầm của các lãnh tụ CSVN hoặc sự ngu muội của cấp thừa hành, mà là sự cài đặt sắp xếp có bài bản và áp lực cực lớn của Tàu (có cả 1 đoàn cố vấn Tầu, đặc trách về CCRĐ bên cạnh Bộ chính trị Đảng CSVN lúc đó) (*8).
Không nhìn thấy rằng dã tâm cực kỳ thâm độc này của Tàu nếu được thực hiện sẽ ảnh hưởng sâu xa lâu dài thế nào đối với vận mệnh dân tộc và đất nước, thì quả là các lãnh tụ CSVN quá ngây thơ, không xứng đáng là nhà lãnh tụ, và vẫn phải chịu trách nhiệm với lịch sử, với nhân dân vì đã làm cho đất nước suy sụp, tạo cơ hội cho ngoại bang can thiệp và xâm lược.(*9)
Nhưng nếu đã nhìn thấy dã tâm này của Tàu mà vẫn đang tâm nhắm mắt tàn sát đồng chí, đồng đội, đồng bào thì phải gọi là gì đây? Chính danh thì phải gọi đó là tay sai cho giặc, là phản quốc, là bán nước, là có nợ máu với nhân dân.
Chỉ cần nhìn lại lịch sử, đọc lại tài liệu của chính Đảng CSVN để suy nghĩ về cuộc CCRĐ tắm máu “trời long đất lở”, mà bề ngoài thì xem ra vô lý này (thanh trừng, đầy đọa và giết oan hơn nửa triệu người, gồm trong đó có đến 43% tổng số cán bộ đảng viên bất kể cấp bậc và công trạng ) (*10) cũng đủ để thấy sự thật về bản chất tay sai của lãnh tụ và tập đoàn lãnh đạo đảng CSVN ngay từ 1956, thế mà cho tới ngày hôm nay, vẫn còn quá nhiều người, vẫn còn hoang mang, hoặc vẫn tiếp tục bị tuyên truyền và khẩu hiệu lừa gạt, vẫn tôn sùng những bàn tay nhuộm đầy máu đồng chí, đồng đội, đồng bào; những bàn tay đã và sắp đẩy muôn triêu đồng bào vào cái chết để thực hiện dã tâm diệt chủng và xâm lược của Tàu. Nếu cứ tiếp tục ngây thơ như thế này mãi thì không còn bao lâu đất nước ta cũng sẽ phải bị mất vào tay Tàu.
Vụ Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968 mà lực lượng chính là quân đội miền Bắc xâm nhập, đã thất bại về mặt quân sự , nhưng nó là tiếp tục xuyên suốt sách lược chính trị độc tôn vốn là bản chất của mọi chế độ độc tài, do vậy phải thấy mục tiêu bề trong thâm sâu của chiến dịch đó chính là nhằm tiêu diệt những người chiến đấu chống chính quyền miền Nam (VNCH) vì lý tưởng dân tộc chủ nghĩa (tin rằng Mỹ xâm lăng VN như kiểu Tây thực dân), do đó đã phá nát lực lượng chính trị và quân sự hậu thuẫn cho phe MTGP miền Nam, có tiềm năng chia xẻ hoặc chống đối lại quyền lực chính trị của CS Bắc Việt. Miền Bắc đã thành công trong mục tiêu đó, vì đã mượn tay lực lượng VNCH miền Nam để làm triệt tiêu trên 70% lực lượng chiến đấu cũa MT Giải Phóng Miền Nam (*11 ). Nhờ đó sau 1975, miền Bắc có thể áp đặt quyền lực chính trị và mô hình kinh tế XHCN hoang tưởng trên toàn miền Nam mà không bị phe miền Nam chống đối, cho dù mô hình kinh tế què quặt này đã làm cho miền Nam phá sản, sắp chết đói.
Cũng như các vua chúa nhà Nguyễn với đầu óc phục Tàu, sợ Tàu đã làm cho Việt Nam mất cơ hội hiện đại hóa như nước Nhật cùng thời, đầu óc của những người lãnh đạo CSVN từ xưa tới nay cũng là phục Tàu, sợ Tàu, chắc không mấy người thấy được sự hiểm độc của Chủ Nghĩa CS đối với sự tồn tại của Quốc gia và dân tộc VN. Hơn thế nữa, mặc dù trong Đảng CSVN cũng có người thấy được bản chất bành trướng bá quyền Đại Hán và dã tâm xâm lược của lãnh đạo CS Tàu (phe Lê Duẩn sau 1975), và tìm cách chống trả, nhưng khổ thay, do bị ngộ độc tư tưởng bởi nọc độc Chủ Nghĩa CS (*12), nên sau khi chiếm được miền nam, liền áp dụng chính sách kỳ thị chánh trị đối với người miền nam, nhất là đối với những cựu quân nhân viên chức của phe thua trận, gây nên chia rẽ dân tộc. Đồng thời vẫn giáo điều áp đặt kinh tế XHCN vào miền Nam VN làm cho nền kinh tế đang lên này bị bức tử, phá sản, tức là vẫn trúng kế của kẻ thù phương Bắc (chia rẽ dân tộc, phá hoại sinh lực kinh tế, tự cô lập với cộng đồng thế giới…), đồng thời chiến lược chiếm đóng Kampuchia và chống đối với Tàu mà dựa vào độc nhất có một nước đồng minh duy nhất theo XHCN là Liên Xô như trước đây, là 1 nước cờ bấp bênh (nước xa không cứu được lửa gần), và đã thất bại, khiến cho sự tồn vong của VN càng ở vào cái thế nguy hiểm hơn, vừa mất thêm đất đai (sau khi thua cuộc chiến biên giới Việt-Hoa 1979 và 1983), vừa lệ thuộc Tàu nặng nề thêm về mặt chính trị (sau khi Liên Xô sụp đổ). Điều này gây hậu quả tai hại nghiêm trọng cho nền độc lập và tiềm lực nước Việt, chứng tỏ trình độ nhận thức và bản lãnh chính trị kém cỏi của lãnh đạo Đảng CSVN, ít ra là vào thời điểm quan trọng đó (*13)- Thử nghĩ xem, nước Mỹ sau cuộc Nội chiến Nam Bắc tàn khốc không thua gì ở Việt Nam, phe thắng trận miền Bắc nếu cũng cư xử quá khích, kỳ thị, hẹp hòi với phe thua trận miền Nam như ở VN sau năm 1975, thì đâu có được 1 nước Mỹ hùng mạnh như ngày nay? Rõ ràng là những người lãnh đạo CSVN mà kiến thức về khoa học quản lý đất nước kể như không có, lại còn bị nhiễm nọc độc Chủ nghĩa CS nên tư duy sáng suốt về chính trị, đồng thời tình dân tộc, nghĩa đồng bào cũng đã bị mất hết.
C-Chủ Nghĩa Cộng Sản chỉ là cái Mặt nạ Ý thức hệ của Chủ nghĩa Đế quốc kiểu mới:
Nga (Liên xô) vốn âm mưu dùng Chủ Nghĩa CS để thôn tính cả thế giới, kể cả Tàu, dưới chiêu bài Thế Giới Đại Đồng, nhưng Tàu to quá, Nga nuốt không nổi, đồng thời, khác với Hồ Chí Minh và đảng CSVN, Mao Trạch Đông và đảng CS Tàu dù là chịu lép vế một thời phục tùng Stalin để được huấn luyện và yểm trợ chống lại Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân đảng Tàu, đã không ngu dại để biến thành tay sai của Nga, làm tên lính xung kích cho CS Nga như Hồ Chí Minh và đảng CSVN, hậu quả là Tàu và Nga trở thành kẻ thù của nhau-
Sau này kinh tế kiểu XHCN thất bại, nên Nga Xô Viết xụp đổ, không giữ được những nước nhỏ mới thôn tính được sau thế chiến II – Nhưng Tàu dùng CNCS làm bình phong thì dù thất bại về kinh tế (khi chưa đổi mới theo kiểu tư bản), vẫn có thể thôn tính được các nước Đông Dương, vì kinh tế XHCN nếu làm cho Tàu yếu một, thì sẽ làm cho các nước nhỏ bị yếu 10 lần hơn, đảng cầm quyền do bị cô lập với thế giới tư bản, sẽ phải càng phải lệ thuộc vào đàn anh để có chỗ dựa chính trị, hầu giữ vững quyền lực và quyền lợi-
Rốt cuộc các diễn biến ở VN từ 1927 dường như đều thuận lợi cho sách lược nam tiến ngàn năm không ngưng nghỉ của Tàu. Nghĩ cho cùng, về thực chất sâu xa lịch sử xung đột Việt-Tàu từ xưa đến nay toàn là Tàu chủ động đánh Việt, toàn là Tàu giấu mặt trá hình, dùng mọi thủ đoạn thâm độc tìm cách làm cho Việt đánh lẫn nhau mà suy yếu đi để dễ nuốt, dân mình Bắc Nam đều chỉ là nạn nhân, các lãnh tụ CSVN hoặc không biết, hoặc bị sai khiến, cũng chỉ là con cờ trong bàn tay phù thủy mà thôi.
Có một điều đáng tiếc, là ở miền Nam VN sau 1954, nếu ông Ngô Đình Diệm có tư tưởng cởi mở hơn, thì đã có thể kéo dài Đệ nhất Cộng Hòa thêm một thời gian đủ dài để xây dựng được tiềm lực vững mạnh dựa vào sự đoàn kết các đảng phái, tôn giáo và ủng hộ sâu rộng của quần chúng để tạo sức mạnh chống lại sự thao túng của Mỹ và thủ đoạn tuyên truyền của CS, giống như Lý Thừa Vãn, Phác Chính Hi cùa Đại Hàn, hoặc Lý Quang Diệu của Singapore cùng thời. Vậy thất bại của ông NĐD phát xuất từ tư tưởng cổ hủ của ông- Xuất thân từ một gia tộc quan lại, bản thân vốn cũng là một đại quan của Vua Bảo Đại, ông cũng như các anh em của ông đã không thể thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa Tống Nho lỗi thời của phong kiến Tàu. Chính đầu óc phong kiến nặng nề đó đã làm cho một lãnh tụ có tinh thần dân tộc như ông Diệm, sau khi lên làm Tổng Thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, không những không phát triển được mối quan hệ hợp tác với các đảng phái QG và các lực lượng chống cộng khác (Cao Đài, Hòa Hảo …) để xây dựng nền dân chủ pháp trị, mà lại còn bị ảnh hưởng của bọn xu nịnh, trở thành gia đình trị, đưa chế độ vào tình trạng xa rời quần chúng, tạo điều kiện cho địch (kể cả Mỹ) tuyên truyền phá hoại, và như thế là đưa nền cộng hòa còn quá non trẻ đến chỗ sụp đổ quá sớm, không đủ thời gian để xây dựng một hệ thống chính trị và quân sự hoàn toàn mới cho phe Quốc Gia (không còn tàn dư của thời Pháp thuộc qua sự lưu dụng những công chức và sĩ quan cao cấp được Pháp đào tạo). Vậy là lại mất đi thêm một cơ hội để phục hưng sức mạnh Việt tộc chống lại âm mưu xâm lược của Tàu.
Chúng ta nay đã đều biết ai đứng đàng sau Mặt Trận Việt Minh (trước 1954) và MT Giải Phóng Miền Nam (trước 1975) để giựt giây? chính là đảng CSVN, con đẻ của Quốc Tế III (Nga Xô), tay sai của đảng CS Trung Hoa. Từ lâu, CS Tàu muốn và đã dùng chủ nghĩa CS đễ thôn tính các nước Đông Dương, mở rộng biên cương xuống phía Nam để làm chủ biển Thái Bình và cả vùng Đông Á. Trong ý đồ đó, miếng xương khó nuốt nhất vẫn là một nước VN thống nhất và hùng mạnh.
Từ 3000 năm nay Tàu thất bại hoặc rất khó khăn khi muốn xâm lăng và đồng hoá VN vì ý chí dân tộc VN còn mạnh, may quá, nay Tàu vớ được Chủ Nghĩa Cộng Sản, dùng ngay mục tiêu hoang tưởng là “Đấu tranh giai cấp để tiến đến Thế Giới Đại Đồng”, tạo ra một thứ chính nghĩa ảo, kiểu “Thiên Đàng hạ giới”, lừa gạt những người cùng khổ, những người kém tinh thần dân tộc, những người nhẹ dạ, cả tin, cuồng tín giáo điều hoặc kém suy luận, để che đậy ý đồ xâm lược (của Tàu) và âm mưu bán nước (của thành phần tay sai, thân Tàu trong Đảng CSVN)-
Chiến tranh giải thực ở VN vốn không cần chịu mất mát và đổ máu nhiều đến thế (do phe phái đánh lẫn nhau, thanh toán nội bộ, đánh thí quân kiểu tấn công biển người ….), nhưng với âm mưu làm yếu Việt, Tàu đã xúi dục, cổ võ, yểm trợ cho chiến tranh và phân hóa. Nhìn bề ngoài, thì giống như người Việt chống Pháp, Việt Minh đánh Việt Gian … nhưng thực ra là Hán tộc (Tàu) đánh Việt tộc bằng cách dùng ngay người Việt (Việt Minh) đánh giết người Việt (các đảng phái Quốc Gia, hoặc phe thân Pháp, hoặc thanh trừng nội bộ, thanh lọc đảng, thanh lọc dân …). Lực lượng Việt tộc (chính quyền Quốc Gia, các đảng phái Quốc Gia, các tôn giáo…) biết rõ sự phụ thuộc vào Cộng Sản Tàu, Nga của các lãnh tụ Việt Minh, nhưng vì không có chỗ dựa nên đành phải dựa vào Pháp để chống Cộng, mà do Pháp thua, phải ký HĐ Geneve, nên phải cùng chạy xuống miền Nam qua Vĩ tuyến 17..
Sau đó Tàu lại tích cực yểm trợ cho sách lược xâm chiếm nốt miền Nam của CS Bắc Việt, lại tiếp tục xúi Việt đánh Việt bằng chủ nghĩa CS và yểm trợ ồ ạt về quân sự cho Mặt Trận GPMN do CS miền Bắc dựng lên, đưa quân Tàu giả dạng Việt vào miền Bắc (*14) để miền Bắc có thể xua toàn lực thanh niên Bắc Việt vào quân Giải Phóng xâm nhập miền Nam (sinh Bắc tử Nam), một công hai việc, vừa gây chiến tranh huynh đệ tương tàn làm suy yếu dân Việt, vừa lan tràn ảnh hưởng xuống Đông Nam Á.
Như vậy, sau 1975, mặc dù bề ngoài trông giống như phe Xã Hội CN thắng phe Tư Bản, phe Bắc Việt thắng phe Nam Việt, hoặc là Giải Phóng Miền Nam thắng Mỹ … nhưng thực ra vẫn là Tàu thắng Việt, vì Tàu đã thành công trong âm mưu dùng người Việt đánh người Việt, dùng người Việt truy bức người Việt, làm cho 2 miền đều kiệt quệ, chết người, hại của, gây thêm chia rẽ và hận thù chồng chất.
Nhớ lại, sau khi dàn xếp thỏa hiệp được với Tàu để dồn nỗ lực làm suy yếu Nga, Mỹ phản bội đồng minh, bỏ rơi VNCH, làm ngơ cho Tàu chiếm đoạt Hoàng Sa của VN, cắt hết quân viện làm cho miền Nam thất trận 1974 (*15 ) - Sau đó miền Bắc xé bỏ thỏa thuận trước đây với MTGPMN (giữ miền Nam trung lập trong 2 năm rồi mới hiệp thương thống nhất 2 miền),áp đặt ngay chế độ độc tài đảng trị, chính sách kỳ thị chính trị và nền kinh tế giáo điều XHCN trên cả nước bằng cách cào bằng lực lượng sản xuất miền nam với các chiến dịch đánh Tư sản và đổi tiền (thực chất là cướp tài sản), cô lập hoặc xua đuổi những người có tinh thần dân tộc, kể cả các lãnh tụ của Mặt Trận GPMN. Một số lớn nhân lực (vài trăm ngàn thanh niên trẻ và chuyên gia các ngành nghề quân sự, dân sự, khoa học kỹ thuật….) có tiềm năng chống Tàu hoặc xây dựng kinh tế rất lớn bị lừa vào các trại cải tạo, thực chất là các trại tù. Một số lớn dân chúng có tiềm năng xây dựng nền công nghiệp và kinh tế thị trường bị cưỡng bức đi khai khẩn vùng hoang vu (gọi là vùng kinh tế mới), bị chết chóc và đàn áp dữ dội.
Sự kỳ thị chính trị một cách quá khích và nền quản trị quá kém cỏi đã làm Kinh tế cả nước phá sản (*16), tinh thần người dân bị suy sụp, người dân bị đẩy đến chỗ cùng quẫn đến nỗi phải vượt biển ra nước ngoài cả triệu người, là một con số rời bỏ quê hương đất nước rất lớn chưa từng có trong trong lịch sử VN- Cả triệu người, đại đa số là dân thường, kể cả dân miền Bắc (nhất là từ Hải Phòng) phải liều lĩnh chạy ra khơi bỏ quê hương mà ra đi về nơi xứ lạ quê người, bất kể cướp biển và chết chóc (khoảng 1/3 vùi thây trong biển cả), điều đó nói lên được sự cùng quẫn thất vọng của người dân đối với nền cai trị ở VN. Những biến cố đau xót và lớn lao đó thật sự là lại thêm 1 lần mất máu (bleeding) rất lớn cho phe Việt tộc, cho lực lượng dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc về lâu về dài, và như vậy là đã trúng thâm ý của Tàu là chia rẽ, phá hoại đoàn kết dân tộc, phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng …
Tàu còn xúi dục, yểm trợ Kmer Đỏ tàn sát người Việt và tấn công biên giới tây nam để khích VN phải xua quân qua Kampuchia, tốn người, hại của, mất uy tín đối với quôc tế. Vậy mà Tàu vẫn giả đò tức giận, dùng ngay lý do VN xâm lăng và chiếm đóng Kampuchia để xua quân tấn công biên giới phía bắc, rõ ràng là ném đá dấu tay rồi lại thừa cơ đối sách yếu kém của CSVN để mượn cớ gây chiến, cũng giống như trong lịch sử, Tàu luôn luôn nhân cơ hội hoặc tạo cơ hội làm cho nước ta suy yếu hoặc nội loạn để mà mượn cớ xâm lăng.
Cũng phải ghi nhận rằng cuộc thảm sát của Kmer Đỏ làm chết gần 2 triệu người Miên (21% dân số) về bản chất cũng là 1 cuộc “cải cách” còn triệt để và đẫm máu hơn là Cải Cách Ruộng Đất ở VN, vốn là đòn độc hiểm của Tàu (Kmer đỏ là Mao-ít, rất tôn sùng Mao Trạch Đông) (*17), dùng người Miên giết người Miên để khống chế người Miên về lâu về dài, dùng Kmer Đỏ để răn đe, phá hoại Việt, giống như 1 lưỡi dao sẵn sàng để đâm ngang hông Việt. Thảm họa diệt tộc của dân Miên trực tiếp là qua bàn tay Kmer đỏ, nhưng chính CSVN đã đưa Pon Pot, Iêng Sary và Kmer đỏ về Miên và giúp chúng lật đổ chế độ Lon Nol. Do vậy, đây cũng đồng thời là âm mưu của Đảng CSVN, dùng Kmer đỏ để làm yếu dân Miên hầu thực hiện mộng Liên Bang Đông Dương .
Nga (Liên xô) vốn âm mưu dùng Chủ Nghĩa CS để thôn tính cả thế giới, kể cả Tàu, dưới chiêu bài Thế Giới Đại Đồng, nhưng Tàu to quá, Nga nuốt không nổi, đồng thời, khác với Hồ Chí Minh và đảng CSVN, Mao Trạch Đông và đảng CS Tàu dù là chịu lép vế một thời phục tùng Stalin để được huấn luyện và yểm trợ chống lại Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân đảng Tàu, đã không ngu dại để biến thành tay sai của Nga, làm tên lính xung kích cho CS Nga như Hồ Chí Minh và đảng CSVN, hậu quả là Tàu và Nga trở thành kẻ thù của nhau-
Sau này kinh tế kiểu XHCN thất bại, nên Nga Xô Viết xụp đổ, không giữ được những nước nhỏ mới thôn tính được sau thế chiến II – Nhưng Tàu dùng CNCS làm bình phong thì dù thất bại về kinh tế (khi chưa đổi mới theo kiểu tư bản), vẫn có thể thôn tính được các nước Đông Dương, vì kinh tế XHCN nếu làm cho Tàu yếu một, thì sẽ làm cho các nước nhỏ bị yếu 10 lần hơn, đảng cầm quyền do bị cô lập với thế giới tư bản, sẽ phải càng phải lệ thuộc vào đàn anh để có chỗ dựa chính trị, hầu giữ vững quyền lực và quyền lợi-
Rốt cuộc các diễn biến ở VN từ 1927 dường như đều thuận lợi cho sách lược nam tiến ngàn năm không ngưng nghỉ của Tàu. Nghĩ cho cùng, về thực chất sâu xa lịch sử xung đột Việt-Tàu từ xưa đến nay toàn là Tàu chủ động đánh Việt, toàn là Tàu giấu mặt trá hình, dùng mọi thủ đoạn thâm độc tìm cách làm cho Việt đánh lẫn nhau mà suy yếu đi để dễ nuốt, dân mình Bắc Nam đều chỉ là nạn nhân, các lãnh tụ CSVN hoặc không biết, hoặc bị sai khiến, cũng chỉ là con cờ trong bàn tay phù thủy mà thôi.
Có một điều đáng tiếc, là ở miền Nam VN sau 1954, nếu ông Ngô Đình Diệm có tư tưởng cởi mở hơn, thì đã có thể kéo dài Đệ nhất Cộng Hòa thêm một thời gian đủ dài để xây dựng được tiềm lực vững mạnh dựa vào sự đoàn kết các đảng phái, tôn giáo và ủng hộ sâu rộng của quần chúng để tạo sức mạnh chống lại sự thao túng của Mỹ và thủ đoạn tuyên truyền của CS, giống như Lý Thừa Vãn, Phác Chính Hi cùa Đại Hàn, hoặc Lý Quang Diệu của Singapore cùng thời. Vậy thất bại của ông NĐD phát xuất từ tư tưởng cổ hủ của ông- Xuất thân từ một gia tộc quan lại, bản thân vốn cũng là một đại quan của Vua Bảo Đại, ông cũng như các anh em của ông đã không thể thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa Tống Nho lỗi thời của phong kiến Tàu. Chính đầu óc phong kiến nặng nề đó đã làm cho một lãnh tụ có tinh thần dân tộc như ông Diệm, sau khi lên làm Tổng Thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, không những không phát triển được mối quan hệ hợp tác với các đảng phái QG và các lực lượng chống cộng khác (Cao Đài, Hòa Hảo …) để xây dựng nền dân chủ pháp trị, mà lại còn bị ảnh hưởng của bọn xu nịnh, trở thành gia đình trị, đưa chế độ vào tình trạng xa rời quần chúng, tạo điều kiện cho địch (kể cả Mỹ) tuyên truyền phá hoại, và như thế là đưa nền cộng hòa còn quá non trẻ đến chỗ sụp đổ quá sớm, không đủ thời gian để xây dựng một hệ thống chính trị và quân sự hoàn toàn mới cho phe Quốc Gia (không còn tàn dư của thời Pháp thuộc qua sự lưu dụng những công chức và sĩ quan cao cấp được Pháp đào tạo). Vậy là lại mất đi thêm một cơ hội để phục hưng sức mạnh Việt tộc chống lại âm mưu xâm lược của Tàu.
Chúng ta nay đã đều biết ai đứng đàng sau Mặt Trận Việt Minh (trước 1954) và MT Giải Phóng Miền Nam (trước 1975) để giựt giây? chính là đảng CSVN, con đẻ của Quốc Tế III (Nga Xô), tay sai của đảng CS Trung Hoa. Từ lâu, CS Tàu muốn và đã dùng chủ nghĩa CS đễ thôn tính các nước Đông Dương, mở rộng biên cương xuống phía Nam để làm chủ biển Thái Bình và cả vùng Đông Á. Trong ý đồ đó, miếng xương khó nuốt nhất vẫn là một nước VN thống nhất và hùng mạnh.
Từ 3000 năm nay Tàu thất bại hoặc rất khó khăn khi muốn xâm lăng và đồng hoá VN vì ý chí dân tộc VN còn mạnh, may quá, nay Tàu vớ được Chủ Nghĩa Cộng Sản, dùng ngay mục tiêu hoang tưởng là “Đấu tranh giai cấp để tiến đến Thế Giới Đại Đồng”, tạo ra một thứ chính nghĩa ảo, kiểu “Thiên Đàng hạ giới”, lừa gạt những người cùng khổ, những người kém tinh thần dân tộc, những người nhẹ dạ, cả tin, cuồng tín giáo điều hoặc kém suy luận, để che đậy ý đồ xâm lược (của Tàu) và âm mưu bán nước (của thành phần tay sai, thân Tàu trong Đảng CSVN)-
Chiến tranh giải thực ở VN vốn không cần chịu mất mát và đổ máu nhiều đến thế (do phe phái đánh lẫn nhau, thanh toán nội bộ, đánh thí quân kiểu tấn công biển người ….), nhưng với âm mưu làm yếu Việt, Tàu đã xúi dục, cổ võ, yểm trợ cho chiến tranh và phân hóa. Nhìn bề ngoài, thì giống như người Việt chống Pháp, Việt Minh đánh Việt Gian … nhưng thực ra là Hán tộc (Tàu) đánh Việt tộc bằng cách dùng ngay người Việt (Việt Minh) đánh giết người Việt (các đảng phái Quốc Gia, hoặc phe thân Pháp, hoặc thanh trừng nội bộ, thanh lọc đảng, thanh lọc dân …). Lực lượng Việt tộc (chính quyền Quốc Gia, các đảng phái Quốc Gia, các tôn giáo…) biết rõ sự phụ thuộc vào Cộng Sản Tàu, Nga của các lãnh tụ Việt Minh, nhưng vì không có chỗ dựa nên đành phải dựa vào Pháp để chống Cộng, mà do Pháp thua, phải ký HĐ Geneve, nên phải cùng chạy xuống miền Nam qua Vĩ tuyến 17..
Sau đó Tàu lại tích cực yểm trợ cho sách lược xâm chiếm nốt miền Nam của CS Bắc Việt, lại tiếp tục xúi Việt đánh Việt bằng chủ nghĩa CS và yểm trợ ồ ạt về quân sự cho Mặt Trận GPMN do CS miền Bắc dựng lên, đưa quân Tàu giả dạng Việt vào miền Bắc (*14) để miền Bắc có thể xua toàn lực thanh niên Bắc Việt vào quân Giải Phóng xâm nhập miền Nam (sinh Bắc tử Nam), một công hai việc, vừa gây chiến tranh huynh đệ tương tàn làm suy yếu dân Việt, vừa lan tràn ảnh hưởng xuống Đông Nam Á.
Như vậy, sau 1975, mặc dù bề ngoài trông giống như phe Xã Hội CN thắng phe Tư Bản, phe Bắc Việt thắng phe Nam Việt, hoặc là Giải Phóng Miền Nam thắng Mỹ … nhưng thực ra vẫn là Tàu thắng Việt, vì Tàu đã thành công trong âm mưu dùng người Việt đánh người Việt, dùng người Việt truy bức người Việt, làm cho 2 miền đều kiệt quệ, chết người, hại của, gây thêm chia rẽ và hận thù chồng chất.
Nhớ lại, sau khi dàn xếp thỏa hiệp được với Tàu để dồn nỗ lực làm suy yếu Nga, Mỹ phản bội đồng minh, bỏ rơi VNCH, làm ngơ cho Tàu chiếm đoạt Hoàng Sa của VN, cắt hết quân viện làm cho miền Nam thất trận 1974 (*15 ) - Sau đó miền Bắc xé bỏ thỏa thuận trước đây với MTGPMN (giữ miền Nam trung lập trong 2 năm rồi mới hiệp thương thống nhất 2 miền),áp đặt ngay chế độ độc tài đảng trị, chính sách kỳ thị chính trị và nền kinh tế giáo điều XHCN trên cả nước bằng cách cào bằng lực lượng sản xuất miền nam với các chiến dịch đánh Tư sản và đổi tiền (thực chất là cướp tài sản), cô lập hoặc xua đuổi những người có tinh thần dân tộc, kể cả các lãnh tụ của Mặt Trận GPMN. Một số lớn nhân lực (vài trăm ngàn thanh niên trẻ và chuyên gia các ngành nghề quân sự, dân sự, khoa học kỹ thuật….) có tiềm năng chống Tàu hoặc xây dựng kinh tế rất lớn bị lừa vào các trại cải tạo, thực chất là các trại tù. Một số lớn dân chúng có tiềm năng xây dựng nền công nghiệp và kinh tế thị trường bị cưỡng bức đi khai khẩn vùng hoang vu (gọi là vùng kinh tế mới), bị chết chóc và đàn áp dữ dội.
Sự kỳ thị chính trị một cách quá khích và nền quản trị quá kém cỏi đã làm Kinh tế cả nước phá sản (*16), tinh thần người dân bị suy sụp, người dân bị đẩy đến chỗ cùng quẫn đến nỗi phải vượt biển ra nước ngoài cả triệu người, là một con số rời bỏ quê hương đất nước rất lớn chưa từng có trong trong lịch sử VN- Cả triệu người, đại đa số là dân thường, kể cả dân miền Bắc (nhất là từ Hải Phòng) phải liều lĩnh chạy ra khơi bỏ quê hương mà ra đi về nơi xứ lạ quê người, bất kể cướp biển và chết chóc (khoảng 1/3 vùi thây trong biển cả), điều đó nói lên được sự cùng quẫn thất vọng của người dân đối với nền cai trị ở VN. Những biến cố đau xót và lớn lao đó thật sự là lại thêm 1 lần mất máu (bleeding) rất lớn cho phe Việt tộc, cho lực lượng dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc về lâu về dài, và như vậy là đã trúng thâm ý của Tàu là chia rẽ, phá hoại đoàn kết dân tộc, phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng …
Tàu còn xúi dục, yểm trợ Kmer Đỏ tàn sát người Việt và tấn công biên giới tây nam để khích VN phải xua quân qua Kampuchia, tốn người, hại của, mất uy tín đối với quôc tế. Vậy mà Tàu vẫn giả đò tức giận, dùng ngay lý do VN xâm lăng và chiếm đóng Kampuchia để xua quân tấn công biên giới phía bắc, rõ ràng là ném đá dấu tay rồi lại thừa cơ đối sách yếu kém của CSVN để mượn cớ gây chiến, cũng giống như trong lịch sử, Tàu luôn luôn nhân cơ hội hoặc tạo cơ hội làm cho nước ta suy yếu hoặc nội loạn để mà mượn cớ xâm lăng.
Cũng phải ghi nhận rằng cuộc thảm sát của Kmer Đỏ làm chết gần 2 triệu người Miên (21% dân số) về bản chất cũng là 1 cuộc “cải cách” còn triệt để và đẫm máu hơn là Cải Cách Ruộng Đất ở VN, vốn là đòn độc hiểm của Tàu (Kmer đỏ là Mao-ít, rất tôn sùng Mao Trạch Đông) (*17), dùng người Miên giết người Miên để khống chế người Miên về lâu về dài, dùng Kmer Đỏ để răn đe, phá hoại Việt, giống như 1 lưỡi dao sẵn sàng để đâm ngang hông Việt. Thảm họa diệt tộc của dân Miên trực tiếp là qua bàn tay Kmer đỏ, nhưng chính CSVN đã đưa Pon Pot, Iêng Sary và Kmer đỏ về Miên và giúp chúng lật đổ chế độ Lon Nol. Do vậy, đây cũng đồng thời là âm mưu của Đảng CSVN, dùng Kmer đỏ để làm yếu dân Miên hầu thực hiện mộng Liên Bang Đông Dương .
III- Vận nước còn nổi trôi.
A- Chiến lược thôn tính Việt Nam và Đông Dương của Tàu
Sau 80 năm thuộc Pháp, với chính sách bóc lột về kinh tế và chia để trị về chính trị (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ với 3 chế độ cai trị khác nhau), Thực dân Pháp đã làm cho VN khá kiệt quệ và chia rẽ. Đến khi Mao nhờ viện trợ của CS Nga, đánh thắng Tưởng, nắm được chính quyền, thì Mao khởi đầu chiến lược thôn tính Đông Dương. Nếu Tưởng thắng, thì cũng sẽ làm y như vậy- Tàu nào cũng giống nhau- Sẽ rất là lạ nếu thực tế lịch sử lại không xảy ra như vậy- Mộng Đại Hán nằm sẵn trong đầu bất cứ anh Tàu nào- Do đó, dĩ nhiên là CS Tàu phải điều khiển cho được cuộc chiến Đông Dương theo sách lược đó. Có rất nhiều tài liệu lịch sử đã được phổ biến cho thấy chiến tranh quốc cộng ở VN kể cả trận Điên Biên Phủ 1954, Hiệp định Geneve chia cắt đất nước, và tất cả các chính sách của CSVN kể cả cuộc Cải cách ruộng đất đẫm máu 1956, đều nằm trong âm mưu do Tàu xếp đặt hoặc lợi dụng, tận dụng sự lệ thuộc của lãnh đạo đảng CSVN để thủ lợi cho Tàu đồng thời làm suy kiệt Việt Nam mọi mặt, nhất là về kinh tế (do chiến tranh tàn phá liên miên, và kinh tế kiểu XHCN phá sản), về văn hóa xã hội và tinh thần dân tộc (ý thức về nền độc lập dân tộc bị phá sản để xây dựng Thế giới đại đồng CSCN), đạo đức xã hội bị băng hoại, thế hệ trẻ bị đầu độc, nhân tài bị thui chột, cô lập hoặc loại bỏ, hoặc phải trốn chạy ra nước ngoài.
Một khi ý chí đấu tranh bị mất định hướng, bị đàn áp hung bạo đến tê liệt và suy kiệt, người dân sẽ chỉ còn biết an thân thủ phận lo sinh kế hoặc tranh nhau hưởng thụ nếu có điều kiện. Tinh thần dân tộc nếu bị lụn bại (dân khí tuyệt) sẽ rơi vào cái thế buộc phải lệ thuộc ngoại bang, đưa tới mất nước và bị đồng hoá y như dân Chiêm Thành, Chân Lạp trước đây vậy. Dân ta ở VN sẽ thành ra người Tàu gốc Việt, Tàu hạng nhì hạng ba, như là đã xảy ra sau khi Tàu xâm chiếm Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông vậy, hoặc giống như Việt kiều sau khi thua cuộc, chạy ra nước ngoài thôi, chỉ vài ba thế hệ sau là thành Mỹ gốc Việt, Tây gốc Việt, đều thành con lai hết…. Rốt cuộc đó cũng là thể hiện quy luật vận động của lịch sử loài người: Di dân và Đồng hoá.
Tàu vốn rất ngại 1 Việt Nam thống nhất và hùng mạnh, nhưng vì bài học lịch sừ ngàn năm còn đó, Tàu chưa dám tính đến chuyện nuốt trọn cả nước Việt và luôn luôn chủ trương “tàm thực”. Tuy nhiên, sau khi nhận thấy nhóm lãnh đạo CSVN chỉ gồm toàn những kẻ thuộc loại cuồng tín CSCN nhưng lại quá kém về trình độ tư duy và nhận thức, cũng như kiến thức và năng lực về quản lý (gọi là “ấu trĩ tả khuynh”), Tàu nhận thấy việc ra mặt yểm trợ Bắc Việt xâm chiếm miền Nam không những không có hại cho Tàu, mà về lâu về dài còn có lợi cho mưu toan bành trướng khắp Đông Nam Á, phá thế bao vây của cả Nga lẫn Mỹ, do đó từ 1960 Tàu thay đổi thái độ, tiếp tục viện trợ hào phóng cho Bắc Việt và MT Giải phóng MN, trong cuộc cờ này, Nga xem ra thua thiệt trong ý đồ dùng Việt Nam để bao vây Tàu, và tạo ảnh hưởng lên vùng Đông Á-
Sau khi Nga Xô sụp đổ, chỗ dựa duy nhất của CSVN bị mất, lại bị cô lập với quốc tế vì chiếm đóng Kampuchia, đồng thời với nền kinh tế tan hoang và nhân tâm ly tán, CSVN không còn đường nào khác, đành phải quay lại khuất phục Tàu, dựa vào thứ “chính nghĩa” bảo vệ CNXH thế giới, nhượng bộ Tàu mọi mặt để được tồn tại (Hội nghị Thành Đô 1990). Đến đây thì thấy rõ nhà cầm quyền CSVN hiện nay đang lâm vào tình thế bắt buộc phải giao căn nhà VN cho Tàu. Mọi động thái hiện nay của CSVN chính là đang chuẩn bị giao Việt Nam cho Tàu: Giao Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Tây Nguyên, chủ quyền Biển, Đảo, đàn áp các phong trào yêu nước ….
Tóm lại Tàu muốn nuốt VN và Đông Nam Á thì đã phải chuẩn bị tình huống “tằm ăn dâu” (nuốt từ từ). Sau khi đã chuẩn bị từ năm 1927 với tay sai là Hồ chí Minh và Đảng CSVN, đến nay Tàu đã chiếm được các cao điểm quân sự ở biên giới phía Bắc (Ải Nam Quan, Đồi Lão Sơn …), làm chủ vùng biển VN, đóng quân trên Tây nguyên, yết hầu chiến lược của toàn thể Đông Dương, lật đổ ảnh hưởng của VN tại Lào và Campuchia, tạo thế bao vây VN trên bộ và ngoài biển, gài người nắm các chức vụ then chốt trong Bộ Chính trị CSVN và guồng máy an ninh và quốc phòng VN, tiêu diệt các lực lượng dân tộc, triệt hạ ý chí dân tộc, phá hoại kinh tế, văn hóa và xã hội VN thông qua nhà cầm quyền tay sai khiếp nhược “hèn với giặc, ác với dân”.
Khí thế đấu tranh của dân tộc (dân khí) nếu không được thổi bùng lên, thì khó có thể chống được âm mưu nội công ngoại kích của địch, sợ rằng không bao lâu nữa Tàu sẽ có thể nuốt được Việt Nam, thành lập chính phủ tay sai, biến VN thành khu tự trị về hành chánh giống như Tân Cương, Nội Mông và Tây Tạng.
Dĩ nhiên là trong khối quần chúng đông đảo, kể cả trong lực lượng vũ trang, nhất là quân đội, cũng còn nhiều người yêu nước, có tinh thần dân tộc mạnh, họ không thể chịu đựng được nỗi nhục mất nước, làm tay sai, làm nô lệ cho Tàu, họ sẽ tập họp lại thành thế lực chống đối đủ mạnh. Và vì mất chính nghĩa, chánh phủ tay sai của Tàu cũng sẽ bị suy yếu và chia rẽ, rốt cuộc VN sẽ lại bị tách ra làm 2 như tình thế trước 1954, phe chống Tàu sẽ rút về miền Nam, đảng Cộng Sản VN sẽ phải sụp đổ, vì đến lúc này con cờ “Đảng CS” hoặc “XHCN” sẽ hoàn toàn mất hiệu quả, trở thành lạc hậu và phản động, lúc đó là lúc sẽ nhiều nhân vật hoặc đảng chính trị với danh nghĩa phục quốc, chống cộng … xuất hiện để tranh chấp chính quyền miền Nam- Như vậy thì bàn cờ sẽ có tiềm năng quay lại cái thế tương tự thời 1945 với các đảng phái quốc gia và mặt trận Việt Minh, rồi thì sẽ tới thế cờ sau 1954 với Mặt Trận Giải phóng miền Nam.
Mặc dù lịch sử diễn biến, nhưng với 1 nền tuyên truyền dối trá và bưng bít sự thật, bị chi phối bởi Tàu và tay sai, thế hệ con em chúng ta đã và sẽ không học hỏi được kinh nghiệm gì của lịch sử, đại cuộc như vậy vẫn sẽ tiếp tục bị chi phối bởi thế lực ngoại bang, cho nên đại thể diễn biến lịch sử sắp tới sẽ vẫn là cảnh bổn cũ soạn lại. Do đó, những bàn tay lông lá cũ đã, đang và sẽ chuẩn bị những lá bài mới cho giai đoạn mới (từ 1975). Một cuộc “giải phóng miền Nam” nữa sẽ có cơ lại được dàn dựng để gạn lọc cho hết những thành phần còn ý thức mạnh về độc lập dân tộc… cho đến khi toàn thể Đông Á trở thành Tàu hoặc phiên bang của Tàu. Cuộc cờ muôn thuở ở VN cho tới nay vẫn không thay đổi, sau mỗi cuộc cờ giữa 2 phe người Việt vẫn không có bên nào là “Bên Thắng Cuộc”, mà kẻ thắng chính là Hán tộc, còn kẻ đại bại vẫn là nhân dân Việt Nam, là Việt tộc.
B- Chiến lược can thiệp của Mỹ.
Còn Mỹ thì sao? nếu VN mất vào tay Tàu thì Mỹ cũng đâu có thiệt gì đâu? Mục tiêu lâu dài của Mỹ là giữ vững thế siêu cường số một- Chiến lược cốt lõi của Mỹ vẫn là bảo vệ và phát triển lợi nhuận các đại công ty tài phiệt và công kỹ nghệ- Đối với Mỹ, quyền lợi là trên hết, cho nên Mỹ vốn là cần Tàu hơn là cần VN. Thông qua nhà cầm quyền độc tài đảng trị CS Tàu, Mỹ không cần xâm lăng đất đai của Tàu cũng vẫn bóc lột được 1 tỷ rưỡi người Tàu-
Mỹ cũng chẳng sợ gì Tàu, nhưng sẽ không gây chiến để tiêu diệt Tàu, vì không có lợi- Mỹ đã thắng Nga và sắp xếp Nga vào quỹ đạo thế giới thế nào thì cũng sẽ tính là về lâu dài sẽ thắng Tàu và sắp xếp Tàu vào trật tự thế giới bằng cách tương tự, Mỹ sẽ làm Tàu phải phình to ra và tự nổ thành nhiều mảnh, y như Nga Xô Viết vậy, dù biết trước mà vẫn không tránh được…. Từ nay cho tới lúc đó, thì nếu Tàu mà ra mặt đụng độ với Mỹ, Mỹ chỉ cần xù nợ hoặc không mua hàng là Tàu sẽ gặp khó khăn rất lớn, có thể có nội loạn ngay nếu cả trăm triệu người thất nghiệp do cấm vận.
Dĩ nhiên Mỹ cũng sẽ gặp khó khăn kinh tế, vì đã có phần nào phụ thuộc vào hàng hóa rẻ tiền nhập từ Tàu. Tuy nhiên vì mục tiêu lâu dài và chiến lược cốt lõi của mình, Mỹ cũng không thể để Tàu nuốt hết và làm chủ hoán toàn Việt Nam, vì nếu chiếm được VN, Tàu sẽ làm chủ được biển
đông, từ đó sẽ bao vây Nhật , Nam Hàn, Đài Loan, đe dọa Thái Lan, Miến Điện,Phi, Malaysia, Singapore, Indonesia…sự bành trướng này đe dọa quyền lợi kinh tế toàn cầu cũng như vị trí siêu cường số 1 của Mỹ. Vậy thì Mỹ sẽ phải tìm mọi cách để ngăn chặn đà bành trướng này bằng cách yểm trợ cho phe chống đối ở VN trở nên đủ mạnh về quân sự để tạo áp lực với Tàu, buộc Tàu phải lùi lại, triệt thoái ảnh hưởng tại miền nam VN để chỉ đủ sức chú tâm vào giữ vững vùng phên dậu của mình, là miền Bắc VN. Cuộc chiến long tranh hổ đấu để tái sắp xếp bàn cờ và tranh dành ảnh
hưởng ở Thái Bình Dương này sẽ làm cho dân Việt xương tan máu đổ vài chục năm, rốt cuộc chỉ để Mỹ đạt được thỏa hiệp với Tàu bằng cách chia đôi VN như trước đây. Cái mà Mỹ sẽ được, là cầm chân được Tàu, duy trì hiện trạng cán cân lực lượng với ưu thế về Mỹ, chờ dịp để thực hiện “tái sắp xếp” Tàu vào quỹ đạo thế giới của mình. Cái mà Tàu được có ý nghĩa lớn đối với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, là làm chủ thực sự miền Bắc, làm chủ thực sự nửa nước VN, đó là 1 thành công rất lớn của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán có thể đạt được sau mấy ngàn năm kiên trì theo đuổi chiến lược tằm ăn dâu nhằm thôn tính và đồng hóa Việt Nam-
Thế cờ xa sắp tới là cả Mỹ và Tàu đều chuẩn bị thử sức nhau lâu dài ở biển Đông, ở miền Nam VN. Bọn họ đã và đang chuẩn bị rồi đó, vận mệnh dân ta nay rất là mong manh, nếu dân khí đã tuyệt, thì chỉ còn phú cho ông Trời thôi…. và nếu không phục hưng lên kịp, VN sẽ vẫn chỉ là 1 quân cờ, và vẫn còn là nơi chiến trường trắc nghiệm.
C- Tiếp tục cuộc chiến vì dân chủ và độc lập dân tộc của VN.
Tình hình quốc nạn như nước sôi lửa bỏng. Những phản ứng biểu lộ lòng yêu nước trong nhân dân nay đã vượt quá mức độ dư luận, tuyên ngôn tuyên cáo, sáng tác văn thơ yêu nước, những bản nhạc yêu nước. Phản ứng của người dân Việt trong nước tỏ ra có tiềm năng lan rộng và sâu dù bị đàn áp và kiểm soát chặt chẽ. Tuy nhiên, với kỹ thuật kìm kẹp đàn áp tinh vi của nhà cầm quyền tay sai và sự tác động, can thiệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp của Bắc Kinh, cuộc cách mạng vì dân chủ và độc lập dân tộc trong nước do đó chỉ có thể thành công khi có được 1 lãnh tụ xuất hiện, có khả năng tập hợp được quần chúng hoặc thành lập được 1 lực lượng quân sự đủ năng lực du kích chiến để tồn tại và phát triển khi có cơ hội. Người lãnh tụ này chỉ có thể là người trong nước, và sẽ chỉ xuất hiện khi bạo loạn xảy ra ở khắp nơi mà chính quyền tay sai không còn kiểm soát nổi, đồng thời với một hoặc cả hai điều kiện là:
- Một khi Tàu làm chủ cả nước VN, thì sau đó không lâu, Miên và Lào cũng sẽ lập tức chịu chung số phận, và Thái Lan, Miến Điện sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Do đó, Mỹ ngay từ bây giờ, đã phải giúp Thái Lan tăng cường tiềm lực quân sự, đồng thời tìm cách can thiệp vào Miên, Lào trực tiếp hoặc gián tiếp (qua Thái Lan, Miến Điện) để diệt hoặc làm suy yếu ảnh hưởng của Tàu, giữ cho 2 nước này quy chế trung lập để ngăn quân Việt do Tàu điều khiển tràn qua biên giới, đồng thời để có thể dành 1 vùng rừng núi biên giới Thái–Lào, Lào-Việt, hoặc Miên-Việt làm an toàn khu và hậu cứ của lực lượng kháng chiến chống quân đội VN tay sai của Tàu, qua hành lang này du kích Việt sẽ nhận tiếp viện quân sự để mở rộng chiến tranh chống chính quyền tay sai Tàu ở VN.
- Đồng thời nếu Tàu đang bị mắc vào những biến động lớn, phải quay về sắp xếp đối phó động loạn nội bộ, không còn đủ khả năng hoặc không thể ra mặt can thiệp trực tiếp cứu nguy cho nhà cầm quyền tay sai.… Nếu tình huống này xảy ra sớm, hy vọng một VN thống nhất trong độc lập và dân chủ sẽ có cơ may tồn tại, bằng không, thì nhiều phần chắc là lại có 1 VN chia đôi, và nhiều thế hệ dân Việt sẽ bị tiếp tục lôi kéo đổ máu xương vào một cuộc chiến nam bắc mới dưới bàn tay tàn độc của Tàu.
Trước mắt, nguy cơ trở thành người Tàu gốc Việt hiện nay là rất lớn, nếu không huy động được toàn lực nhân dân trong nước, cộng thêm yểm trợ của các nước lân bang, thì ít nhất sẽ mất miền Bắc (nếu không để bị mất Tây Nguyên). Một bộ phận dân Việt nếu tiếp tục chạy thoát được sang các nước khác hoặc các nước Âu Mỹ, thì cũng sẽ là di dân, và vài thế hệ nữa thì cũng bị lai giống hoặc đồng hóa, không còn nói được tiếng Việt nữa.
Sự tồn tại của Việt tộc luôn luôn bị đe dọa bởi chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán. Ngày nay lại còn bị đồng thời đầu độc bởi Chủ Nghĩa Cộng Sản. Hậu quả là sức sống của dân tộc bị mòn mỏi cùng cực- Nếu không lật đổ được Chế độ CS thối nát này và bọn tay sai thân Tầu, thì cơ may tồn tại là rất ít. Trừ phi Tàu bị Mỹ “triệt buộc”, phải phình to, và tự nổ sớm, thì may ra đất nước ta và dân ta lại tồn tại được lâu lâu hơn chút nữa… Mong thay !!!
___________________________________________
Ghi chú:
(*1) -Dân khí: Cách đây hơn năm thế kỷ Thân Nhân Trung (Thân Trọng Đức 1418-1499 thời Vua Lê Thánh Tôn) đã viết: “…Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết …” http://vi.wikipedia.org/wiki/Thân_Nhân_Trung
Hoặc nói như cụ Phan Chu Trinh, phải chấn hưng dân khí trước nhất: “Chấn dân khí, hưng dân trí, hựu dân sinh… ”- Dân Nhật định cư ở vùng hải đảo nghèo nàn tài nguyên mà vẫn trở thành Đại cường- Dân Do Thái trải qua vài ngàn năm bị mất nước và bị Đức QX tàn sát, nay tụ lại chỉ có chưa đầy 8 triệu người mà cũng là 1 cường quốc khoa học kỹ thuật (nhiều Nobel khoa học nhất thế giới) và quân sự (đánh thắng liên minh 9 nước Ả Rập chỉ trong 6 ngày)- Nước Hàn cũng bị chia đôi, miền Bắc nghèo đói, nhưng miền Nam đã trở thành cường quốc kinh tế cạnh tranh được với Nhật… là do yếu tố nào? Phải chăng là “dân khí” họ cường mãnh hơn dân Việt mình khi họ đoàn kết một lòng trong chiến tranh giữ nước, trong nỗ lực tăng gia sản xuất xây dựng kinh tế, đứng lên chống lại độc tài quân phiệt để xây dựng nền dân chủ pháp trị ?-
Ý thức của thành phần ưu tú lãnh đạo một cộng đồng (hoặc Quốc gia) về sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân cũng là đặc điểm của dân khí cường mãnh, thí dụ:1/-Ở nước ta, với Hội Nghị Diên Hồng, vua với dân đồng lòng chống quân Mông Cổ. Thời vua Quang Trung đem quân ra Bắc 2 lần để phù Lê diệt Trịnh và sau đó đại phá quân Thanh, quân miền nam không tàn sát dân, cũng không trả thù binh lính miền Bắc- 2/-Nước Mỹ sau cuộc Nội chiến Nam Bắc tàn khốc, phe miền Bắc thắng trận đã đối xử với phe miền Nam thua trận rất cao thượng, hoàn toàn không có sự kỳ thị hoặc trả thù, kẻ thua trận vẫn được kính trọng và vẫn được bình đẳng, coi như anh em, hoàn toàn không giống như ở VN sau năm 1975.
Sức mạnh của dân tộc (dân khí) là ở chỗ: ý thức kỷ luật, ý thức tập thể thể hiện qua tinh thần đoàn kết dân tộc và khí thế đấu tranh dành độc lập dân tộc trên bình diện rộng.
Biểu hiện của dân khí là ở chỗ xuất hiện trong dân gian những lãnh tụ kiệt xuất, những bậc hào kiệt có khả năng quy tụ quần chúng đông đảo đứng lên chống độc tài, chống bán nước, chống xâm lăng.
(*2)- Chiếm Chiêm Thành: Khởi đầu với vua Lý Thánh Tông (1069), đến năm 1693 với chúa Nguyễn Phúc Chu, xóa sổ dân Chiêm Thành-
- Chiếm Miên: Khởi đầu từ 1658, Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần chiếm Biên Hòa.
(*3 ) -Người Hoa ở VN: http://www.viethoc.org/phorum/read.php?10,45688 (cận đại)-
Posted by Lê Bắc, June 08,2004.
-Vào năm 1679 và 1680, khi nhà Thanh bình định được tỉnh Quảng Đông thì một số quan quân dân nhà Minh đã bỏ chạy ra nước ngoài. Ngoài 2 đợt di dân quan trọng đó, suốt thế kỷ 19 có nhiều người Hoa, theo tình hình xã hội, đã di dân tới Việt Nam và nhiều nước Đông Nam Á khác.
-Khi Pháp chiếm được 6 tỉnh Nam Kỳ, vì nhu cầu đất rộng người thưa, tư bản Pháp đã chiêu mộ và khuyến khích người Hoa từ Trung Quốc và Singapore sang kinh doanh, khai thác.
- Chiến tranh Quốc Cộng ở Trung Hoa đã làm cho nướcTàu loạn lạc, và nhất là khi Trung Cộng chiếm toàn bộ Hoa Lục năm 1949, nhiều nhóm người Hoa cũng đã chạy trốn Cộng Sản và thiên cư sang Việt Nam (và nhiều nước Đông Nam Á khác.)
-Năm 1954, nhiều người Hoa ở Hà Nội, Hải Phòng đã di cư vào Nam
-Năm 1975-1979, với biến động ở Campuchea,nhiều người Hoa cũng đã chạy tỵ nạn sang sinh sống ở Việt Nam.
Nguồn gốc của người Hoa ở Việt Nam đa số có gốc tích từ các tỉnh duyên hải ở miền Nam Trung Quốc, chủ yếu là hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến. Khi sang nước ta, họ có khuynh hướng sống qui tụ thành bang hội theo nguồn gốc quê hương của họ.
(*4) –An Dương Vương (Thục Phán), rồi đến Triệu Đà đều là người Hoa Nam-
Xem: Lê văn Siêu, Việt Nam Văn Minh sử Cương, NXB Thanh Niên 2004-trg 36,: Sáu trong 12 sứ quân thời sau vua Ngô Quyền là thổ phỉ bên Tàu chạy qua.
Triệu Đà (207-137BC) nổi loạn chống Tần Thủy Hoàng, thua chạy về phương Nam, tiến chiếm Âu Lạc của An Dương Vương Thục Phán, xưng vương, đặt tên nước là Nam Việt, gồm Âu Lạc, Quảng Đông, Quảng Tây, đặt kinh đô ở Phiên Ngung thuộc tỉnh Quảng Đông (Xem Việt Nam Nước tôi, Phan Như Huyên, Garden Grove, CA, USA, 2000)
(*5) Xem: Cát Kiếm Hùng, Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc, trang 10-11, Người dịch : Phong Đảo, NXB Văn Hóa Thông Tin Hà Nội 2004.
(*6) -Lý Đông A, Chu Tri Lục 3 Cương Lĩnh (1943). http://thangnghia.com/?p=43
(*7)- Xem: Lễ Tế cờ, (chương 2),Nhóm Tâm Việt Sydney, 2008-
http://www.chinhviet.net/08TaiLieu/2011/2011_11TL/02Chuong2LeTeCoCuaHcm.htm
(*8 ) Xem Đại Nghĩa: Hồ Chí Minh và Cải Cách Ruộng Đất. http://www.danchimviet.info/archives/35479
*Ông Hoàng Tùng, nguyên Tổng Biên tập báo Nhân Dân (1954-1982) kể lại trong chuyện “Bí mật HCM” cho chúng ta thấy được sự nô lệ của ông Hồ và đảng Lao Động Việt Nam (tiền thân của đảng CSVN) như thế nào: “Mùa hè năm 1952 Mao Trạch Đông và Stalin gọi bác sang, nhất định bắt phải thực hiện CCRĐ. Sau thấy không thể từ chối được nữa, bác mới quyết định phải thực hiện CCRĐ…. Mục đích của họ không phải là CCRĐ mà là đánh vào đảng ta ….
Ngay sau khi Bác quyết định cải cách ruộng đất, Trung Quốc đã cử các đoàn cố vấn sang. Đoàn Cố vấn Cải cách ruộng đất do Kiều Hiểu Quang, phó bí thư Tỉnh ủy Quảng Tây, phụ trách”.
*Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, trả lời báo Quê Mẹ khi du lịch sang Pháp sau năm 1975, ông nói: “Trong lịch sử Việt Nam từ hồi lập quốc đến nay chưa có một cuộc thanh trừng giết dân nào khủng khiếp tàn bạo như cuộc CCRĐ. Hầu như mọi cuộc đấu tố đều có sự nhúng tay của cố vấn Trung cộng. Điều đó cho thấy chính quyền HCM lệ thuộc ngoại bang như thế nào”. (Người Việt ngày 7-9-2004).
*Xem thêm: Huy Đức, Bên Thắng Cuộc, NXB OsinBook, California, USA 2012, trg 255 “…Cùng với cải cách ruộng đất, chiến dịch “Chỉnh đốn tổ chức Đảng và chính quyền” mà Hồ Chủ tịch ca ngợi trong báo cáo trước Hội Nghị Trung ương 5 cũng đã gây tổn thương nặng nề cho Đảng”
(*9) Xem: Tùng Phong (Ngô đình Nhu) Chính Đề Việt Nam – - Nhà xuất bản Hùng Vương, Los Angeles 2009: Bối cảnh của vấn đề- http://phamthientho.files.wordpress.com/2011/07/chc3adnh-c3b0e1bb81-vn-ngc3b4-c3b0c3acnh-nhu1.pdf
“…. Liên tục, và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa dân tộc Việt Nam. Để duy trì ách thống trị của mình, các cường quốc xâm lăng thường áp dụng, đối với các dân tộc bị trị, nhiều biện pháp, tuy có khác nhau về hình thức, nhưng chung qui vẫn thuộc hai loại chính:
* Ngăn ngừa không để cho các quyền lợi kinh tế thuộc vào tay người bản xứ.
* Kiềm hãm không để cho dân trí phát triển.
Các loại biện pháp thứ nhứt nhằm mục đích tiêu diệt tất cả các phương tiện vật chất của người bị trị.
Các loại biện pháp thứ hai nhằm mục đích tiêu diệt những người có khả năng xử dụng các phương tiện vật chất trên, nghĩa là các nhà lãnh đạo xứng danh.
Đối với các dân tộc bị trị hai loại biện pháp trên đều có những hậu quả vô cùng thảm khốc…
(*10)- Bùi Tín, Nhìn lại cuộc Cải cách ruộng đất: Những bài học còn nóng hổi - http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8440&rb=0401
(trích):“….Trong CCRĐ nông dân Việt Nam đã chịu bao nhiêu tổn thất? Theo thống kê nội bộ của ĐCS (chưa được công khai hóa), ở những vùng đã làm CCRĐ:… Vậy là tính sơ sơ, số nạn nhân trực tiếp nói chung lên đến nửa triệu con người.
-Chưa hết, theo thống kê nội bộ, trong chỉnh đốn tổ chức được tiến hành ở 2.876 chi bộ ĐCS gồm có 15 vạn đảng viên, đã có đến 84.000 đảng viên bị xử trí (bị tù, tra tấn, xỉ vả, bị giết) chiếm 47%. Con số khủng khiếp này – nhiều hơn số địa chủ bị đấu tố – đã được giữ rất kín. Tôi có những bạn thân, đồng đội cấp trung đoàn (hồi ấy chưa có quân hàm) là trung đoàn trưởng, tỉnh đội trưởng… bị đánh rụng hết răng, mù mắt, gẫy chân; một số khi sửa sai thì đã bị lao phổi nặng do phải nằm đất ẩm, chỉ có manh chiếu rách. Số đảng viên bị tra tấn còn tàn khốc hơn dân thường vì bị coi là phần tử thù địch chui vào Đảng để phá từ bên trong. Hầu hết là đảng viên trí thức, có trình độ học vấn khá. ….” (ngưng trích).
(*11) -Trận Tết Mậu Thân 1968-:
Xem Wikipedia: http://vi.wikipedia.org/wiki/Sự_kiện_Tết_Mậu_Thân#cite_ref-24
(trích:)…“Năm 1967, hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc biên chế thành từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật bổ sung cho Trị – Thiên, Khu V, Tây Nguyên, Nam Bộ, nâng tổng số Quân giải phóng miền Nam lên 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương (không kể dân quân, du kích, tự vệ) . . . . .
. . . . . Sau tổng tiến công Mậu Thân, vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam bị thu hẹp. Quân Giải phóng bị đẩy ra xa và suy yếu trầm trọng: các đơn vị quân sự suy yếu, các lực lượng chính trị bị lộ và bị triệt phá gần hết, thương vong cao hơn hẳn các năm trước …..” (ngưng trích)
Tại sao CSVN lại để xảy ra một thất bại quân sự như vậy? Lý giải rằng Trận Mậu Thân 1968 chỉ nhằm tạo ảnh hưởng bên Mỹ…. chỉ là tuyên truyền cường điệu. Theo lý thuyết chiến tranh, bao giờ cũng phải ước đoán tương quan lực lượng và tiên liệu thiệt hại, cho nên chỉ khi chắc thắng thì mới tấn công lớn; Đối với chiến tranh nhân dân, nếu không chắc thắng 10 phần thì không nổi dậy. Các chiến lược gia và tướng lãnh CS Bắc Việt vốn dày dạn chiến trận không thể nào không biết những điều này khi phát động Tổng tấn công- Nên chú ý thêm ở đây là Tổng tấn công- Tổng nổi dậy, có nghĩa là 2 mặt giáp công, nếu tấn công thất bại, thì nổi dậy cũng thất bại, và ngược lại nếu nổi dậy thất bại, thì tấn công cũng thất bại. Làm sao Đảng bộ ngoài Bắc lại không biết rằng lực lượng MTGPMN vốn chỉ là du kích, không thể thắng được quân đội VNCH có Mỹ yểm trợ đầy đủ? làm sao họ lại không biết rằng lúc đó Mỹ vẫn yểm trợ tối đa phi pháo cho VNCH, cho nên dù có thêm quân số do bộ đội ngoài Bắc xâm nhập, và có ưu thế về vũ khí cá nhân, cũng vẫn không đủ để chiếm ưu thế cần thiết quyết định cho chiến thắng? Rõ ràng đây là 1 trận đánh chỉ để thua, khi thua thì lực lượng chính có thể rút trở lại bưng biền, nhưng lực lượng địa phương (MTGPMN) do phải “tổng nổi dậy”nên đã phải lộ mặt ra hết, và bị tiêu diệt gần hết, thiệt hại này thật là to lớn hơn nhiều lần thành quả về ảnh hưởng chính trị bên Mỹ đã vô tình đạt được, và còn to lớn hơn nữa nếu xét về mặt thiệt hại cho lực lượng Việt tộc. Như vậy Trận Mậu Thân có mục tiêu chính là mượn tay địch để diệt kịp thời cái thế lực có thể tranh dành quyền lực với miền Bắc sau này.
Những người miền Nam có con em theo du kích VC mà bị chết trong cuộc chiến Mậu Thân, những bộ đội “Sinh Bắc Tử Nam” đúng ra là, thay vì oán trách “Mỹ- Ngụy”, phải nên oán trách Đảng CSVN, và bọn CS Tầu mới đúng.
(*12) -Ngộ độc chủ nghĩa CS=
CNCS phá hủy văn hóa truyền thống và ý thức dân tộc, phá hủy nền tảng tư duy về đạo đức cá nhân, cũng phá hủy luôn cấu trúc tự nhiên kinh tế và xã hội do áp dụng triết lý bạo lực về giai cấp đấu tranh kiểu cuồng tín giáo điều, cộng với lý thuyết kinh tế mác xít với biện chứng không tưởng về xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội để tiến đến một loại thiên đường hạ giới là Thế giới Đại Đồng Cộng Sản Chủ Nghĩa- Biện chứng này tạo cho Đảng cầm quyền một thứ “Chính Nghiã” ảo, dựa vào đó để che dấu âm mưu thôn tính, bành trướng (của nước lớn) và sự phục tùng lẫn âm mưu bán nước (của tập đoàn cầm quyền nước mhỏ).
Cho nên những thành phần tinh hoa của Đảng CSVN vốn được nể phục nhờ vào bộ máy tuyên truyền đánh bóng thành những người yêu nước, đấu tranh dành độc lập dân tộc, những người này sau khi nắm quyền cai trị, họ thất bại với mô hình kinh tế XHCN làm cho cả nước nghèo đói kiệt quệ, họ lại quay lại thần phục Tàu, bắt chước kiểu làm ăn kinh tế “đổi mới” của Tàu, chuyển sang kinh tế thị trường nhưng vẫn độc quyền cai trị. Khi nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát sinh lợi nhuận, qua hệ thống bè cánh, họ đã bộc lộ bản chất kiêu mạn và tham tàn vô độ, điển hình của cái thời “tư bản hoang dã”. Lợi nhuận thu về do nắm độc quyền cai trị đã biến toàn bộ cán bộ cai trị các cấp biến chất thành những tập đoàn mafia, “tự thực dân” bóc lột chính nhân dân mình, làm cho Việt Nam càng ngày càng tụt hậu- Và để bảo vệ quyền lợi của mình và tập đoàn, những nhà cai trị này sẽ sẵn sàng thỏa thuận nội bộ để cố bám vào thứ “chính nghĩa Thế giới Đại Đồng CSCN” để quy phục nước đàn anh và đàn áp những người dân có tinh thần dân tộc.
Độc tài sanh ra độc quyền và độc quyền sẽ phải sanh ra tham nhũng hệ thống và hủ hóa cá nhân, điều này có tính quy luật, như 1 hệ lụy của sự quy phục quyền và lợi,như đã từng xảy ra trong lịch sử các nước trong các thời kỳ phong kiến độc tài.
*Xem thêm: Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày (hồi ký chính trị của một người không làm chính trị), Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 424, phần chú thích 1. “Lê Duẩn nói: “… ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc” -
(*13) Xem: Nguyễn Gia Kiểng – Quan hệ Việt-Trung- Thực tế bẽ bàng hơn nhiều. http://ethongluan.org/index.php?option=com_content&view=article&id=1694:quan-he-viet-trung-thuc-te-be-bang-hon-nhieu&catid=44:tham-lun&Itemid=301
*Xem thêm: Trần Quang Cơ, Hồi ức và suy nghĩ, http://www.diendan.org/tai-lieu/ho-so/hoi-ky-tran-quang-co/ (chương 1)…” Nửa cuối của thập kỷ 70 này là thời gian ta chồng chất nhiều sai lầm về đối ngoại nhất trong suốt lịch sử dựng nước sau cách mạng (từ 1945 đến nay):… “
(*14) -Trần Trung Đạo: Từ Buổi Chiều Trên Nghĩa Địa Hàng Dương, http://www.trantrungdao.com/?p=290)
Sự thật bị giấu kín (320 ngàn quân Trung Cộng từng tham gia chiến tranh Việt Nam)
Quân số Trung cộng tham gia chiến tranh Việt nam được tiết lộ trong những tài liệu trước đây: Bên cạnh Liên-Xô, vào thời điểm 1967 ngoài hàng vạn tấn đạn dược, vũ khí, đã có 16 sư đoàn với 170 ngàn quân Trung Quốc tại miền Bắc Việt Nam để yểm trợ cho đảng Cộng sản Việt Nam nhưng đồng thời để bảo vệ vòng đai an ninh của Trung Quốc. Tội ác của đảng Cộng sản Trung Quốc đối với dân tộc Việt Nam, từ các tư tưởng độc hại đến võ khí giết người, từ cải cách ruộng đất đến đến Hoàng Sa, Trường Sa, từ chiến tranh biên giới đến trận chiến Lão Sơn, không thể viết hết trong một bài, trong một cuốn sách mà phải xây dựng một trung tâm dữ kiện…
(*15)-Daniel Ellsberg, Time Magazine US, Jun 28-1971: Pentagon Papers- The secret war. http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,905234,00.html
& Tài liệu giải mật của Tòa Bạch Ốc 14/6/2011, Văn Khố Quốc Gia (National Archives) của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ – http://www.archives.gov/research/pentagon-papers/
-Xem thêm:Trương như Tảng (bộ trưởng trong chính phủ MTGPMN)- Hồi ký của một Việt Cộng- Trich dẫn bởi Minh Võ (Ngô Đình Diệm, Lời khen tiếng chê), Thông Vũ xuất bản, California 1998-
(*16) -Hồi ký Trần Quang Cơ, Chương 1- http://www.diendan.org/tai-lieu/ho-so/hoi-ky-tran-quang-co/hoiky-tqc-ch-1
“….tôi thật sự đau xót vị ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hoà bình để tập trung phát triển đất nước sau bao năm chiến tranh, lỡ cơ hội san bằng khoảng cách với các nước cùng khu vực. Trong tập hồi ký của mình13, Lý Quang Diệu đã nhận xét: “Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Bangkok. Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm”…
(*17)-Ai đã dưng lên Kmer Đỏ http://mousekeymakehistory.wordpress.com/2010/08/01/ai-da-dựng-len-khmer-đỏ/ Theo Wikipedia http://en.wikipedia.org/wiki/Pol_Pot.
-Philip Short, Pol Pot: Anatomy of a Nightmare, Macmillan, 2006, tr. 389
- Francis Deron, Several Improper Connections in Matters of Massacre: China, Cambodia, Indonesia, Monde Chinois, 2008.
DZ
A- Chiến lược thôn tính Việt Nam và Đông Dương của Tàu
Sau 80 năm thuộc Pháp, với chính sách bóc lột về kinh tế và chia để trị về chính trị (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ với 3 chế độ cai trị khác nhau), Thực dân Pháp đã làm cho VN khá kiệt quệ và chia rẽ. Đến khi Mao nhờ viện trợ của CS Nga, đánh thắng Tưởng, nắm được chính quyền, thì Mao khởi đầu chiến lược thôn tính Đông Dương. Nếu Tưởng thắng, thì cũng sẽ làm y như vậy- Tàu nào cũng giống nhau- Sẽ rất là lạ nếu thực tế lịch sử lại không xảy ra như vậy- Mộng Đại Hán nằm sẵn trong đầu bất cứ anh Tàu nào- Do đó, dĩ nhiên là CS Tàu phải điều khiển cho được cuộc chiến Đông Dương theo sách lược đó. Có rất nhiều tài liệu lịch sử đã được phổ biến cho thấy chiến tranh quốc cộng ở VN kể cả trận Điên Biên Phủ 1954, Hiệp định Geneve chia cắt đất nước, và tất cả các chính sách của CSVN kể cả cuộc Cải cách ruộng đất đẫm máu 1956, đều nằm trong âm mưu do Tàu xếp đặt hoặc lợi dụng, tận dụng sự lệ thuộc của lãnh đạo đảng CSVN để thủ lợi cho Tàu đồng thời làm suy kiệt Việt Nam mọi mặt, nhất là về kinh tế (do chiến tranh tàn phá liên miên, và kinh tế kiểu XHCN phá sản), về văn hóa xã hội và tinh thần dân tộc (ý thức về nền độc lập dân tộc bị phá sản để xây dựng Thế giới đại đồng CSCN), đạo đức xã hội bị băng hoại, thế hệ trẻ bị đầu độc, nhân tài bị thui chột, cô lập hoặc loại bỏ, hoặc phải trốn chạy ra nước ngoài.
Một khi ý chí đấu tranh bị mất định hướng, bị đàn áp hung bạo đến tê liệt và suy kiệt, người dân sẽ chỉ còn biết an thân thủ phận lo sinh kế hoặc tranh nhau hưởng thụ nếu có điều kiện. Tinh thần dân tộc nếu bị lụn bại (dân khí tuyệt) sẽ rơi vào cái thế buộc phải lệ thuộc ngoại bang, đưa tới mất nước và bị đồng hoá y như dân Chiêm Thành, Chân Lạp trước đây vậy. Dân ta ở VN sẽ thành ra người Tàu gốc Việt, Tàu hạng nhì hạng ba, như là đã xảy ra sau khi Tàu xâm chiếm Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông vậy, hoặc giống như Việt kiều sau khi thua cuộc, chạy ra nước ngoài thôi, chỉ vài ba thế hệ sau là thành Mỹ gốc Việt, Tây gốc Việt, đều thành con lai hết…. Rốt cuộc đó cũng là thể hiện quy luật vận động của lịch sử loài người: Di dân và Đồng hoá.
Tàu vốn rất ngại 1 Việt Nam thống nhất và hùng mạnh, nhưng vì bài học lịch sừ ngàn năm còn đó, Tàu chưa dám tính đến chuyện nuốt trọn cả nước Việt và luôn luôn chủ trương “tàm thực”. Tuy nhiên, sau khi nhận thấy nhóm lãnh đạo CSVN chỉ gồm toàn những kẻ thuộc loại cuồng tín CSCN nhưng lại quá kém về trình độ tư duy và nhận thức, cũng như kiến thức và năng lực về quản lý (gọi là “ấu trĩ tả khuynh”), Tàu nhận thấy việc ra mặt yểm trợ Bắc Việt xâm chiếm miền Nam không những không có hại cho Tàu, mà về lâu về dài còn có lợi cho mưu toan bành trướng khắp Đông Nam Á, phá thế bao vây của cả Nga lẫn Mỹ, do đó từ 1960 Tàu thay đổi thái độ, tiếp tục viện trợ hào phóng cho Bắc Việt và MT Giải phóng MN, trong cuộc cờ này, Nga xem ra thua thiệt trong ý đồ dùng Việt Nam để bao vây Tàu, và tạo ảnh hưởng lên vùng Đông Á-
Sau khi Nga Xô sụp đổ, chỗ dựa duy nhất của CSVN bị mất, lại bị cô lập với quốc tế vì chiếm đóng Kampuchia, đồng thời với nền kinh tế tan hoang và nhân tâm ly tán, CSVN không còn đường nào khác, đành phải quay lại khuất phục Tàu, dựa vào thứ “chính nghĩa” bảo vệ CNXH thế giới, nhượng bộ Tàu mọi mặt để được tồn tại (Hội nghị Thành Đô 1990). Đến đây thì thấy rõ nhà cầm quyền CSVN hiện nay đang lâm vào tình thế bắt buộc phải giao căn nhà VN cho Tàu. Mọi động thái hiện nay của CSVN chính là đang chuẩn bị giao Việt Nam cho Tàu: Giao Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Tây Nguyên, chủ quyền Biển, Đảo, đàn áp các phong trào yêu nước ….
Tóm lại Tàu muốn nuốt VN và Đông Nam Á thì đã phải chuẩn bị tình huống “tằm ăn dâu” (nuốt từ từ). Sau khi đã chuẩn bị từ năm 1927 với tay sai là Hồ chí Minh và Đảng CSVN, đến nay Tàu đã chiếm được các cao điểm quân sự ở biên giới phía Bắc (Ải Nam Quan, Đồi Lão Sơn …), làm chủ vùng biển VN, đóng quân trên Tây nguyên, yết hầu chiến lược của toàn thể Đông Dương, lật đổ ảnh hưởng của VN tại Lào và Campuchia, tạo thế bao vây VN trên bộ và ngoài biển, gài người nắm các chức vụ then chốt trong Bộ Chính trị CSVN và guồng máy an ninh và quốc phòng VN, tiêu diệt các lực lượng dân tộc, triệt hạ ý chí dân tộc, phá hoại kinh tế, văn hóa và xã hội VN thông qua nhà cầm quyền tay sai khiếp nhược “hèn với giặc, ác với dân”.
Khí thế đấu tranh của dân tộc (dân khí) nếu không được thổi bùng lên, thì khó có thể chống được âm mưu nội công ngoại kích của địch, sợ rằng không bao lâu nữa Tàu sẽ có thể nuốt được Việt Nam, thành lập chính phủ tay sai, biến VN thành khu tự trị về hành chánh giống như Tân Cương, Nội Mông và Tây Tạng.
Dĩ nhiên là trong khối quần chúng đông đảo, kể cả trong lực lượng vũ trang, nhất là quân đội, cũng còn nhiều người yêu nước, có tinh thần dân tộc mạnh, họ không thể chịu đựng được nỗi nhục mất nước, làm tay sai, làm nô lệ cho Tàu, họ sẽ tập họp lại thành thế lực chống đối đủ mạnh. Và vì mất chính nghĩa, chánh phủ tay sai của Tàu cũng sẽ bị suy yếu và chia rẽ, rốt cuộc VN sẽ lại bị tách ra làm 2 như tình thế trước 1954, phe chống Tàu sẽ rút về miền Nam, đảng Cộng Sản VN sẽ phải sụp đổ, vì đến lúc này con cờ “Đảng CS” hoặc “XHCN” sẽ hoàn toàn mất hiệu quả, trở thành lạc hậu và phản động, lúc đó là lúc sẽ nhiều nhân vật hoặc đảng chính trị với danh nghĩa phục quốc, chống cộng … xuất hiện để tranh chấp chính quyền miền Nam- Như vậy thì bàn cờ sẽ có tiềm năng quay lại cái thế tương tự thời 1945 với các đảng phái quốc gia và mặt trận Việt Minh, rồi thì sẽ tới thế cờ sau 1954 với Mặt Trận Giải phóng miền Nam.
Mặc dù lịch sử diễn biến, nhưng với 1 nền tuyên truyền dối trá và bưng bít sự thật, bị chi phối bởi Tàu và tay sai, thế hệ con em chúng ta đã và sẽ không học hỏi được kinh nghiệm gì của lịch sử, đại cuộc như vậy vẫn sẽ tiếp tục bị chi phối bởi thế lực ngoại bang, cho nên đại thể diễn biến lịch sử sắp tới sẽ vẫn là cảnh bổn cũ soạn lại. Do đó, những bàn tay lông lá cũ đã, đang và sẽ chuẩn bị những lá bài mới cho giai đoạn mới (từ 1975). Một cuộc “giải phóng miền Nam” nữa sẽ có cơ lại được dàn dựng để gạn lọc cho hết những thành phần còn ý thức mạnh về độc lập dân tộc… cho đến khi toàn thể Đông Á trở thành Tàu hoặc phiên bang của Tàu. Cuộc cờ muôn thuở ở VN cho tới nay vẫn không thay đổi, sau mỗi cuộc cờ giữa 2 phe người Việt vẫn không có bên nào là “Bên Thắng Cuộc”, mà kẻ thắng chính là Hán tộc, còn kẻ đại bại vẫn là nhân dân Việt Nam, là Việt tộc.
B- Chiến lược can thiệp của Mỹ.
Còn Mỹ thì sao? nếu VN mất vào tay Tàu thì Mỹ cũng đâu có thiệt gì đâu? Mục tiêu lâu dài của Mỹ là giữ vững thế siêu cường số một- Chiến lược cốt lõi của Mỹ vẫn là bảo vệ và phát triển lợi nhuận các đại công ty tài phiệt và công kỹ nghệ- Đối với Mỹ, quyền lợi là trên hết, cho nên Mỹ vốn là cần Tàu hơn là cần VN. Thông qua nhà cầm quyền độc tài đảng trị CS Tàu, Mỹ không cần xâm lăng đất đai của Tàu cũng vẫn bóc lột được 1 tỷ rưỡi người Tàu-
Mỹ cũng chẳng sợ gì Tàu, nhưng sẽ không gây chiến để tiêu diệt Tàu, vì không có lợi- Mỹ đã thắng Nga và sắp xếp Nga vào quỹ đạo thế giới thế nào thì cũng sẽ tính là về lâu dài sẽ thắng Tàu và sắp xếp Tàu vào trật tự thế giới bằng cách tương tự, Mỹ sẽ làm Tàu phải phình to ra và tự nổ thành nhiều mảnh, y như Nga Xô Viết vậy, dù biết trước mà vẫn không tránh được…. Từ nay cho tới lúc đó, thì nếu Tàu mà ra mặt đụng độ với Mỹ, Mỹ chỉ cần xù nợ hoặc không mua hàng là Tàu sẽ gặp khó khăn rất lớn, có thể có nội loạn ngay nếu cả trăm triệu người thất nghiệp do cấm vận.
Dĩ nhiên Mỹ cũng sẽ gặp khó khăn kinh tế, vì đã có phần nào phụ thuộc vào hàng hóa rẻ tiền nhập từ Tàu. Tuy nhiên vì mục tiêu lâu dài và chiến lược cốt lõi của mình, Mỹ cũng không thể để Tàu nuốt hết và làm chủ hoán toàn Việt Nam, vì nếu chiếm được VN, Tàu sẽ làm chủ được biển
đông, từ đó sẽ bao vây Nhật , Nam Hàn, Đài Loan, đe dọa Thái Lan, Miến Điện,Phi, Malaysia, Singapore, Indonesia…sự bành trướng này đe dọa quyền lợi kinh tế toàn cầu cũng như vị trí siêu cường số 1 của Mỹ. Vậy thì Mỹ sẽ phải tìm mọi cách để ngăn chặn đà bành trướng này bằng cách yểm trợ cho phe chống đối ở VN trở nên đủ mạnh về quân sự để tạo áp lực với Tàu, buộc Tàu phải lùi lại, triệt thoái ảnh hưởng tại miền nam VN để chỉ đủ sức chú tâm vào giữ vững vùng phên dậu của mình, là miền Bắc VN. Cuộc chiến long tranh hổ đấu để tái sắp xếp bàn cờ và tranh dành ảnh
hưởng ở Thái Bình Dương này sẽ làm cho dân Việt xương tan máu đổ vài chục năm, rốt cuộc chỉ để Mỹ đạt được thỏa hiệp với Tàu bằng cách chia đôi VN như trước đây. Cái mà Mỹ sẽ được, là cầm chân được Tàu, duy trì hiện trạng cán cân lực lượng với ưu thế về Mỹ, chờ dịp để thực hiện “tái sắp xếp” Tàu vào quỹ đạo thế giới của mình. Cái mà Tàu được có ý nghĩa lớn đối với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, là làm chủ thực sự miền Bắc, làm chủ thực sự nửa nước VN, đó là 1 thành công rất lớn của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán có thể đạt được sau mấy ngàn năm kiên trì theo đuổi chiến lược tằm ăn dâu nhằm thôn tính và đồng hóa Việt Nam-
Thế cờ xa sắp tới là cả Mỹ và Tàu đều chuẩn bị thử sức nhau lâu dài ở biển Đông, ở miền Nam VN. Bọn họ đã và đang chuẩn bị rồi đó, vận mệnh dân ta nay rất là mong manh, nếu dân khí đã tuyệt, thì chỉ còn phú cho ông Trời thôi…. và nếu không phục hưng lên kịp, VN sẽ vẫn chỉ là 1 quân cờ, và vẫn còn là nơi chiến trường trắc nghiệm.
C- Tiếp tục cuộc chiến vì dân chủ và độc lập dân tộc của VN.
Tình hình quốc nạn như nước sôi lửa bỏng. Những phản ứng biểu lộ lòng yêu nước trong nhân dân nay đã vượt quá mức độ dư luận, tuyên ngôn tuyên cáo, sáng tác văn thơ yêu nước, những bản nhạc yêu nước. Phản ứng của người dân Việt trong nước tỏ ra có tiềm năng lan rộng và sâu dù bị đàn áp và kiểm soát chặt chẽ. Tuy nhiên, với kỹ thuật kìm kẹp đàn áp tinh vi của nhà cầm quyền tay sai và sự tác động, can thiệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp của Bắc Kinh, cuộc cách mạng vì dân chủ và độc lập dân tộc trong nước do đó chỉ có thể thành công khi có được 1 lãnh tụ xuất hiện, có khả năng tập hợp được quần chúng hoặc thành lập được 1 lực lượng quân sự đủ năng lực du kích chiến để tồn tại và phát triển khi có cơ hội. Người lãnh tụ này chỉ có thể là người trong nước, và sẽ chỉ xuất hiện khi bạo loạn xảy ra ở khắp nơi mà chính quyền tay sai không còn kiểm soát nổi, đồng thời với một hoặc cả hai điều kiện là:
- Một khi Tàu làm chủ cả nước VN, thì sau đó không lâu, Miên và Lào cũng sẽ lập tức chịu chung số phận, và Thái Lan, Miến Điện sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Do đó, Mỹ ngay từ bây giờ, đã phải giúp Thái Lan tăng cường tiềm lực quân sự, đồng thời tìm cách can thiệp vào Miên, Lào trực tiếp hoặc gián tiếp (qua Thái Lan, Miến Điện) để diệt hoặc làm suy yếu ảnh hưởng của Tàu, giữ cho 2 nước này quy chế trung lập để ngăn quân Việt do Tàu điều khiển tràn qua biên giới, đồng thời để có thể dành 1 vùng rừng núi biên giới Thái–Lào, Lào-Việt, hoặc Miên-Việt làm an toàn khu và hậu cứ của lực lượng kháng chiến chống quân đội VN tay sai của Tàu, qua hành lang này du kích Việt sẽ nhận tiếp viện quân sự để mở rộng chiến tranh chống chính quyền tay sai Tàu ở VN.
- Đồng thời nếu Tàu đang bị mắc vào những biến động lớn, phải quay về sắp xếp đối phó động loạn nội bộ, không còn đủ khả năng hoặc không thể ra mặt can thiệp trực tiếp cứu nguy cho nhà cầm quyền tay sai.… Nếu tình huống này xảy ra sớm, hy vọng một VN thống nhất trong độc lập và dân chủ sẽ có cơ may tồn tại, bằng không, thì nhiều phần chắc là lại có 1 VN chia đôi, và nhiều thế hệ dân Việt sẽ bị tiếp tục lôi kéo đổ máu xương vào một cuộc chiến nam bắc mới dưới bàn tay tàn độc của Tàu.
Trước mắt, nguy cơ trở thành người Tàu gốc Việt hiện nay là rất lớn, nếu không huy động được toàn lực nhân dân trong nước, cộng thêm yểm trợ của các nước lân bang, thì ít nhất sẽ mất miền Bắc (nếu không để bị mất Tây Nguyên). Một bộ phận dân Việt nếu tiếp tục chạy thoát được sang các nước khác hoặc các nước Âu Mỹ, thì cũng sẽ là di dân, và vài thế hệ nữa thì cũng bị lai giống hoặc đồng hóa, không còn nói được tiếng Việt nữa.
Sự tồn tại của Việt tộc luôn luôn bị đe dọa bởi chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán. Ngày nay lại còn bị đồng thời đầu độc bởi Chủ Nghĩa Cộng Sản. Hậu quả là sức sống của dân tộc bị mòn mỏi cùng cực- Nếu không lật đổ được Chế độ CS thối nát này và bọn tay sai thân Tầu, thì cơ may tồn tại là rất ít. Trừ phi Tàu bị Mỹ “triệt buộc”, phải phình to, và tự nổ sớm, thì may ra đất nước ta và dân ta lại tồn tại được lâu lâu hơn chút nữa… Mong thay !!!
___________________________________________
Ghi chú:
(*1) -Dân khí: Cách đây hơn năm thế kỷ Thân Nhân Trung (Thân Trọng Đức 1418-1499 thời Vua Lê Thánh Tôn) đã viết: “…Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết …” http://vi.wikipedia.org/wiki/Thân_Nhân_Trung
Hoặc nói như cụ Phan Chu Trinh, phải chấn hưng dân khí trước nhất: “Chấn dân khí, hưng dân trí, hựu dân sinh… ”- Dân Nhật định cư ở vùng hải đảo nghèo nàn tài nguyên mà vẫn trở thành Đại cường- Dân Do Thái trải qua vài ngàn năm bị mất nước và bị Đức QX tàn sát, nay tụ lại chỉ có chưa đầy 8 triệu người mà cũng là 1 cường quốc khoa học kỹ thuật (nhiều Nobel khoa học nhất thế giới) và quân sự (đánh thắng liên minh 9 nước Ả Rập chỉ trong 6 ngày)- Nước Hàn cũng bị chia đôi, miền Bắc nghèo đói, nhưng miền Nam đã trở thành cường quốc kinh tế cạnh tranh được với Nhật… là do yếu tố nào? Phải chăng là “dân khí” họ cường mãnh hơn dân Việt mình khi họ đoàn kết một lòng trong chiến tranh giữ nước, trong nỗ lực tăng gia sản xuất xây dựng kinh tế, đứng lên chống lại độc tài quân phiệt để xây dựng nền dân chủ pháp trị ?-
Ý thức của thành phần ưu tú lãnh đạo một cộng đồng (hoặc Quốc gia) về sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân cũng là đặc điểm của dân khí cường mãnh, thí dụ:1/-Ở nước ta, với Hội Nghị Diên Hồng, vua với dân đồng lòng chống quân Mông Cổ. Thời vua Quang Trung đem quân ra Bắc 2 lần để phù Lê diệt Trịnh và sau đó đại phá quân Thanh, quân miền nam không tàn sát dân, cũng không trả thù binh lính miền Bắc- 2/-Nước Mỹ sau cuộc Nội chiến Nam Bắc tàn khốc, phe miền Bắc thắng trận đã đối xử với phe miền Nam thua trận rất cao thượng, hoàn toàn không có sự kỳ thị hoặc trả thù, kẻ thua trận vẫn được kính trọng và vẫn được bình đẳng, coi như anh em, hoàn toàn không giống như ở VN sau năm 1975.
Sức mạnh của dân tộc (dân khí) là ở chỗ: ý thức kỷ luật, ý thức tập thể thể hiện qua tinh thần đoàn kết dân tộc và khí thế đấu tranh dành độc lập dân tộc trên bình diện rộng.
Biểu hiện của dân khí là ở chỗ xuất hiện trong dân gian những lãnh tụ kiệt xuất, những bậc hào kiệt có khả năng quy tụ quần chúng đông đảo đứng lên chống độc tài, chống bán nước, chống xâm lăng.
(*2)- Chiếm Chiêm Thành: Khởi đầu với vua Lý Thánh Tông (1069), đến năm 1693 với chúa Nguyễn Phúc Chu, xóa sổ dân Chiêm Thành-
- Chiếm Miên: Khởi đầu từ 1658, Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần chiếm Biên Hòa.
(*3 ) -Người Hoa ở VN: http://www.viethoc.org/phorum/read.php?10,45688 (cận đại)-
Posted by Lê Bắc, June 08,2004.
-Vào năm 1679 và 1680, khi nhà Thanh bình định được tỉnh Quảng Đông thì một số quan quân dân nhà Minh đã bỏ chạy ra nước ngoài. Ngoài 2 đợt di dân quan trọng đó, suốt thế kỷ 19 có nhiều người Hoa, theo tình hình xã hội, đã di dân tới Việt Nam và nhiều nước Đông Nam Á khác.
-Khi Pháp chiếm được 6 tỉnh Nam Kỳ, vì nhu cầu đất rộng người thưa, tư bản Pháp đã chiêu mộ và khuyến khích người Hoa từ Trung Quốc và Singapore sang kinh doanh, khai thác.
- Chiến tranh Quốc Cộng ở Trung Hoa đã làm cho nướcTàu loạn lạc, và nhất là khi Trung Cộng chiếm toàn bộ Hoa Lục năm 1949, nhiều nhóm người Hoa cũng đã chạy trốn Cộng Sản và thiên cư sang Việt Nam (và nhiều nước Đông Nam Á khác.)
-Năm 1954, nhiều người Hoa ở Hà Nội, Hải Phòng đã di cư vào Nam
-Năm 1975-1979, với biến động ở Campuchea,nhiều người Hoa cũng đã chạy tỵ nạn sang sinh sống ở Việt Nam.
Nguồn gốc của người Hoa ở Việt Nam đa số có gốc tích từ các tỉnh duyên hải ở miền Nam Trung Quốc, chủ yếu là hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến. Khi sang nước ta, họ có khuynh hướng sống qui tụ thành bang hội theo nguồn gốc quê hương của họ.
(*4) –An Dương Vương (Thục Phán), rồi đến Triệu Đà đều là người Hoa Nam-
Xem: Lê văn Siêu, Việt Nam Văn Minh sử Cương, NXB Thanh Niên 2004-trg 36,: Sáu trong 12 sứ quân thời sau vua Ngô Quyền là thổ phỉ bên Tàu chạy qua.
Triệu Đà (207-137BC) nổi loạn chống Tần Thủy Hoàng, thua chạy về phương Nam, tiến chiếm Âu Lạc của An Dương Vương Thục Phán, xưng vương, đặt tên nước là Nam Việt, gồm Âu Lạc, Quảng Đông, Quảng Tây, đặt kinh đô ở Phiên Ngung thuộc tỉnh Quảng Đông (Xem Việt Nam Nước tôi, Phan Như Huyên, Garden Grove, CA, USA, 2000)
(*5) Xem: Cát Kiếm Hùng, Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc, trang 10-11, Người dịch : Phong Đảo, NXB Văn Hóa Thông Tin Hà Nội 2004.
(*6) -Lý Đông A, Chu Tri Lục 3 Cương Lĩnh (1943). http://thangnghia.com/?p=43
(*7)- Xem: Lễ Tế cờ, (chương 2),Nhóm Tâm Việt Sydney, 2008-
http://www.chinhviet.net/08TaiLieu/2011/2011_11TL/02Chuong2LeTeCoCuaHcm.htm
(*8 ) Xem Đại Nghĩa: Hồ Chí Minh và Cải Cách Ruộng Đất. http://www.danchimviet.info/archives/35479
*Ông Hoàng Tùng, nguyên Tổng Biên tập báo Nhân Dân (1954-1982) kể lại trong chuyện “Bí mật HCM” cho chúng ta thấy được sự nô lệ của ông Hồ và đảng Lao Động Việt Nam (tiền thân của đảng CSVN) như thế nào: “Mùa hè năm 1952 Mao Trạch Đông và Stalin gọi bác sang, nhất định bắt phải thực hiện CCRĐ. Sau thấy không thể từ chối được nữa, bác mới quyết định phải thực hiện CCRĐ…. Mục đích của họ không phải là CCRĐ mà là đánh vào đảng ta ….
Ngay sau khi Bác quyết định cải cách ruộng đất, Trung Quốc đã cử các đoàn cố vấn sang. Đoàn Cố vấn Cải cách ruộng đất do Kiều Hiểu Quang, phó bí thư Tỉnh ủy Quảng Tây, phụ trách”.
*Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, trả lời báo Quê Mẹ khi du lịch sang Pháp sau năm 1975, ông nói: “Trong lịch sử Việt Nam từ hồi lập quốc đến nay chưa có một cuộc thanh trừng giết dân nào khủng khiếp tàn bạo như cuộc CCRĐ. Hầu như mọi cuộc đấu tố đều có sự nhúng tay của cố vấn Trung cộng. Điều đó cho thấy chính quyền HCM lệ thuộc ngoại bang như thế nào”. (Người Việt ngày 7-9-2004).
*Xem thêm: Huy Đức, Bên Thắng Cuộc, NXB OsinBook, California, USA 2012, trg 255 “…Cùng với cải cách ruộng đất, chiến dịch “Chỉnh đốn tổ chức Đảng và chính quyền” mà Hồ Chủ tịch ca ngợi trong báo cáo trước Hội Nghị Trung ương 5 cũng đã gây tổn thương nặng nề cho Đảng”
(*9) Xem: Tùng Phong (Ngô đình Nhu) Chính Đề Việt Nam – - Nhà xuất bản Hùng Vương, Los Angeles 2009: Bối cảnh của vấn đề- http://phamthientho.files.wordpress.com/2011/07/chc3adnh-c3b0e1bb81-vn-ngc3b4-c3b0c3acnh-nhu1.pdf
“…. Liên tục, và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa dân tộc Việt Nam. Để duy trì ách thống trị của mình, các cường quốc xâm lăng thường áp dụng, đối với các dân tộc bị trị, nhiều biện pháp, tuy có khác nhau về hình thức, nhưng chung qui vẫn thuộc hai loại chính:
* Ngăn ngừa không để cho các quyền lợi kinh tế thuộc vào tay người bản xứ.
* Kiềm hãm không để cho dân trí phát triển.
Các loại biện pháp thứ nhứt nhằm mục đích tiêu diệt tất cả các phương tiện vật chất của người bị trị.
Các loại biện pháp thứ hai nhằm mục đích tiêu diệt những người có khả năng xử dụng các phương tiện vật chất trên, nghĩa là các nhà lãnh đạo xứng danh.
Đối với các dân tộc bị trị hai loại biện pháp trên đều có những hậu quả vô cùng thảm khốc…
(*10)- Bùi Tín, Nhìn lại cuộc Cải cách ruộng đất: Những bài học còn nóng hổi - http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8440&rb=0401
(trích):“….Trong CCRĐ nông dân Việt Nam đã chịu bao nhiêu tổn thất? Theo thống kê nội bộ của ĐCS (chưa được công khai hóa), ở những vùng đã làm CCRĐ:… Vậy là tính sơ sơ, số nạn nhân trực tiếp nói chung lên đến nửa triệu con người.
-Chưa hết, theo thống kê nội bộ, trong chỉnh đốn tổ chức được tiến hành ở 2.876 chi bộ ĐCS gồm có 15 vạn đảng viên, đã có đến 84.000 đảng viên bị xử trí (bị tù, tra tấn, xỉ vả, bị giết) chiếm 47%. Con số khủng khiếp này – nhiều hơn số địa chủ bị đấu tố – đã được giữ rất kín. Tôi có những bạn thân, đồng đội cấp trung đoàn (hồi ấy chưa có quân hàm) là trung đoàn trưởng, tỉnh đội trưởng… bị đánh rụng hết răng, mù mắt, gẫy chân; một số khi sửa sai thì đã bị lao phổi nặng do phải nằm đất ẩm, chỉ có manh chiếu rách. Số đảng viên bị tra tấn còn tàn khốc hơn dân thường vì bị coi là phần tử thù địch chui vào Đảng để phá từ bên trong. Hầu hết là đảng viên trí thức, có trình độ học vấn khá. ….” (ngưng trích).
(*11) -Trận Tết Mậu Thân 1968-:
Xem Wikipedia: http://vi.wikipedia.org/wiki/Sự_kiện_Tết_Mậu_Thân#cite_ref-24
(trích:)…“Năm 1967, hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc biên chế thành từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật bổ sung cho Trị – Thiên, Khu V, Tây Nguyên, Nam Bộ, nâng tổng số Quân giải phóng miền Nam lên 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương (không kể dân quân, du kích, tự vệ) . . . . .
. . . . . Sau tổng tiến công Mậu Thân, vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam bị thu hẹp. Quân Giải phóng bị đẩy ra xa và suy yếu trầm trọng: các đơn vị quân sự suy yếu, các lực lượng chính trị bị lộ và bị triệt phá gần hết, thương vong cao hơn hẳn các năm trước …..” (ngưng trích)
Tại sao CSVN lại để xảy ra một thất bại quân sự như vậy? Lý giải rằng Trận Mậu Thân 1968 chỉ nhằm tạo ảnh hưởng bên Mỹ…. chỉ là tuyên truyền cường điệu. Theo lý thuyết chiến tranh, bao giờ cũng phải ước đoán tương quan lực lượng và tiên liệu thiệt hại, cho nên chỉ khi chắc thắng thì mới tấn công lớn; Đối với chiến tranh nhân dân, nếu không chắc thắng 10 phần thì không nổi dậy. Các chiến lược gia và tướng lãnh CS Bắc Việt vốn dày dạn chiến trận không thể nào không biết những điều này khi phát động Tổng tấn công- Nên chú ý thêm ở đây là Tổng tấn công- Tổng nổi dậy, có nghĩa là 2 mặt giáp công, nếu tấn công thất bại, thì nổi dậy cũng thất bại, và ngược lại nếu nổi dậy thất bại, thì tấn công cũng thất bại. Làm sao Đảng bộ ngoài Bắc lại không biết rằng lực lượng MTGPMN vốn chỉ là du kích, không thể thắng được quân đội VNCH có Mỹ yểm trợ đầy đủ? làm sao họ lại không biết rằng lúc đó Mỹ vẫn yểm trợ tối đa phi pháo cho VNCH, cho nên dù có thêm quân số do bộ đội ngoài Bắc xâm nhập, và có ưu thế về vũ khí cá nhân, cũng vẫn không đủ để chiếm ưu thế cần thiết quyết định cho chiến thắng? Rõ ràng đây là 1 trận đánh chỉ để thua, khi thua thì lực lượng chính có thể rút trở lại bưng biền, nhưng lực lượng địa phương (MTGPMN) do phải “tổng nổi dậy”nên đã phải lộ mặt ra hết, và bị tiêu diệt gần hết, thiệt hại này thật là to lớn hơn nhiều lần thành quả về ảnh hưởng chính trị bên Mỹ đã vô tình đạt được, và còn to lớn hơn nữa nếu xét về mặt thiệt hại cho lực lượng Việt tộc. Như vậy Trận Mậu Thân có mục tiêu chính là mượn tay địch để diệt kịp thời cái thế lực có thể tranh dành quyền lực với miền Bắc sau này.
Những người miền Nam có con em theo du kích VC mà bị chết trong cuộc chiến Mậu Thân, những bộ đội “Sinh Bắc Tử Nam” đúng ra là, thay vì oán trách “Mỹ- Ngụy”, phải nên oán trách Đảng CSVN, và bọn CS Tầu mới đúng.
(*12) -Ngộ độc chủ nghĩa CS=
CNCS phá hủy văn hóa truyền thống và ý thức dân tộc, phá hủy nền tảng tư duy về đạo đức cá nhân, cũng phá hủy luôn cấu trúc tự nhiên kinh tế và xã hội do áp dụng triết lý bạo lực về giai cấp đấu tranh kiểu cuồng tín giáo điều, cộng với lý thuyết kinh tế mác xít với biện chứng không tưởng về xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội để tiến đến một loại thiên đường hạ giới là Thế giới Đại Đồng Cộng Sản Chủ Nghĩa- Biện chứng này tạo cho Đảng cầm quyền một thứ “Chính Nghiã” ảo, dựa vào đó để che dấu âm mưu thôn tính, bành trướng (của nước lớn) và sự phục tùng lẫn âm mưu bán nước (của tập đoàn cầm quyền nước mhỏ).
Cho nên những thành phần tinh hoa của Đảng CSVN vốn được nể phục nhờ vào bộ máy tuyên truyền đánh bóng thành những người yêu nước, đấu tranh dành độc lập dân tộc, những người này sau khi nắm quyền cai trị, họ thất bại với mô hình kinh tế XHCN làm cho cả nước nghèo đói kiệt quệ, họ lại quay lại thần phục Tàu, bắt chước kiểu làm ăn kinh tế “đổi mới” của Tàu, chuyển sang kinh tế thị trường nhưng vẫn độc quyền cai trị. Khi nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát sinh lợi nhuận, qua hệ thống bè cánh, họ đã bộc lộ bản chất kiêu mạn và tham tàn vô độ, điển hình của cái thời “tư bản hoang dã”. Lợi nhuận thu về do nắm độc quyền cai trị đã biến toàn bộ cán bộ cai trị các cấp biến chất thành những tập đoàn mafia, “tự thực dân” bóc lột chính nhân dân mình, làm cho Việt Nam càng ngày càng tụt hậu- Và để bảo vệ quyền lợi của mình và tập đoàn, những nhà cai trị này sẽ sẵn sàng thỏa thuận nội bộ để cố bám vào thứ “chính nghĩa Thế giới Đại Đồng CSCN” để quy phục nước đàn anh và đàn áp những người dân có tinh thần dân tộc.
Độc tài sanh ra độc quyền và độc quyền sẽ phải sanh ra tham nhũng hệ thống và hủ hóa cá nhân, điều này có tính quy luật, như 1 hệ lụy của sự quy phục quyền và lợi,như đã từng xảy ra trong lịch sử các nước trong các thời kỳ phong kiến độc tài.
*Xem thêm: Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày (hồi ký chính trị của một người không làm chính trị), Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 424, phần chú thích 1. “Lê Duẩn nói: “… ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc” -
(*13) Xem: Nguyễn Gia Kiểng – Quan hệ Việt-Trung- Thực tế bẽ bàng hơn nhiều. http://ethongluan.org/index.php?option=com_content&view=article&id=1694:quan-he-viet-trung-thuc-te-be-bang-hon-nhieu&catid=44:tham-lun&Itemid=301
*Xem thêm: Trần Quang Cơ, Hồi ức và suy nghĩ, http://www.diendan.org/tai-lieu/ho-so/hoi-ky-tran-quang-co/ (chương 1)…” Nửa cuối của thập kỷ 70 này là thời gian ta chồng chất nhiều sai lầm về đối ngoại nhất trong suốt lịch sử dựng nước sau cách mạng (từ 1945 đến nay):… “
(*14) -Trần Trung Đạo: Từ Buổi Chiều Trên Nghĩa Địa Hàng Dương, http://www.trantrungdao.com/?p=290)
Sự thật bị giấu kín (320 ngàn quân Trung Cộng từng tham gia chiến tranh Việt Nam)
Quân số Trung cộng tham gia chiến tranh Việt nam được tiết lộ trong những tài liệu trước đây: Bên cạnh Liên-Xô, vào thời điểm 1967 ngoài hàng vạn tấn đạn dược, vũ khí, đã có 16 sư đoàn với 170 ngàn quân Trung Quốc tại miền Bắc Việt Nam để yểm trợ cho đảng Cộng sản Việt Nam nhưng đồng thời để bảo vệ vòng đai an ninh của Trung Quốc. Tội ác của đảng Cộng sản Trung Quốc đối với dân tộc Việt Nam, từ các tư tưởng độc hại đến võ khí giết người, từ cải cách ruộng đất đến đến Hoàng Sa, Trường Sa, từ chiến tranh biên giới đến trận chiến Lão Sơn, không thể viết hết trong một bài, trong một cuốn sách mà phải xây dựng một trung tâm dữ kiện…
(*15)-Daniel Ellsberg, Time Magazine US, Jun 28-1971: Pentagon Papers- The secret war. http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,905234,00.html
& Tài liệu giải mật của Tòa Bạch Ốc 14/6/2011, Văn Khố Quốc Gia (National Archives) của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ – http://www.archives.gov/research/pentagon-papers/
-Xem thêm:Trương như Tảng (bộ trưởng trong chính phủ MTGPMN)- Hồi ký của một Việt Cộng- Trich dẫn bởi Minh Võ (Ngô Đình Diệm, Lời khen tiếng chê), Thông Vũ xuất bản, California 1998-
(*16) -Hồi ký Trần Quang Cơ, Chương 1- http://www.diendan.org/tai-lieu/ho-so/hoi-ky-tran-quang-co/hoiky-tqc-ch-1
“….tôi thật sự đau xót vị ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hoà bình để tập trung phát triển đất nước sau bao năm chiến tranh, lỡ cơ hội san bằng khoảng cách với các nước cùng khu vực. Trong tập hồi ký của mình13, Lý Quang Diệu đã nhận xét: “Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Bangkok. Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm”…
(*17)-Ai đã dưng lên Kmer Đỏ http://mousekeymakehistory.wordpress.com/2010/08/01/ai-da-dựng-len-khmer-đỏ/ Theo Wikipedia http://en.wikipedia.org/wiki/Pol_Pot.
-Philip Short, Pol Pot: Anatomy of a Nightmare, Macmillan, 2006, tr. 389
- Francis Deron, Several Improper Connections in Matters of Massacre: China, Cambodia, Indonesia, Monde Chinois, 2008.
DZ