THÁI TÚ HẠP, sinh tháng 4 năm 1940 tại Hội An, tỉnh Quảng Nam. Từ năm 1956 đến 1975 liên tục đăng thơ, văn trên các tạp chí Văn Học Nghệ Thuật ở Sài Gòn. Trước 1975 Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Sau 1975 - Đi Tù - Vượt Biển. Định cư tại Los Angeles California Hoa Kỳ cuối năm 1980. Làm nhà in, mở quán Doanh Doanh. Cùng với Ái Cầm chủ trương: * Tuần Báo Saigon Times năm 1987 * Nhà xuất bản Sông Thu năm 1988 * Niên Giám Thương Mại Saigon Yellow Pages năm 1992 * Đặc San Quảng Đà ấn hành mỗi năm kể từ năm 1995 đến nay - TÁC PHẨM ĐÃ HOÀN TẤT: * Người Đi Chiến Chinh (tùy bút 1968) * Quê Hương và Người Tình (thơ 1969) * Vành Khuyên (tập truyện 1972) * Yêu Em Một Đời (thơ 1973) * Dưới Cội Mai Vàng (thơ 1974) - TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN: * Tuyển Tập Sông Thu (1962 cùng với Thành Tôn và Hoàng Quy) * Thèm Về (thơ 1970) * Chim Quyên Lạc Ngàn (thơ 1982) * Thơ Văn Việt Nam Hải Ngoại (tuyển tập 1985) * Miền Yêu Dấu Phương Đông (thơ 1987) * Thơ Văn Phật Giáo (tuyển tập 1993) * Hạt Bụi Nào Bay Qua (thơ 1995) * Giữa Trời Hoa Bay (tùy bút 2000) * CD SÔNG NHỚ MỘT VẦNG TRĂNG * CD MIỀN YÊU DẤU PHƯƠNG ĐÔNG (Ca Khúc Phổ Từ Thơ Thái Tú Hạp của các nhạc sĩ Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Trầm Tử Thiêng, Lê Uyên Phương, Anh Bằng, Nhật Ngân,Hoàng Quốc Bảo, Trọng Nghĩa - Mộng lan, Vĩnh Điện, Khúc Lan, Trực Tâm, Andy Thanh, Huỳnh Nhâm... năm 2005. Với các tiếng hát của các ca sĩ: Lệ Thu - Hà Thành - Duy Quang - Thái Hiền - Lê Uyên Phương - Quỳnh Giao - Mai Hương - Việt Dzũng - Thanh Hà - Quỳnh Hương - Mộng Lan - Trọng Nghĩa - Thanh Tuyền - Anh Dũng - Doanh Doanh...) - SẼ XUẤT BẢN: * Bên Đồi Lau Xanh (tùy bút) * Giở Trang Vô Tự Trắng Nhòa Sắc Không (thơ) * Suối Nguồn Thanh Thản Dạo Chơi (thơ)
Ðọc bài nào của ông cũng thấy từ ngữ Phật giáo, hoặc tư tưởng Phật giáo phảng phất đàng sau. Những thuật ngữ Phật giáo tràn vào thơ ông một cách tự nhiên chứ không gượng ép như một số thi gia Phật giáo thời nay. Cũng những từ ngữ ấy, nhưng trong thơ ông có khi lại mang ý nghĩa khác, và rất sinh động: Bồ tát, hoa-nghiêm, thiền, vô thường, hóa thân, trầm luân, hằng sa, trang kinh, đại hồng chung, sắc-không, chân không, nghiệp, vọng niệm, sát na... Cho nên, người đọc dễ đi đến nhận xét rằng thơ ông là thơ đạo, hoặc thơ thiền. Nói vậy thì oan cho ông lắm! Những người ngán đọc thơ đạo sẽ lánh xa không chịu đọc thơ ông, như thế thì quá uổng phí! Thực ra, thơ ông chẳng phải là thi kệ ngộ đạo, chứng đạo gì của thiền sư như có người từng phát biểu. Ông không làm thi kệ hay thơ thiền, thơ đạo chi cả. Thơ ông là thơ tình, có nhuốm chút mùi Thiền. Và tình yêu của ông là thứ tình yêu rất bình yên, trọn vẹn, tràn đầy, hiền lành, không đắm đuối say mê, không lãng mạn ướt át gì lắm đâu! Tình yêu của một người thành công từ đầu đến cuối. Không cố gắng gì nhiều, dù là cố gắng để chiếm hữu hay cố gắng để bảo tồn. Tình yêu đó đã được thăng hoa bởi cái nhìn rất sáng, rất sâu của một nghệ sĩ trăn trở với cơn đau của cuộc phù sinh, đồng thời vói tay tìm kiếm con đường giải thoát.
Chỗ đặc dị của Thái Tú Hạp là làm thơ tình, mà nghe rất ư là "thiền"; hoặc có thể nói ngược lại, làm thơ nghe có vẻ "thiền" nhưng rất ư là tình. Ðừng mong đọc thơ ông mà ngộ ra lý thiền sâu thẳm nào đó. Sự thức ngộ chỉ đến với kinh nghiệm riêng của ông, vào một khoảnh khắc bất chợt nào đó. Và cái bất chợt ấy lặp đi lặp lại nhiều lần trong đời ông, thể hiện bằng nhiều cách diễn đạt trong thơ ông. Những khoảnh khắc bất chợt thức ngộ ấy, ai lại chẳng từng trải qua ít nhất một vài lần trong đời, nhưng dàn trải ra được bằng thơ tình-thiền như Thái Tú Hạp thì rất hiếm.
Thơ ông như một gạch nối giữa Thiền và Tình. Những người mê Thiền, cũng sẽ thích đọc; những người say Tình, cũng thích nốt. Cái gạch nối ấy không đẩy người ta vào vòm trời giải thoát; nhưng cũng chẳng níu kéo người ta đắm vào tục lụy. Nó ở lưng chừng giữa sống-chết, đạo-đời. Nó là những bước chân lững thững, bất định, đi qua đi lại, đi tới đi lui, bờ nào cũng muốn đến. Mà đến thì chỉ đến cái mé, không chịu vào bờ. Hoặc đến ngay cửa ngõ, rồi tần ngần, rồi đắn đo, rồi lưỡng lự... rồi quay đi. Cứ như thế, thơ ông là chuyến đò xuôi ngược giữa hai bờ thiền và tình.
Nếu một lúc nào đó, bạn buồn vì tình, bạn nên đọc thơ Thái Tú Hạp; hoặc vui vì tình, bạn cũng nên đọc thơ Thái Tú Hạp; hoặc bỗng nhiên cảm thấy lòng mình rỗng khô, nên đọc thơ Thái Tú Hạp; hoặc cảm thấy lòng mình sung mãn những xúc cảm, nên đọc thơ Thái Tú Hạp.
Thơ Thái Tú Hạp có thể đẩy, hoặc gợi hứng cho bạn hướng về phía bên kia của thực tại.
Vô thường yêu em mắt xưa trăng đẫm non ngàn lời xanh biếc ngọc vô thường yêu em lá theo tiếp lục đường chim hồn mai phục giữa hoa-nghiêm lặng tờ.
Vô tự khuya nghe vũ trụ chuyển mình sáng ra trời đất mới tinh cỏ cây như vừa tắm gội chữ nghĩa không còn trang kinh tâm già nua ta chợt thức đầu cành giọt nắng nguyên trinh. Một thoáng phù vân ta cạn chén càn khôn giữa khuya đời tịch mịch mộng cũng tàn hư không trang kinh nhòa thiên cổ sương tóc bạc rừng phong chung trà nhớ viễn khách em về như giọt sương sớm mai nào lá biếc say chút rượu trầm luân mùa xuân nhen lửa trọ bỏ tiếng hót đầu non chim qua vườn thủy trúc đêm giao thừa bất tận tây trúc ngàn dặm xa niệm từ tâm giao động cơn gió thoảng ngoài ta thăm thẳm hồn cố hương núi sông đầy ẩn tích em mắt sầu đông phương tang thương vừng nguyệt úa hạt bụi nào bay qua đất trời khuya huyễn hoặc còn gì trong sát na đời buồn mai thức dậy. Từ đó lộc ra xuân từng hàng cây đứng im nụ mầm thiên thu nẩy khu vườn rộn rã chim mặt trời vừa thức dậy lá lao xao hát thầm mùa xuân muôn năm cũ đã về trên đọt cây khi sương còn ngái ngủ chỉ một mình ta thôi trôi theo giòng suy tưởng những tình xuân vô lượng rót từ cõi nguyên khôi lửa tàn trong thạch thất rừng khoác kín đôi chân em vì ta bước lại từ đó lộc ra xuân.
Chợt ngộ
em cười như nụ hoa trong mai tâm bồ tát tiếng chuông đời thoảng qua phù vân chim hót lá tiền kiếp nào gặp nhau hạt sương đầu cánh gió ngẩn ngơ hồn thương đau khi nụ tình vừa chớm ngàn mây trắng bay qua tiếng kinh khuya vọng lại ngõ trúc chiều chia xa đầu non vừng trăng khuyết sớm mai nào chợt ngộ tâm ta tưởng là hoa trong sắc màu giả tưởng có không nào trong ta. Cõi riêng tình xưa về ngự cõi riêng đường ngôi em rẽ hai miền phù vân còn bao nhiêu sóng trong lòng đổ ra mấy nhánh trăng vàng biển khơi có không trên ngọn cát bồi sớm hôm rồi chợt qua đồi cỏ lau lá xanh biếc núi ngàn sau cụm hoa còn ngẩn ngơ sầu chia xa em về hoang tịch đời ta dấu hương khói muộn nhạt nhòa chânmây Thanh tịnh khúc mai ta về giữa non cao xé mây làm áo lụa đào cho em nghiệp từ mấy thuở trần duyên nắng thanh xuân đậu ngoài hiên ta bà đưa nhau dạo giữa ngân hà bỏ nhân gian lại chốn tà huy câm mai sau tình vỡ hư không có nghe tiếng hót tiền thân chim ngàn từ trong thiên cổ tri âm tiễn nhau xuống núi cưu mang kiếp sầu mai về khép cánh biển dâu giở trang vô tự trắng nhòa sắc không chờ nhau dưới cội vô thường soi tâm tư hiện một vừng trăng xưa Mê hoặc trầm hương thả mây cuối phố em qua vừng trăng trên tóc quỳnh hoa chỗ nằm lược là vô tận hỏi thăm hương bồ kết nở trăm năm môi cười hoa cam hoa bưởi ngậm ngùi đã xa cố quận một đời viễn phương bao giờ trầm ngát rừng hương quế cay nồng tỏa suối nguồn thảnh thơi ta về hát giữa lệ rơi đại hồng chung điểm một thời xuân xưa. Nỗi buồn trong thành phố mới mười năm sầu rong ruỗi mãi con đường phố mới thênh thang sông hồ ta ngàn phiêu bạt tình xa lòng cũng như không mười năm chợt về như nắng đầu sông gió thổi mây qua hiên nhà xưa em vẫn đợi hàng tre ríu rít chim ca dương liễu chiều reo như suối ngõ về thơm ngát hương hoa tình ta cao như đỉnh núi tuổi vàng sao quá thiết tha mười năm trùng dương bát ngát chợt sầu như chuyện hôm qua thư em như giòng sữa ngọt chiều nhen chút lửa lòng ta có giấc mơ nào đẹp nhất cho ta tìm lại hôm nay những hình bóng xưa chất ngất nghe hồn dõi bóng mây bay mười năm nghìn con phố mới lòng ta chỉ một quê hương mẹ già xưa mòn mỏi đợi mùa xuân vàng nắng yêu thương mười năm giờ như mây nổi tang thương đời cũng phôi phai núi sông nào lên tiếng hát hồn xuân về lại trong mai...