Tài liệu - Nghiên cứu - sưu tầm
2. Đi chợ tính tiền
Truong Tho Suu Tam
" Đi chợ tính tiền "là một bài ca dao lục bát. Bài đã được in làm Bài HọcThuộc Lòng cho học sinh lớp "sơ đẳng" (tức lớp 3) trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư năm 1948. Bài thơ kể chuyện một người phụ nữ đi chợ về, phải trình bày minh bạch, rõ ràng việc chi tiêu với chồng. Ngày xưa khi học bài này thầy giáo chỉ nêu đại ý như rứa, đồng thời nêu bật tính đảm đang, vén khéo của người phụ nữ xưa... sau đó yêu cầu học sinh học thuộc. Thầy không giảng về bài toán ẩn trong bài thơ, có lẽ vì thời thế đã khác (Khoảng năm 1958, chưa được vào trường công lập, người viết học với Ông giáo... ở khoảng giữa cầu An Cựu và lăng Vạn Vạn, không biết có phải là thân sinh của nhà văn Hải Triều không?) đồng tiền cũng đã đổi thay, hoặc giải bài toán chắc chi những học trò nhỏ hiểu được. Đã hơn năm mươi năm, bây giờ người học trò xưa đang ngồi ôm tóc trắng... một ngày mưa ngồi buồn chợt nhớ thầy đồ nơi xóm cũ ngày xưa chừ không còn, nhưng bài thơ vẫn còn đọng mãi trong đầu của bài Học thuộc lòng thưở ấy. Bèn tìm giấy giải thử. Ngay câu thơ đầu tiên đã gặp ngay vấn nạn. "Một quan tiền tốt mang đi". Một quan là bao nhiêu? Quan là đồng tiền cổ, những người muôn năm cũ giờ không còn, biết hỏi ai đây? Chợt nghe vang vang trong đầu một bài nhạc của nhạc sĩ Văn Phụng:
Một quan là sáu trăm đồng.
Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi.
(Thơ của Nguyễn Bính) Vận dụng cả 4 phép tính cộng trừ nhân chia, đảo xuôi ngược, lên xuống... mãi vẫn không đủ 600 đồng cho một quan tiền!
Lại phải đi tìm trong lịch sử. Trong một ngàn năm Bắc thuộc, dân Việt không có đồng tiền riêng. Mãi đến sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, dân Việt vẫn còn dùng đến đồng tiền của phương Bắc. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế với đế hiệu Đinh Tiên Hoàng, niên hiệu Thái Bình. Năm 970 nhà vua đã cho đúc những đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo. Đây chính là những đồng tiền đầu tiên của người Việt. Từ đó tiếp đến những triều đại sau đều theo.
Đơn vị để tính tiền xưa gồm có: quan, tiền, đồng. Mỗi quan có giá trị là 10 tiền, mỗi tiền bằng bao nhiêu đồng tùy theo quy định của mỗi thời đại. Theo sử sách giá trị đồng tiền các thời đại như sau:
1/ Năm 1225, vua Trần Thái Tông định phép dùng tiền. Một quan bằng 10 tiền. Một tiền bằng 70 đồng.
2/ Năm 1428, vua Lê Thái Tổ cho đúc tiền Thuận Thiên. Một quan bằng 10 tiền. Một tiền bằng 50 đồng.
3/ Năm 1439, vua Lê Thái Tông quy định 1 quan bằng 10 tiền, 1 tiền bằng 60 đồng. Như vậy 1 quan = 10 tiền = 600 đồng.
Từ đó các triều đại về sau, mỗi khi đúc một loại tiền mới đều theo tỷ lệ này, cho đến cuối triều Nguyễn năm 1945. Chỉ có tên đồng tiền là thay đổi theo tên hiệu.
Năm 1905, chính quyền bảo hộ Bắc kỳ cho phát hành loại tiền đúc bằng hợp kim kẽm. Loại tiền này mặt trước in chữ Pháp, mặt sau ghi chữ Hán, có giá trị tương đương các loại tiền đồng như Gia Long Thông Bảo, Minh Mệnh Thông Bảo, Thiệu Trị Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo. Trong những đời vua sau của nhà Nguyễn còn có thêm hai đồng tiền khác là Khải Định Thông Bảo và Bảo Đại Thông Bảo, hai loại tiền này không đúc như những đồng tiền xưa mà được dập bằng máy dập nhập từ nước Pháp.
Đến đây chắc chắn là bài toán ẩn bên trong bài ca dao đã giải được. Ghi lại như sau, bên phải là các phép tính đã giải.
ĐI CHỢ TÍNH TIỀN
Một quan tiền tốt mang đi, 600
Nàng mua những gì chàng tính chẳng ra.
Thoạt tiên mua ba tiền gà,
3x60 = 180
Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu.
60+30+3 = 93
Trở lại mua sáu đồng cau, = 6
Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng.
(1,5x60)+10 = 100
Có gì mà tính chẳng thông?
Tiền rưỡi gạo tẻ, sáu đồng chè tươi.
60+30+6 = 96
Ba mươi đồng rượu chàng ơi, = = 30
Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng.
30+20 = 50
Hai chén nước mắm rõ ràng,
Hai bảy mười bốn, kẻo chàng hồ nghi.
2x7 = 14
Hăm mốt (21) đồng bột nấu chè, = = 21
Mười đồng nải chuối, chẵn thì một quan. = = 10 CỘNG = 600
Trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, bên dưới bài học thuộc lòng này có 3 từ giải nghĩa, ghi nguyên văn như sau:
"GIẢI NGHĨA:
Tiền tốt = tiền tiêu được.
Vàng = đồ làm bằng giấy cúng rồi đốt đi. Hồ nghi = ngờ vực, không biết rõ".
Những giải nghĩa này chỉ để giải thích cho lớp học trò tóc còn để chỏm, dễ hiểu, dễ nhớ. Đi chợ tất phải đem theo tiền, tiền phải có giá trị trong mua bán... là chuyện đương nhiên. Nhưng sao gọi là tiền tốt? Một bài ca dao được lưu truyền, được in trong sách giáo khoa từ lúc ra đời (Bản in đầu tiên năm 1927) đến lúc cải tiến thay đổi, không lẽ vì bí vần mà viết vụng thế sao! Thế là người viết phải đi tìm tiếp.
Có một giai thoại trong văn học về Bà Chúa thơ Nôm. Chuyện kể rằng Hồ Xuân Hương thiếu tiền bèn hỏi mượn của Chiêu Hổ 5 quan để tiêu tạm. Chiêu Hổ gởi tiền đến, đếm hoài vẫn chỉ thấy có 3 quan. Nữ sĩ bèn làm bài thơ trách người cho mượn tiền:
Sao nói rằng năm chỉ có ba.
Trách người quân tử hẹn sai ra.
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt.
Nhớ hái cho xin nắm lá đa.
Chiêu Hổ họa lại:
Rằng gián thì năm, quý có ba.
Bởi người thục nữ tính không ra.
Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt.
Cho cả cành đa lẫn củ đa.
Trong bài hoạ của Chiêu Hổ có chữ gián và quý. Đây là cơ sở dẫn người viết đi tìm tiếp. Đã "có công tất... chồng không phụ", kết quả đã tìm được: Khoảng thế kỷ 18, dưới triều vua Minh Mạng có hai loại tiền lưu hành. Đó là tiền quý và tiền gián, tỷ lệ như sau: 1 quan quý = 600đồng. 1 quan gián chỉ bằng 360 đồng. Khi hỏi mượn tiền, Hồ Xuân Hương chỉ nói mượn 5 quan, không nói là quan gì. Gặp lúc Chiêu Hổ chắc cũng đang thiếu nên chỉ cho mượn số tiền thấp xuống, nhưng vẫn đủ 5 quan: Quan quý: 3x600 =1800 đồng
1800:360 = 5 quan gián
Giá trị của các loại tiền xưa như thế nào? Đây là những số liệu về lương tiền dưới triều vua Minh Mạng.
- Quan Nhất Phẩm lãnh mỗi năm 400 quan, 300 phương gạo, 70 quan tiền Xuân Phục, tức tiền áo quần.
- Quan Chánh ngũ phẩm, hàng tri phủ mỗi năm lương 40 quan, 43 phương gạo, 9 quan tiền Xuân Phục.
- Lính, thơ lại, phục dịch... lương mỗi tháng 1 quan tiền, 1 phương gạo. Đồng quan ngày xưa nó to thế. Chẳng trách người ta bỏ... quan ra để mua phẩm hàm, chức tước... để được làm quan! Chẳng trách người phụ nữ "thời xưa" (tên khác của bài thơ Trăng sáng vườn chè) quên cả thanh xuân, gác tạm những ẩn ức, dồn nén để một ngày chồng vinh quy về làng... cùng nhau trãi trọn trong một đêm trăng! Qua những số liệu vừa tìm được, ta có thể thấy rõ bài ca dao "Đi chợ tính tiền" xuất hiện sớm nhất phải từ thời Minh Mạng. Bởi từ lúc này mới có "Một quan tiền TỐT" mang đi. Tiền tốt chính là tiền quý, phân biệt với tiền gián có giá trị thấp hơn. Cũng thấy được, người phụ nữ trong một buổi chợ quê đã tiêu số tiền bằng lương tháng một người lính. Nhà nàng chắc phải có chuyện quan hôn, kỵ giỗ chi đây! Thật thú vị, để giải bài toán ẩn bên trong bài ca dao, đã phải đi loanh quanh, lòng vòng. Gặp những bài thơ hay, giai thoại đẹp, biết thêm vài điều về lịch sử... Nếu không có Internet chắc gì người viết đã giải được bài toán ẩn bên trong bài ca dao cổ? Chỉ nghĩ đến kho sách phải lục tìm, những thư viện phải đi đến... đã thấy chồn chân chẳng muốn trèo!
Ng Khắc Phước
" Đi chợ tính tiền "là một bài ca dao lục bát. Bài đã được in làm Bài HọcThuộc Lòng cho học sinh lớp "sơ đẳng" (tức lớp 3) trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư năm 1948. Bài thơ kể chuyện một người phụ nữ đi chợ về, phải trình bày minh bạch, rõ ràng việc chi tiêu với chồng. Ngày xưa khi học bài này thầy giáo chỉ nêu đại ý như rứa, đồng thời nêu bật tính đảm đang, vén khéo của người phụ nữ xưa... sau đó yêu cầu học sinh học thuộc. Thầy không giảng về bài toán ẩn trong bài thơ, có lẽ vì thời thế đã khác (Khoảng năm 1958, chưa được vào trường công lập, người viết học với Ông giáo... ở khoảng giữa cầu An Cựu và lăng Vạn Vạn, không biết có phải là thân sinh của nhà văn Hải Triều không?) đồng tiền cũng đã đổi thay, hoặc giải bài toán chắc chi những học trò nhỏ hiểu được. Đã hơn năm mươi năm, bây giờ người học trò xưa đang ngồi ôm tóc trắng... một ngày mưa ngồi buồn chợt nhớ thầy đồ nơi xóm cũ ngày xưa chừ không còn, nhưng bài thơ vẫn còn đọng mãi trong đầu của bài Học thuộc lòng thưở ấy. Bèn tìm giấy giải thử. Ngay câu thơ đầu tiên đã gặp ngay vấn nạn. "Một quan tiền tốt mang đi". Một quan là bao nhiêu? Quan là đồng tiền cổ, những người muôn năm cũ giờ không còn, biết hỏi ai đây? Chợt nghe vang vang trong đầu một bài nhạc của nhạc sĩ Văn Phụng:
Một quan là sáu trăm đồng.
Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi.
(Thơ của Nguyễn Bính) Vận dụng cả 4 phép tính cộng trừ nhân chia, đảo xuôi ngược, lên xuống... mãi vẫn không đủ 600 đồng cho một quan tiền!
Lại phải đi tìm trong lịch sử. Trong một ngàn năm Bắc thuộc, dân Việt không có đồng tiền riêng. Mãi đến sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, dân Việt vẫn còn dùng đến đồng tiền của phương Bắc. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế với đế hiệu Đinh Tiên Hoàng, niên hiệu Thái Bình. Năm 970 nhà vua đã cho đúc những đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo. Đây chính là những đồng tiền đầu tiên của người Việt. Từ đó tiếp đến những triều đại sau đều theo.
Đơn vị để tính tiền xưa gồm có: quan, tiền, đồng. Mỗi quan có giá trị là 10 tiền, mỗi tiền bằng bao nhiêu đồng tùy theo quy định của mỗi thời đại. Theo sử sách giá trị đồng tiền các thời đại như sau:
1/ Năm 1225, vua Trần Thái Tông định phép dùng tiền. Một quan bằng 10 tiền. Một tiền bằng 70 đồng.
2/ Năm 1428, vua Lê Thái Tổ cho đúc tiền Thuận Thiên. Một quan bằng 10 tiền. Một tiền bằng 50 đồng.
3/ Năm 1439, vua Lê Thái Tông quy định 1 quan bằng 10 tiền, 1 tiền bằng 60 đồng. Như vậy 1 quan = 10 tiền = 600 đồng.
Từ đó các triều đại về sau, mỗi khi đúc một loại tiền mới đều theo tỷ lệ này, cho đến cuối triều Nguyễn năm 1945. Chỉ có tên đồng tiền là thay đổi theo tên hiệu.
Năm 1905, chính quyền bảo hộ Bắc kỳ cho phát hành loại tiền đúc bằng hợp kim kẽm. Loại tiền này mặt trước in chữ Pháp, mặt sau ghi chữ Hán, có giá trị tương đương các loại tiền đồng như Gia Long Thông Bảo, Minh Mệnh Thông Bảo, Thiệu Trị Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo. Trong những đời vua sau của nhà Nguyễn còn có thêm hai đồng tiền khác là Khải Định Thông Bảo và Bảo Đại Thông Bảo, hai loại tiền này không đúc như những đồng tiền xưa mà được dập bằng máy dập nhập từ nước Pháp.
Đến đây chắc chắn là bài toán ẩn bên trong bài ca dao đã giải được. Ghi lại như sau, bên phải là các phép tính đã giải.
ĐI CHỢ TÍNH TIỀN
Một quan tiền tốt mang đi, 600
Nàng mua những gì chàng tính chẳng ra.
Thoạt tiên mua ba tiền gà,
3x60 = 180
Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu.
60+30+3 = 93
Trở lại mua sáu đồng cau, = 6
Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng.
(1,5x60)+10 = 100
Có gì mà tính chẳng thông?
Tiền rưỡi gạo tẻ, sáu đồng chè tươi.
60+30+6 = 96
Ba mươi đồng rượu chàng ơi, = = 30
Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng.
30+20 = 50
Hai chén nước mắm rõ ràng,
Hai bảy mười bốn, kẻo chàng hồ nghi.
2x7 = 14
Hăm mốt (21) đồng bột nấu chè, = = 21
Mười đồng nải chuối, chẵn thì một quan. = = 10 CỘNG = 600
Trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, bên dưới bài học thuộc lòng này có 3 từ giải nghĩa, ghi nguyên văn như sau:
"GIẢI NGHĨA:
Tiền tốt = tiền tiêu được.
Vàng = đồ làm bằng giấy cúng rồi đốt đi. Hồ nghi = ngờ vực, không biết rõ".
Những giải nghĩa này chỉ để giải thích cho lớp học trò tóc còn để chỏm, dễ hiểu, dễ nhớ. Đi chợ tất phải đem theo tiền, tiền phải có giá trị trong mua bán... là chuyện đương nhiên. Nhưng sao gọi là tiền tốt? Một bài ca dao được lưu truyền, được in trong sách giáo khoa từ lúc ra đời (Bản in đầu tiên năm 1927) đến lúc cải tiến thay đổi, không lẽ vì bí vần mà viết vụng thế sao! Thế là người viết phải đi tìm tiếp.
Có một giai thoại trong văn học về Bà Chúa thơ Nôm. Chuyện kể rằng Hồ Xuân Hương thiếu tiền bèn hỏi mượn của Chiêu Hổ 5 quan để tiêu tạm. Chiêu Hổ gởi tiền đến, đếm hoài vẫn chỉ thấy có 3 quan. Nữ sĩ bèn làm bài thơ trách người cho mượn tiền:
Sao nói rằng năm chỉ có ba.
Trách người quân tử hẹn sai ra.
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt.
Nhớ hái cho xin nắm lá đa.
Chiêu Hổ họa lại:
Rằng gián thì năm, quý có ba.
Bởi người thục nữ tính không ra.
Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt.
Cho cả cành đa lẫn củ đa.
Trong bài hoạ của Chiêu Hổ có chữ gián và quý. Đây là cơ sở dẫn người viết đi tìm tiếp. Đã "có công tất... chồng không phụ", kết quả đã tìm được: Khoảng thế kỷ 18, dưới triều vua Minh Mạng có hai loại tiền lưu hành. Đó là tiền quý và tiền gián, tỷ lệ như sau: 1 quan quý = 600đồng. 1 quan gián chỉ bằng 360 đồng. Khi hỏi mượn tiền, Hồ Xuân Hương chỉ nói mượn 5 quan, không nói là quan gì. Gặp lúc Chiêu Hổ chắc cũng đang thiếu nên chỉ cho mượn số tiền thấp xuống, nhưng vẫn đủ 5 quan: Quan quý: 3x600 =1800 đồng
1800:360 = 5 quan gián
Giá trị của các loại tiền xưa như thế nào? Đây là những số liệu về lương tiền dưới triều vua Minh Mạng.
- Quan Nhất Phẩm lãnh mỗi năm 400 quan, 300 phương gạo, 70 quan tiền Xuân Phục, tức tiền áo quần.
- Quan Chánh ngũ phẩm, hàng tri phủ mỗi năm lương 40 quan, 43 phương gạo, 9 quan tiền Xuân Phục.
- Lính, thơ lại, phục dịch... lương mỗi tháng 1 quan tiền, 1 phương gạo. Đồng quan ngày xưa nó to thế. Chẳng trách người ta bỏ... quan ra để mua phẩm hàm, chức tước... để được làm quan! Chẳng trách người phụ nữ "thời xưa" (tên khác của bài thơ Trăng sáng vườn chè) quên cả thanh xuân, gác tạm những ẩn ức, dồn nén để một ngày chồng vinh quy về làng... cùng nhau trãi trọn trong một đêm trăng! Qua những số liệu vừa tìm được, ta có thể thấy rõ bài ca dao "Đi chợ tính tiền" xuất hiện sớm nhất phải từ thời Minh Mạng. Bởi từ lúc này mới có "Một quan tiền TỐT" mang đi. Tiền tốt chính là tiền quý, phân biệt với tiền gián có giá trị thấp hơn. Cũng thấy được, người phụ nữ trong một buổi chợ quê đã tiêu số tiền bằng lương tháng một người lính. Nhà nàng chắc phải có chuyện quan hôn, kỵ giỗ chi đây! Thật thú vị, để giải bài toán ẩn bên trong bài ca dao, đã phải đi loanh quanh, lòng vòng. Gặp những bài thơ hay, giai thoại đẹp, biết thêm vài điều về lịch sử... Nếu không có Internet chắc gì người viết đã giải được bài toán ẩn bên trong bài ca dao cổ? Chỉ nghĩ đến kho sách phải lục tìm, những thư viện phải đi đến... đã thấy chồn chân chẳng muốn trèo!
Ng Khắc Phước
1. ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO là gì ?
Nghe đến loại dược thảo quý hiếm này, nhưng ít ai để ý đến cái tên đặc biệt nói lên sự cấu tạo của nó . Có thể coi như một loại nấm đặc biệt mà giá còn đắt hơn vàng. Xin mời đọc cho biết và mong quý vị đùng bao giờ phải dùng đến nó.
Năm 2003, cháu đi Thượng Hải (Trung Quốc) dự cuộc họp Banque Asiatique de Développement do chính phủ TQ làm chủ nhà. Sau đó, chính phủ giới thiệu một hãng du lịch đưa cháu vào miền núi Vân Nam (partie Est de la chaine Himalaya). Nhân dịp ấy, cháu nhờ hướng dẫn viên đưa đến một "pharmacie orientale" trong một làng hẻo lánh, gặp một ông lang nên mua được Đông trùng hạ thảo thứ tốt và thiệt (vì đồ giả rất nhiều). Được biết "giả" có nghĩa: sản phẩm bán ra đúng là con sâu Thitarodes cộng với nấm Cordyceps, nhưng họ đã hút chất actif của (sâu+nấm) ra để làm thuốc, còn cái xác thì bán cho khách hàng. Chất pharmaco-dynamique của Đông trùng hạ thảo có thể là một hormone do cơ thể con trùng tiết ra khi bị nấm Cordyceps xâm nhập, cộng thêm chất cordycepin trong nấm.
Sở dĩ tên gọi "Đông trùng hạ thảo" có nghĩa mùa đông là con trùng (sâu), mùa hạ biến thành cây cỏ (nấm) rất tượng hình, là vì con trùng này sống dưới đất mùa đông. Sau khi xâm nhập, nấm lan ra trong thân thể con trùng và làm chết con này dưới dạng 1 mô-mi (momifier). Đến mùa xuân/hạ, nấm mọc ra từ đầu con trùng và chồi lên mặt đất. Xem hình dưới đây.
Xem cho biết với sự dè dặt và cẩn thận.
Nghe đến loại dược thảo quý hiếm này, nhưng ít ai để ý đến cái tên đặc biệt nói lên sự cấu tạo của nó . Có thể coi như một loại nấm đặc biệt mà giá còn đắt hơn vàng. Xin mời đọc cho biết và mong quý vị đùng bao giờ phải dùng đến nó.
Năm 2003, cháu đi Thượng Hải (Trung Quốc) dự cuộc họp Banque Asiatique de Développement do chính phủ TQ làm chủ nhà. Sau đó, chính phủ giới thiệu một hãng du lịch đưa cháu vào miền núi Vân Nam (partie Est de la chaine Himalaya). Nhân dịp ấy, cháu nhờ hướng dẫn viên đưa đến một "pharmacie orientale" trong một làng hẻo lánh, gặp một ông lang nên mua được Đông trùng hạ thảo thứ tốt và thiệt (vì đồ giả rất nhiều). Được biết "giả" có nghĩa: sản phẩm bán ra đúng là con sâu Thitarodes cộng với nấm Cordyceps, nhưng họ đã hút chất actif của (sâu+nấm) ra để làm thuốc, còn cái xác thì bán cho khách hàng. Chất pharmaco-dynamique của Đông trùng hạ thảo có thể là một hormone do cơ thể con trùng tiết ra khi bị nấm Cordyceps xâm nhập, cộng thêm chất cordycepin trong nấm.
Sở dĩ tên gọi "Đông trùng hạ thảo" có nghĩa mùa đông là con trùng (sâu), mùa hạ biến thành cây cỏ (nấm) rất tượng hình, là vì con trùng này sống dưới đất mùa đông. Sau khi xâm nhập, nấm lan ra trong thân thể con trùng và làm chết con này dưới dạng 1 mô-mi (momifier). Đến mùa xuân/hạ, nấm mọc ra từ đầu con trùng và chồi lên mặt đất. Xem hình dưới đây.
Xem cho biết với sự dè dặt và cẩn thận.
SĂN LÙNG ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO TRÊN HY MÃ LẠP SƠN
Loài nấm mang tên Cordyceps, một trong những loài nấm danh tiếng nhất thế giới mà dân gian thường quen gọi bằng cái tên là "Đông trùng hạ thảo".
Người Tây Tạng (Trung Quốc)
gọi loài nấm này là Yartsa Gunbu hay Yatsa Gunbu.
Loài nấm mang tên Cordyceps, một trong những loài nấm danh tiếng nhất thế giới mà dân gian thường quen gọi bằng cái tên là "Đông trùng hạ thảo".
Người Tây Tạng (Trung Quốc)
gọi loài nấm này là Yartsa Gunbu hay Yatsa Gunbu.
Đông trùng hạ thảo hay "sâu nấm" là kết quả hình thành từ một loài nấm và một ấu trùng của loài bướm ma có tên khoa học là
Thitarodes, một vài loài sâu bướm này hiện đang sinh sống tại cao nguyên Tây Tạng gồm Tây Tạng, Thanh Hải, Tây - Phúc Kiến, Tây Nam tỉnh Cam Túc và Tây Bắc tỉnh Vân Nam, ngoài ra là ở khắp nơi ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nê-pan, và Bhutan.
Loài nấm này bắt đầu nảy mầm trong các cơ thể sống của một số loài ấu trùng, tiêu diệt các loài ấu trùng này làm thức ăn của nấm, khiến cho các ấu trùng trở thành một xác ướp khô tự nhiên.
Đông trùng hạ thảo được xem là nấm thuốc và được sử dụng làm vị thuốc chữa bệnh từ hàng ngàn năm ở Trung Quốc. Đông trùng hạ thảo thường sinh sống dưới lòng, đất tại các vùng đồi cỏ ở miền núi cao và các vùng đất nhiều cây bụi trên cao nguyên Tây Tạng và dãy núi Himalaya ở độ cao từ 3.000m đến 5.000m. Loài nấm này sống âm ỉ trong lòng đất hơn 5 năm trước khi trồi lên khỏi mặt đất.
Phần "trái nấm" hay tai nấm thường trồi lên mặt đất vào mùa xuân hoặc đầu mùa hè, luôn luôn lộ ra đầu của nấm. Tai nấm cao từ 5 - 15 cm bên trên bề mặt đất và phóng ra các bào tử nấm. Ở Nê-pan, Đông trùng hạ thảo thường được tìm thấy tại các vùng đồng cỏ gần các ngọn núi cao ở Dolpo thuộc vùng Karnali.
Đông trùng hạ thảo được xem là nấm thuốc và được sử dụng làm vị thuốc chữa bệnh từ hàng ngàn năm ở Trung Quốc. Đông trùng hạ thảo thường sinh sống dưới lòng, đất tại các vùng đồi cỏ ở miền núi cao và các vùng đất nhiều cây bụi trên cao nguyên Tây Tạng và dãy núi Himalaya ở độ cao từ 3.000m đến 5.000m. Loài nấm này sống âm ỉ trong lòng đất hơn 5 năm trước khi trồi lên khỏi mặt đất.
Phần "trái nấm" hay tai nấm thường trồi lên mặt đất vào mùa xuân hoặc đầu mùa hè, luôn luôn lộ ra đầu của nấm. Tai nấm cao từ 5 - 15 cm bên trên bề mặt đất và phóng ra các bào tử nấm. Ở Nê-pan, Đông trùng hạ thảo thường được tìm thấy tại các vùng đồng cỏ gần các ngọn núi cao ở Dolpo thuộc vùng Karnali.
Loài nấm Cordyceps sinensis hay "Đông trùng hạ thảo" được ghi nhận lần đầu tiên trong văn hóa y học cổ truyền của Trung Quốc trong bản Trích yếu về y dược của Wang Ang vào năm 1694. Vào thế kỷ XVIII, nấm Đông trùng hạ thảo được ghi nhận trong tài liệu y học mới của Wu Yiluo. Toàn bộ cây nấm này đều được sử dụng làm thuốc. Trong văn hóa y học cổ truyền Tây Tạng thì Đông trùng hạ thảo là một vị thuốc được đánh giá rất cao, y học Trung Quốc gọi nó là vị thuốc kích thích tình ái và có công dụng trong việc điều trị nhiều chứng bệnh khác nhau từ suy nhược đến ung thư. Đông trùng hạ thảo còn được xem là có tác dụng cân bằng Âm - Dương. Ngoài ra, chất độc của Đông trùng hạ thảo là nguyên nhân gây nên chứng táo bón, trướng bụng và làm giảm nhu động.
Ở Tây Tạng, Yartsa gunbu trở thành một trong những nguồn tài nguyên thu nhiều lợi nhuận nhất tại các vùng nông thôn nghèo khổ. Giá trị của Đông trùng hạ thảo tăng chóng mặt, đặc biệt là kể từ cuối thập niên 90, thế kỷ XX. Vào năm 2008, 1kg Đông trùng hạ thảo đã có giá tới 3.000USD ( phẩm chất thấp nhất) đến hơn 18.000 USD/1kg (loại có phẩm chất hảo hạng nhất).
Ở Tây Tạng, Yartsa gunbu trở thành một trong những nguồn tài nguyên thu nhiều lợi nhuận nhất tại các vùng nông thôn nghèo khổ. Giá trị của Đông trùng hạ thảo tăng chóng mặt, đặc biệt là kể từ cuối thập niên 90, thế kỷ XX. Vào năm 2008, 1kg Đông trùng hạ thảo đã có giá tới 3.000USD ( phẩm chất thấp nhất) đến hơn 18.000 USD/1kg (loại có phẩm chất hảo hạng nhất).
Sản lượng thu hoạch hàng năm tại vùng cao nguyên Tây Tạng ước tính từ 100-200 tấn. Mùa cao điểm khai thác Đông trùng hạ thảo tại đây là từ tháng 6 đến tháng 7. Ngày nay nhu cầu tăng cao tại các quốc gia như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc và Nhật Bản. Việc săn tìm Đông trùng hạ thảo còn gây tác hại không nhỏ đến môi trường tại khu vực cao nguyên Tây Tạng nơi mà loài nấm này đang sinh trưởng. Y học cổ truyền Tây Tạng ghi nhận nó là biệt dược có khả năng chữa lành căn bệnh ung thư. Nó còn được xưng tụng là "Thần dược viagra của dãy Himalaya ", một phần cũng do bởi những công dụng kích thích tình dục của nó.
Những cuộc nghiên cứu khoa học ở phương Tây lên tiếng công nhận rằng, Đông trùng hạ thảo có tính năng bảo vệ gan. Nhưng ở châu Á, loài nấm này là một vị thuốc cực phẩm, trọng lượng của nó được tính bằng vàng nguyên chất. Nhờ sự mở rộng cánh cửa thương mại mà giá trị của Yartsa Gunbu tăng gấp 9 lần kể từ năm 1997, khiến nhà nấm học Daniel Winkler phải thốt lên rằng "Đông trùng hạ thảo là một hiện tượng kinh tế nông thôn mang tính toàn cầu" trên cao nguyên Tây Tạng.
Những cuộc nghiên cứu khoa học ở phương Tây lên tiếng công nhận rằng, Đông trùng hạ thảo có tính năng bảo vệ gan. Nhưng ở châu Á, loài nấm này là một vị thuốc cực phẩm, trọng lượng của nó được tính bằng vàng nguyên chất. Nhờ sự mở rộng cánh cửa thương mại mà giá trị của Yartsa Gunbu tăng gấp 9 lần kể từ năm 1997, khiến nhà nấm học Daniel Winkler phải thốt lên rằng "Đông trùng hạ thảo là một hiện tượng kinh tế nông thôn mang tính toàn cầu" trên cao nguyên Tây Tạng.
Trong những năm gần đây, Yushu, địa phương nằm gần kề với biên giới Tây Tạng, là trung tâm của mỏ vàng Đông trùng hạ thảo, biến nơi đây thành đầu tàu phát triển kinh tế thịnh vượng nhất tại tỉnh Thanh Hải (Trung Quốc). Tại trung tâm của Yushu có rất nhiều các cửa hàng bày bán Đông trùng hạ thảo. Để thúc đẩy việc bán buôn, một số thương nhân đã thuê khoán thành phần cư dân địa phương, làm công việc lau sạch cặn bẩn bám trên Đông trùng hạ thảo. Họ (công nhân) có thể kiếm được khoảng 100 tệ/ngày, một nguồn thu nhập khá hơn nhiều so với làm việc tại các nhà máy ở Trung Quốc.
Các công nhân này quây thành vòng tròn trên vỉa hè, vừa tán gẫu vừa cầm bàn chải chà sạch cặn dơ bám trên thân cây nấm. Những nhà buôn nấm Đông trùng hạ thảo đã hình thành trong những năm gần đây. Tùy theo kích cỡ và phẩm chất , mỗi cây nấm được đem bán với giá từ 25 tệ đến 35 tệ, hoặc tương đương 40.000NDT/1kg. Những sản phẩm nấm Đông trùng hạ thảo loại hảo hạng nhất sẽ có giá lên tới 360.000NDT, hơn cả giá vàng.
Các công nhân này quây thành vòng tròn trên vỉa hè, vừa tán gẫu vừa cầm bàn chải chà sạch cặn dơ bám trên thân cây nấm. Những nhà buôn nấm Đông trùng hạ thảo đã hình thành trong những năm gần đây. Tùy theo kích cỡ và phẩm chất , mỗi cây nấm được đem bán với giá từ 25 tệ đến 35 tệ, hoặc tương đương 40.000NDT/1kg. Những sản phẩm nấm Đông trùng hạ thảo loại hảo hạng nhất sẽ có giá lên tới 360.000NDT, hơn cả giá vàng.
Ông Tsirem Pingcuo, một trong những nhà buôn Đông trùng hạ thảo ở Yushu bộc bạch: "Lúc tôi còn nhỏ, tôi nhìn thấy loài nấm này mọc khắp nơi gần nhà mình, nhưng bây giờ có khi tôi phải tìm đỏ mắt suốt một ngày ròng rã trên các sườn đồi và nếu may mắn lắm thì có thể tìm thấy 10 cây".
Một cư dân khác cho biết: "Bây giờ có quá nhiều người đổ xô vào cuộc săn tìm Đông trùng hạ thảo. Hàng năm, số người gia nhập không ngừng tăng lên". Độ cao của các ngọn đồi cũng là một thử thách lớn đòi hỏi sự bền chí. Những người săn tìm Đông trùng hạ thảo phải trải qua 12 giờ/ngày, quần thảo các sườn đồi để tìm các cây nấm mảnh khảnh, cao cỡ 2cm trên nền đất. Lúc cao điểm, đã từng có những cuộc “nói chuyện” bằng súng và dao trong quá trình săn tìm Đông trùng hạ thảo.
Một cư dân khác cho biết: "Bây giờ có quá nhiều người đổ xô vào cuộc săn tìm Đông trùng hạ thảo. Hàng năm, số người gia nhập không ngừng tăng lên". Độ cao của các ngọn đồi cũng là một thử thách lớn đòi hỏi sự bền chí. Những người săn tìm Đông trùng hạ thảo phải trải qua 12 giờ/ngày, quần thảo các sườn đồi để tìm các cây nấm mảnh khảnh, cao cỡ 2cm trên nền đất. Lúc cao điểm, đã từng có những cuộc “nói chuyện” bằng súng và dao trong quá trình săn tìm Đông trùng hạ thảo.
Vào tháng 7/2007, 8 người đã bị bắn chết và 50 người khác bị thương trong một vụ xung đột. Một người săn tìm nấm tên là Tsamba Chunpin cho biết: "Đánh nhau là thường xuyên và chuyện có người tử vong vì tranh giành nấm không phải là chuyện hiếm"
XEM VIDEO
ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO
Đông Trùng Hạ Thảo rất đắt tiền, đắt hơn cả Nhân Sâm và Linh Chi , có bán ở tiệm thuốc Bắc. Hàng giả rất nhiều.
Cách nắu: Bỏ thịt heo cắt nhỏ rồi bỏ vào nồi nước nhỏ đun sôi . Bỏ vào chừng 5,6 con "Đông Trùng Hạ Thảo", rồi hầm cho ra nước rồi uống . Công Dụng: Bổ Thận, bổ khí huyết, Cường Dương, bổ phổi, giữ tinh khí, tăng sức khỏe. Ho lâu ngày, yếu mệt. Nhiều mồ hôi, phòng sự suy yếu, Di Tinh, đau lưng nhức gối. (Dược liệu: cần cẩn thận)
Truong Tho Suu Tam
XEM VIDEO
ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO
Đông Trùng Hạ Thảo rất đắt tiền, đắt hơn cả Nhân Sâm và Linh Chi , có bán ở tiệm thuốc Bắc. Hàng giả rất nhiều.
Cách nắu: Bỏ thịt heo cắt nhỏ rồi bỏ vào nồi nước nhỏ đun sôi . Bỏ vào chừng 5,6 con "Đông Trùng Hạ Thảo", rồi hầm cho ra nước rồi uống . Công Dụng: Bổ Thận, bổ khí huyết, Cường Dương, bổ phổi, giữ tinh khí, tăng sức khỏe. Ho lâu ngày, yếu mệt. Nhiều mồ hôi, phòng sự suy yếu, Di Tinh, đau lưng nhức gối. (Dược liệu: cần cẩn thận)
Truong Tho Suu Tam